Ức chế virus hoại tử thần kinh (VNN) trên cá bằng ribavirin

Trong thí nghiệm này, các nhà khoa học Israel đã báo cáo rằng việc xử lý ấu trùng cá ngựa vằn với ribavirin trước khi nhiễm virus hoại tử thần kinh (NNV) sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do virus trong 10 ngày đầu sau nhiễm.

Thuốc ribavirin ức chế virus hoại tử thần kinh (VNN) trên cá.

Giới thiệu

Bệnh VNN là bệnh cấp tính xuất hiện từ trại ương giống. Ấu trùng (từ 10-25 ngày tuổi) hoặc cá giống bỏ ăn, cá chết rải rác, bơi lờ đờ trên tầng mặt do bóng hơi trương phồng. Bệnh gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi cá giống.

Ribavirin tương tự guanosine là thuốc chống virus phổ rộng, chủ yếu được sử dụng trong thực hành phòng trị lâm sàng của con người. Chúng có hoạt tính in vitro và trong cơ thể chống lại 20 loại virus của RNA và DNA.

Cơ sở khoa học

Trong thí nghiệm này, các nhà khoa học Israel đã báo cáo rằng việc xử lý ấu trùng cá ngựa vằn với ribavirin trước khi nhiễm virus hoại tử thần kinh (NNV) sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do virus trong 10 ngày đầu sau nhiễm.

Ribavirin, Ribavirin điều trị hoại tử thần kinh, hoại tử thần kinh trên cá, bệnh trên cá

Cá bị hoại tử thần kinh.

Kết quả

Bộ gen RNA của NNV thu được từ ấu trùng ấu trùng được cấp ribavirin có chứa ba đột biến đồng nhất và một đột biến không đồng nhất, dẫn đến việc thay thế một codon serine với một codon glycine trong gen RNA polymerase RNA của virus.

Việc bổ sung thêm lượng guanosine vào ribavirin trước khi ấu trùng không làm cản trở hiệu quả hoạt động kháng virus. Xử lý bằng ribavirin trên ấu trùng cá ngựa vằn không ức chế làm giảm mức bazơ IFNγ, nhưng làm tăng mức biểu hiện mRNA IL-1β. Hơn nữa, ấu trùng nhiễm với NNV sau khi điều trị ribavirin làm giảm nồng độ biểu hiện gen IFNγ, IFN-I, Mx và TNF-α, trong khi biểu hiện IL-1β tăng lên.

Kết luận

Những kết quả này cho thấy hiệu quả điều tiết cytokine đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của ribavirin chống lại NNV. Tỷ lệ tử vong của hơn 40 loài cá xa bờ, chủ yếu là ấu trùng và cá non, từ NNV là một trở ngại chính đối với các trại sản xuất giống và cản trở việc cung cấp cá non cho các trại nuôi.

Do đó, điều trị bằng ribavirin có hiệu quả về mặt chi phí nên được xem như là biện pháp hữu hiệu để giảm nguy cơ của NNV.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Những mô hình nuôi lươn không bùn kết hợp trồng rau thủy canh lợi nhuận cao

Anh Trần Thiện Phi ở ấp Thạnh Hòa, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ (TP Cần Thơ) đã trải qua nhiều nghề khác nhau như làm ruộng, nuôi gà, vịt, cá… nhưng cuối cùng đã chọn con lươn để làm giàu.

Anh Phi kể: Ban đầu bắt tay vào nghề nuôi chỉ có 25m2 nuôi trong 2 bể, sau nhiều vụ thành công và rút kinh nghiệm, hiện anh sở hữu 20 bể lươn tương đương với 500m2. Ngoài nuôi lươn thương phẩm, anh còn nhân giống, bình quân mỗi năm sản xuất trên 100.000 con giống.

Mô hình nuôi lươn của anh Phi kết hợp trồng rau thủy canh mang lại hiệu quả cao

Theo tính toán của anh, với 20 bể nuôi, mỗi năm thu hoạch từ 8 – 12 tấn lươn thương phẩm, sau khi trừ chi phí thu về trên 1 tỷ đồng/năm. Nhờ thả nuôi nhiều đợt nên lươn thu hoạch quanh năm. Ngoài nuôi lươn, anh còn sáng kiến trồng rau cần nước (cần ống) trên mặt bể và các loại rau răm, rau om, mướp xen kẽ vào các khoảng đất trống theo mô hình chăn nuôi khép kín giúp tăng thêm thu nhập khoảng 15 – 20 triệu đồng/vụ (lươn nuôi 6 – 8 tháng). Chỉ riêng rau cần ống, mỗi tuần anh cũng thu hoạch khoảng 20kg/bể, bán với giá 15.000đ/kg. Trồng rau hoàn toàn không dùng phân hóa học và thuốc BVTV.

Còn ông Lê Văn Bút ở cùng xã Thạnh Phú sau nhiều năm gắn bó với nghề nuôi lươn không bùn và không ngừng mở rộng thêm bể nuôi, đến nay đã sở hữ 6 bể với diện tích gần 150m2.

Ông Bút cho biết: “Trước đây, tôi chủ yếu sống bằng nghề nông chỉ với khoảng 3.000m2 đất canh tác lúa, làm lụng cực khổ, vất vả nhiều năm nhưng thu nhập không đáng là bao, cuộc sống lao đao, thiếu thốn đủ đường. Thấy bà con nhiều nơi nuôi lươn đem lại lợi nhuận khá cao, tôi cũng chuyển sang nuôi lươn. Lúc đầu gặp không ít khó khăn nhưng nhờ siêng năng, chịu khó, ham học hỏi… dần dà tay nghề cũng khá lên”.

Nuôi lươn không bùn phát triển mạnh ở Cờ Đỏ

1 bể nuôi lươn 20m2 (4 x 5m), ông Bút thả 50kg lươn giống (loại 30 con/kg), mật độ thả 75 con/m2, tỷ lệ sống 70%. Sau 7 tháng nuôi và chăm sóc, lươn đạt trọng lượng từ 180 – 200gram/con, thu hoạch khoảng 200kg lươn thịt, bán với giá bình quân 180.000 đồng/kg. Ước tính, nếu trừ đi các khoản chi phí về (con giống, thức ăn, dụng cụ làm bể bạt, công chăm sóc…), ông thu gần 16 triệu đồng.

Ông Bút chia sẻ kinh nghiệm, để nuôi lươn tốt nên chọn vị trí yên tĩnh, ít người qua lại, có bóng mát, dễ lấy nước vào và thoát nước ra, làm mái che hoặc làm giàn trồng cây leo che nắng, gió. Cắm trụ, dùng bạt nilon loại dày không thoát nước quây quanh các trụ tạo thành bể. Diện tích bể 20m2, chiều cao bể 1 – 1,2m. Nước được lọc và diệt khuẩn, diệt ký sinh trùng mới đưa vào bể. Mực nước tốt nhất trong bể từ 20 – 30cm. Thả rau cần ống và trà tre tạo bóng râm và nơi trú ẩn cho lươn.

