Cam Ranh: Làm giàu từ “nuôi bồ câu bằng nhạc”

Giữa cánh đồng trơ trụi nắng cháy ở thôn Hiệp Thanh, xã Cam Thịnh Đông (TP. Cam Ranh, Khánh Hòa) lại mọc lên một trang trại nuôi chim bồ câu với số lượng lớn hơn 2.000 con bằng phương pháp độc đáo cho chim bồ câu nghe nhạc, đã mang lại hiệu suất kinh tế cao, mỗi tháng thu được hàng chục triệu đồng mà không phải tốn nhiều công sức.

Đó là mô hình nuôi chim bồ câu khá đặc biệt và dường như duy nhất của cả nước được ông Thiều Quang Toàn. Trang trại chăn nuôi chim bồ câu được đầu tư một cách quy mô, cùng với đó là cách chăn nuôi khoa học của ông chủ trang trại này. Hàng ngàn cặp bồ câu được nuôi nhốt trong lồng xếp thành dãy dài rất đẹp và ngăn nắp. Khi ông tình cờ xem, đọc được phương pháp các hộ dân cho gia súc nghe nhạc năng suất sẽ tăng hơn bình thường.

Khi đó thử áp dụng vào mô hình chăn nuôi chim bồ câu của mình đã thay đổi tình hình và có được hiệu quả kinh tế cao. Sau những lần đó ông tìm kiếm sách vở, học hỏi báo đài về các kỹ thuật nuôi chim bồ câu. Nhờ đó mà lợi nhuận kinh tế của ông cũng khá hơn nhiều, tăng hơn 50% so với khi chưa áp dụng phương pháp nghe nhạc.

Hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn nhờ phương pháp đặc biệt này.

Hàng ngày cứ việc áp dụng theo lịch trình, từ 7 giờ sáng cho chúng ăn, 8 giờ mở nhạc đến 3 giờ chiều mới tắt. “Nhưng chỉ mở một loại nhạc belero, hay thể loại nhạc trữ tình nhẹ nhàng, sâu lắng chúng rất thích nghe, phải điều chỉnh âm lượng vừa phải chúng mới có thể ổn định, không bay nhảy lung tung”, ông Toàn cho hay.

Nguồn: Theo Phụ Nữ News được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi vịt biển ứng phó với biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu gây nhiều thách thức cho người dân và sản xuất nông nghiệp. Việc triển khai mô hình nuôi vịt biển đang được xem là xu hướng mới nhằm đa dạng hóa vật nuôi, thích ứng với biến đổi khí hậu, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập.

Nghiên cứu giống mới chuyển giao

Theo Cục Chăn nuôi, Việt Nam có đàn thủy cầm đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Thủy cầm là con vật dễ nuôi, có khả năng tận dụng các phế phẩm nông lâm nghiệp, côn trùng, thủy sinh làm thức ăn.

Thời gian qua, chăn nuôi thủy cầm đã có những bước phát triển nhảy vọt từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự phát, dần chuyển thành chăn nuôi tập trung quy mô lớn. Năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, lợi nhuận cao, khiến nuôi thủy cầm nhiều địa phương đã trở thành nghề chính.

Hàng năm số đầu vịt tăng bình quân gần 7%, sản lượng thịt vịt, ngan hơi đạt trên 200 ngàn tấn/năm, trứng đạt gần 2 tỷ quả. Việt Nam đang có bộ giống thủy cầm rất phong phú, đa dạng, làm chủ được công nghệ SX con giống thủy cầm bố mẹ với năng suất và chất lượng cao. Các giống vịt siêu thịt, siêu trứng cao nhất thế giới đều được nhập về, đưa vào SX rất hiệu quả.

Nuôi vịt biển đang được xem là xu hướng mới thích ứng với biến đổi khí hậu

Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi gia cầm VIGOVA, giống vịt biển có một số ưu điểm như dễ nuôi, nuôi được ở nước mặn, nước lợ và nhiễm phèn. Tuy nhiên, với mỗi nguồn nước có độ mặn khác nhau thì đều có quy trình nuôi phù hợp.

Giống vịt này năng suất thịt và trứng khá trong nhóm vịt chuyên dụng, cụ thể năng suất trứng đạt từ 235 – 245 quả/mái/năm; vịt thương phẩm nuôi khoảng 9 tuần sẽ đạt được 2,7 đến 2,8 kg, tùy theo điều kiện chăn nuôi. Thực tế ở vùng ĐBSCL, vịt nuôi 70 ngày đã đạt được 2,8 kg cho hiệu quả kinh tế cao.

Ông Dương Xuân Tuyển, GĐ Trung tâm Vigova cho biết: “Trong mấy năm qua, Trung tâm được Bộ NN-PTNT giao nuôi giữ đàn giống gốc chọn lọc nhân thuần. Đến nay chúng tôi đã có được một số giống vịt thuần để nhân nhanh số lượng giống cung cấp cho các tỉnh Nam bộ”.

Theo ông Tuyển, hiện trung tâm đang chọn lọc, nhân thuần và lai chéo các dòng thuần để có giống vịt bố mẹ và vịt thương phẩm cung cấp cho sản xuất. Mỗi năm Vigova đang cung cấp hàng trăm ngàn con giống cho các tỉnh Nam bộ. Ngoài ra, VIGOVA còn nghiên cứu được một số giống vịt khác như vịt siêu thịt, siêu nạc, siêu trứng.

