Cách phòng trị bệnh đạo ôn hại lúa

Bệnh đạo ôn là bệnh quan trọng gây hại ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa từ giai đoạn mạ – đẻ nhánh – trổ – chín và trên các bộ phận của cây như lá, cổ lá, đốt thân, cổ bông, hạt . Tuỳ theo bộ phân bị hại mà người ta gọi là bệnh đạo ôn lá (cháy lá), đạo ôn cổ lá hay đạo ôn cổ bông…

Bệnh đạo ôn có thể xảy ra quanh năm và thường gây hại nặng vào vụ Đông Xuân, những diện tích bị bệnh nặng có thể làm thất thu năng suất.

1. Triệu chứng:

– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ là những chấm nhỏ, màu xanh xám, sau lớn lên có dạng hình thoi (mắt én) đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng. Trên các giống nhiễm đốm bệnh rất to, ngược lại giống kháng thì vết bệnh chỉ cở bằng đầu kim. Bệnh nặng, các vết bệnh liên kết lại làm lá bị cháy khô.

– Trên cổ lá, thân và cổ bông: triệu chứng ban đầu cũng có màu xám xanh sau chuyển sang nâu, do nấm tấn công vào mạch dẫn gây cản trở việc vận chuyển các chất dinh dưởng nuôi lá, thân và hạt làm cho lá, thân dễ gãy, hạt bị lép , lửng.

– Trên hạt : bệnh xảy ra vào giai đoạn trổ, vết bệnh trên hạt cũng có dạng mắt én, viền nâu, tâm xám trắng. Nếu bệnh tấn công sớm sẽ làm hạt bị lép, lửng.

2. Tác nhân gây hại:

Do nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea gây ra. Bào tử nấm rất nhỏ, có thể bay cao và bay xa nên bệnh rất dễ lây lan nhanh trên diện rộng. Nhiệm vụ của bào tử này là hút các chất dinh dưỡng có trong cây lúa và ngoài ra còn tiết ra độc tố Pyricularin gây độc cho cây . Bào tử nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ mát từ 24 – 28 độ C, ẩm độ cao trên 80%, Trường hợp trong điều kiện khí hậu mát mẻ, sáng nắng, chiều mưa xen kẻ, trời có nhiều sương mù rất thích hơp cho bệnh xảy ra. Nấm bệnh thường lưu tồn trên ruộng, trong các gốc lúa và trong các loại cỏ dại mọc ven ruộng như cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa chét…

3. Các yếu tố làm bệnh tồn tại và phát triển:

– Thời tiết : ẩm độ không khí cao, mưa nắng xen kẻ, sáng sớm và chiều tối có sương mù rất thuận lợi cho bệnh phát sinh gây hại.

– Nước : Tình trạng khô hạn gây thiếu nước trên ruộng khiến cây sinh trưởng kém, mất khả năng chống chọi nên bệnh xảy ra nặng.

– Giống : sử dụng giống dễ nhiễm bệnh đạo ôn

– Mật độ gieo sạ : gieo sạ càng dầy, tán lúa càng rậm, ẩm độ trên ruộng càng cao, bệnh càng dễ xảy ra.

– Bón phân : Bón không cân đối giữa N-P-K, bón thừa đạm, bón đạm muộn, phun phân bón lá có đạm nhất là giai đoạn đòng trổ … tạo điều kiện cho bệnh phát triển nặng hơn.

– Nguồn bệnh : nấm bệnh lưu tồn trong rơm rạ, cỏ dại, hạt giống… là nguồn bệnh lây lan qua vụ sau.

4. Các giai đoạn cần lưu ý bệnh đạo ôn :

– Giai đoạn mạ: thường phát sinh trên các giống nhiễm, làm cây suy yếu ảnh hưởng năng suất về sau.

– Giai đoạn cuối đẻ nhánh đến làm đòng.

– Giai đoạn trước và sau trổ.

Để hạn chế bệnh phát sinh phát triển gây hại , bà con thường xuyên thăm dồng, nhất là vào các giai đoạn cần lưu ý (quan sát kỹ từng bụi lúa, đặc biệt những nơi lúa tốt, rậm rạp nằm giữa ruộng hoặc gần bờ bao, cống bộng dẫn nước) để phòng trị kịp thời.

5. Phòng trị :

Áp dụng các biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh như :

– Sử dụng giống kháng bệnh hay kháng vừa. Có thể kết hợp để chọn giống có tính kháng bệnh đạo ôn và tính kháng rầy phù hợp với điều kiện địa phương, cho năng suất cao và phẩm chất tốt.

– Chọn hạt giống sạch bệnh, sạch cỏ và xử lý giống trước khi gieo sạ.

– Gieo sạ với mật số vừa phải , không gieo sạ dày . Lượng giống gieo sạ trung bình khoảng 80 – 120 kg/ha (tuỳ địa phương)

– Bón phân cân đối N-P-K. Lượng đạm bón vừa đủ từ 80 – 100 kg /ha (lưu ý nên bón đạm theo nhu cầu chứ không bón quá nhiều hay bón muộn,.,có thể dùng bảng so màu lá lúa để bón) Khi bệnh xảy ra ngưng bón đạm hay phun phân bón lá có đạm.

– Sau thu hoạch nên cày vùi rơm rạ để trả lại chất hữu cơ cho đất.

– Vệ sinh đồng ruộng, diệt lúa rày, lúa chét, làm sạch cỏ bờ… hạn chế mầm bệnh lưu tồn và lây lan sau này.