Nuôi lươn không bùn được siêu thị Metro Cần Thơ bao tiêu sản phẩm

Vấn đề chọn thả con giống rất quan trọng, nên chọn lươn màu vàng sẫm để nuôi vì đây là loại lươn có tốc độ sinh trưởng và phát triển tốt. Lươn giống 30 – 60 con/kg thả 1 bể là phù hợp. Giống quá nhỏ, lươn khó chăm sóc, dễ chết, thời gian nuôi kéo dài. Giống lớn (10 – 20 con/kg) thì khi mua phải để ý nguồn gốc, vì cỡ này hay bị chết sau khoảng một tháng nuôi do giãn cột sống lúc bị đánh bắt. Lươn giống thả nuôi phải đồng cỡ, không xây xát, khỏe mạnh. Mật độ thả tốt nhất là 60 – 80 con/m2. Trước khi thả nuôi cần tắm lươn bằng nước muối loãng trong 3 – 5 phút để sát trùng và loại bỏ những con yếu.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trung Quốc, Ấn Độ “bắt chước” mô hình nông nghiệp 4.0 từ châu Âu

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tham vọng với những tiến bộ của các công nghiệp khác sẽ hỗ trợ liên minh công nông, áp dụng khái niệm nông nghiệp 4.0 từ châu Âu…

Ấn Độ

Theo Rishi Nair (Công ty Khoa học Nông nghiệp Zuari, 2015), Nông nghiệp 4.0 vẫn còn xa đối với toàn Ấn Độ, vì những lý do:

1. Tiếp cận nguồn dữ liệu: Nguồn dữ liệu tuy đã mạnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập như các dữ liệu về các hóa chất nông học, hạt giống, và những vật tư đầu vào khác không hoàn toàn được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật, nên công tác thống kê về thương mại gặp nhiều khó khăn. Ngay cả số liệu chính xác về số doanh nghiệp ở từng địa phương cũng khó chính xác.

2. Việc giải mã dữ liệu và tối ưu hóa vật tư đầu vào cũng đang gặp khó khăn.

3. Các hoạt động ngoài đồng ruộng: Vẫn còn rất nhiều thách thức trong công tác khuyến nông tới nông dân. 2015 mới có 30% (350 triệu người) chủ đăng ký sử dụng internet. Có tất cả 750 loại ngôn ngữ được sử dụng ở Ấn Độ nên rất khó thống nhất ngôn ngữ cho tất cả mọi người (Nair, 2015).

Trung Quốc

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tham vọng với những tiến bộ của các công nghiệp khác sẽ hỗ trợ liên minh công nông, áp dụng khái niệm nông nghiệp 4.0 từ châu Âu, nông dân Trung Quốc thế kỷ 21 sẽ thực hiện nông nghiệp 4.0. Tầm nhìn của liên minh tại kế hoạch 5 năm lần thứ 13, đã định hướng tương lai nông thôn Trung Quốc sẽ phải đạt: 1) Nền nông nghiệp mới kết nối 6 ngành công nghiệp vào sản xuất, chế biến và phân phối lương thực, thực phẩm; 2) Nông dân mới tức là nông dân chuyên nghiệp, thay thế nông dân nông hộ nhỏ, làm việc bán thời gian, hoặc nông dân nghèo đói; 3) Ruộng vườn nông thôn mới hài hòa với thành thị (Dimsumsat, 2015).

Hiện nay ở Trung Quốc, theo hướng nông nghiệp 4.0, nhiều ngành công nghiệp đang được đẩy mạnh như các ngành công nghiệp chế tạo máy kéo công suất cao, máy gặt đập thông minh; ứng dụng thiết bị bay không người lái (Drone); công nghiệp phục vụ chăn nuôi thông minh 4.0; trồng cây trong nhà…

Khả năng của một số nước Đông Nam Á

Theo ADB: Việt Nam có hơn 24 triệu lao động nông nghiệp (46% tổng lao động). Myanmar có 20 triệu lao động (hơn 70%), Indonesia có gần 40 triệu lao động (35%), Campuchia có gần 5 triệu lao động (64%), Philippines có 12 triệu lao động (31%), Thái Lan có gần 16 triệu lao động (41%), Lào có 2 triệu lao động (70%). Malaysia và Singapore có tỷ lệ thấp hơn rất nhiều. Toàn vùng ước khoảng 100 triệu lao động trực tiếp trong nông nghiệp (không kể lao động gia đình giúp đỡ khi cần thiết).

Theo BBC, 70 triệu người, thuộc lực lượng này dễ bị tổn thương. Do lực lượng này có các đặc điểm canh tác rất khác nhau trong khối ASEAN và mức độ tiếp thu công nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ cũng rất khác nhau và dễ mẫn cảm với tự động hóa. Nghĩa là còn nhiều việc cần thiết để thiết lập hệ thống tự động hóa kết nối vạn vật (IoT). Tuy nhiên một số đối tác thuộc các nước công nghiệp liên quan đến khối ASEAN như Úc, Mỹ, Nhật đang cạnh tranh gay gắt về IoT và canh tác tự động hóa ở đây. Như vậy, với nhiều nước ASEAN, nông nghiệp 4.0 đang trên đường tiến triển, tuy còn khó khăn nhất định. Trong 15 năm tới, sẽ có nhiều doanh nghiệp canh tác thông minh ở vùng nông thôn, tùy thuộc vào chính phủ và sự đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối vạn vật.

Lào và Campuchia trong 10 năm tới khó đề cập đến nông nghiệp thông minh. Tuy nhiên tại Thái Lan hay Đài Loan có sự khác biệt. Thái Lan, đang có định hướng theo nông nghiệp 4.0 và đất nước Thái 4.0 như trình bày dưới đây. Hay tại Đài Loan, tự hào là một trong những nơi cung cấp các thiết bị cho nông nghiệp 4.0 trên thế giới.

Thái Lan sẵn sàng

Bộ Nông nghiệp và HTX Thái Lan công bố rằng, mọi điều kiện đã sẵn sàng tạo đà cho nông dân Thái tiến theo hướng “Nông dân thông minh – Smart farmers”. Thứ trưởng Bộ NN và HTX Thái Lan Anekwit, cho rằng Chính phủ có chính sách đối với nông nghiệp cùng đổi mới công nghệ để sao cho thế hệ trẻ trở thành “nông dân thông minh” cùng với chính sách của Chính phủ Thái về Thái 4.0.

