Cơ sở và thiết kế mô hình sản xuất kết hợp lúa – cá

Mô hình sản xuất kết hợp lúa – cá là một hướng đi nhằm phát triển nông nghiệp bền vững, giảm ô nhiễm môi trường, duy trì môi trường sinh thái tự nhiên, tạo ra sản phẩm cá và lúa sạch cung cấp cho thị trường. Đặc biệt, mô hình đã giúp bà con nông dân vùng trũng, vùng lũ trong tỉnh chuyển dịch sản xuất, nâng cao thu nhập.

A. Cơ sở của sự kết hợp

Trên thế giới nghề nuôi thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi kết hợp lúa – cá ở môi trường nước ngọt ngày càng được đầu tư nghiên cứu, phát triển, thể hiện ở nhiều nước vùng Đông Nam Châu Á như: China, Việt Nam, Thailand, Indonesia, Malaysia, Bangladesh, India, Philippines, Korea và Cambodia…

1. Tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống nông dân

Ở ĐBSCL có hàng triệu ha ruộng cấy lúa có thể nuôi cá kết hợp được. Trên thực tế số ruộng có thả cá nuôi rất ít. Phần lớn các ruộng nông dân chỉ lợi dụng vào theo cá tự nhiên sau mỗi mùa thu hoạch. Nếu mỗi người đều phải hiểu biết về lợi ích kinh tế và kỹ thuật thì tôm cá nuôi ở ruộng sẽ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.

2. Nuôi cá có kết hợp cấy lúa, năng suất lúa sẽ cao hơn so với ruộng không nuôi cá

Khi nuôi cá ở ruộng lúa, cá sục bùn tìm mồi ở đáy ruộng diệt cỏ dại, côn trùng, sâu bệnh hại lúa, đồng thời phân cá thải ra làm đất giàu dinh dưỡng. Vì vậy năng suất lúa sẽ tăng.

Nuôi hết hợp lúa – cá

3. Khả năng tiêu diệt sâu rầy của cá

Ở ruộng nuôi cá kết hợp với cấy lúa, người ta rất hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, nên giảm được công lao động và hạ giá thành sản phẩm.

4. Tăng thêm thức ăn cho cá

Trồng lúa có trục xạ đất, bón phân làm tăng thêm thức ăn cho cá, đồng thời lúa rụng cũng làm thức ăn tốt cho cá. Vì vậy cá nuôi ở ruộng chủ yếu dựa và thức ăn tự nhiên, nên ít đầu tư thức ăn.

5. Mối tương quan của mô hình

– Hạn chế côn trùng hại lúa, cỏ dại, ốc, các bệnh về lúa do cá tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có trên đồng ruộng

– Giảm việc sử dụng phân bón thuốc trừ sâu độc hại cho con người và môi trường.

– Tiết kiệm được lượng giống, phân bón….

– Tận dụng được thời gian nhàn rổi của bà con nông dân trong vụ lúa và thời gian nước lũ dâng lên.

B. Thiết kế mô hình lúa – cá

1. Chọn vị trí xây dựng

Khi chọn địa điểm để nuôi cá cần lưu ý một số yếu tố sau:

– Nguồn nước: vấn đề quan trọng hàng đầu trong nuôi cá là phải đảm bảo nguồn nước tốt và cấp tiêu chủ động. Một điều cần lưu ý khi chọn điểm nuôi cá là phải biết được sự biến động của nguồn nước theo mùa và theo năm, đặc điểm khí tượng thuỷ văn của vùng để có thể dự đoán và ngăn chặn thất thoát cá nuôi trong mùa lũ hoặc mùa mưa bão.

– Chọn đất có cơ cấu chất đất phải giữ được nước và ít bị nhiễm phèn.

– Lịch thời vụ sản xuất nông nghiệp của vùng để biết được mức độ ô nhiễm hiện tại và tiềm tàng do sử dụng nông dược. Những nơi sử dụng nhiều nông dược nhất là thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn cao và thời gian phân hủy kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Khu vực nuôi cá nếu tiếp giáp với khu sản xuất màu sẽ có nguy cơ bị nhiễm độc nông dược do phun xịt hay khi cấp nước vào khu nuôi cá.

– Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.

2. Thiết kế ruộng nuôi

Diện tích ruộng khoảng 0,3 – 2 ha tùy theo điều kiện cụ thể

Có thể thiết kế theo nhiều dạng như: dạng mương chữ L, dạng mương trung tâm, dạng mương xương cá …

Trong mô hình này để tiện lợi và đạt hiệu quả cao nên chọn dạng mương bao và ao trữ.

a. Bờ bao quanh

Bờ bao quanh được đắp với diện tích như sau:

– Chiều rộng mặt bờ 1- 2 m

– Chiều rộng chân bờ 2 – 4 m

– Chiều cao bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm 20 cm

Tác dụng của bờ bao quanh:

– Giữ không cho cá ra ngoài

– Giữ nước không bị rò rĩ

– Để sử dụng hiệu quả diện tích đất sản xuất, bờ bao có thể trồng dưa, khổ qua, bí, mướp, ớt để tăng thu nhập

– Có thể đi lại trên bờ để chăm sóc, quản lí ruộng.

b. Mương bao quanh

Mương bao quanh được thiết kế mương xung quanh như sau:

– Đào cách bờ 0,5 m để tránh đất đá xoáy lở từ bờ xuống mương

– Chiều rộng mương: Bề rộng mặt 3 m; Bề rộng đáy là 2,5 m

– Chiều sâu mương bao là 1,2 m

– Mương dốc dần về phía cống

Mương bao có tác dụng:

– Giữ được lượng nước quanh năm, để chứa cá khi làm đất cấy lúa cho các vụ sản xuất kế tiếp

– Giữ và duy trì sự hoạt động của cá, khi sử dụng thuốc trừ sâu để trị bệnh cho lúa

– Nuôi giữ và dồn cá khi thu hoạch

– Lấy nước để tước hoa màu quanh bờ

c. Cống

Mỗi ruộng cần có một cống, cống có thể bằng xi măng, ống sành hay gỗ tuỳ điều kiện gia đình, tốt nhất nên dùng cống xi măng

Tác dụng của cống

– Chủ động điều tiết ruộng nước cấp và thoát nước cho ruộng.