– Giữ mức nước trên ruộng phù hợp với từng nhu cầu sinh trường của lúa, tránh để ruộng khô khi bệnh xảy ra.
– Sử dụng thuốc hoá học đặc trị bệnh đạo ôn : Trizole 75WDG, 20WP, Lúa vàng 20WP, KiSaigon 10H, 50ND, Py Saigon 50WP.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cách phòng trị bệnh khô vằn hại lúa

Là loại bệnh hại toàn thân, bệnh gây hại bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên.

1. Triệu chứng:

Vết bệnh khô vằn trên toàn bộ cây lúa

Vết bệnh khô vằn trên bẹ lá đòng

– Trên bẹ lá xuất hiện các vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ dạng đám mây. Khi bị nặng, cả bẹ lá và lá phía trên bị chết lụi.
– Vết bệnh lá tương tự như ở bẹ lá, thường vết bệnh lan rộng rất nhanh chiếm hết bề rộng ở phiến lá tạo ra từng mảng vân mây hoặc vằn da hổ. Các lá già ở dưới hoặc lá sát mặt nước là nơi phát sinh trước sau đó lan lên các lá phía trên.
– Vết bệnh ở cổ bông thường là vết kéo dài bao quanh cổ bông, hai đầu vết bệnh có màu xám loang ra, phần giữa vết bệnh màu lục sẫm co tóp lại.
– Trên vết bệnh ở các vị trí gây hại đều xuất hiện hạch nấm màu nâu, hình tròn dẹt hoặc hình bầu dục nằm rải rác hoặc thành từng đám nhỏ trên vết bệnh. Hạch nấm rất dễ dàng rơi ra khỏi vết bệnh và nổi trên mặt nước ruộng.

2. Tác nhân:

– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani sống trong đất gây ra. Ngoài lúa, nấm còn gây hại trên rau cải, ngô, bầu bí, dưa, cà rốt, ớt… mầm bệnh lây lan qua nước tưới, đất mang mầm bệnh và tàn dư thực vật của cây trồng bị bệnh vụ trước.

Sợi nấm và hạch nấm Rhizoctonia solani Kuhn

3. Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh:

– Điều kiện thời tiết : Bệnh phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao. Bệnh thường phát sinh trước tiên ở các bẹ lá và lá già sát mặt nước hoặc ở dưới gốc. Tốc độ lây lan lên các lá phía trên phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết mưa nhiều, lượng nước trên ruộng quá cao, đặc biệt ở vùng cấy dày. Giai đoạn đòng trỗ đến chín sáp là thời kỳ nhiễm bệnh nặng nhất.
– Ảnh hưởng của phân bón : Bón thừa đạm, bón đạm muộn, bón không cân đối N-P-K cùng với cấy mật độ cao tạo điều kiện cho bệnh phát triển mạnh.
– Nấm tồn tại dưới dạng hạch, sợi nấm trong đất, tàn dư cây trồng, rơm rạ, cỏ, lúa chét. Hạch nấm có thể sống một thời gian dài sau khi thu hoạch lúa, thậm chí trong điều kiện ngập nước vẫn có tới 30% số hạch giữ được sức sống, nảy mầm thành sợi.

4. Biện pháp phòng trừ :

– Làm vệ sinh đồng ruộng, thu gom sạch tàn dư cây bệnh từ vụ trước. Cày bừa, xới đất kỹ để chôn vùi hạch nấm, hạn chế sức sống của chúng ;
– Không dùng hạt giống ở những ruộng bị nhiễm bệnh. Cấy lúa dày vừa phải, bón cân đối NPK, phân chuồng trước khi bón phải được ủ hoai mục ;
– Kiểm tra đồng ruộng, phát hiện và phun trừ những diện tích lúa bị nhiễm bệnh khô vằn (có tỷ lệ từ 20% số dảnh bị bệnh), đặc biệt những ruộng lúa đang làm đòng, những ruộng lúa xanh tốt. Các loại thuốc hóa học có thể sử dụng để phun trừ bệnh như: Camilo 150SC, Chevil 5SC, Tilt 250ND, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Callihex 5SC, Hecwin 5SC, A.v.tvil 5SC, Til calisuper 300EC …

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Trồng nấm theo chuẩn JGAP

An toàn vật liệu trồng nấm

Trang trại tiến hành đánh giá rủi ro về độ an toàn của các vật liệu sau đây được sử dụng để trồng nấm và ghi lại kết quả phân tích. Nguyên liệu gỗ và lớp nền phù hợp với tiêu chuẩn chất phóng xạ. Nếu phát hiện bất kỳ rủi ro nào, trang trại phải có biện pháp xử lý.
– Trang trại xác minh nơi xuất xứ và các loài cây gỗ thô được sử dụng (kể cả các lớp nền như mùn cưa và các loại gỗ).
– Trang trại xác minh nhà cung cấp và các thành phần của các chất dinh dưỡng (như cám gạo và cám lúa mì).
– Trang trại xác minh nhà cung cấp và các thành phần của các chất phụ gia (như canxi
cacbonat).
– Trang trại xác minh nhà cung cấp và các thành phần của chất làm tăng năng suất.
– Trang trại kiểm tra nhà cung cấp và vật liệu của thùng chứa.
– Trang trại kiểm tra nhà cung cấp và vật liệu của các vật liệu khác được sử dụng (như sáp niêm phong, vỏ styrene và lớp phủ đất).