Chính phủ Thái định hướng nông nghiệp và thực phẩm của Thái theo Nông nghiệp 4.0 đó là thực phẩm và thành phần thực phẩm thông minh để SX những sản phẩm nâng cao giá trị trong chuỗi giá trị, nông nghiệp thông minh để có chất lượng hảo hạng trong điều kiện biến đổi khí hậu và xã hội già hóa. Chương trình hành động của Bộ NN và HTX Thái Lan là sẽ hình thành các trung tâm nông nghiệp và thực phẩm theo hướng 4.0, đó là:

1) Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm phía Bắc Thái Lan gồm các trang trại thông minh nhằm sản xuất sữa bò đạt tiêu chuẩn quốc tế và thực phẩm chức năng

2) Vùng Đông Bắc có Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm gồm các trang trại trồng trọt thông minh, chăn nuôi gia súc thông minh

3) Khu Đại học ở miền Trung Thái Lan gồm các thực phẩm chức năng và thực phẩm cho người già

4) Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm phía Nam Thái Lan gồm các hải sản, thực phẩm ăn chay, cao su tự nhiên

Để đạt được, Bộ NN và HTX Thái cho rằng, phải tập trung vào con người là nhân tố chủ yếu thông qua hình thành 883 trung tâm đào tạo huấn luyện ở tất cả các tỉnh để tăng cường hiệu quả SX nông nghiệp thông qua đổi mới công nghệ. Hơn nữa, Bộ sẽ giới thiệu “Bản đồ Nông nghiệp”, phân định ranh giới giữa các vùng nông nghiệp ở tất cả các tỉnh. Bản đồ nông nghiệp đáp ứng cho từng cây trồng theo đất canh tác. Từng tổ chức thuộc Bộ phải thống nhất trong chương trình đào tạo và hỗ trợ công nghiệp nông nghiệp.

Đài Loan sẽ là xứ sở của chuỗi cung ứng thiết bị Nông nghiệp 4.0

Theo Matthew Ryan (2017), Đài Loan nổi tiếng về công nghệ chế tạo và có nhiều sản phẩm cơ điện trên đầu người hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, đó là:

1) Các bộ cảm biến kết nối vạn vật (IoT): Đài Loan tự hào là nơi tập trung các thiết bị công nghệ kết nối vạn vật do có lượng lớn các nhà máy sản xuất bán dẫn, chủ yếu ở Công viên Hsinchu. 25% sản lượng bán dẫn của thế giới được chế tạo, sản xuất tại Đài Loan.

2) Đài Loan có nền công nghiệp đèn LED đứng thứ 2 trên thế giới. Vì nông nghiệp trong nhà thúc đẩy công nghệ đèn LED, nó đòi hỏi sự chính xác cao của đèn LED để tạo điều kiện sinh trưởng và năng suất tối ưu nhất.

3) Robot. Đài Loan là một trong những nơi đi đầu về công nghệ robot, đang đặt mục tiêu trở thành một trong những nơi khả năng nhất về công nghệ robot vào 20 năm tới.

4) Tế bào năng lượng mặt trời: Là nơi lớn nhất thế giới sản xuất tế bào năng lượng mặt trời. Đài Loan có thể cung ứng nguồn năng lượng cho các dự án lớn về nông nghiệp trên quy mô lớn.

5) Thiết bị bay không người lái: 10% lượng thiết bị bay không người lái được chế tạo SX tại Đài Loan. Dự kiến hàng năm sẽ tăng 10% đến 2025.

6) Canh tác trong nhà, thủy sản kết hợp thủy canh: Đài Loan có nhiều kinh nghiệm về đèn LED, nên nhiều công ty có thể cung ứng đầy đủ các giải pháp cho canh tác trong nhà, thủy sản kết hợp thủy canh, thủy canh.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi lợn rừng trên vùng đất cát ven biển

Sau khi xây dựng mô hình kinh tế tổng hợp, ông Trương Tiến Lương đã mạnh dạn đưa giống lợn rừng về nuôi ngay tại vùng rừng đước ven biển xã Thạch Hải (huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh). Ý tưởng mới cùng với sự táo bạo đã mở ra hướng chăn nuôi hiệu quả, thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Ông Trương Tiến Lương sinh ra thôn Liên Hải (xã Thạch Hải), vùng đất miền biển chịu nhiều hệ lụy từ dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê. Phần lớn diện tích đất đai địa phương đều nằm trong quy hoạch của mỏ sắt, hoang hóa nhiều năm liền, đất đai chủ yếu các loại cây hoang dại phủ kín, đời sống người dân xã Thạch Hải gặp muôn vàn khó khăn. Bởi vậy, bản thân ông luôn đau đáu khát vọng làm giàu ngay trên chính miền quê khắc nghiệt này.

Ông Trương Tiến Lương với mô hình nuôi heo rừng ven biển

Nhận thấy vùng Bàu Soi nằm cạnh mỏ sắt Thạch Khê có tiềm năng nhưng bị bỏ hoang hóa lâu năm, ông làm đơn xin UBND xã Thạch Hải cho mượn gần 4ha để phát triển chăn nuôi, trồng trọt. Được chính quyền địa phương đồng ý, tháng 9/2016, HTX Liên Hợp được thành lập với 10 thành viên tham gia do ông Lương làm giám đốc.

“Lúc mới vào đây đường sá không có, toàn bộ khu vực này đều được bao phủ bởi những vườn tràm và các loại cây hoang dại. Anh em xắn tay áo dọn dẹp cả tháng trời mới giải tỏa được mặt bằng. Bước đầu, HTX trồng thử các loại cây ăn quả trên cát như cam, bưởi, ổi… Sau thời gian thấy cây phát triển tốt các thành viên tiếp tục mở rộng sang chăn nuôi dê, gà, bò… với số lượng hàng trăm con nhằm tái đầu tư cho cây ăn quả. Việc chăn nuôi tại HTX Liên Hợp chủ yếu dùng các sản phẩm phụ nông nghiệp như cám gạo, vỏ lạc, bột đậu, ngô… nên được người dân tin dùng”, ông Lương cho biết.

Với ý tưởng tạo ra bước đột phá ở vùng quê miền biển, ông Lương bàn với các thành viên của HTX đưa giống lợn rừng về nuôi. Cuối năm 2016, ông ra Hải Dương mua 20 con lợn giống và lợn thịt về thả nuôi tại khu rừng tràm bỏ hoang lâu nay.

“Lúc mới đưa về lợn bỏ ăn vì không hợp khẩu vị. Ở ngoài Bắc họ chủ yếu cho ăn loại cám mạch nhưng đưa loại cám này về đây giá thành đội lên rất cao. Các thành viên HTX phải thay nhau ra biển mua cá vụn về chế biến để cho lợn ăn nhằm kích thích khẩu vị. Sau một thời gian, đàn lợn rừng đã thích ứng được, sinh trưởng tốt và tăng đàn nhanh. Ưu điểm của giống lợn này là hầu như không mắc bệnh tật, ăn rất tạp nên dễ nuôi và cho chúng chạy cát nên thịt càng săn, ít mỡ và ngon. Đến nay, đàn lợn rừng đã tăng lên hơn 100 con, trị giá hơn 1 tỷ đồng”, ông Lương phấn khởi.