– Tháo nước cho ruộng lúa xạ, cấy lúa khi sử dụng thuốc trừ sâu, khi thu hoạch.

d. Mặt trảng

Là phần mặt ruộng còn lại dùng để trồng lúa. Để thuận lợi cho việc canh tác lúa điều chỉnh mức nước trên ruộng, mặt ruộng cần bằng phẳng

e. Ao chứa

Được thiết kế ở đầu ruộng, gần nha.

Có tác dụng giữ cá lúc lúa nhỏ và trữ cá lại chờ cá lớn hoặc chờ giá cao để bán

Line Callout 2 (Accent Bar): Mương

Mặt cắt ngang ruộng lúa nuôi cá kết hợp

f. Lịch thời vụ mô hình cá – lúa

Chú ý xem lịch thời vụ cho mô hình sản xuất Lúa – cá kết hợp của các trung tâm khuyến nông.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tự kiểm tra chất lượng hạt lúa giống

Khi mua thóc giống, người nông dân cần chú ý đến chỉ tiêu chất lượng hạt giống, mua ở những cửa hàng vật tư lớn, có uy tín nhiều năm.

Giống của các công ty giống Trung ương hoặc các tỉnh, hợp tác xã… có tên tuổi rõ ràng, có hoá đơn bảo hành chất lượng. Bao bì chứa hạt giống có ghi tên giống, phẩm cấp giống (nguyên chủng hay xác nhận), khối lượng giống, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng rõ ràng. Chú ý kiểm tra chất lượng hạt giống trước khi gieo những giống thóc bà con tự chọn lọc và bảo quản vụ trước sử dụng cho vụ sau.

Để tránh lãng phí lượng giống khi gặp phải loại thóc giống chất lượng kém và chắc chắn có được giống tốt khi gieo trồng bà con cần tự kiểm tra chất lượng giống bằng 2 chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ nảy mầm và sức nảy mầm hạt giống.

Kiểm tra tỷ lệ nảy mầm của hạt giống bằng 2 cách:

Phương pháp tờ giấy: Dùng 4-5 tờ giấy bản, giấy đánh máy, giấy phô tô màu trắng chưa sử dụng loại A4 (kích thước 25x30cm); 1 túi nilon màu trắng khổ 30x60cm; 1 giây chun nhỏ. Trộn đều lượng thóc giống định thử, bốc ngẫu nhiên lấy 100 hạt thử cho 5-10kg thóc giống. Nhúng ướt từng tờ giấy, trải nhanh ra mặt bàn rộng, xếp thóc giống thành 4-5 hàng theo chiều dọc tờ giấy, mỗi hàng 5-4 hạt, mỗi hạt cách nhau 1,5-2cm. Gập 4 mép tờ giấy, gấp tờ giấy chứa thóc giống theo hình chữ nhật rộng 5-7cm, dài 20-25cm. Cho tờ giấy chứa thóc vào túi nilon để đứng theo chiều dọc túi, dùng giây chun buộc chặt đầu túi nilon. Treo tờ giấy nilon vào nơi ấm nhiệt độ 25-35oC.

Phương pháp bát cát: Lấy cát vàng hay cát đen rửa sạch đất (rửa nước thấy trong). Phơi mỏng cát dưới nắng to để khử mầm bệnh. Lượng thóc giống định thử tỷ lệ nảy mầm cũng chuẩn bị như trên. Ngâm thóc giống đến no nước (ngâm nước vụ xuân 72 giờ giống thuần, 48 giờ giống lai; vụ mùa 60 giờ giống thuần, 36 giờ giống lai). Trộn nước cho cát đủ ẩm (nắm cát thành nắm không chảy nước, để nắm cát cẩn thận trên mặt phẳng vẫn còn nguyên dạng là được). Cho cát vào bát ấn nhẹ, gạt bằng miệng. Gieo hạt đã no nước vào bát cát ấn nhẹ cho cát kín hạt. Đặt bát cát vào trong túi nilon buộc chặt miệng, treo nơi ấm.

Xác định tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ nảy mầm là khả năng nảy mầm tối đa của lô hạt giống: Vụ xuân sau 8-9 ngày, vụ mùa sau 6-7 ngày sau khi gieo.

Tỷ lệ nảy mầm (%) = (Số hạt nảy mầm bình thường : Tổng số hạt gieo) x 100. Đối với thóc giống tỷ lệ nảy mầm từ 80% trở lên là giống đạt yêu cầu.

Hạt nảy mầm bình thường là hạt có ít nhất 1 mầm, 1 rễ; mầm mọc thẳng khoẻ mạnh, ít nhất dài bằng hạt thóc, rễ dài ít nhất bằng hai hạt thóc.

Xác định sức nảy mầm: Sức nảy mầm là khả năng nảy mầm đồng đều cho cây mầm bình thường trong một khoảng thời gian ấn định theo thời vụ. Lô hạt giống có sức nảy mầm càng cao thì hạt giống nảy mầm càng nhanh, đồng đều tức là sức nảy mầm tốt và ngược lại. Lô hạt giống có sức nảy mầm cao (tốt) khi gieo ra ruộng sẽ mọc nhanh, đồng đều, cho cây mạ to khoẻ là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp thâm canh. Vụ xuân 6 ngày; vụ mùa 4 ngày sau gieo thì xác định sức nảy mầm.

Sức nảy mầm (SNM) = (Số cây mầm bình thường : Tổng số hạt gieo) x 100.

Lô hạt giống tốt có sức nảy mầm gần bằng tỷ lệ nảy mầm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Ngâm ủ hạt giống lúa

Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao, loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt

Phơi lại hạt giống: Hạt giống cần phơi lại 6- 8 giờ trong nắng nhẹ (không phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng). Phơi lại có tác dụng làm cho hạt hút nước nhanh, xúc tiến hoạt động của hệ thống men, tăng khả năng nảy mầm.