Liên kết phát triển chăn nuôi

Đến cuối năm 2016, tổng đàn vịt khoảng 71,28 triệu con, tập trung nhiều nhất ở vùng ĐBSCL, với tỉ lệ 37,03%, tiếp đến ĐBSH 25,71%, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 23,13%, còn các vùng khác dưới 10%. Đặc biệt, một số nơi và cơ sở chăn nuôi đã liên kết thành lập các THT, HTX… hỗ trợ nhau về vốn, tiêu thụ, hình thành chuỗi và xây dựng thương hiệu vịt biển.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng Châu, Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Long An, trong 2 năm triển khai dự án nuôi vịt kiêm dụng PT, vịt biển nuôi thịt, Long An đã phát triển được 16.000 con. Năm 2016 đã phân bổ 1.600 vịt PT và 6.400 con vịt biển cho các huyện Tân Trụ, Cần Đước. Năm 2017, đã có 8.000 con vịt biển phân cho các xã Tân Phước Tây (Tân Trụ), xã Thạnh Vĩnh Đông (Châu Thành), mỗi hộ 800 con. Các hộ được hỗ trợ 100% con giống 1 ngày tuổi và vật tư, thức ăn (30%), được tập huấn kỹ thuật nuôi vịt biển.

Vịt biển có sức kháng bệnh rất tốt

Kết quả đánh giá cho thấy, vịt thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi của địa phương, tỉ lệ nuôi sống trên 95%. So với các giống vịt địa phương thì vịt biển có sức kháng bệnh tốt, ít xảy ra bệnh. Tất cả các hộ chăn nuôi vịt biển đều có lãi, nuôi 70 ngày lãi gần 14 triệu đồng/800 con, đây là mức thu nhập khá với nông dân.

Tương tự, ông Lưu Thành Long, TTKN Sóc Trăng cho biết, năm qua nhiều hộ chăn nuôi ở Sóc Trăng nuôi vịt biển đều có lời. Thực tế cho thấy giống vịt này dễ nuôi, thích nghi với môi trường phèn mặn, khả năng sinh trưởng nhanh.

TS.Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng vụ KH, CN- MT cũng cho rằng, giống vịt biển đang bắt đầu triển khai nuôi ở ĐBSCL, là mô hình phát triển đúng hướng. Còn ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi nhấn mạnh, khu vực ĐBSCL có nhiều lợi thế nuôi vịt, đặc biệt là nuôi vịt chạy đồng, chiếm 37% tổng số đầu vịt; chiếm 39% tổng sản lượng trứng. Đây cũng là khu vực có đàn vịt lớn và gần đầu mối tiêu thụ thịt vịt là TP.HCM.

Theo ông Trọng, VIGOVA cần tiếp tục nghiên cứu các giống vịt tốt, cao sản phục vụ phát triển chăn nuôi và biến đổi khí hậu, chuyển giao cho các địa phương nuôi. Theo định hướng đến năm 2020 sẽ phát triển lên 100 triệu con vịt, trong đó khoảng 40 triệu vịt chuyên trứng.

Theo nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Công nghệ mới – Nuôi tôm càng xanh toàn cái

Các nhà khoa học Israel đã có ý tưởng rằng nuôi tôm càng xanh toàn cái, thay vì toàn đực có thể là sự lựa chọn hợp lý hơn vì cái ít hung hãn hơn và cũng ít tranh giành lãnh thổ hơn so với tôm đực và đây được cho là mô hình phát triển tương đối đồng nhất giữa các cá thể.

 Nuôi tôm càng xanh toàn cái có sự đồng đều và kích thước lớn hơn. 

Trong nghề nuôi giáp xác, kích cỡ hình thái giữa đực và cái là yếu tố chính quyết định lợi thế của nuôi trồng thuỷ sản đơn tính so với các quần thể hỗn hợp cả hai giới tính. Yếu tố này đặc biệt phù hợp đối với tôm càng xanh, Macrobrachium rosenbergii vì sự phức tạp của quá trình nuôi do cấu trúc xã hội phức tạp của đối tượng này, trong đó đàn những cá thể đực chiếm ưu thế, thường tranh giành lãnh thổ và ức chế sự tăng trưởng của những con đực và con cái nhỏ hơn.

Do đó, các nhà khoa học Israel đã có ý tưởng rằng nuôi tôm càng xanh toàn cái, thay vì toàn đực có thể là sự lựa chọn hợp lý hơn vì cái ít hung hãn hơn và cũng ít tranh giành lãnh thổ hơn so với tôm đực và đây được cho là mô hình phát triển tương đối đồng nhất giữa các cá thể.

Thí nghiệm

Trong báo cáo này, các nhà khoa học đã có đánh giá thực địa so sánh trên quy mô lớn lần đầu tiên của quần thể tôm càng xanh toàn cái so với nuôi hỗn hợp tôm với điều kiện nuôi cùng mật độ ở hình thức quảng canh và thâm canh trong ao đất. Nghiên cứu dựa trên cơ sở áp dụng công nghệ sinh học mới của Isreal dựa trên phương pháp sinh học mới bằng việc tiêm vào tế bào tuyến nội tiết nhằm tạo ra tôm càng xanh toàn cái.