Quản lý vệ sinh lớp nền và vật chứa dùng để trồng nấm

Lớp nền và vật chứa dùng cho trồng nấm đáp ứng các điều kiện sau:
– Bảo quản theo cách ngăn ngừa sự nhiễm bẩn bởi vi sinh vật gây bệnh và các chất lạ.
– Khi tái sử dụng, phải rửa sạch và khử trùng một cách thích hợp. Khi khử trùng, có ghi lại vị trí, ngày tháng, tên thuốc khử trùng, phương pháp khử trùng, tên người thực hiện và thời gian trồng trước. Việc khử trùng được thực hiện bên ngoài trang trại, có lưu hồ sơ về tên và địa chỉ
của công ty đã khử trùng lớp nền.
– Trang trại xử lý lớp nền và các vật chứa một cách hợp vệ sinh.
– Trang trại thường xuyên làm sạch cơ sở.
– Các vật chứa dùng để ngâm không được sử dụng cho các mục đích khác, chẳng hạn như
chuẩn bị hoá chất nông nghiệp.
– Chất khử trùng được sử dụng không ảnh hưởng tiêu cực đến việc trồng nấm.

Hồ sơ về việc áp dụng đầu vào cho nấm

Trang trại ghi lại các thông tin sau về đầu vào áp dụng cho nấm.
– Vị trí (ví dụ: tên trang web)
– Ngày
– Tên của đầu vào được sử dụng và thành phần hoạt chất của nó (ví dụ canxi cacbonat, amoni sulfat, vv)
– Số lượng
– Phương pháp đăng ký
– Tên nhà khai thác
– Nhà cung cấp

An toàn của nước sử dụng cho nấm

Trang trại xác minh hàm lượng kim loại nặng (như chì, cadmium, thủy ngân và asen) của nước dùng cho nấm không vượt quá mức tiêu chuẩn nước uống.

Quản lý vệ sinh cơ sở trồng nấm

Cơ sở trồng nấm thực hiện theo các điều kiện sau:
– Chất khử trùng dùng cho thiết bị và dụng cụ cấy nấm không chạm vào lớp nền.
– Chất tẩy uế dùng cho nơi trồng trọt không chạm đến nơi đặt nấm.
– Các chất khử trùng được sử dụng không ảnh hưởng tiêu cực đến việc trồng nấm.
– Cơ sở được duy trì ở nhiệt độ và độ ẩm tối ưu như môi trường làm việc.

Xử lý thuốc cấy nấm

Thuốc cấy nấm phù hợp với các điều kiện sau:
– Có biện pháp đối phó để ngăn ngừa nhiễm bẩn vi khuẩn gây bệnh hoặc các chất lạ.
– Kho chứa thuốc cấy nấm phải được giữ ở nhiệt độ tối ưu cho giống.
– Dụng cụ tiêm và tay chạm vào thuốc cấy nấm phải được giữ sạch.

Theo “Hướng dẫn chung về Thực hành sản xuất Nông nghiệp tốt” của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thuỷ sản, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Các bệnh thường gặp ở lúa và cách phòng trị

1. Bệnh lùn xoắn lá

Bệnh lùn xoắn lá đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam năm 1977 ở Cai Lậy Tiền Giang. Đến vụ Hè thu năm 1978 bệnh đã phát triển gây hại trên hầu khắp các tỉnh phía Nam. Bệnh lùn xoắn lá làm giảm năng suất nghiêm trọng do chiều cao cây, chiều dài lá và rễ bị giảm nhiều. Bông lúa trổ không thoát và tỷ lệ lép cao.

Bệnh lùn xoắn lá ở lúa

Triệu chứng

– Cây lúa bị bệnh lùn lá còn xanh và bị xoắn, cây sinh trưởng chậm. Trên ruộng lúa phát triển không đều, mép lá có thể bị rách hình răng cưa gân lá có màu vàng lợt, trắng, hoặc nâu đậm.
– Cây lúa trổ muộn và trổ không thoát, có trường hợp bong lúa bị quăn và đâm xuyên qua bẹ lá. Ở cây lúa bệnh thường có mọc nhiều chồi trên đốt thân. Bông lúa ngắn và tỷ lệ lép cao. Các nhánh con đều là nhánh vô hiệu.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh lùn xoắn lá do virus gây ra, rầy nâu là môi giới truyền và lây lan virus vào cây lúa do chích hút.
– Virus có dạng hình khối cầu, thường tập trung ở những phần non trên cây vì vậy các dảnh cấp 2 và 3 bị nặng hơn dảnh cấp.
– Bệnh không lây qua hạt cũng như các biện pháp cơ giới.
– Rầy nâu ở tuổi 4 – 5 truyền bệnh mạnh nhất, sau khi đã chích hút ở cây lúa bệnh 2 – 5 ngày, chỉ sau 5 phút chích hút là rầy nâu có thể truyền được bệnh sang cây lúa khỏe.
– Khi bị truyền virus 5 – 32 ngày sau cây lúa có biểu hiện bệnh. Sau khi virus có trong cơ thể rầy nâu sẽ tồn tại trong con rầy cho tới cuối đời của con rầy.
– Virus lùn xoắn lá còn gây hại và tồn tại trên cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng. Bệnh gây hại quanh năm khi có cây lúa, tuy nhiên thời gian có nhiệt độ từ 25 – 26°C là thích hợp nhất cho bệnh phát triển.
– Trên ruộng lúa bón nhiều đạm bị bệnh nặng hơn. Phân đạm là nhân tố ảnh hưởng cả đến bệnh và côn trùng truyền bệnh. Nhìn chung khi bón bất kỳ loại phân nào cũng đều làm tăng mức độ bệnh.