Thử tỷ lệ nảy mầm: Kiểm tra tỷ lệ nảy mầm của hạt giống bằng 2 cách là phương pháp tờ giấy và phương pháp bát cát (Xem thêm tại Tự kiểm tra chất lượng hạt lúa giống)

Chọn hạt tốt, loại bỏ hạt lép lửng bằng nhiều cách : Bằng quạt gió, sàng sảy hoặc trong quá trình ngâm nước cần vớt hết những hạt nổi và giữ lại hạt chìm (hạt tốt).

Xử lí hạt giống : Có thể sử dụng một trong các phương pháp sau:

+ Xử lí bằng nước nóng 540c ( pha tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh): Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 470c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 550c trong 10 phút. Phương pháp này đơn giản nhất, có tác dụng trừ nấm bệnh và tuyến trùng trên hạt, tạo cho hạt hút nước nhanh

+ Xử lí bằng nước vôi: Hòa tan 1kg vôi sống vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4 ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm.

+ Xử lí bằng hoá chất Formalin: Dung dịch 2% phun vào hạt giống ( 5 lít dung dịch cho 50 kg hạt giống), ủ kín 3 giờ, đãi sạch rồi thúc mầm.

Đối với hạt giống mới thu hoạch muốn gieo ngay cần áp dụng phương pháp xử lý phá ngủ để tăng độ nảy mầm. Dùng a xít nitric 0,2% (lượng dùng 100 ml dung dịch cho 1,2- 1,4 tạ hạt giống) để xử lý phá ngủ hoặc dùng supe lân để thay thế.

Ngâm ủ hạt giống

  • Ngâm hạt: Để hạt nảy mầm cần phải ngâm hạt hút đủ độ ẩm cần thiết. Thời gian ngâm tùy thuộc nhiệt độ, 1-2 ngày ở vụ mùa, 2-3 ngày ở vụ đông xuân. Trong quá trình ngâm, hạt hô hấp yếm khí, thiếu ô xy làm nước chua, cần phải thay nước mỗi ngày một lần.

  • Ủ thúc mầm: Sau khi hạt đã hút đủ nước, đem ủ, để hạt nảy mầm. Trong quá trình ủ, nên định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nẩy mầm đều.

  • Khi hạt đã nhú mầm, nên xen kẽ “ngày ngâm đêm ủ” để phát triển cân đối mầm và rễ. Vụ mùa, hè thu chỉ cần ủ nứt nanh, vụ đông xuân cần có mầm dài hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Sản lượng lúa Việt Nam giảm, nguyên nhân do đâu?

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tự đánh giá “năm 2016 được xem là một năm u ám đối với ngành lúa gạo Việt Nam, với xuất khẩu gạo trì trệ kéo theo giá lúa, gạo giảm”. Nhưng bên cạnh đó, lúa gạo Việt Nam còn gặp phải nhiều vấn đề khác.

1. Khối lượng và giá trị xuất khẩu giảm sâu

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sản xuất lúa cả năm 2016 sụt giảm cả về diện tích và năng suất so với năm 2015, đặc biệt là khu vực phía Nam. Diện tích gieo trồng lúa đạt 7,8 triệu ha, giảm 0,5%; năng suất ước đạt 56 tạ/ha, giảm 2,8%, là mức giảm năng suất mạnh so với bình quân hàng năm; do vậy sản lượng ước đạt 43,6 triệu tấn, giảm 3,3% so năm 2015.

Đặc biệt, khối lượng gạo xuất khẩu cả năm ước đạt 4,88 triệu tấn và giá trị 2,2 tỷ USD, giảm 25,8% về khối lượng và giảm 21,2% về giá trị so với năm 2015. Đây là mức giảm kỷ lục trong vòng 10 năm qua.

Hơn nữa, nhiều thị trường có giá trị xuất khẩu gạo giảm mạnh trong năm qua như Philippines (giảm 65%), Malaysia (giảm 48%), Mỹ (giảm 33%), Singapore, Indonesia, Bờ Biển Ngà và Hong Kong đều đồng loạt giảm tiêu thụ gạo Việt trong năm 2016. Như vậy, sản lượng xuất khẩu gạo cả năm thấp hơn tới 1,6 triệu tấn so với dự báo mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đưa ra từ đầu năm.

Xuất khẩu gạo

Tính chung cả năm, lúa IR50404 tại An Giang đã giảm 450đ/kg, từ 4.850đ/kg xuống 4.400đ/kg; lúa IR50404 tại Vĩnh Long giảm 400-500đ/kg, từ 4.800đ/kg xuống 4.300- 4.400 đ/kg; lúa tẻ thường tại Kiên Giang giảm 500đ/kg, từ 5.900đ/kg xuống 5.400 đ/kg; lúa dài giảm 300 đ/kg, từ 6.100 đ/kg xuống 5.800đ/kg.

2. Vấn đề không chỉ ở con số xuất khẩu

Bức tranh ngành lúa gạo Việt Nam năm 2016 hiện rõ gam màu tối. Bởi vì Việt Nam trước đây vốn là 1 trong 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới (gồm Việt Nam, Thái Lan Ấn Độ) với lượng xuất khẩu hàng năm từ 6 – 8 triệu tấn, mang về nguồn ngoại tệ cho đất nước khoảng gần 4 tỷ USD. Nhưng năm 2016 đã khép lại với kết quả xuất khẩu gạo quá thấp, tụt xa so với mục tiêu năm nay xuất khẩu 5,65 triệu tấn.

“Lúa gạo là sản phẩm quan trọng của Việt Nam nên cần có cơ chế đặc biệt cho sản phẩm này. Như ở Thái Lan, họ có 5-6 loại giống lúa tạo thương hiệu xuất khẩu trong khi ở Việt Nam có quá nhiều loại giống lúa khác nhau. Vì vậy rất khó để có thể canh tác và chế biến quy mô lớn. Thái Lan họ tiếp thị rất giỏi về thương hiệu của họ. Thái Lan gạo có thể bán với giá 800 USD trong khi gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 400 USD/tấn. Việt Nam cũng cần có các chiến dịch thương mại để đưa gạo Việt vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu và nâng giá trị dần dần để định vị thương hiệu gạo Việt Nam”- Ông Sergut Zorya, chuyên gia về nông nghiệp của WB.
Điều đáng nói là chỉ tiêu này đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều chỉnh giảm hồi giữa năm, từ mức 6,5 triệu tấn trước thực tế nhiều loại nông sản sụt giảm về khối lượng và giá trị. Đây cũng là tín hiệu cho thấy những khó khăn rất lớn mà ngành lúa gạo Việt Nam phải đối diện.