Để nuôi một con lợn rừng từ khi mới đẻ đến khi xuất chuồng (50 – 60kg) mất khoảng 1 năm, chủ yếu ăn bằng thức ăn tự nhiên như bã đậu, vỏ lạc, cám ngô… Bình quân mỗi con lợn 1 ngày ăn hết khoảng 5.000 đồng, rất ít so với nuôi lợn thịt công nghiệp và lợn thịt truyền thống. Tính đến cuối năm, nếu công việc thuận lợi, đàn lợn rừng của HTX Liên Hợp sẽ có tổng trọng lượng khoảng 6 tấn, dự kiến xuất khoảng 3 tấn lợn thịt ra thị trường với giá 160 triệu đồng/tấn. Trừ các chi phí có thể đem lại lợi nhuận gần 300 triệu đồng.

Cũng theo ông Lương, việc đưa giống lợn rừng về vùng cát là một cách làm mới và khá mạo hiểm. Ngoài mục đích phát triển kinh tế, việc chăn nuôi này còn mục đích bảo vệ nguồn gen động vật hoang dã ngày càng cạn kiệt, cung cấp nguồn thực phẩm sạch, tránh sự săn bắt động vật hoang dã trên rừng.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Trồng thanh long công nghệ mới Israel, năng suất có thể đạt 80 – 100 tấn/ha

Một số nông dân ở vùng chuyên canh thanh long huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) và huyện Châu Thành (Long An) mạnh dạn đầu tư SX thanh long theo công nghệ Israel nhằm tiết kiệm diện tích, nâng cao năng suất, chất lượng trái hướng tới xuất khẩu sang thị trường khó tính…Thanh long leo giàn sắt

Chợ Gạo thời điểm này đang mùa xông đèn thanh long. Anh Nguyễn Hữu Phúc ở ấp An Thị, xã Mỹ Tịnh An chia sẻ: “Trồng thanh long theo phương pháp truyền thống bằng trụ bê tông mỗi trụ cách nhau tới 3m, nay áp dụng kỹ thuật mới trồng theo giàn chữ T, mỗi gốc chỉ cách nhau 0,4m, vừa tiết kiệm diện tích đất lại giảm công chăm sóc”.

Áp dụng biện pháp bao trái thanh long nhằm tránh sâu bệnh hại

Theo anh Phúc, mô hình trồng thanh long theo giàn được Viện Cây ăn quả miền Nam hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật. Trước đó, với mỗi công đất (1.000m2) trồng trụ bê tông chỉ trồng được khoảng 440 hom. Nay áp dụng phương pháp mới có thể trồng được tới 1.170 hom/công. Hơn nữa, cùng diện tích này trồng kiểu truyền thống chỉ thu lãi khoảng 5 triệu/công, còn trồng giàn cho lãi 12 triệu đồng/công.

Ưu điểm của mô hình trồng thanh long kiểu chữ T có sự khác biệt so với kiểu trồng truyền thống là hệ thống cành phân tán đều, ít bệnh hơn. Lượng hom giống ban đầu gấp đôi so với bình thường nên cành nhiều hơn, năng suất cũng cao hơn. Ước tính ban đầu đạt khoảng 80 tấn/ha/năm.

Do mô hình trồng thanh long leo giàn mang lại hiệu quả kinh tế cao, gia đình anh Phúc tiếp tục mở rộng thêm 2.500m2 trồng thanh long ruột đỏ và cải tiến kỹ thuật phù hợp hơn nhằm tiết kiệm chi phí.

Tương tự, gia đình ông Nguyễn Văn Minh ở ấp Long Hòa, xã Long Trì, huyện Châu Thành cũng trồng thanh long ruột đỏ (685 trụ) trên diện tích 5.000m2, trong đó 2.000m2 áp dụng công nghệ giàn sắt.

Ông Minh giới thiệu về giàn sắt hình chữ A sau khi cải tiến từ giàn chữ T trồng thanh long

Ông Minh tâm sự: “Lúc đầu tôi cũng chỉ trồng theo kiểu truyền thống nhưng sau khi tham khảo phương pháp trồng mới, tôi đã quyết định đầu tư áp dụng theo công nghệ giàn sắt và lắp đặt hệ thống phun tưới tự động nhỏ giọt bằng đường ống”.

Từ mô hình trồng thanh long bằng trụ bê tông và giàn sắt hình chữ T, ông Minh đã tự điều chỉnh thiết kế bằng giàn sắt hình chữ A cho thấy nhiều ưu điểm vượt trội, năng suất cao hơn so với trồng trụ, hạn chế sâu bệnh, thu hoạch thuận tiện hơn và tránh được bão gió.

Hướng sản xuất mới

Một trong những mô hình mới đang được nông dân quan tâm là trồng thanh long ruột đỏ bằng giàn theo công nghệ Israel.

Vườn thanh long của gia đình ông Minh lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm

Hàng chục năm nay, với 16.000m2 đất, ông Trần Văn Năm ở xã Long Trì, huyện Châu Thành chỉ tập trung canh tác thanh long ruột trắng. Gần đây thanh long ruột trắng giá thấp, đầu ra bấp bênh nên ông mạnh dạn chuyển hơn 6.000m2 sang trồng thanh long ruột đỏ theo công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel.

Ông Năm cho biết, đến nay toàn bộ diện tích thanh long ruột đỏ của gia đình đều được áp dụng công nghệ tưới phân, nước nhỏ giọt tự động có kiểm soát. Trên vườn mỗi trụ cho từ 30 – 35 trái. Mùa vụ vừa qua, thanh long ruột đỏ có giá 45.000 đồng/kg cho gia đình ông thu nhập hàng trăm triệu đồng, gấp đôi so với thanh long ruột trắng.

SX thanh long CNC là hướng đi mới

Ông Nguyễn Văn Đà ở ấp Long Thuận, xã Long Trì có 7.000m2 trồng thanh long (khoảng 1.000 trụ thanh long ruột trắng) tâm sự: “Công nghệ cao làm giàn sắt đầu tư kinh phí khá cao nên chờ thêm thời gian xem hiệu quả thực tế ra sao thì bà con mới dám làm”.

Tuy nhiên, Viện Cây ăn quả miền Nam khuyến cáo, nếu nông dân mạnh dạn áp dụng mô hình này thì khả năng sẽ cho năng suất cao hơn từ 2 – 3 lần so với trồng trụ bê tông, có thể đạt từ 80 – 100 tấn/ha.

Ông Nguyễn Văn Hôn, cán bộ UBND thị trấn Tầm Vu cho biết: “Địa phương đang khuyến khích nông dân trồng thanh long theo công nghệ mới, đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP nhằm đáp ứng những thị trường khắt khe về chất lượng. Việc quy hoạch vùng trồng, áp dụng công nghệ cao SX thanh long leo giàn sắt đang mở ra hướng sản xuất mới, giúp nông dân thu nhập khá hơn”.