Biện pháp phòng trừ

Không có thuốc hóa học đặc trị bệnh lùn xoắn lá cho nên phải tuân theo hướng dẫn sau:
– Sử dụng các giống lúa kháng rầy nâu.
– Khi bệnh mới xuất hiện cần nhổ bỏ để tránh lây lan.
– Vệ sinh đồng ruộng, cày ải diệt lúa chét vì là nguồn bệnh cho vụ sau.
– Thời vụ sạ đồng loạt cây lúa sinh trưởng đồng đều hạn chế sự di chuyển của côn trùng môi giới.
– Bố trí sản xuất luân canh hai lúa một màu.
– Phân bón cân đối hợp lý.
– Dùng các biện pháp hoá học phòng trị rầy nâu như applaud, Bassa, Mipcin. Áp dụng tiêu chuẩn 4 đúng trong bảo vệ thực vật.

2. Bệnh đốm vằn

Bệnh đốm vằn trên lúa hay còn gọi là bệnh ung thư, được phát hiện và mô tả đầu tiên vào 1910 ở Nhật Bản, sau đó bệnh này cũng được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Bệnh đốm vằn là một trong những bệnh gây hại quan trọng trên ruộng lúa nước ở nước ta và các nước trồng lúa trên thế giới.

Bệnh đốm vằn ở lúa

Nguồn: Internet

Triệu chứng

– Bệnh thường xuất hiện từ 40 ngày sau khi sạ tới khi lúa trổ. Đầu tiên là những vết bệnh xuất hiện trên bẹ lá ở gần gốc lúa, đôi khi lây trực tiếp qua lá từ những cây bị bệnh xung quanh.
– Các vết bệnh lúc đầu có hình hơi tròn hoặc bầu dục có màu xanh xám, tâm có mày trắng xám và xung quanh màu nâu; kích thước vết bệnh thay đổi thường dài từ 1-3 cm. Khi gặp điều kiện thuận lợi các vết bệnh phát triển và liên kết lại hình thành nên những vết bệnh vằn vện không có hình dạng nhất định nên gọi là bệnh đốm vằn.
– Ở trên ruộng lúa, bệnh thường xuất hiện gần mặt nước ruộng, sau đó bệnh phát triển lên các bẹ và lá phía trên hay lây sang những cây xung quanh. Có nhiều hạch nấm được hình thành ngay gần vết bệnh. Đầu tiên hạch nấm có màu trắng khi già chuyển sang màu nâu. Hạch nấm già sẽ  rơi xuống đất và trôi nổi trên mặt nước, đây là nguồn lây lan bệnh từ nơi này sang nơi khác hoặc từ vụ này sang vụ tiếp theo.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani Kuhn gây ra, là bệnh hại quan trọng đối với lúa cao sản ngắn ngày. Bệnh có thể gây hại ở tất cả các vụ trong năm, thường gây hại nặng ở vụ Đông Xuân. Bệnh nhẹ thì làm tăng tỷ lệ lem lép hạt, gây đổ ngã, làm giảm năng suất. Bệnh nặng sẽ làm cây lúa chết và có thể gây thất thu năng suất lên đến 25%.
– Nấm R. solani còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như: gây bệnh chết cây con đối với đậu nành, đậu xanh, cà chua; gây bệnh đốm vằn, chết cây con trên cây bắp, … Vì vậy các loại hoa màu trồng luân canh trên đất lúa thường dễ bị nhiễm bệnh do nấm R. solani gây ra.
– Nấm R. solani có thể sống, phát triển hầu hết trên tất cả các loại cỏ dại, hạch nấm rơi xuống đất có thể tồn tại rất lâu và có khả năng gây bệnh trở lại sau một thời gian dài trong điều kiện tự nhiên. Do đó bệnh thường xuyên xuất hiện trên ruộng lúa.

Biện pháp phòng trừ

– Làm cỏ xung quanh ruộng, trong ruộng và kênh mương dẫn nước.
– Gieo sạ với mật độ thích hợp (150-200 kg/ha sạ bằng tay, 80-100 kg/ha sạ bằng máy sạ hàng).
– Sử dụng phân bón thích hợp (dùng bảng so màu là lúa, bón phân cân đối theo quy trình bón phân).
– Sử dụng thuốc hóa học: Validamycin 3DD, 5 DD (SL); Bonanza 100 DD (SL); Monceren 25BTN(WP), 250DD(SL); Anvil 5DD(SL).

3. Bệnh đạo ôn

Là một bệnh nguy hiểm đối với cây lúa. Hiện nay hầu hết các giống lúa đang được trồng phổ biến trong sản xuất (đặc biệt là những giống có chất lượng gạo ngon đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) lại là những giống nhiễm hoặc kháng yếu với bệnh đạo ôn.
Vì thế, nếu gặp thời tiết phù hợp, cây lúa đang ở giai đoạn xung yếu đối với bệnh, mà ruộng lại bón thừa phân đạm, thì bệnh có thể hủy diệt cả ruộng lúa chỉ trong vài ngày.