Trên bình diện kinh tế đối ngoại, nhu cầu gạo của thế giới vẫn tăng, đòi hỏi về chất lượng gạo ngày càng tăng, nhiều quốc gia cũng khát khao có được lợi thế đất lúa như của Việt Nam. Trong khi đó, từ một quốc gia lợi thế và nhiều năm đứng tốp 3 nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nay Việt Nam liên tục giảm mạnh khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo.

Mặc dù Chính phủ đã và đang nỗ lực dùng nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường lúa gạo. Nhưng các chuyên gia ngành lúa gạo cho rằng, muốn phát huy thế mạnh tiềm năng nông nghiệp, trong đó có trồng lúa gạo, điều quan trọng là phải tái cơ cấu ngành xuất khẩu gạo theo hướng tập trung vào loại gạo có chất lượng, xây dựng thương hiệu cho ngành lúa gạo.

Bởi thực tế, dù gạo Việt đang ngày càng chật vật tìm đường xuất ngoại, thì tại thị trường trong nước, người dân Việt Nam ngày càng tìm đến “gạo ngoại” nhiều hơn, dù nhiều loại gạo giá đắt hơn hẳn gạo nội, nhưng bù lại chất lượng cao hơn. Áp lực cạnh tranh gia tăng không chỉ xuất khẩu mà ngay tại thị trường nội địa cũng nhãn tiền.

Như thế, trong bức tranh buồn của ngành lúa gạo năm nay, buồn hơn cả là giá trị xuất khẩu thấp, mặc dù khối lượng chưa phải quá bi đát. Vấn đề nằm ở chỗ, nếu giá trị hạt gạo Việt Nam xuất khẩu được tăng lên thì dù khối lượng có suy giảm thì giá trị sẽ được bù đắp. Mà sự bù đắp giá trị này mới là cốt lõi của sự tăng trưởng bền vững.

Bởi suy cho cùng chủ nhân chính của nguồn cung lúa gạo phải là nông dân. Cho dù nhiều chính sách của Chính phủ can thiệp, nhưng nếu trồng lúa không đem lại hiệu quả thiết thực và mang lại sự cải thiện đời sống cho người nông dân thì nông dân sẽ ngày càng quay lưng với ruộng lúa là khó tránh.

Theo ông Steven Jaffee, Chuyên gia trưởng về kinh tế nông nghiệp của WB, tổng lượng gạo tiêu thụ của quốc gia và theo đầu người của Việt Nam bắt đầu suy giảm từ những năm 2000 và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp diễn trong hai thập kỷ sau đó trước khi đi ngang. Từ năm 2012, xu hướng chi đã dịch chuyển sang các sản phẩm cao đạm. Gạo chỉ chiếm một phần ba tổng chi cho bữa ăn, trong khi các sản phẩm chăn nuôi và thủy sản gộp lại chiếm đến 39%. Đây là một chỉ số đặc biệt quan trọng, bởi riêng thị trường Việt Nam đã có tới hơn 92 triệu dân vốn có thói quen bữa ăn không thiếu cơm.

Rõ ràng, chuyện của ngành lúa gạo Việt không phải chỉ loay hoay ở con số xuất khẩu bao nhiêu triệu tấn và thu về bao nhiêu tỷ USD, việc không kém quan trọng là cần phải nhìn vào xu hướng tiêu dùng, nhu cầu gạo cả trong nước và quốc tế, nhìn vào thực lực năng lực cạnh tranh của mình để tìm ra giải pháp thiết thực và bền vững.

3. Nguyên nhân sản lượng giảm

Hầu như nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nước, xâm mặn nghiêm trọng và bão làm giảm năng suất trung bình. Nông dân Việt Nam hiện đang thời gian cao điểm sản xuất vụ chính đông xuân. Đến giữa tháng 3/2017, hoạt động sản xuất vụ lúa đầu tiên và lớn nhất trong 3 vụ được báo cáo là phục hồi so với hoạt động sản xuất hồi năm ngoái, đạt diện tích gieo trồng 3,04 triệu ha.

Tại ĐBSCL, khu vực sản xuất chiếm một nửa sản lượng vụ đông xuân, vấn đề xâm mặn vẫn còn tác động và mưa đến trễ được cho là có thể làm giảm năng suất. Năm 2016, nguồn nước không đủ cho hệ thống thủy lợi và tình trạng xâm mặn đã làm giảm 10% năng suất trung bình vụ chính tại ĐBSCL xuống còn 6,4 tấn/ha.

Kết quả thu hoạch sớm cho thấy thậm chí năng suất còn có thể giảm thấp hơn trong năm nay. Tình hình sản xuất tại ĐBSH tốt hơn nhờ thời tiết tốt. Hiện khu vực ĐBSCL đang chuẩn bị xuống giống vụ hè thu. Tuy vậy, sự tụt giảm sản lượng trong vụ đầu bị trễ có thể duy trì mức giá lúa ở mức cao.

Đồng thời, qua thực tế nhiều năm cho thấy, việc phụ thuộc quá nhiều thị phần vào một thị trường nào đó đều sẽ là bất lợi, tiềm ẩn rủi ro cho ngành lúa gạo. Cho nên, cùng với nâng cao chất lượng sản phẩm, Việt Nam phải cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, không để một mặt hàng quan trọng như gạo phụ thuộc vào một hoặc một vài thị trường nào đó.

Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để đưa ra dự báo về sản xuất lúa gạo Việt Nam năm 2017 do cần theo dõi thêm liệu quỹ đạo giảm sản lượng có tiếp diễn trong vụ 3, xét đến định hướng của chính phủ muốn chuyển đổi 800.000ha đất lúa sang các mục đích khác đến năm 2020. Nhìn chung, FAO dự báo Việt Nam sẽ thu hoạch 44 triệu tấn lúa, tương đương 28,6 triệu tấn gạo trong năm 2017, tăng 1% so với sản lượng năm 2016.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Hạn chế đẻ nhánh vô hiệu cho lúa

Cây lúa có khả năng đẻ nhánh rất lớn, tuy nhiên số nhánh hữu hiệu (nhánh cho bông), chỉ đạt tỷ lệ 20-30%. Những nhánh vô hiệu (nhánh không trổ bông) với số lượng lớn sử dụng nhiều dinh dưỡng làm tăng chi phí phân bón, tăng diện tích lá, tăng độ ẩm không khí trong ruộng là điều kiện thuận lợi cho sâu, bệnh phát sinh phát triển gây hại cho mùa màng.


Dưới đây là cách hạn chế đẻ nhánh vô hiệu cho lúa xuân.

Hạn chế đẻ nhánh vô hiệu bằng cách bón phân đạm sớm, bón tập trung:

Phân urê thường được bón lót sâu với lượng 30-50% (tổng lượng bón cho lúa vụ xuân 6-12kg/sào Bắc bộ 360m2) cho lúa trước khi cấy và bón thúc sớm 60-40% lượng đạm sau cấy 15-20 ngày khi lúa bén rễ hồi xanh. Tuy nhiên với những loại đất cát pha, đất cát khả năng giữ phân kém chỉ nên bón lót 20-30%, bón thúc lần 1 khoảng 50-60% chia làm 2 lần cách nhau 4-5 ngày để tăng hiệu quả của phân bón. Nên bón đạm sớm kết hợp với phân kali (tỷ lệ 2đạm/1kali).

Phân đạm dạng hỗn hợp thường được sử dụng phổ biến dưới dạng phân tổng hợp NPK. Phân tổng hợp NPK loại nhiều lân như NPK (5:10:3) thường được bón lót với lượng 15-25 kg/sào Bắc bộ. Phân NPK loại nhiều đạm ví dụ NPK (12:5:10) dùng để bón thúc đẻ với lượng 7-10 kg/sào. Phân tổng hợp NPK có nhiều ưu điểm, do mỗi thành phần dinh dưỡng được bao bọc bởi một lớp phụ gia đặc biệt nên quá trình hoà tan chậm, dinh dưỡng trong phân được giải phóng dần nên hiệu quả sử dụng phân cao (70-80%), thời gian sử dụng phân dài (35-40 ngày sau bón), lúa ít bị chết rét.
Tránh bón phân ure, phân NPK cho lúa muộn, bón nhiều lần làm thời gian lúa đẻ kéo dài, nhiều dảnh vô hiệu.

Hạn chế đẻ nhánh vô hiệu cho lúa bằng cách điều tiết nước:

Giữ mực nước ngập từ khi cấy đến sau cấy 30-35 ngày (sau khi bón thúc đợt 1 khoảng 10-15 ngày) từ 3-5 cm để phòng lúa bị chết rét, và kích thích lúa đẻ nhánh sớm. Từ 30-35 ngày sau cấy, nếu đếm trung bình 10 khóm giữa ruộng đạt 5-6 dảnh/khóm với lúa cấy mật độ 45-50 khóm/m2 và 7-8 dảnh/khóm với lúa cấy thưa 30-35 khóm/m2 thì tiến hành tháo cạn nước để khô nứt chân chim trong 10-12 ngày có tác dụng hạn chế đẻ nhánh vô hiệu, oxy hoá các chất độc trong đất, kích thích rễ lúa ăn sâu hút được nhiều dinh dưỡng nuôi cây.

Nguồn: Trongtrot.lamnghenong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Mô hình sinh thái Ruộng lúa – bờ hoa

Thay vì phun thuốc trừ sâu, nhiều bà con nông dân vùng ĐBSCL đã áp dụng mô hình trồng hoa trên bờ ruộng, vừa quản lý tốt dịch bệnh, vừa nâng cao năng suất cây trồng.


Mô hình sinh thái ruộng lúa bờ hoa mang lại nhiều lợi ích cho bà con

ĐBSCL là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Nơi đây hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Hàng năm, ĐBSCL đóng góp 50% sản lượng lương thực cả nước và 90% lượng gạo xuất khẩu ra thế giới. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động trồng lúa tại ĐBSCL đang phải đối mặt với các hiện tượng thời tiết cực đoan và chịu áp lực lớn về tình hình sâu bệnh như rầy nâu, sâu cuốn lá, bệnh siêu vi khuẩn…

Trước kia, để kiểm soát dịch bệnh, tăng năng suất bà con nông dân thường sử dụng thuốc hóa học. Dù mang lại lợi ích trước mắt song về lâu dài sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng: Thúc đẩy nhanh quá trình thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng tới sức khỏe con người…

Tuy nhiên vài năm trở lại đây, thay vì phun thuốc hóa học để diệt trừ sâu bệnh, người dân trồng lúa đã áp dụng chương trình IPM: Xuống giống lúa đồng loạt để “né” rầy, áp dụng “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” và đặc biệt là áp dụng công nghệ sinh thái trồng hoa trên bờ ruộng để dẫn dụ thiên địch ăn các loại côn trùng có hại như: rầy nâu, sâu cuốn lá, nhện gié…

Ông Phan Văn Xích, nông dân trong vùng ĐBSCL chia sẻ: “Mô hình công nghệ sinh thái trồng hoa trên bờ ruộng dễ thực hiện, không tốn nhiều chi phí lại mang đến hiệu quả tích cực như ít sâu rầy hơn, cảnh quan đồng ruộng cũng đẹp hơn. Bởi vậy, tui đã truyền đạt lại cho bà con làng xóm để tiến hành thực hiện và nhận được sự ủng hộ tích cực của mọi người”.

Tại Cần Thơ, mô hình được triển khai từ năm 2013. Tại các ruộng lúa có bờ hoa, bà con nông dân không sử dụng thuốc trừ sâu trong suốt vụ lúa hoặc có sử dụng nhưng đã giảm số lần phun một vụ. Qua 3 vụ triển khai thực hiện, chi phí sản xuất đã giảm từ khoảng 382 – 505 đồng/kg, lợi nhuận tăng trung bình từ 2,3 – 4,1 triệu đồng/vụ/ha (tùy theo vụ lúa).