Kết quả

Trong cả hai điều kiện nuôi thâm canh và quảng canh, ao nuôi tôm càng xanh toàn cái đã cho kết quả tốt hơn so với ao nuôi hỗn hợp cả hai giới tính trong hầu hết các thông số chủ yếu trong nuôi trồng thủy sản, bao gồm tỷ lệ sống và sản lượng trên một ha (năng suất).

Tăng trọng của ao nuôi tôm toàn cái ở hình thức quảng canh và thâm canh

So sánh sự tăng trọng giữa hai nhóm tôm nuôi

Ngoài ra, những ao thả cá có mật độ thả cao cho thấy tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tốt hơn trong ao nuôi tôm càng xanh toàn cái so với nuôi hỗn hợp. Hơn nữa, trong khi kích thước trung bình không khác biệt đáng kể giữa ao nuôi thì quần thể tôm toàn cái thể hiện sự thống nhất về kích thước lớn hơn đáng kể.

Kết luận

Nghiên cứu của các nhà khoa học Isreal cho thấy rằng đối với tôm càng xanh M. rosenbergii, việc nuôi tôm toàn cái là một phương pháp bền vững để sản xuất một vụ tôm thành công và đồng nhất.

Nguồn: Sciencedirect được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kiếm tiền tỷ từ thu hoạch xoài trái mùa

Những ngày này vườn xoài Úc rộng đến 12ha của ông Trong đã bắt đầu ra hoa sum xuê. Đây là kết quả của việc điều khiển xoài ra hoa theo ý muốn của ông, chứ theo lẽ tự nhiên, sau Tết Nguyên đán xoài mới đơm hoa kết trái.

Nhìn vườn xoài ra năm nay ra hoa nhiều hơn mọi năm ông Trong dự kiến sản lượng đạt trên 50 tấn, hứa hẹn sẽ cho bội thu trong dịp tết sắp tới.

Theo ông Trong, mặc dù điều khiển xoài ra dịp tết tuy cho sản lượng không cao bằng vụ đầu hè, nhưng giá bán cao gấp đôi, trên 70.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí ông thu lãi trên 1 tỷ đồng/vụ.

Tôi hỏi, “bí kíp” làm xoài ra trái nghịch vụ? Ông Trong chia sẻ, muốn làm xoài trái vụ, đến đầu tháng 8 ÂL, dùng các phương pháp “kích” cho xoài ra hoa. Tuy nhiên để cho xoài ra hoa thì phải làm cho xoài ra đọt non, sau đó phun thuốc kích thích nhằm tạo mầm ở đọt.

Bên cạnh đó việc bón phân đúng cách và đúng thời điểm cũng rất quan trọng, không chỉ giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt, mà còn thuận lợi cho việc điều khiển. Theo đó, một năm vườn xoài nhà ông bón ba lần, cụ thể bón sau mỗi lần thu hoạch, khi xoài chuẩn bị ra hoa và khi xoài đã có quả cỡ vừa.

“Qua nhiều năm tôi trồng xoài đúc kết, nếu bón phân không đúng cách hoặc bón khi quả xoài còn nhỏ, thì sẽ gây rụng trái. Ngoài ra dịch bệnh, nhất là bọ trĩ – đối tượng gây hại nguy hiểm nhất trên xoài cũng gây rụng trái hàng loạt, do đó nếu người trồng không phòng trừ thì sẽ thiệt hại, giảm thu nhập”, ông Trong nói.

Dẫn chúng tôi tham quan vườn xoài, ông Trong còn chia sẻ thêm về kỹ thuật làm cho quả xoài vỏ đẹp, sáng sạch để bán được giá cao. Muốn vậy, khi quả xoài đạt cỡ trung bình, cần tỉa cành lá xung quanh cho ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào quả xoài. Cách làm này không chỉ giúp quả xoài không bị trầy xước, mà hạn chế được sâu bệnh. Do đó, quả xoài Úc của vườn ông trồng luôn đạt yêu cầu có trọng lượng từ 0,7 – 1kg, vỏ có màu hồng đỏ, hạt nhỏ, thịt vàng có mùi thơm béo, vị ngọt thanh và rất ít xơ.

Xoài sai quả cho dù được trồng nghịch vụ

Ông Nguyễn Minh Tâm, Chủ tịch Hội Nông dân xã Cam Hải Tây cho biết, với cách làm xoài sáng tạo mang lại hiệu quả của ông Trong hiện nhiều bà con trong vùng học hỏi và đã thu trái ngọt. Ngoài ra, ông Trong còn tạo việc làm thường xuyên cho từ 10 – 15 lao động với mức thu nhập trên 4 triệu đồng/người/tháng.

Ông Trong cho biết, trước đây, ông trồng xoài Canh nông, sau đó chuyển sang xoài cát Hòa Lộc, tuy nhiên do hiệu quả kinh tế mang lại không cao nên vài năm trở lại đây ông chuyển sang trồng xoài Úc. Tuy nhiên giá trị của xoài Úc là khi thu trái nghịch. Do đó để điều khiển thành công, ông đã phải đi nhiều nơi học hỏi, mặc dù kỹ thuật này rất khó, nhất là khi thời tiết diễn biến phức tạp.

Để vườn xoài phát triển tốt, cho năng suất cao, ổn định, việc có kinh nghiệm không thôi là chưa đủ, mà cần đầu tư khoa học kĩ thuật. Hiện vườn xoài nhà ông Trong còn đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt, đặt ngầm dưới 3.500 gốc xoài với kinh phí 500 triệu đồng. Nhờ hệ thống này mà những năm hạn vừa qua vườn xoài không bị áp lực về nguồn nước tưới, tiết kiệm chi phí, nâng cao thu nhập.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cá Koi

Thời gian gần đây, người ta cho ra đời nhiều loài cá chép tuyệt đẹp thông qua phương pháp lai tạo. Tiêu biểu trong số đó là cá chép Koi do các nhà khoa học Nhật bản tiến hành phối giống và lai tạo nên, cá Koi nhật bản đẹp đến mức mà hễ nhắc đến cá Koi người ta nghĩ ngay đến đây là một giống cá chép Nhật. Và cá Koi cũng được xem là biểu tượng của đất nước mặt trời mọc.

Cá Koi thuộc họ cá chép nên mang đặc tính của cá chép nói chung đó là dễ nuôi và mau lớn, nhưng cá Koi có một điểm rất riêng đó là rất nhạy với sự thay đổi của môi trường, vì vậy khi nuôi cá Koi cần hết sức lưu ý, sau đây Thái Dương sẽ hướng dẫn bạn kỹ thuật chăm sóc cá koi và một số vấn đề mà bạn cần lưu ý sau :

Nước trong hồ nuôi cá Koi

Nước trong hồ cá koi ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cá Koi, kích thước tối đa của cá Koi có thể lên đến 2m, vì vậy hồ nuôi cá cần đủ rộng để cá phát triển. Đồng thời, nước nuôi phải luôn trong sạch, nồng độ pH lý tưởng là từ 7-7,5pH, nhiệt độ nước và nồng độ pH nếu bị thay đổi đột ngột có thể làm cá bị sốc và chết, vì vậy cần giữ môi trường sống ổn định cho Koi, nếu muốn thay nước hồ thì phải thay từ từ, không nên thay 1 lần, cứ 2 ngày giảm đi khoảng 1/3 thể tích nước trong hồ, cho đến khi nước trong trở lại là được, và cũng lưu ý một điều đó là phải khử Clo cho nước trước khi đưa vào hồ. Có thể phơi nước trước 1 ngày hoặc dùng than hoạt tính để khử clo.

Hệ sinh thái trong hồ nuôi cá Koi

Các loại rong tảo góp phần tạo nên hệ sinh thái tốt cho hồ nuôi Koi, nhưng nếu rong tảo phát triển quá nhiều là điều không tốt vì chúng sẽ hút hết oxy trong nước, làm cho cá không đủ lượng oxy để thở. Vì vậy, chúng ta cần kiểm soát sự phát triển của các loại rong tảo trong hồ, nên trồng thêm các loại cây sống trong nước như sen, súng.. tốt nhất là tạo một thác nước nhỏ, thác nước này sẽ giúp lưu thông dòng nước tạo oxy cho cá thở.

Thức ăn cho cá Koi

Cá Koi là loài ăn tạp, từ 3 ngày tuổi, sau khi tiêu hết noãn hoàng, chúng có thể ăn các thức ăn bổ sung như bo bo, các sinh vật phù du, lòng đỏ trứng chín..
Được nửa tháng, Koi chuyển qua ăn các động vật tầng đáy như giun, loăng quăng.. Sự thay đổi tính ăn của Koi trong giai đoạn này làm tỉ lệ con sống bị ảnh hưởng lớn. Vì vậy để đảm bảo sự sống cho Koi, người nuôi cần chú ý gây nuôi các sinh vật tầng đáy, nhằm cung ứng đủ lượng thức ăn cho cá

Từ 1 tháng tuổi trở đi cá chuyển sang ăn các động vật nhỏ như giun, ốc, ấu trùng…giống như cá trưởng thành. Ngoài ra, cá còn ăn cám, bã đậu, phân xanh, thóc lép, các thức ăn chế biến sẵn cho cá. Trên thị trường hiện nay, các thức ăn chế biến sẵn có rất nhiều loại, nhưng chủ yếu được chế biến từ gạo, bột mì, bột bắp pha thêm các vitamin và bột cá.

Lưu ý khi cho cá ăn đó là không nên cho ăn quá nhiều vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến dáng cá và lượng thức ăn dư thừa cũng như chất thải của cá sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, không tốt cho cá. Khẩu phần ăn vào khoảng 5% trọng lượng cơ thể cá, cho ăn 2 lần trên ngày. Các loại thức ăn tươi sống nên hạn chế, và nên dùng loại đông lạnh để tránh mang mầm bệnh cho cá.

Bệnh tật ở cá Koi

Cũng giống như tất cả các loài vật khác, cá Koi cũng có thể mắc bệnh. Các bệnh thường xuất hiện ở cá Koi như biếng ăn, ngứa mình, đốm trắng, lở da, rụng vảy, lở môi.. khi phát hiện cá bị bệnh, cần cách ly cá khỏi đàn cho ra hồ chứa riêng để tiện theo dõi và tránh lấy lan cho những con khác. Có thể dùng các thuốc đặc trị bệnh nếu thấy nhẹ, trường hợp bệnh trở nặng thì nên mời bác sĩ thú y.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Đeo kính cho gà mang lại lợi nhuận vượt trội

Ông chủ trẻ 9X Vũ Bá Quý, ở thôn 323 xã Đỉnh Sơn, Anh Sơn (Nghệ An) nuôi hàng ngàn con gà. Bí quyết để đàn gà khỏe mạnh, ngoài việc cho ăn thức ăn đa dạng, anh Quý còn cho gà “đeo kính”.

Hàng ngàn con gà được đeo kính ở Đỉnh Sơn, Anh Sơn. 

Hàng nghìn con gà thịt có cả gà trống, gà mái, nhưng 100% chúng đều được “đeo kính” trông rất lạ. Anh Quý cho biết: Anh bắt đầu công việc chăn nuôi gà thịt từ năm 2012. Với việc nuôi gà tập trung số lượng lớn nên thường xuất hiện cảnh gà cắn mổ nhau khiến gà bị trọc lông vùng lưng, cổ, đầu, thậm chí gây thương tích, dễ nhiễm một số bệnh, còi cọc, chậm lớn và con gà nhìn “xấu mã”, khách hàng kén mua, giá thành giảm.
Cách đây hơn 1 năm, tình cờ xem trên mạng có người “đeo kính” cho gà để tránh gà chọi nhau, anh liền mày mò tìm hiểu. Sau khi biết được địa chỉ, anh Quý được đặt mua 1 nghìn chiếc về áp dụng vào trang trại gà của mình.
Anh Quý chia sẻ: Kính cho gà được anh mua với giá giao động từ 600 đồng- 1.200 đồng/chiếc, có thể tái sử dụng 2- 3 năm nên tính ra chi phí rất nhỏ nhưng hiệu quả lại cao.
Cách sử dụng kính cho gà cực kỳ đơn giản, đợi khi gà đạt trọng lượng 0,5- 0,7kg lúc này gà bắt đầu có dấu hiệu cắn mổ nhau, anh Quý chỉ việc đặt phần lõm của kính ôm phần trên của mỏ gà, chỉnh 2 lỗ nhỏ ở phần lõm của kính khớp với lỗ mũi của gà, dùng then nhựa hình mũi tên xuyên qua lỗ nhỏ của kính và lỗ mũi của gà để cố định kính là xong.
Anh Quý khẳng định, việc đeo kính không làm ảnh hưởng đến bất kỳ sinh hoạt hàng ngày nào của con gà. Do chiếc then nhựa chỉ to bằng 1/3 lỗ mũi của gà nên không gây ảnh hưởng đến việc hô hấp, ăn uống. Đeo kính cho gà mục đích để che tầm mắt nhìn thẳng của con gà, nên gà không bao giờ chọi nhau, đuổi cắn nhau, gà phát triển rất nhanh.

Đeo kính cho gà khá đơn giản.

Với kinh nghiệm nuôi gà thịt lâu năm, anh Quý xây dựng 2 trại gà rộng gần 500m2 trên diện tích 0,5 ha vườn. Trại gà được lát nền bê tông, thưng kín xung quanh tránh gió lùa vào mùa đông, có cửa thông gió vào mùa hè và đều sử dụng đệm lót sinh học, vừa đảm bảo môi trường vừa giúp đàn gà sinh trưởng và phát triển tốt.
Bên cạnh đeo kính cho gà để có được mẫu mã gà đẹp, anh Quý chọn nuôi theo hướng sinh học, không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi nên cho thịt dai và thơm ngon. Ngoài các loại thức ăn chính là lúa, ngô, anh Quý còn bổ sung thêm các loại thức ăn khác như cỏ, côn trùng để bổ sung thêm chất dinh dưỡng.
Hiện tại trang trại anh Quý có 1.100 con gà thịt đang vào thời điểm gần xuất bán, mỗi năm anh nuôi 2 lứa, mỗi lứa 5-6 tháng, từ 1.000- 1.200 con. Mỗi lứa xuất bán gần 1,5 tấn gà thịt, với giá từ 90.000- 100.000 đồng/kg, mỗi năm sau khi trừ chi phí cho anh thu nhập từ 100- 150 triệu đồng.
Ông Đinh Viết Hạnh – Chủ tịch hội nông dân xã Đỉnh Sơn cho biết: Trang trại nuôi gà thịt đeo kính của anh Vũ Bá Quý ỏ thôn 323 là một mô hình điểm của hội nông dân xã Đỉnh Sơn, chỉ mới ở tuổi 24 nhưng anh Quý đã nhạy bén, sáng tạo trong phát triển kinh tế, giúp cho gia đình vượt qua mọi khó khăn từng bước vươn lên làm giàu ở một vùng quê nông thôn thật đáng khâm phục.

Theo báo Nghệ An, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Cá tươi & cá lạnh đông đều có lợi ích sức khoẻ như nhau

Đó là khẳng định của các nhà khoa học tại công ty Sintef, Na Uy vừa công bố trên tạp chí Fresh.news (FN) số ra ngày 19/11.Theo FN, mặc dù phần lớn cho rằng “tiền tươi thóc thật” là một lựa chọn tối ưu, nhất là thực phẩm, nhưng theo nghiên cứu thì hai nhóm cá này đều có lợi ích sức khoẻ như nhau.

Thậm chí cá tươi chỉ kéo dài 2-3 ngày sau khi đánh bắt, nhưng cá lạnh đông lại “có thể kéo dài từ 4 đến 6 tháng trong tủ đá mà chất lượng không hề suy chuyển”, các chuyên gia dinh dưỡng tham gia nghiên cứu khẳng định.

Cá tươi và cá lạnh đông đều có lợi ích sức khoẻ như nhau

Thực ra, mục tiêu của nghiên cứu là tìm kiếm các phương pháp xử lý, đông lạnh, và làm tan băng cá để đảm bảo chất lượng thực phẩm cho người tiêu dùng, đồng thời tìm ra cách để giảm nguy cơ ký sinh trùng có trong cá sống. Khi nghiên cứu về tác động của các phương pháp lạnh đông và tan băng tới chất lượng và thời hạn sử dụng của cá, các nhà khoa học đã xác định được 3 yếu tố có thể tăng cường chất lượng cá lạnh đông.

– Thứ nhất, cá cần được đông lạnh ngay khi đánh bắt.

– Thứ hai, cá cần được đông lạnh ở nhiệt độ ổn định và thấp, không bị gián đoạn trước khi được làm tan.

– Thứ ba, việc tan băng phải diễn ra ngay trước khi cá được bán.

Các mẻ cá tham gia trong cuộc kiểm tra này được xác định “tốt nhất là trong 10 ngày sau khi tan băng”. Điều này có nghĩa là cá không có vi khuẩn và kết cấu, màu sắc cũng như chất lượng nhất quán khi được xử lý lạnh đông một cách chính xác. Chính điều này, mà “cá tươi cũng giàu dinh dưỡng như cá lạnh động”, chuyên gia dinh dưỡng Tara Condell, người tham gia nghiên cứu cho hay. Riêng tại Mỹ, Cơ quan Quản lý Thực & Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu cá lạnh đông trước khi bán phải được làm tan băng.

Lạnh đông được thực hiện ngay sau khi cá được đánh bắt tại chỗ, mức nhiệt độ lạnh đông vào khoảng -20 độ Fahrenheit (6,7 độ C) để giúp cá đóng băng cứng trong giây lát. Ngoài ra, theo FDA, người mua hàng cũng nên kiểm tra mùi vị cá và hiện tượng bỏng đá, còn hãng sản xuất nên đông lạnh và tan đá một cách hợp lý để đảm bạo độ tươi và chất lượng.

Lời khuyên bảo quản cá tươi

– Lấy cá ra khỏi túi chứa.

– Rửa cá trong nước lạnh và làm khô bằng khăn giấy.

– Đặt cá vào giá, không chạm hoặc chồng lên nhau.

– Nên chứa vào khay lớn, rắc đá lên, đừng để đá trực tiếp lên giá.

– Dùng túi plastic hoặc giấy nhôm đậy kín khay và đặt vào ngay ngắn trong tủ lạnh

– Nếu giữ cá hơn một ngày, hãy thay đá khi tan và đổ nước dư thừa đi.

Lời khuyên về khử đá

– Lấy cá ra khỏi khay chứa.

– Rửa cá trong nước lạnh và làm khô bằng khăn giấy.

– Đặt cá trong túi hoặc hộp chứa, và dán nhãn thời gian để tiện theo dõi.

– Lưu grữ túi cá trong tủ đông ở mức 0 độ hoặc lạnh hơn.

– Khử đá và chuẩn bị cá tươi trong vòng hai tuần để có hương vị và chất lượng cao nhất.

– Khử đá ngay trong tủ lạnh là cách tốt ưu nhất.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ chế biến nâng cao giá trị trái cây Việt

Ngày 21/11, Bộ NN&PTNT phối hợp với Hiệp hội rau quả Việt Nam, Rieckermann Việt Nam và các chuyên gia trong ngành chế biến tổ chức Hội thảo “Cơ hội và giải pháp – Vì sao doanh nghiệp Việt Nam nên tham gia thị trường chế biến trái cây lúc này”.

Theo ông Nguyễn Như Cường, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT, cùng với sự tăng về diện tích, sản lượng, giá trị xuất khẩu (XK) trái cây Việt Nam liên tục tăng trưởng cao trong những năm gần đây. Từ con số vài trăm triệu USD/năm, đến năm 2016 đã đạt con số 2,45 tỷ USD, trong đó ước tính các sản phẩm cây ăn quả chiếm hơn 80% giá trị XK. Riêng 10 tháng đầu năm 2017, giá trị XK rau quả của Việt Nam đạt 2,48 tỷ USD, tăng hơn 47,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hiện nay, Việt Nam chủ yếu XK dưới dạng trái cây tươi nên giá trị gia tăng thấp và bị tác động bởi các rào cản kỹ thuật như: Kiểm dịch thực vật, chất lượng trái cây giảm nhanh, thời gian bảo quản ngắn do chưa có các công nghệ bảo quản tiên tiến và các vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm… Bên cạnh những tiềm năng, lợi thế, hiện nay, ngành sản xuất cây ăn quả Việt Nam đứng trước không ít khó khăn, thách thức như: Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị còn hạn chế, chất lượng quả chưa cao, năng suất thấp, các sản phẩm qua chế biến còn ít…

Một trong những thách thức mà ngành công nghiệp chế biến trái cây đang phải đối mặt là công nghệ chế biến chưa đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, tạo ra lợi nhuận bền vững. Giải pháp hàng đầu được các chuyên gia đưa ra chính là áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, đầu tư dây chuyền sản xuất tiên tiến nhằm tăng tính hiệu quả và đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Tại hội thảo, Rieckermann Việt Nam – nhà cung cấp giải pháp công nghiệp hàng đầu đã mang đến 2 công nghệ tiên tiến nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận gần hơn với thị trường chế biến trái cây như hiện nay. Chia sẻ về công nghệ chế biến trái cây nhiệt đới từ năm 1936, ông Roberto Benvenuti, Phó Chủ tịch phụ trách kinh doanh và Marketing Bertuzzi Food Processing (Italia) cho biết: Công nghệ của Bertuzzi giúp tăng chất lượng sản phẩm và hiệu suất thu hồi thông qua việc sử dụng các máy móc và thiết bị chuyên dụng phù hợp với từng loại trái cây.

Đối với công nghệ chế biến nước quả áp suất cao, ông Jorge Marraud Pascual, Chuyên gia công nghệ thực phẩm, Giám đốc kỹ thuật bán hàng châu Á Hiperbaric (Tây Ban Nha) cho hay, có mặt tại thị trường từ năm 1999, cho đến nay, các máy công nghệ của Hiperbaric đã được lắp đặt tại 36 quốc gia và 5 châu lục. Một trong những công nghệ phát triển thành công nhất hiện nay là công nghệ xử lý nước ép bằng áp lực áp suất cao, đảm bảo giữ nguyên vẹn dinh dưỡng cũng như hương vị của nước ép trái cây nguyên chất và tăng hạn sử dụng cho sản phẩm.

Việt Nam xác định trái cây là ngành hàng còn nhiều tiềm năng, dư địa để phát triển. Định hướng chung toàn ngành đặt ra là: Tiếp tục tập trung đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào khâu sản xuất cây ăn quả nhằm tăng năng suất, sản lượng và nâng cao chất lượng. Bên cạnh đó, tăng cường phát triển công nghệ bảo quản, chế biến sâu các sản phẩm từ cây ăn quả với các sản phẩm chế biến chính gồm các loại quả đông lạnh, đóng hộp, sấy, nước quả tự nhiên, nước quả cô đặc… nhằm gia tăng giá trị sản xuất, mở rộng thị trường, tăng kim ngạch XK.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Đầu tư 170 tỷ đồng phát triển cà phê chất lượng cao

Bộ NN&PTNT vừa phê duyệt Đề án khung phát triển sản phẩm quốc gia “Cà phê Việt Nam chất lượng cao” với mục tiêu phát triển liên kết sản xuất, tiêu thụ, xây dựng vùng nguyên liệu cà phê hàng hóa chất lượng cao quy mô lớn. Dự kiến, tổng kinh phí thực hiện đề án khoảng 170 tỷ đồng.

Đề án có nội dung nâng cao chuỗi thu nhập của người trồng cà phê trên đơn vị diện tích gieo trồng thông qua việc gia tăng giá trị sản phẩm cà phê: Đến năm 2020 tăng 5% và đến 2023 là 7% so với mức thu nhập bình quân niên vụ 2013-2014.

Bên cạnh đó, hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất tiêu thụ cà phê, xây dựng được thương hiệu cà phê Việt Nam chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và XK; nâng giá cà phê XK của Việt Nam đến 2020 tương đương với các nước trong khu vực và quốc tế trong cùng nhóm chất lượng.

Cụ thể, đề án sẽ hỗ trợ tối thiểu 10 DN hoàn thiện quy trình công nghệ chế biến ướt (sử dụng enzim và vi sinh vật) nâng cao chất lượng, giảm tổn thất sau thu hoạch; hỗ trợ tối thiểu 5-10 DN xây dựng mô hình sản xuất cà phê chất lượng cao. Tổng giá trị các mô hình cho thu nhập tương đương 2.000 tỷ đồng/năm, trong đó quy môi mỗi dự án sản xuất thử nghiệm cà phê chất lượng cao đạt không dưới 100 tỷ đồng/năm…

Theo đề án đưa ra, vùng nguyên liệu phát triển cà phê chất lượng cao sẽ có hệ thống sấy, kho bảo quản và nhà máy chế biến phù hợp với quy mô sản xuất. Năng suất cà phê vối đạt 2,7 tấn/ha, cà phê chè đạt 2,0 tấn/ha.

Về kết quả đạt được, đề án đặt ra có ít nhất 10 DN tham gia đầu tư sản xuất và chế biến sâu các sản phẩm cà phê chất lượng cao theo chuỗi từ giá trị sản xuất, chế biến đến thương mại, đảm bảo được giá trị gia tăng cho ngành cà phê giai đoạn 2020-2030.

Xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam chất lượng cao, bảo đảm có 50% DN đầu ngành gắn thương hiệu cà phê Việt Nam chất lượng cao trên bao bì sản phẩm trong giao dịch, mua bán trên thị trường trong nước và thế giới…

Dự kiến, tổng kinh phí thực hiện đề án khoảng 170 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước là 110 tỷ đồng (khoảng 35 tỷ đồng nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và chuyển giao công nghệ, sản xuất thử nghiệm, đào tạo trong mô hình; 45 tỷ đồng phát triển vùng nguyên liệu, hợp tác công tư, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường; 25 tỷ đồng hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất của các đơn vị và 5 tỷ đồng cho các hoạt động khác).

Ngân sách từ các DN, nông dân, vốn vay tín dụng là 60 tỷ đồng (khoảng 30 tỷ đồng hỗ trợ sản xuất 200-300 nghìn ha cà phê chất lượng cao tại các vùng nguyên liệu hàng hóa; 20 tỷ đồng hỗ trợ hệ thống sấy, kho bảo quản, chế biến; 10 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường).

Thời gian thực hiện đề án là giai đoạn 2018-2023, tầm nhìn đến năm 2030.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể

Brad Johnson – một chuyên gia về phát triển cơ xương ở gia súc đã dẫn dắt một nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể.

Giáo sư Brad Johnson từ trường Đại học Tài nguyên thiên nhiên và Khoa học nông nghiệp hợp tác với Giáo sư Stephen B. Smith từ trường Đại học Texas A & M đã khám phá ra chìa khóa để tìm ra miếng thịt ngon nhất nằm ở màu vân mỡ của nó, và họ đã phát hiện ra một cách để làm tăng vân mỡ mà không làm tăng độ béo.

Johnson cho biết: Chìa khóa nằm ở việc cô lập một thụ thể trong tế bào tạo mỡ của vân mỡ, đó là những tế bào mỡ cạnh mô cơ. Kích hoạt các thụ thể đó, được gọi là thụ thể bắt cặp với prôtêin G-coupled 43 (GPR 43) tạo ra chất béo và chất béo là những thành phần quan trọng trong vân mỡ.

“Chúng tôi cảm thấy nếu có thể điều tiết thụ thể này trong vân mỡ, chúng ta có thể tăng vân mỡ mà không làm cho gia súc béo hơn”, Johnson nói. “Khi gia súc bị béo, hiệu quả thức ăn sẽ giảm và người tiêu dùng sẽ cắt bỏ tất cả phần mỡ béo dư thừa. Nhưng nếu vân mỡ là cái mà người tiêu dùng muốn, chúng tôi có thể làm tăng vân mỡ vào những thời điểm khác nhau trong chu trình cho ăn mà không làm cho gia súc béo hơn, và đó sẽ là một lợi ích rất lớn cho ngành công nghiệp thịt bò”.

Nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể của bò

Mặc dù vân mỡ và mỡ dắt có thể trông giống nhau trên cùng một miếng thịt thăn vai, có một sự khác biệt sinh học giữa mỡ dắt và vân mỡ, và nó ảnh hưởng đến vị ngon của thịt bò. Vấn đề then chốt nằm trong thành phần của tế bào mỡ tạo ra mỡ dắt và vân mỡ.

Tế bào mỡ dưới da thường được gọi là mỡ dắt. Tế bào mỡ trong cơ thường được gọi là vân mỡ và có thể nhìn thấy ở dạng thớ giữa các phần của mô thịt bò, hoặc thịt đỏ. Điều mà Johnson và Smith đã thực hiện được thông qua các biện pháp sinh học và sinh hóa là cô lập các tế bào mỡ và phát triển chúng trong hệ thống nuôi. Trong những thử nghiệm đó, Johnson và Smith đã phát hiện ra sự khác biệt giữa các tế bào mỡ dưới da và các tế bào mỡ bắp.

Tế bào vân mỡ có kích thước nhỏ hơn nhiều và đường kính lớn hơn các tế bào mỡ dưới da, có xu hướng tập trung lại với nhau.

Một khác biệt nữa là vấn đề trao đổi chất, hoặc nguồn năng lượng để tạo ra mỡ dắt hoặc vân mỡ. Tế bào mỡ của mỡ dắt sử dụng acetate – một axit béo dễ bay hơi được tạo ra trong dạ cỏ của bò. Tuy nhiên, tế bào vân mỡ đòi hỏi phải có glucose, Johnson cho biết đó là một nguồn năng lượng cao cấp cho cả người và động vật.

Phát hiện lớn nhất là thụ thể GPR 43 trong tế bào mỡ của vân mỡ làm tăng sản sinh ra các chất béo, tăng sản sinh vân mỡ mà không làm tăng chất béo. Johnson nói. “Trên thực tế, từ một quan điểm cơ học, kết quả cuối cùng là bạn có một số lượng lớn các vân mỡ và một số lượng lớn mỡ dắt. Vân mỡ cần glucose để chuyển hóa. Mỡ dắt có thể làm điều đó với acetate”.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.