Bệnh đạo ôn ở lúa

Triệu chứng

Đạo ôn có thể gây hại nhiều bộ phận phía trên mặt đất của cây lúa từ lá, đốt thân, cổ bông đến gié lúa, hạt lúa,…
– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn mạ-đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, màu xám xanh giống như bị nước sôi, sau đó chuyển sang màu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi, xung quanh màu nâu đậm, giữa màu xám trắng. Nếu nặng, nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau làm lá bị cháy khô, cây lúa bị lụi xuống, ruộng lúa sẽ bị thất thu nghiêm trọng.
– Trên cổ bông, đốt thân lúa: Nấm bệnh tấn công trên đốt thân, trên cổ bông. Chỗ bị bệnh lúc đầu có màu xám xanh, sau chuyển dần sang màu nâu, nâu đậm. Trên cổ bông, nếu ẩm độ không khí cao, chỗ vết bệnh sẽ mọc một lớp nấm mốc màu xám xanh, nếu trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Gặp gió to chỗ vết bệnh bị gẫy gập, ruộng lúa trở nên xơ xác. Do cản trở việc vận chuyển chất dinh dưỡng từ cây lúa lên nuôi hạt, làm cho hạt lúa bị lép lửng. Nếu nặng bệnh có thể làm cho hạt lúa bị lép hoàn toàn.
– Trên hạt: Vết bệnh có hình đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, đường kính khoảng 1-2 mm. Nếu nặng có thể làm cho hạt lúa bị lem lép lửng.

Biện pháp phòng trừ

– Để hạn chế tác hại của bệnh, bà con cần kiểm tra ruộng lúa thường xuyên (đặc biệt là những ruộng gieo cấy giống nhiễm như một số giống lúa thơm, những ruộng lúa tốt lốp,…) để kịp thời phát hiện và có biện pháp phòng trị kịp thời.
– Khi phát hiện thấy chớm có bệnh, bà con phải ngưng bón đạm, không để ruộng bị khô nước. Đồng thời tiến hành phun xịt thuốc ngay.
– Về thuốc có thể dùng một trong các loại thuốc như: Vifusi 40ND; Fuji-one 40EC; Vihino 40ND; Vikita 50ND,… trong các loại thuốc trên thì Fuji-one 40EC có tính lưu dẫn cao, ngoài đặc tính trị bệnh đạo ôn lá và cổ bông Fuji-one 40EC còn có tác dụng phụ kích thích bộ rễ phát triển giúp cho cây lúa hấp thu nhiều dinh dưỡng và cây trở nên to khỏe chống chịu được bệnh tốt hơn làm tăng năng suất thực tế cao hơn.
– Khi sử dụng thuốc bà con phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, đặc biệt là phải đủ lượng nước như khuyến cáo của nhà sản xuất để nước thuốc được trải đều trên toàn bộ ruộng và cây lúa. Trường hợp bệnh nặng hoặc điều kiện thời tiết nhiều sương mù, ẩm cao,… thuận lợi cho nấm phát triển thì bà con nên phun thuốc nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày để hiệu quả trừ bệnh đạt hiệu quả. Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao phun xịt cùng với thuốc.
– Đối với những ruộng sắp trỗ đến trỗ lẹt xẹt, nếu thấy thời tiết thuận lợi cho bệnh (ban đêm lạnh, đêm và sáng sớm có nhiều sương mù, trời âm u, ít nắng,…) thì bà con nhớ phun một đợt thuốc ngừa bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa).

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Các biện pháp phòng chống rét cho mạ, lúa mới cấy

Vụ lúa xuân miền Bắc thường gặp đợt không khí lạnh với cường độ mạnh, có thể xuất hiện rét đậm, rét hại với nền nhiệt hạ thấp (3-5ºC) kèm theo mưa, làm ảnh hưởng đến diện tích mạ và lúa mới cấy.

Để hạn chế thấp nhất thiệt hại trong sản xuất, bà con nông dân cần thực hiện một số biện pháp kỹ thuật phòng chống rét cho mạ và diện tích lúa mới cấy như sau:

Đối với diện tích lúa cấy sớm: Cần tiếp tục duy trì mức nước trên mặt ruộng để tăng cường khả năng chống rét cho lúa mới cấy cũng như giúp cho lúa đẻ nhánh sớm và đẻ nhánh tập trung khi thời tiết nắng ấm trở lại.

Với diện tích vừa cấy xong: Bà con nông dân cần duy trì lớp nước mặt 3-5cm để giữ ấm cho chân lúa nhằm tăng cường khả năng chống rét. Khi nắng ấm trở lại, lúa bén rễ hồi xanh, vươn lá mới và ra rễ trắng thì mới tiến hành bón phân như bình thường.

Với những diện tích chưa cấy, cần tiếp tục duy trì độ ẩm. Cần che phủ nilon trong cho diện tích mạ và thường xuyên kiểm tra để đảm bảo độ kín của nilon. Có thể sử dụng từ 100-200g super lân hòa với 20 lít nước để  tưới cho mạ nhằm tăng cường sự phát triển của bộ rễ và tăng khả năng chống rét cho mạ. Đặc biệt lưu ý trong điều kiện rét đậm, rét hại, tuyệt đối không bón bất kỳ loại phân đạm nào cho mạ và lúa sau cấy.

Với diện tích lúa gieo thẳng: Tiếp tục duy trì nước ở rãnh, đảm bảo mặt luống luôn đủ ẩm, nếu có điều kiện dùng tro bếp, rơm rạ bón đều trên mặt luống để tăng cường khả năng chống rét.

Đối với những diện tích gieo thẳng mà mộng mạ chưa gieo: trong điều kiện thời tiết rét đậm, bà con cần phải hãm mộng mạ, bằng cách rải đều ra nền cứng với độ dầy từ 7 – 10cm để hạn chế sự phát triển của mộng mạ và tranh thủ những lúc buổi trưa trời hửng nắng thì tiến hành gieo.

Ngoài ra, cần chuẩn bị tốt khâu làm đất, vệ sinh đồng ruộng nhằm hạn chế lây truyền sâu bệnh cho vụ sau, nhất là bệnh đạo ôn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen, sâu đục thân, ốc bươu vàng. Đẩy nhanh tiến độ thu hoạch cây trồng vụ Đông 2015, để giải phóng quĩ đất gieo cây lúa Đông Xuân 2015-2016 đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất.