Không chỉ tại Cần Thơ một số tỉnh như An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau bà con nông dân cũng tâm đắc với mô hình ruộng lúa bờ hoa bởi nó dễ thực hiện, tạo môi trường trong lành, khi thăm đồng ruộng thấy phấn khởi trước những màu sắc rực rỡ của nhiều loại hoa. Quan trọng hơn ruộng lại ít bị sâu hại do có khả năng dẫn dụ nhiều thiên địch.

Mô hình mang lại cảnh quan đẹp

Một số nơi, thay vì trồng các loại hoa thông thường như hướng dương, sao nhái, hoa cúc mặt trời, hoa cẩm tú, xuyến chi, hoa quỳ… bà con tiến hành trồng đậu bắp, đậu xanh, mè vừa giúp quản lý có hiệu quả dịch bệnh, vừa mang lại giá trị kinh tế, nâng cao thu thập.

Th.S Lê Quốc Cường, Giám đốc Trung tâm BVTV phía Nam cho biết: “Mô hình trồng hoa trên bờ ruộng chính là việc tạo một hệ sinh thái phong phú, dẫn dụ được nhiều loại thiên địch trừ sâu bệnh, đồng thời tạo cảnh quan đẹp nơi đồng ruộng. Đây cũng là cách giúp nông dân giảm số lần phun xịt thuốc trừ sâu, từ đó giảm chi phí và tăng năng suất…”.

Tuy nhiên để áp dụng hiệu quả mô hình này, Th.S Lê Quốc Cường cũng lưu ý bà con cần thiết kế thửa ruộng có bờ cao, đủ lớn để trồng hoa, nhân giống hoa trước khi sạ lúa, chọn hoa dễ trồng, ra hoa quanh năm và nhiều hoa, nhiều màu sắc vì các loài hoa này thu hút thiên địch, từ đó góp phần làm giảm mật số rầy nâu và sâu cuốn lá từ 3 – 4 lần trong giai đoạn lúa đẻ nhánh, trỗ đòng và lúa chín.

Thời gian tới, các tỉnh ĐBSCL tiếp tục đẩy mạnh việc áp dụng mô hình công nghệ sinh thái trên đồng ruộng để giúp bà con nông dân giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, bảo vệ sức khỏe và môi trường, hướng đến một nền nông nghiệp phát triển bền vững.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật tưới nước tiết kiệm cho lúa bằng phương pháp tưới “ướt khô xen kẽ”

Tưới nước cho lúa bằng phương pháp tưới “ướt khô xen kẽ” không chỉ tiết kiệm được nước tưới mà còn giúp cho bộ rễ của cây lúa ăn sâu vào tầng canh tác huy động được nhiều dinh dưỡng, lúa cứng cây ít đổ ngã, ít nhiễm bệnh, năng suất cao hơn tưới ngập thường xuyên như cách tưới nước cho lúa lâu nay.

Dùng ống nhựa dài 20 cm có đục lỗ xung quanh đóng xuống ruộng 
để theo dõi mực nước, khi xuống âm 15 cm cho nước vào ruộng 3 – 5 cm 

Truyền thống tưới nước cho lúa của bà con ta lâu nay là tưới ngập, sau khi phun thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm vài hôm là cho nước vào và giữ nước thường xuyên trong ruộng. Thậm chí có nơi thấy nước vừa ráo mặt ruộng là bà con vội vàng cho nước vào ruộng. Cách tưới nước cho lúa như vậy vừa tốn nước tưới vừa không tốt cho cây lúa sinh trưởng, phát triển. Tưới ngập thường xuyên có mấy tác hại như sau: Cây lúa sinh trưởng chậm, đẻ nhánh kém, rễ lúa thiếu ô xy nên phát triển kém, đôi khi còn dễ bị hiện tượng nghẹt rễ, làm cho lúa bị bệnh vàng sinh lý. Ngoài ra, ruộng bị ngập nước thường xuyên còn gây nên việc thải nhiều khí hiệu ứng nhà kính như: CH4, N2O…

Các nhà khoa học nông nghiệp đã khẳng định cây lúa không phải lúc nào cũng cần tưới ngập, tưới ướt khô xen kẽ đúng phương pháp sẽ tạo điều kiện cho cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt hơn, năng suất cao hơn (cao hơn 10 -15% so với tưới ngập), tạo điều kiện cho rễ lúa ăn sâu huy động được nhiều dinh dưỡng, hạn chế đổ ngã. Cách làm như sau:
– Lúa sau sạ, phun thuốc trừ cỏ tiền nẩy mầm, cho nước vào ruộng khoảng 2- 3 cm, giai đoạn lúa đẻ nhánh đến làm đòng là giai đoạn thực hiện tưới ướt khô xen kẽ. Lúa sau khi bón phân thúc lần 1 (lúc bón phân trong ruộng phải có nước 2- 3 cm) để ruộng tự khô, khi nào thấy mặt ruộng nứt chân chim (đối với đất thịt nhẹ – thịt nặng) và se khô lớp mặt (đối với chân đất cát) cho nước vào 3 – 5 cm và để ruộng tự khô; lặp đi lặp lại nhiều lần càng tốt. Đến khi bón đóng đòng, cho nước vào 5 – 7 cm để bón phân và giữ mực nước này đến trước thu hoạch 10 ngày rút nước phơi ruộng.

– Việc xác định thời điểm cho nước vào sau khi phơi ruộng rất quan trọng, tốt nhất bà con dùng ống nhựa (ống nước bằng nhựa đường kính 5 – 8 cm), chiều dài 20cm đục các lỗ xung quanh ống rồi đóng xuống ruộng, mặt trên của ống ngang với mặt ruộng, phơi ruộng khi nào mực nước trong ống tuột xuống 15 cm so với mặt ruộng (- 15 cm) là tiến hành cho nước vào như trên.

Trong quá trình thực hiện việc tưới ướt khô xen kẽ nhưng đến thời kỳ bón phân thúc phải cho nước vào để bón, không được bón phân khi ruộng cạn nước. Nếu không thực hiện tưới ướt khô xen kẽ cho cả chu kỳ từ lúc lúa đẻ nhánh đến làm đòng thì trong giai đoạn này, cố gắng phơi ruộng được một vài lần cũng tốt hơn chúng ta tưới ngập thường xuyên.