Ông Minh điều khiển hệ thống tưới tự động cho vườn thanh long

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng dưa lưới đón Tết

Nông dân (ND) huyện đầu nguồn An Phú, tỉnh An Giang đang rất phấn khởi ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) vào sản xuất nông nghiệp (SXNN). Đặc biệt, để phục vụ thị trường Tết Nguyên đán, ND tăng cường đầu tư SX rau màu sạch, trong đó có sản phẩm độc đáo là trồng dưa lưới theo công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel.
Thăm mô hình nhà lưới rộng 1.000m2 tại thị trấn An Phú, mới cảm nhận hết hiệu qủa mô hình SXNN ƯDCNC ở An Phú. Mỗi cây được trồng trong 1 bịch giá thể (có trọng lượng khoảng 3kg, gồm xơ dừa trộn với phân trùn quế) đặt trong luống đã được lót bạt nhựa cách ly với nền đất để tránh mầm bệnh xâm nhập. Nhà lưới ở đây trồng từ năm 2014 với chu kỳ sản xuất “2 năm, 7 vụ”.
Vụ thu hoạch vừa qua, Công ty Cổ phần nông nghiệp Công nghệ cao An Phú (doanh nghiệp đầu tư) thu hoạch dưa lưới giống Bảo Khuê (Đài Loan) cho năng suất khá cao, với sản lượng 3,5 tấn/1.000m2, bán với giá 30.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, công ty còn lãi từ 30-50 triệu đồng/1.000m2/vụ. Hiện, nhà lưới đang xuống giống vụ dưa mới với số lượng 2.272 cây khoảng 20 ngày tuổi, đang phát triển tốt.

Khi dưa lưới đủ 25 lá thì tiến hành bấm ngọn để phát triển tốt

Huyện An Phú hiện có 3 nhà màng trồng dưa lưới và dưa lê. Dưa được trồng trong nhà lưới không sử dụng thuốc hóa học và áp dụng kỹ thuật tưới nhỏ giọt công nghệ Israel giúp cho trái dưa phát triển tự nhiên nên rất an toàn cho người sử dụng. Ngoài trồng dưa lưới giống Bảo Khuê (Đài Loan) 1.000m2 nhà lưới ở thị trấn An Phú, nhà lưới 300m2 ở xã Vĩnh Lộc đang được vệ sinh sạch sẽ để chuẩn bị trồng giống dưa lưới DH1 (Thái Lan).
ThS Nguyễn Văn Đệ cho biết: Trồng dưa lưới CNC áp dụng kỹ thuật mới nên phải theo dõi chặt chẽ quá trình sinh trưởng, phát triển hàng ngày. Khi dây dưa được 25 lá thì tiến hành bấm ngọn; mỗi dây treo chỉ để từ 1-4 trái, tỉa trái sẽ nâng chất lượng trái loại 1. Lượng nước tưới và dinh dưỡng cho trái tùy quá trình phát triển của cây, sau đó giảm lượng nước đến khi thu hoạch thì cắt nước hoàn toàn.

ThS Nguyễn Văn Đệ kiểm tra quá trình sinh trưởng, phát triển của dưa lưới

Dưa lưới trồng trong nhà lưới chủ yếu gặp một số sâu hại như: bọ phấn trắng, bọ trĩ… nên chỉ sử dụng biện pháp sinh học để xử lý như dùng bọ xít, bọ rùa khống chế. Nếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cần tuân thủ nguyên tắc “4 đúng” và đảm bảo thời gian cách ly. Mỗi vụ dưa lưới từ khi trồng đến thu hoạch khoảng 80 ngày tuổi, trọng lượng từ 1,5-2,5kg/trái, năng suất khoảng 3,5 tấn/1,000m2. Được chăm sóc đúng kỹ thuật nên dưa rất đồng đều, màu thịt đẹp, giòn và ngọt, bảo quản được lâu.
“Hiện, diện tích nhà lưới trên địa bàn huyện còn ít (do chi phí đầu tư mỗi nhà lưới gần 400 triệu đồng/1.000m2) nên sản lượng dưa không đủ cung ứng cho thị trường. Không chỉ trong tỉnh, mà ở TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh cũng đặt mua. Nhất là vào dịp Tết Nguyên đán, nhu cầu mua dưa lưới làm quà biếu tăng lên gấp nhiều lần nên sản lượng bao nhiêu cũng tiêu thụ hết” – ThS Đệ cho biết.

Theo báo An Giang, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi trăn trên sân thượng

Tận dụng khoảng diện tích hơn 40m2 trên sân thượng, ông Võ Ngọc Ân (71 tuổi, phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang) đã xây dựng thành công mô hình nuôi trăn thịt, sinh sản, mỗi năm mang về cho gia đình ông thu nhập hơn 100 triệu đồng.
Sau khi bỏ nghề đi biển, ông Võ Ngọc Ân đã tìm đến nghề nuôi tôm hùm, cá biển lồng. Thế nhưng, do thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật nên đều thất bại. Năm 2009, sau khi xem một phóng sự về phong trào nuôi trăn ở miền Nam, ông quyết định vào Củ Chi để tham quan và mua giống về nuôi thử. Ông Ân kể: “Thời điểm đó, ở Khánh Hòa chưa có ai nuôi trăn nên tôi chỉ mua 4 con về nuôi thử. Tôi tự thiết kế chuồng trại và đọc sách, báo để học thêm cách chăm sóc. Chỉ khoảng nửa năm, trăn phát triển khá tốt và không mất quá nhiều công sức, thời gian chăm sóc. Do vậy, tôi mua thêm vài chục con và mở rộng chuồng trại để nuôi”.
Qua vài năm, ông Ân dần phát hiện ra những điểm hạn chế trong kỹ thuật chăm sóc của mình, từ đó khắc phục dần như: nuôi mỗi con một chuồng và lập sổ ghi chép lịch cho ăn của từng con; thay thế toàn bộ chuồng làm bằng lưới sắt sang bằng các phuy nhựa hình vòm, bên dưới lót ván gỗ để đảm bảo da trăn không bị trầy xước; làm chuồng trại hình tầng để có thể nuôi được nhiều trăn hơn. Đến bây giờ, ông vẫn đang áp dụng những biện pháp này và rất hiệu quả.
Theo ông Ân, trăn là đối tượng rất dễ chăm sóc và không bị bệnh tật; thức ăn sử dụng để nuôi trăn rất dễ kiếm, giá lại rẻ như: đầu gà công nghiệp, chuột. Với một con trăn trưởng thành có trọng lượng từ 5 đến 10kg thì mỗi lần ăn khoảng 1kg thức ăn, nhưng 15 ngày mới cho ăn/lần. Gần 10 năm nuôi trăn, ông Ân chỉ cho trăn ăn chuột là chủ yếu, còn đầu gà ông chỉ mua vào những thời điểm mưa bão. Để có đủ chuột làm thức ăn cho trăn, ông đã mày mò, tự thiết kế ra chiếc bẫy chuột 2 ngăn rất hiệu quả. Nhờ đó, ông có đủ thức ăn cho hơn 100 con trăn, tiết kiệm được chi phí mua thức ăn rất lớn.

Mô hình nuôi trăn đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình ông Võ Ngọc Ân

Hiện nay, mỗi đợt, ông Ân chỉ thả nuôi khoảng 100 con trăn theo hình thức cuốn chiếu, bán mỗi năm 2 lứa. Thời gian nuôi đến lúc xuất chuồng khoảng 12 tháng, thời điểm này, trăn đạt trọng lượng khoảng 10kg/con. Bên cạnh nuôi trăn thịt, để tiết kiệm chi phí mua giống, ông còn nuôi thêm 2 cặp trăn bố mẹ cho sinh sản.
Ông Ân cho biết: “Trăn thịt hiện nay bán với giá 300.000 đồng/kg. Tôi chủ yếu bán cho một số công ty ở TP. Hồ Chí Minh. Khi nào bán, chỉ cần gọi điện thoại là họ đưa xe ra tận nơi để thu mua nên rất an tâm. Nuôi trăn khá nhàn, mỗi tháng chỉ cho ăn 2 lần, mỗi ngày mất 30 phút để kiểm tra, vệ sinh chuồng trại và bổ sung nước vào khay”.
Ông Nguyễn Văn Phú – Chủ tịch Hội Nông dân phường Vĩnh Nguyên (TP. Nha Trang) cho biết, mô hình nuôi trăn của ông Ân đã và đang phát triển khá tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao và đã được Chi cục Kiểm lâm tỉnh cấp giấy phép. Mô hình này đã đạt giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh trong lĩnh vực chăn nuôi lần thứ VII năm 2016 – 2017; đồng thời được các cấp, ngành đánh giá cao và phổ biến rộng rãi cho người dân trong toàn tỉnh. Từ hiệu quả của mô hình đã có rất nhiều hộ trong và ngoài tỉnh tìm đến học hỏi kinh nghiệm và được ông Ân tận tình truyền đạt.

Theo báo Khánh Hòa, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trồng rau sạch bằng smartphone

Với một chiếc điện thoại di động kết nối Internet, bất kỳ ai cũng có thể tạo dựng và chăm sóc hệ thống trồng rau sạch ngay tại nhà hoặc quản lý nông sản cho năng suất cao gấp hai đến ba lần so với trồng rau thông thường.

Duyên số với nông nghiệp

Xuất phát điểm là dân công nghệ thông tin- sinh viên của Đại học Bách Khoa Hà Nội, khi ngồi trên ghế nhà trường, Đặng Xuân Trường- Nhà sáng lập, Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ cao Hachi Việt Nam chưa từng nghĩ sẽ “kết duyên” với nông nghiệp. “Cuối năm 2015, mình có cơ hội tiếp xúc với một vài bạn sinh viên nông nghiệp, nhận thấy tiềm năng của nó rất lớn nếu được ứng dụng CNTT. Hơn nữa tại thời điểm đó, tình trạng thực phẩm bẩn tràn lan, tivi đài, báo, đưa tin hàng ngày nên mình quyết tâm sẽ làm gì đó có thể ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp để giải bài toán thực phẩm tại các thành phố lớn” – Xuân Trường chia sẻ về lý do thôi thúc chàng sinh viên công nghệ chọn ngã rẽ khá bất ngờ.

Đặng Xuân Trường- Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ cao Hachi Việt Nam

Hachi thực chất là phương pháp trồng cây theo hình thức thủy canh, có sử dụng hệ thống đèn LED để chiếu sáng thay thế ánh sáng mặt trời. Hiện nay, Hachi triển khai hai loại sản phẩm là thủy canh nhà phố và thủy canh trang trại. Hệ thống tự động giám sát các điều kiện môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thông qua ứng dụng trên smartphone. Hệ thống sẽ tự động tải dữ liệu của từng loại cây trên server của Hachi về để kích hoạt chế độ chăm sóc thông qua mạng Wifi. Việc ứng dụng giải pháp của Hachi có thể giúp tăng 30% đến 50% tốc độ sinh trưởng của cây, đảm bảo sạch, cách ly hoàn toàn với môi trường bên ngoài và trồng được những loại cây trái vụ, khó trồng ở điều kiện tự nhiên.

Đối với sản phẩm nhà phố, Hachi tận dụng được những khoảng không gian tối ưu tại ban công, sân thượng. Đó là xây dựng hệ thống tự động chăm sóc, người sử dụng không cần phải có mặt ở nhà mà vẫn có thể chăm sóc được giàn rau. Tận dụng được khoảng không gian, có được nguồn thực phẩm sạch ngay tại nhà, có thêm không gian xanh cho những người ở nhà phố.

Về trang trại thuỷ canh Hachi, có thể thấy trang trại thủy canh cho năng suất cây trồng cao hơn từ 50 đến 200%, tiết kiệm đến 95% lượng nước và phân bón sử dụng, tiết kiệm 75% chi phí nhân công bằng hệ thống tự động.

Giám đốc Hachi Việt Nam cho biết: “Tiềm năng ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp tại Việt Nam là vô cùng to lớn, 70% dân số Việt Nam sống dựa vào nông nghiệp. Nhu cầu sử dụng thực phẩm, đặc biệt là các loại rau sạch, rõ nguồn gốc của cư dân đô thị ngày càng tăng. Và để có nguồn rau sạch, rõ nguồn gốc thì rõ ràng là phải ứng dụng công nghệ cao để làm được điều này.”

Khó khăn và những thành quả

Chia sẻ về những thử thách từng gặp phải, Xuân Trường cho hay: Mặc dù không gặp vướng mắc trong quá trình xây dựng sản phẩm, nhưng Hachi lại gặp rất nhiều khó khăn khi phát triển dự án. Khó khăn đầu tiên của Hachi là về vốn vì việc start-up một dự án về nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi khá nhiều chi phí cho việc phát triển phần cứng, mua sắm các thiết bị nông nghiệp và phát triển ứng dụng trên di động. Ngoài ra sau khi hoàn thiện phiên bản mẫu của sản phẩm thì nhóm lại gặp khó khăn trong việc hoàn thiện và thương mại hoá chính thức sản phẩm do thiếu kinh nghiệm. Nhận thấy những khó khăn sẽ gặp phải ngay từ ban đầu nên Hachi đã chủ động tìm kiếm một vườn ươm khởi nghiệp là Vietnam Silicon Valley do Bộ Khoa học công nghệ hỗ trợ. Vườn ươm hỗ trợ Hachi một khoản vốn ban đầu đủ để hoàn thiện sản phẩm mẫu cũng như cố vấn về kinh nghiệm phát triển và bán sản phẩm.

Hachi dự kiến trong 1 năm tới sẽ trở thành một trong những đơn vị hàng đầu tại Việt Nam trong việc ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp, cụ thể là mô hình trồng rau thuỷ canh công nghệ cao. Ngoài ra Hachi cũng đang lên kế hoạch để hợp tác giúp bao tiêu đầu ra cho những trang trại mà Hachi đã thi công.

Rau sạch được trồng với ứng dụng công nghệ cao

Những kết quả ban đầu của “đàn ong” Hachi cũng đã được đền đáp xứng đáng bằng những giải thưởng đáng tự hào: Giải Nhất cuộc thi khởi nghiệp Việt Đức 2015 do Đại học Bách Khoa tổ chức, giải Dự án nông nghiệp xuất sắc nhất cuộc thi startup wheel 2016 do BSSC và thành đoàn HCM tổ chức, giải Nhất cuộc thi khởi nghiệp Lotte do tập đoàn Lotte, Bkholding, và Vietnam Silicon Valley tổ chức, Giải nhất cuộc thi Techfest 2016 giành vé đi đến Silicon Valley, California, USA và Giải Startup triển vọng cuộc thi Nhân tài Đất Việt.

Hachi đến nay đã mở rộng sang những dự án quy mô trang trại với diện tích từ 500m² đến 2.000m². Các trang trại Hachi đã triển khai có mặt ở nhiều nơi bao gồm: Bắc Ninh (trang trại Delco Eco Farm, trang trại thuỷ canh tại Trung tâm thông tin và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ Bắc Ninh), Hà Nội (Biệt thự An Viên), Đà Lạt (trang trại Hokkaido Suchi), Vũng Tàu, TP.Hồ Chí Minh…

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Mô hình nông nghiệp 4.0 và khả năng áp dụng ở Việt Nam: Nông nghiệp 4.0 là gì?

Nông nghiệp 4.0 còn được coi là hàm số của Nông nghiệp thông minh x Công nghệ thông minh x Thiết kế thông minh x Doanh nghiệp thông minh. Ở châu Á, Ấn Độ khó áp dụng cách mạng nông nghiệp 4.0 đầy đủ

Cà chua ứng dụng công nghệ điện toán đám mây “Akisai” có độ ngọt tự nhiên và hàm lượng dinh dưỡng cao gấp 3 lần so với sản phẩm thông thường, Viện nghiên cứu rau quả.

Tuy nhiên Thái Lan đang phấn đấu còn Đài Loan tự hào là nơi cung cấp thiết bị cho nông nghiệp 4.0 chỉ sau một vài nước phát triển.

Việt Nam chưa có mô hình hoàn chỉnh về nông nghiệp 4.0, mới có một số mô hình thông minh thông qua hợp tác quốc tế về canh tác lúa, rau. Chính phủ cần kịp thời định hướng cho nghiên cứu, triển khai mô hình nông nghiệp 4.0 đầy đủ.

Khái niệm và xuất xứ của nông nghiệp 4.0

Theo khái niệm của Hiệp hội Máy Nông nghiệp Châu Âu (European Agricultural Machinery, 2017):

1) Nông nghiệp 1.0 xuất hiện ở đầu thế kỷ 20, vận hành với hệ thống tiêu tốn sức lao động, năng suất thấp. Nền nông nghiệp đó có khả năng nuôi sống dân số nhưng đòi hỏi số lượng lớn các nông hộ nhỏ và một phần ba dân số tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu thô.

2) Nông nghiệp 2.0, đó là cách mạng xanh, bắt đầu vào những năm 1950, khởi đầu là giống lúa mì lùn cải tiến, nhưng phải dựa nhiều vào bón thêm đạm, sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học tổng hợp, cùng với máy móc chuyên dùng, cho phép hạ giá thành và tăng năng suất, đem lại lợi nhuận cho tất các các bên tham gia.

3) Nông nghiệp 3.0, từ chỗ nâng cao hiệu quả đến nâng cao lợi nhuận nhờ chủ động và sáng tạo hạ giá thành, nâng cao chất lượng, đưa ra sản phẩm khác biệt. Bắt đầu khi định vị toàn cầu (GPS) được ứng dụng đầu tiên để định vị và định hướng. Thứ hai là điều khiển tự động và cảm biến (sensor) đối với nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, dinh dưỡng, từ những năm 1990, máy gặt đập liên hợp được gắn thêm màn hình hiển thị năng suất dựa vào định vị GPS. Thứ ba là tiến bộ công nghệ sử dụng các thiết bị không dây (Telematics).

4) Nông nghiệp 4.0, thuật ngữ được sử dụng đầu tiên tại Đức.

Tương tự với “Công nghiệp 4.0”, “Nông nghiệp 4.0” ở châu Âu được hiểu là các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi được kết nối mạng bên trong và bên ngoài đơn vị (có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp). Nghĩa là thông tin ở dạng số hóa dành cho tất cả các đối tác và các quá trình SX, giao dịch với các đối tác bên ngoài đơn vị như các nhà cung cấp và khách hàng tiêu thụ được truyền dữ liệu, xử lý, phân tích dữ liệu phần lớn tự động qua mạng internet. Sử dụng các thiết bị internet có thể tạo điều kiện quản lý lượng lớn dữ liệu và kết nối nội bộ với các đối tác bên ngoài đơn vị. Một số thuật ngữ khác thường được sử dụng như “Nông nghiệp thông minh” và “Canh tác số hóa”, dựa trên sự ra đời của các thiết bị thông minh trong nông nghiệp. Các thiết bị thông minh bao gồm các cảm biến, các bộ điều tiết tự động, công nghệ có thể tính toán như bộ não và giao tiếp kỹ thuật số. Nông nghiệp 4.0 mở đường cho sự tiến hóa tiếp theo, bao gồm những hoạt động không cần có mặt con người trực tiếp và dựa vào hệ thống thiết bị có thể đưa ra những quyết định một cách tự động.

Theo tổng kết ở Mỹ đến nay các thành phần chủ yếu của nông nghiệp 4.0 thường được hiểu như sau:

1). Cảm biến kết nối vạn vật (IoT Sensors): Từ dinh dưỡng đất kết nối với máy chủ và các máy kết nối khác là thành phần chủ yếu của nông nghiệp hiện đại.

2). Công nghệ đèn LED đang trở thành tiến bộ không thể thiếu để canh tác trong nhà vì sự đáp ứng sinh trưởng và năng suất tối ưu.

3). Người máy (Robot) đang thay việc cho nông dân thường làm. Người máy cũng có cả các bộ phân tích nhờ các phần mềm trợ giúp phân tích và đưa ra xu hướng trong các trang trại.

4). Tế bào quang điện (Solar cells). Phần lớn các thiết bị trong trang trại được cấp điện mặt trời và các bộ pin điện mặt trời trở nên quan trọng.

5). Thiết bị bay không người lái (Drones) và các vệ tinh (satellites) được sử dụng để thu thập dữ liệu của các trang trại.

6). Canh tác trong nhà/hệ thống trồng cây – nuôi cá tích hợp/Thủy canh (khí canh): Hiện nhiều giải pháp đã được hoàn thiện.

7). Công nghệ tài chính phục vụ trang trại (Farm Fintech): Fintech nghĩa là kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ. Fintech được sử dụng chung cho tất cả các công ty tài chính sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần mềm mã nguồn mở nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu tư. Farm Fintech bao gồm dịch vụ cho vay, thanh toán, bảo hiểm.

Bên cạnh đó, nhiều sự kiện khác đang diễn ra như: Các sản phẩm vật chất được nâng cao giá trị gia tăng nhờ các dịch vụ với những thuật toán dùng để biến đổi dữ liệu thành thông tin gia tăng giá trị, tối ưu hóa sản phẩm, các quá trình nông học, giảm thiểu rủi ro và hạn chế những nguy hiểm do tác động của máy móc cơ giới hư hỏng, thời tiết hoặc dịch bệnh gây ra. Hay nông nghiệp sinh thái (tương tự mô hình VAC ở Việt Nam), với những hệ điều hành kết hợp được nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, từ các bộ cảm biến (có thể cảm nhận nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, dinh dưỡng đất để phát tín hiệu cho người sản xuất), thiết bị, từ nguồn dữ liệu thu thập từ đồng ruộng hay trang trại. Nông dân/chủ trang trại điều hành thông qua bảng điều khiển có thông tin thời gian thực và gần thực, và đưa ra các quyết định dựa trên các giả thiết định lượng để tăng hiệu quả tài chính.

Nội hàm của nông nghiệp 4.0

Nông nghiệp 4.0 bao hàm nghĩa rộng của cả trồng trọt, chăn nuôi (có thể hiểu rộng hơn sang cả thủy sản và lâm nghiệp) về nghiên cứu, chuyển giao và sản xuất. Nông nghiệp hiện đại quan tâm đến độ bền vững và các giải pháp an toàn. Canh tác (Farming) là thực hiện những kỹ thuật như làm đất, gieo cấy, tỉa cành, luân canh, chăm sóc, thu hoạch, với mục tiêu đạt năng suất cao hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn, dựa vào tiến bộ công nghệ kỹ thuật số. Thuật ngữ Canh tác 4.0 (Farming 4.0) xuất hiện vào những năm 2010. Đó là các canh tác năng động và hiệu quả.

Theo khái niệm của Mạng lưới Chuyên đề Canh tác Thông minh Châu Âu, canh tác thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ICT) vào nông nghiệp (Cách mạng Xanh lần thứ ba). Cuộc cách mạng này phối hợp ICT như các thiết bị chính xác, kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu, quản lý dữ liệu lớn (Big data), thiết bị bay không người lái (Drone), người máy (robot)…, tạo điều kiện cho nông dân tăng thêm giá trị dưới dạng đưa ra được những quyết định khai thác, quản lý hiệu quả hơn, đó là: 1). Hệ thống thông tin quản lý, đáp ứng nhu cầu thu thập, xử lý và lưu giữ, cung cấp dữ liệu cần thiết để thực hiện những chức năng của trang trại. 2). Nông nghiệp chính xác, thông qua các hệ thống có thể quản lý độ biến động theo không gian và thời gian để cải thiện hiệu quả kinh tế đầu tư và giảm thiểu tác hại của môi trường.

Nông nghiệp chính xác còn được hiểu là nền nông nghiệp có thể nuôi sống cả dân số thế giới dự báo 10 tỉ người vào năm 2050. Nông nghiệp chính xác, tức ngành nông nghiệp sử dụng cảm biến và các thuật toán thông minh để phân phối nước, phân bón và thuốc trừ sâu, đáp ứng cho cây khi cây thực sự cần, nhằm đảm bảo tính sinh lời, tính bền vững và bảo vệ môi trường. Nông dân có thể quyết định tưới tiêu khi thực sự cần thiết và tránh việc lạm dụng thuốc trừ sâu, họ sẽ có thể tiết kiệm được chi phí và nâng cao sản lượng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Nhân rộng mô hình nuôi gà nhiều cựa

Xuân Đài là xã nằm trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ) có nhiều hộ nuôi gà nhiều cựa. Gia đình chị Phùng Thị Mơ là một trong những hộ nông dân chăm sóc số lượng gà nhiều cựa với hàng trăm con.

Gia đình chị Phùng Thị Mơ là một trong những hộ nuôi gà nhiều cựa với số lượng lớn

Theo chị Mơ, để đàn gà phát triển tốt và không bị dịch bệnh, cần chăm sóc, tiêm phòng đầy đủ từ khi gà còn nhỏ. Gà nhiều cựa ở Tân Sơn là giống bản địa, được nuôi theo phương thức chăn thả tự nhiên, số trang trại, gia trại có quy mô lớn không nhiều. Thông thường giống gà này được nuôi từ 10 – 12 tháng mới xuất chuồng, giá bán từ 300.000 – 350.000 đồng/kg.

Trước đây người dân nơi đây chưa biết rõ về giá trị loài gà nhiều cựa, chỉ chăn thả tự nhiên, không chăm sóc đúng kỹ thuật và phòng bệnh nên giống gà này có nguy cơ tuyệt chủng. Những năm qua, việc bảo tồn, phát triển giống gà quý này được các sở, ban ngành địa phương triển khai bằng nhiều dự án, giống gà quý đã được phục hồi, nhân đàn. Tại thời điểm này, giá gà đủ 9 cựa lên đến 450.000 – 500.000 đồng/kg. Nhiều khách hàng tìm những con gà trống lâu năm, khỏe khoắn, mào đỏ như hoa chuối rừng, 9 cựa, không ngại ngần trả vài triệu đồng 1 con.

Mô hình gà nhiều cựa của anh Hà Thế An ở khu Vượng, xã Xuân Đài nuôi từ 300 – 400 con gà nhiều cựa, đã vươn lên thành hộ khá giả… Cách nhà anh An không xa là hộ anh Hà Văn Điểm. Anh Điểm kể: “Thấy gia đình anh An, chị Mơ và một số hộ gia đình khác nuôi gà nhiều cựa khá nhàn hạ lại cho thu nhập khá, tôi bàn với vợ quyết định đầu tư nuôi gà 9 cựa, cho chúng ăn thóc, ngô, rau lá… nên thịt chắc, ngon được khách hàng rất ưa chuộng…”.

Gà 9 cựa

Khởi đầu nuôi vài chục con một lứa, hiện quy mô của anh Điểm nuôi mỗi lứa từ 300 – 400 con, mỗi năm xuất bán từ 2 – 3 lứa, trừ chi phí mỗi năm thu lãi gần 60 triệu đồng.

Thời gian qua, Trạm Khuyến nông huyện Tân Sơn đã thực hiện dự án hỗ trợ mô hình nuôi gà 9 cựa tại các xã Xuân Sơn, Xuân Đài, Minh Đài, Văn Luông… nhằm bảo tồn và phát triển nguồn gen quý, tiến tới sản xuất hàng hóa.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.