Chuẩn bị tốt nhất mọi điều kiện để lấy nước dự trữ và đổ ải phục vụ gieo cấy lúa, đồng thời cần huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ làm đất, để khi nắng ấm trở lại thì gieo sạ và tiến hành cấy cho kịp thời vụ.

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

IRRI phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn

Viện nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI), có trụ sở ở Philippines, cho biết các nhà khoa học của viện này đã phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn, có thể giúp người nông dân trồng lúa tại các khu vực duyên hải đang bị bỏ hoang do sự xâm lấn của nước biển.

Theo IRRI, các nhà khoa học đang trong quá trình phát triển hoàn thiện giống lúa trước khi đem trồng thử nghiệm một cách rộng rãi.

Giống lúa mới này có khả năng chịu mặn cao gấp hai lần so với các giống lúa khác và dự kiến sẽ đến tay người nông dân trong vòng từ 4 đến 5 năm nữa.

Giống lúa chịu mặn này được lai giữa các giống lúa dại ngoại lai được tìm thấy tại các khu vực nước lợ với một giống lúa được phát triển trong viện (IR56). Kết quả là “giống lúa mới có thể đào thải chất mặn từ dưới đất thông qua việc tiết muối ra ở trên lá.”

Các nhà khoa học hy vọng giống lúa này sẽ giúp người nông dân tận dụng được các khu vực đất nhiễm mặn bị bỏ hoang để trồng trọt.

Cùng với lúa mì và ngô, lúa gạo được coi là một trong ba loại lương thực thiết yếu, cung cấp thức ăn cho con người trên khắp thế giới.

Hiện các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu nhằm tạo ra các giống lúa cho năng suất cao.

Nguồn: Khoahoc.tv được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn

Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện nông nghiệp cận nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn, theo China’s People’s Daily. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường.

Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Thân cây lúa cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét.

Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án, cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt.

Các nhà khoa học Trung Quốc sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến gây tạo (mutation induction) và lai giống giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng.

“Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

Nguồn: VnExpress được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn sử dụng bảng so màu lá để bón phân đạm cho lúa cao sản

1. Thời điểm sử dụng bảng so màu

  • Bón phân lần thứ 2: Lúc 20 ngày sau khi bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Nếu lúa có màu ở khung số 4 trở lên thì không cần bón đạm. Sau đó 2-3 ngày so lại, nếu lúa vẫn có màu xanh ở khung số 4 trở lên vẫn chưa cần bón đạm. Sau đó cứ 2 ngày tiếp tục so lại màu cho đến khi lá lúa có màu khung từ số 3 trở xuống mới bón.
  • Bón phân lần thứ 3: Lúc 40 ngày sau sạ bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Cách xác định thời điểm bón phân tương tự như hướng dẫn ở lần bón thứ 2.
  • Các lần bón phân kế tiếp (nếu có): Khi lúa trổ xong đang vào chắc, nếu màu lá ở khung số 3 trở xuống mới cần bón thêm đạm. Lượng phân bón thêm là 2-3 kg urê/ công. Lúc này lúa bị nhiễm bệnh thì bón thêm đạm.

Chú ý: Cần bón đủ lượng phân lân và kali vào các thời điểm đúng theo hướng dẫn chi tiết trong quy trình bón phân lúa cao sản.

2. Cách so màu trong ruộng

  • Nên so màu vào cùng thời gian (vào sáng sớm hoặc chiều mát). Khi so, lưng của người so màu hướng về phía mặt trời để bóng của người đó che mát cho lá lúa để không bị phản sáng so màu không chính xác.
  • Chọn ngẫu nhiên ít nhất 20 lá lúa (lá trên cùng khi mà lá kế tiếp đã ra được 2/3 phiến lá) từ 4-5 vị trí khác nhau trên ruộng.
  • So màu bằng cách đặt phần của lá lúa ở khoảng cách 1/3 hoặc 2/5 từ chóp lá lên từng khung màu trong bảng. Không được tách đôi làm hư lá lúa. Ghi nhận số khung màu của từng lá rồi tính trị số trung bình của 20 lá đã được so.
  • Nếu trị số trung bình ở dưới khung màu chuẩn (khung màu chuẩn là khung số 4). Khi lúa có màu ở khung chuẩn thì không cần bón đạm, nhưng khi lúa có màu dưới khung chuẩn (khung 1,2 & 3) là lúc lúa thiếu đạm nên cần bón ngay thêm lượng đạm.

Bảng so màu lúa

Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm thổ nhưỡng của từng địa phương mà thời điểm thực hiện việc so màu và bón phân lần 2, lần 3 có thể thực hiện sớm hoặc muộn hơn so với khuyến cáo.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh vàng lá lúa

Hiện nay do điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng oi bức kéo dài, xen kẽ những trận mưa với cường độ lớn và hạn nhiều ngày kết hợp với phương pháp canh tác chưa hợp lý làm hàng vạn ha lúa mùa sớm đang giai đoạn làm đông, lúa mùa chính vụ đang đẻ nhánh bị nhiễm bệnh vàng lá lúa.

Do khó khăn trong việc xác định nguyên nhân gây nên các triệu chứng vàng lá nên cả cơ quan chức năng và nông dân đều lúng túng trong công tác phòng trừ. Tuy nhiên đây không phải là đối tượng lạ nguy hiểm nào đáng ngại.