Nguồn: BaoNgheAn.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Cách xử lý ngộ độc phèn, ngộ độc phân hữu cơ cho cây lúa

Hiện nay, nông dân trong tỉnh Bạc Liêu đang bắt tay vào sản xuất lúa hè thu. Song, thời điểm nông dân xuống giống cũng là lúc giao mùa nên cây lúa thường bị ngộ độc phèn, ngộ độc phân hữu cơ. Để cây lúa phát triển tốt, tăng năng suất, tránh bị ngộ độc phèn, ngộ độc hữu cơ, bà con nông dân cần tuân thủ các biện pháp sau:

Cây lúa bị ngộ độc phân hữu cơ, ngộ độc phèn.

CÁCH XỬ LÝ NHIỄM ĐỘC PHÈN

Thay nước mới để xả lượng phèn trong ruộng ra. Nếu ruộng gò (bị xì phèn) thì cố gắng ép nước lên gò cho đủ. Có thể bón vôi từ 300 – 500kg/ha trước lúc bón phân lân 1 – 2 ngày sẽ tăng hiệu quả phân lân.

– Bón Super lân Long Thành hay lân nung chảy (Ninh Bình hoặc Văn Điển) từ 100 – 250kg/ha, tùy tình trạng cây lúa ngộ độc nhẹ hay nặng.

Xịt phân bón lá (có chứa dinh dưỡng, NPK có chứa lân nhiều như 15 – 30 – 15, hydrophos…). Hiện nay, Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo nông dân xịt phân bón hữu cơ cao cấp của Hoa Kỳ là K-Humate 1 lít/ha (nhãn hiệu Vina Super Humate) có hiệu quả tức thời, cứu lúa và hạ độc phèn nhanh.

Chờ từ 3 – 7 ngày cho đến khi nhổ lúa lên thấy rạ rễ trắng là việc cứu lúa đã thành công.

– Bón phân chăm sóc tiếp tục theo quy trình (urê, DAP, kali…) cho cây lúa phục hồi.

Bà con cần lưu ý: Khi cây lúa bị ngộ độc phèn thì ngưng bón đạm (urê) ngay, nếu bón vào sẽ làm lúa chết nhanh.

CÁCH XỬ LÝ NHIỄM ĐỘC PHÂN HỮU CƠ

Ruộng lúa sau khi thu hoạch không kịp đốt rơm, không kịp làm đất thì rất dễ gây ngộ độc hữu cơ. Nguyên nhân chính là do rơm rạ, tàn dư thực vật của vụ trước chưa kịp phân hủy vì bị vùi lấp trong điều kiện ngập nước tạo ra các gốc phê-nol, a-xít hữu cơ gây độc cho cây lúa.

Triệu chứng rõ nhất là bộ rễ thối đen, cây lúa vàng và lùn, lúa phát triển kém, không bắt phân. Triệu chứng này thường xuất hiện từ 15 – 30 ngày sau sạ, có nơi sớm hơn khi lúa mới sạ vài ngày và gây thiệt hại nặng.

Cách xử lý: Khi thu hoạch lúa xong nên châm lửa đốt cho rơm cháy hết. Nếu không đốt được thì vận chuyển rơm tươi ra khỏi ruộng. Còn nếu để rơm rạ lại thì phun hoặc rải phân bón có chứa Trichoderma. Sau đó tiến hành làm đất: cày xới, phơi đất từ 7 – 15 ngày giúp khoáng hóa chất hữu cơ. Tiếp tục bón 300kg vôi bột (CaCO3) để rạ phân hủy nhanh. Đầu vụ bón lót lân nung chảy (Ninh Bình hoặc Văn Điển) từ 200 – 400kg/ha.

Bón phân đợt 1 sớm (từ 7 – 10 ngày sau sạ) gồm nhiều lân, đạm để giúp hạ phèn, mau ngấu rạ. Cụ thể, bón 50kg DAP + 50 – 70kg urê/ha. Bón phân Silica, Super Humic, phân bón lá K-Humate giúp lúa ra rễ, đẻ nhánh mạnh, hạ phèn nhanh, giải độc chất hữu cơ cho cây lúa.

Nguồn: Trongtrot.lamnghenong.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Gieo thẳng lúa bằng giàn kéo

Giàn kéo gieo thẳng lúa có nhiều ưu thế vượt trội so với phương pháp gieo mạ – cấy truyền thống, đặc biệt năng suất lao động rất cao (1 người sử dụng giàn kéo bằng 40 người cấy lúa).

Tuy nhiên đối với các vùng chưa dồn điền đổi thửa, ruộng đất còn manh mún thì việc gieo bằng giàn kéo khó khăn hơn so với gieo vãi bằng tay. Quá trình thực hiện, chúng tôi có kinh nghiệm sử dụng giàn kéo cần trao đổi như sau:

Thuận lợi:

– Gieo bằng giàn kéo rất nhanh, đảm bảo tính cấp thiết của thời vụ; tiết kiệm công lao động, giải quyết được khâu thiếu nhân lực lúc mùa màng.

– Lúa gieo mật độ đều, ruộng thông thoáng, ít bị bệnh nên năng suất sẽ cao hơn.

Khó khăn:

– Những nơi diện tích ruộng méo, nhỏ dưới 1 sào rất khó sử dụng giàn kéo, gieo vãi bằng tay sẽ tiện lợi hơn.

– Giàn kéo có ít, bình quân 1-3 thôn mới có 1 cái nên người dân đi lại mượn xa, mất thời gian, khi cần đến mượn lại không có giàn ở nhà. Nếu để tập trung HTXNN đứng ra làm dịch vụ cũng khó khăn vì người dân không chủ động, chờ đợi người đến gieo ruộng dễ bị khô, mầm khó bám vào đất.

– Ruộng của hộ gia đình gồm nhiều thửa, phân tán ở các xứ đồng khác nhau, không làm cùng một lúc, mỗi lần gieo lại phải mang giàn đi nên nảy sinh tâm lý ngại sử dụng.