Bệnh do một số nguyên nhân chính gây ra như ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn, do virus, do nấm, do vi khuẩn và do điều kiện khí hậu bất lợi.

1. Vàng lá do virus

Thường thì khi thấy vàng lá, cơ quan chuyên môn gửi mẫu đi test virus. Tuy nhiên ở miền Bắc có thể loại trừ khả năng bệnh vàng lá do virus (vàng lùn). Do bệnh vàng lùn phải có sự phối trộn của 3 loại virus lùn lúa cỏ, lùn xoăn lá do rầy nâu truyền bệnh và bênh Tungro do rầy xanh đuôi đen truyền bệnh. Trong những năm gần đây việc đồng thời xuất hiện dịch rầy nâu và rầy xanh đuôi đen không đáng kể.

2. Vàng lá do ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn

Triệu chứng biểu hiện giống bệnh vàng lùn, cây lúa bị vàng và lùn. Khi gặp trường hợp này, chúng ta chỉ cần nhổ khóm lúa lên, rửa sạch rễ và kiểm tra. Nếu thấy rễ đen (ngộ độc hữu cơ), đỏ vàng (ngộ độc phèn) kèm theo rễ bị thối, ít hoặc không có rễ trắng (rễ mới), cây không hút đủ nước và dinh dưỡng gây nên hiện tượng vàng và lùn xuống.

Bệnh vàng lá làm cho lúa vàng và lùn xuống

Khuyến cáo người dân ngừng bón đạm, rút nước ra khỏi ruộng nếu điều kiện thủy lợi cho phép (ngộ độc phèn cần thay nước nhiều lần). Bón khoảng 400 kg/ha vôi bột đã và để ruộng khô nứt chân chim sau đó cho nước vào ruộng.

Trường hợp lá lúa dày quá, không thể bón vôi thì nên rút nước ra khỏi ruộng, sau đó đắp bờ và hòa vôi bột đầu dòng nước chảy vào ruộng. Phun phân bón lá có hàm lượng lân cao (siêu lân). Sau 1 tuần bón thêm khoảng 200 kg/ha Super lân. Có thể phun phòng trừ các nấm bệnh bằng các thuốc như Nevo 300EC, Tilt Super 300EC, Anvil 5SC nếu cần.

3. Vàng lá do nấm

Tác nhân chính là nấm Gonatophragmium sp, bắt đầu giữa lá lúa xuất hiện một chấm vàng nhỏ. Sau đó chấm vàng to dần lên, lan ngược đỉnh lá lúa, sọc vàng nhỏ dần khi hướng lên chóp lá. Bệnh nặng nửa trên có thể bị vàng hết. Để phòng trừ đối tượng này, chúng ta có thể sử dụng các thuốc như Ridomil Gold 68WG, Nevo 330EC, Tilt Super 300EC, Amistar Top 325SC, Score 250SC.

Vàng lá lúa do nấm

4. Vàng lá do vi khuẩn

Hiện nay đang phổ biến trên lúa do vi khuẩn Xanthomonas oryzae và Xanthomonas oryzicola gây ra. Cơ quan chỉ đạo và nông dân đang lúng túng và thấy như một căn bệnh lạ.

Triệu chứng ban đầu phía bìa lá chuyển vàng trước, sau đó phần chóp vàng và hóp lại như mo cau, vết bệnh lan dần vào trong theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục. Giữa mô bệnh và mô khỏe có ranh giới rõ ràng, giới hạn theo đường gợn sóng màu vàng, có khi chỉ một đường viền màu nâu đứt quãng, rất dễ nhầm lẫn với bệnh vàng lá và khô đầu lá do sinh lý.

Vàng lá lúa do vi khuẩn

Thông thường chúng ta nghĩ rằng bệnh bạc lá, là phải gây nên bạc trắng lá ngay. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào thời tiết, giống lúa. Triệu chứng lá bạc là giai đoạn cuối của bệnh bạc lá, lúc này các mô lá nhiễm bệnh đã chết. Nếu ẩm độ cao, tế bào trương nước chúng ta ít bắt gặp giai đoạn lá chuyển vàng và chỉ thấy lá bị khô trắng lúc nắng lên.

Ngoài ra, hiện nay trên đồng ruộng cũng đang xuất hiện bệnh đốm sọc vi khuẩn (Xanthomonas oryzicola). Triệu chứng là những sọc nhỏ ngắn khác nhau, chạy dọc theo các gân lá. Lúc đầu vết sọc xanh trong giọt dầu, lúc đầu chuyển màu nâu, xung quanh sọc màu nâu có các quầng vàng. Nếu lá bị nhiều đốm sọc tập trung thì các quầng vàng liên kết nhau làm lá lúa bị vàng.

Các loài vi khuẩn xâm nhiễm chủ yếu qua vết thương cơ giới. Do mưa, gió các lá lúa cọ xát vào nhau gây tổn thương. Vì thế phần hai mép lá thường bị tổn thương trước và nhiễm bệnh trước (người ta gọi bệnh cháy bìa lá).

Có thể phòng trừ bằng kháng sinh như kasugamicin, không nên dùng thuốc có chứa streptomincin vì kháng sinh này là thuốc chữa bệnh cho người, nếu ăn thực phẩm nhiễm kháng sinh này rất nguy hiểm. Hoặc có thể sử dụng nhóm thuốc sát trùng như Bronopol (Xantocin 40WP).

Ngoài ra, điều kiện thời tiết bất lợi như mưa nắng bất thường, nhiệt đổi thay đổi đột ngột, gió lào, các chân đất sâu trũng, đọng nước, đất cát dễ nhiễm vàng lá sinh lý.

Nguồn nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

 

Phòng tránh tôm chết hàng loạt

Tôm chết hàng loạt do mắc bệnh là tình trạng thường gặp trong quá trình nuôi tôm theo hình thức công nghiệp. Do đó việc phòng tránh hiện tượng tôm chết hàng loạt để đảm bảo năng suất là điều cực kỳ quan trọng.

Một số nguyên nhân, cách phòng tránh tôm chết hàng loạt:

Môi trường bị ô nhiễm do phèn hóa

Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tôm chết hàng loạt. Trước hết, có thể là do nguồn nước nuôi tôm bị nhiễm phèn. Trong đó, phèn cũng có hai loại phèn sắt (phèn nóng) và phèn nhôm (phèn lạnh), cũng có khi do hỗn hợp của cả hai loại phèn này, trong điều kiện pH của môi trường nước thấp. Phèn thường xuất hiện khi ta xử lý ruộng, đào kinh, lên liếp, bao ví thành vuông tôm mà không tuân thủ đúng kỹ thuật nuôi tôm và đào ao nuôi tôm. Đặc biệt, đất vùng nuôi tôm chủ yếu là vùng đất mặn trên nền phèn tiềm tàng.

Đặc tính nổi bật của loại đất này là trong điều kiện có nước mặn, nước lợ thường xuyên trên mặt, sẽ khống chế, đất không bị phèn hóa, ruộng tôm vẫn an toàn. Nhưng nếu ta đào đắp hay xáo trộn đất hay để đất tiếp xúc với oxy trong không khí thì quá trình phèn hóa xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Kết quả của quá trình này là các chất như: Al3+, Fe2+, SO4(-2) sẽ xuất hiện rất nhanh và rất nhiều. Còn trình tự xuất hiện trước hết là Fe2+ rồi đến SO4(-2) và cuối cùng, khi pH xuống thấp thì giải phóng ra rất nhiều Al3+ từ các lớp đất sét. Lúc này, nồng độ các độc chất tăng nhanh, đột ngột, có thể từ 0ppm (phần triệu) tăng lên đến hàng trăm và có thể hàng ngàn ppm. Tuy nhiên, khả năng chịu đựng của tôm với các chất độc này rất thấp, nhất là với nhôm, chỉ 4,5 – 10,5ppm là có ảnh hưởng tới tôm, nhất là đối với tôm con. Cho nên, khi xây dựng ruộng thành vuông tôm thì người nuôi phải chú ý, tuân thủ kỹ thuật nuôi tôm và đào ao nuôi tôm để không cho quá trình phèn hóa xảy ra.

Mặt khác, những người nuôi tôm ở vùng này phải chú ý tránh không cho nước rỉ ra từ bờ đắp chảy vào vuông tôm, sau những ngày mới đắp và nhất là sau những trận mưa đầu mùa hay trận mưa nghịch mùa (giữa mùa khô). Bởi vì, trong nguồn nước này chứa rất cao nồng độ độc chất Al3+, Fe2+ và SO4(2-) có thể gây tình trạng tôm bị chết hàng loạt. Một điều rất đặc biệt trong trường hợp này người nuôi tôm rất khó nhận biết hiện tượng. Bởi vì, nó xuất hiện rất nhanh, sau đó liền bị khỏa lấp bởi nước triều lên. Với những người chưa có kinh nghiệm nuôi tôm thì rất khó phát hiện đúng nguyên nhân gây bệnh, do đó kết luận là virus.

Virus

Khi tôm bệnh do virus tôm sẽ chết rất nhanh và khó kiểm soát, nhất là nuôi tôm trong mùa mưa.

Nguyên nhân tôm thường bị chết hàng loạt là do người nuôi mua phải giống tôm nhiễm virus từ nguồn cung cấp trôi nổi không được kiểm soát do đó việc tuân thủ kỹ thuật nuôi tôm chọn tôm giống ban đầu là cực kỳ quan trọng và cần thiết.

Bên cạnh đó, cũng có ruộng tôm, giống tốt không bệnh nhưng sau một thời gian chúng bị nhiễm bệnh virus ngay trong ruộng hay lây nhiễm từ ruộng bên cạnh, từ nguồn nước ô nhiễm chứa virus. Tôm ở mọi lứa tuổi khi bị nhiễm, nổi lên vật vờ rồi chết. Cần có sự theo dõi sát sao và làm chỉ dẫn của các chuyên gia.

Nhiễm độc hữu cơ

Một nguyên nhân khác làm cho tôm chết hàng loạt là tôm bị nhiễm độc hữu cơ từ đáy ao. Điều này thường xảy ra ở vuông tôm sau 3 – 4 năm nuôi trồng. Bởi chất hữu cơ từ thức ăn thừa lắng xuống đáy ao, kết hợp các loại rong tảo chết, phân giải yếm khí, sản sinh nhiều độc tố như khí hydro sunfua hay mêtan hoặc các hợp chất dạng cơ kim. Tôm có thói quen vùi mình trong các lớp trầm tích ở đáy ao để ngủ nghỉ hay tránh nắng nóng, khi gặp độc chất này thì gây chết rất nhanh.

Vì vậy, người nuôi phải nghiên cứu kỹ các yếu tố môi trường, nắm vững kỹ thuật nuôi với những điều kiện từng nơi. Bên cạnh đó, cần thận trọng hơn trong việc nuôi tôm ruộng lúa đã ngọt hóa, trong rừng ngập mặn và nhất là những ruộng nằm trên nền đất phèn tiềm tàng.

Nguồn: ConTom được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.