– Giàn kéo khá cồng kềnh, ruộng xa phải mất công vận chuyển trong khi gieo bằng tay không phải lo khâu này.

– Chưa có các linh kiện thay thế.

– Về kỹ thuật: Việc ngâm mạ không đúng kỹ thuật sẽ ảnh hưởng đến việc gieo giàn. Mầm mạ bằng 1/3-1/2 hạt thóc, rễ ra vừa phải là vừa. Nếu ngâm ủ mạ mầm dài hoặc ngắn quá đều ảnh hưởng:

* Mầm ngắn quá khi gieo xuống nhiều dễ thiếu giống.

*Rễ mạ dài quá khi gieo mầm xuống ít gây thừa, lãng phí.

Các khâu: Ngâm ủ mạ đúng tiêu chuẩn, cày bừa, làm phẳng ruộng, lấy nước vào ruộng cấy, tháo nước ra, thời tiết (có mưa hay không?), thời điểm gieo… liên quan mật thiết và phải khớp với nhau. Chỉ cần một khâu chưa đúng sẽ ảnh hưởng đến quá trình gieo mạ bằng giàn kéo. Thông thường các khâu này nông dân thường làm đơn giản nên khi gieo giàn thấy trục trặc dẫn đến ngại sử dụng.

Vì những khó khăn trên nên các địa phương khi triển khai sử dụng giàn kéo để gieo thẳng cần đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa, ruộng càng vuông vắn, chủ động tưới tiêu thì sử dụng giàn kéo càng hiệu quả.

Đối với nhà sản xuất: Cần có đại lý bán giàn kéo ở từng vùng, có linh kiện thay thế, kích cỡ ốc vít nên bằng nhau, các điểm khớp nối phải thật chuẩn để dễ tháo lắp. Giàn kéo cần có các độ rộng khác nhau để người dân dễ chọn lựa. Hạ giá xuống từ 300.000đ – 400.000đ/giàn nhằm đạt mục đích 1-2 gia đình có 1 giàn để nông dân chủ động hoàn toàn trong sản xuất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật phơi lúa trong lều

Một số hộ dân ở An Giang đã áp dụng kỹ thuật phơi lúa trong lều, ngay cả lúc gặp mưa mà vẫn rất nhàn nhã.

Trước đây mỗi khi vào vụ thu hoạch lúa hè thu tôi thường đem lúa ra lộ để phơi. Phơi trên lộ rất nguy hiểm cho người tham gia giao thông và mấy năm nay Nhà nước cũng đã cấm phơi lúa trên lộ.

Từ khi  làm lều phơi lúa không lo lúa bị ướt hay nguy hiểm do tại nạn giao thông nữa. Cách làm lều che trên sân phơi lúa  bà con nông dân ở đây khá đơn giản. Lều được dựng trên nền sân phơi, xung quanh có hệ thống thoát nước dễ dàng. Lều được làm theo dạng một mái và hai mái.

Lều dạng 2 mái được làm như như hình tam giác trông như hai mái nhà. Thông thường bà con dùng tre hoặc cây gỗ tạp dựng thành một hàng cột giữa sân có chiều cao khoảng 2,5- 3 mét với số lượng từ 6-10 tùy theo chiều dài của sân, khoảng cách mỗi cột là 2 mét. Trên đầu cột này được buộc với một cây tre chạy dài suốt sân, cây tre có tác dụng như một nóc nhà. Hai bên lề của sân được đóng một hàng cọc chạy dài suốt sân, cao 20 cm và cách nhau 1 m. Sau đó dùng dây chì (số 3) hoặc dây ni-lon đen (loại dây có đường kính bằng chiếc tăm xe đạp) buộc từ cọc bên này đến cây tre trên nóc và kéo xuống cột chặt vào đầu cọc bên kia. Sau đó dùng tấm đệm có kích thước tương ứng với sân phơi phủ trùm lên trên rồi kéo 2 đầu tấm đệm xuống buộc vào các cọc phía ngoài sân phơi. Lúc trời nắng thì kéo tấm đệm về một phía để cho nắng vào sân phơi, khi gặp trời mưa thì kéo tấm đệm che sân lại rất nhẹ nhàng, nhanh chóng.

Đối với dạng lều che sân phơi một mái rất đơn giản: Treo một cây tre dài suốt chiều ngang của sân lên mái danh nhà trước. Sau đó cột các sợi dây ni-lon lên cây tre này rồi kéo xuống buộc chặt vào các cọc cây được đóng sẵn trước mặt ngoài sân phơi. Buộc một đầu của tấm đệm chạy dọc theo cây đòn tay của mái nhà. Đầu tấm đệm còn lại được luồn một cây tre nhỏ chạy dọc hết tấm đệm. Khi trời nắng bà con cuốn tấm ga lại và treo ngược lên cây đòn tay. Khi có mưa bà con chỉ cần tháo dây treo thì tấm ga sẽ tự động xổ xuống đến đầu cọc ở mặt đất, phủ trùm lên sân để bảo vệ số lúa không bị ướt.

Với cách làm lều như trên bà con đã tạo ra một mái che rất thuận lợi cho việc che lúa vào lúc trời mưa và chiều tối mà không cần phải kéo lúa lại. Gặp trời mưa nhiều ngày, với lượng lúa ít thì bà con cứ trải đều trên sân, lượng lúa nhiều thì cào lúa như những luống khoai, thỉnh thoảng đảo lúa hoặc có thể dùng quạt điện đặt ở một đầu theo hướng gió cho gió thổi làm lúa nhanh ráo vỏ sẽ giúp lúa không bị lên mộng.

Khi hết vụ phơi lúa trong mùa mưa bà con có thể tháo dây và tấm ga xuống cất vào nơi khô ráo để sử dụng cho những vụ lúa tiếp theo. Chi phí cho việc làm lều không cao lắm, tre thì đa số tự túc được, dây và tấm cho một sân 100 m2 khoảng 1- 1,2 triệu tùy theo bà con chọn loại tấm đệm giá cao hay thấp. Thời gian sử dụng của lều che này có thể kéo dài từ 5-7 năm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam