Bộ cảm biến ngăn chặn lãng phí nước trong tưới tiêu cây trồng

Một kỹ thuật mới do các nhà khoa học thuộc Đại học Khoa học Nông nghiệp bang Pennsylvania của Mỹ sáng chế sẽ hỗ trợ một cách hiệu quả người nông dân trong việc tưới tiêu, ngăn chặn sự lãng phí nước và tránh cho cây thiếu nước. Đó là các bộ cảm biến thực vật đo độ dày và điện dung của lá.

Kiểm soát sự căng thẳng về nước của cây trồng đặc biệt quan trọng ở những khu vực khô cằn thường được thực hiện bằng cách đo độ ẩm của đất hoặc xây dựng các mô hình nhằm tính toán tổng lượng nước bốc hơi ở mặt đất và sự thoát hơi nước của cây trồng.

Bộ cảm biến cung cấp nước cho cây trồng

Tuy nhiên, một kỹ thuật mới do các nhà khoa học thuộc Đại học Khoa học Nông nghiệp bang Pennsylvania của Mỹ sáng chế sẽ hỗ trợ một cách hiệu quả người nông dân trong việc tưới tiêu, ngăn chặn sự lãng phí nước và tránh cho cây thiếu nước. Đó là các bộ cảm biến thực vật đo độ dày và điện dung của lá.

Công trình thử nghiệm được thực hiện trên cây cà chua trong một nhà kính với nhiệt độ không đổi và chu kỳ sáng tối 12 giờ trong 11 ngày. Môi trường tăng trưởng là một hỗn hợp đất, than bùn với lượng nước được ghi nhận bằng một cảm biến đo độ ẩm đất.

Hàm lượng nước trong đất được duy trì ở mức tương đối cao trong ba ngày đầu và sau đó được phép khử nước, trong thời gian 8 ngày. Các nhà nghiên cứu chọn ngẫu nhiên sáu chiếc lá đã được tiếp xúc trực tiếp với nguồn ánh sáng và gắn cảm biến vào chúng, tránh các gân lá chính và các cạnh. Họ ghi lại các số liệu trong khoảng năm phút một lần.

Sự thay đổi độ dày của lá hằng ngày là không đáng kể khi độ ẩm của đất dao động từ cao đến điểm héo. Tuy nhiên, sự thay đổi đã được ghi nhận ở ẩm độ đất thấp hơn điểm héo và độ dày này ổn định trong hai ngày cuối cùng của thí nghiệm khi hàm lượng hơi nước đạt 5%.

Điện dung ở lá gần như không đổi ở một giá trị tối thiểu trong suốt thời kỳ tối và tăng nhanh trong thời kỳ sáng, cho thấy nó phản ánh hoạt động quang hợp. Các biến thể điện dung hằng ngày biến đổi khi độ ẩm của đất dưới điểm héo và hoàn toàn giảm xuống dưới mức dung lượng nước 11%, cho thấy ảnh hưởng của áp suất nước lên điện dung đã được quan sát qua ảnh hưởng của nó đối với quang hợp.

Nhà khoa học Amin Afzal, thuộc Đại học bang Pennsylvania, thành viên nhóm nghiên cứu nói: “Độ dày của lá giống như một quả bóng – nó phồng lên do sự hydrat hóa và co lại bởi sự căng thẳng của nước, hay mất nước”.

Cơ chế đằng sau mối quan hệ giữa điện dung của lá và nước là phức tạp. Điện dung của lá thay đổi để đáp ứng sự thay đổi tình trạng nước của cây trồng và ánh sáng xung quanh.Vì vậy, việc phân tích chiều dày lá và biến thể điện dung cho thấy tình trạng nước của cây được cung ứng tốt hay là bị khô hạn.

Nghiên cứu này cũng nhằm phát triển một hệ thống mà các cảm biến gắn trên lá sẽ gửi thông tin chính xác về độ ẩm thực vật tới một đơn vị trung tâm ở cánh đồng, sau đó truyền thông theo thời gian thực cùng hệ thống tưới tiêu để tưới cho cây trồng. Các cảm biến có thể được cung cấp điện không dây với pin hoặc pin mặt trời.

Trong một nghiên cứu tiếp theo, Afzal vừa hoàn thành việc đánh giá cảm biến lá trên cây cà chua trong nhà kính. Ngoài ra, ông đang phát triển một thuật toán để chuyển biến dạng độ dày và điện dung của các lá phiếu sang các thông tin có ý nghĩa về tình trạng nước cây.

Nguồn: Dwrm.gov.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nông sản Việt “hái” tiền đô nhờ công nghệ Nhật

Sản xuất, chế biến theo công nghệ Nhật Bản giúp nông sản Việt Nam dễ dàng chinh phục các thị trường khó tính.

Từ sự hợp tác tận tình của đối tác Nhật Bản trong chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã làm sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn công nghệ của Nhật và gặt hái thành công.

Trồng hoa xuất sang Nhật bằng… cảm biến

Nắm thông tin về thị trường tiêu thụ hoa khổng lồ của Nhật Bản với 9 tỉ USD mỗi năm từ Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro), Công ty Pan Saladbowl đã chọn hoa cúc với 40 giống có màu sắc và kiểu hoa khác nhau làm sản phẩm chiến lược để đầu tư công nghệ Nhật, xuất khẩu sang Nhật. Đây là một trong những thị trường khắt khe nhất và khó nhằn với bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào.

Theo bà Nguyễn Thị Trà My, Chủ tịch HĐQT Công ty Pan Saladbowl, không phải tự nhiên Pan Saladbowl đi vào con đường khó mà có sự tính toán rất chi tiết và cẩn trọng. “Tại điểm khởi đầu, công ty đã tìm hiểu các cơ hội, nắm bắt nhu cầu thị trường, có đối tác cam kết tiêu thụ đầu ra, rồi mới tiến hành xây dựng nhà kính, đầu tư máy móc, công nghệ. Cách làm này sẽ không đặt doanh nghiệp vào thế rủi ro do đầu tư quá lớn nhưng không bán được hàng hóa” – bà My chia sẻ.

Một nhóm chuyên gia Nhật đã hỗ trợ Pan Saladbowl từ phân tích vùng trồng, thổ nhưỡng cho đến tư vấn kỹ thuật sản xuất. Theo đó, toàn bộ diện tích hoa trồng trong nhà kính với khả năng kiểm soát môi trường và khí hậu tối đa cho cây trồng thông qua các cảm biến và hệ thống máy tính tự động.

Quy trình trồng, chế biến chuối theo công nghệ Nhật được theo dõi rất chặt chẽ. Có khi chỉ một vài trái xấu phải bỏ cả nải chuối.

Một công nghệ hiện đại của Nhật Bản được công ty ứng dụng là sử dụng công nghệ IT, điện thoại thông minh vào quản lý, sản xuất nông nghiệp. Với việc áp dụng công nghệ này, người quản lý không cần ra đồng vẫn nắm bắt, biết được công nhân đang làm gì và hiệu quả công việc ra sao. Mỗi công nhân được trang bị một điện thoại thông minh đã cài sẵn chương trình quản lý.

Ví dụ, khi bắt đầu công việc thì nhấn vào nút bắt đầu, như bắt đầu lên luống hoặc tra hạt, chăm sóc… đến khi dừng công việc thì ấn vào nút kết thúc. Tất cả thông tin về quy trình đó sẽ lập tức được gửi về máy chủ và người quản lý sẽ biết được các công việc hay tình hình đang diễn ra.

“Suất đầu tư lên đến 10 tỉ đồng cho 1 ha nhà kính nhưng đổi lại, mô hình này đáp ứng được các tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường Nhật, đảm bảo hoa đạt chất lượng đồng đều, màu sắc, trọng lượng, tuổi thọ kéo dài 6-7 tuần” – bà My tiết lộ.

Hiện nay, Pan Saladbowl sản xuất một năm hơn bảy triệu cành hoa cúc và cẩm chướng, xuất khẩu hết sang thị trường Nhật. “Các đối tác Nhật cho biết nếu công ty tăng thêm sản lượng gấp 2-3 lần thì thị trường Nhật vẫn bao tiêu hết” – bà My chia sẻ tin vui.

Khổ trước nhưng sướng sau

Không chỉ hoa mà gần đây, nhiều trang trại, doanh nghiệp Việt đã áp dụng thành công công nghệ Nhật để trồng rau, quả… Là đơn vị đầu tiên và duy nhất hiện nay xuất khẩu thịt gà sang Nhật Bản, ông Khưu Nhon Hiếu, Tổng Giám đốc Koyu&Unitek, cho biết để có kết quả này công ty đã phải trải qua các điều kiện, thủ tục thú y mất gần ba năm.

“Đặc biệt, công ty phải bỏ ra 6 triệu USD nhập dây chuyền máy móc, công nghệ từ Nhật Bản để xây dựng nhà máy có công suất chế biến 50.000 con gà/ngày” – ông Hiếu cho hay.

Ông Nguyễn Minh Kha, chủ trang trại gà đang cung ứng gà cho Công ty Koyu&Unitek, cho biết thêm để xuất khẩu được hàng đi Nhật cần tuân thủ các điều kiện rất khắt khe về chất lượng. Theo đó, toàn bộ gà giống phải được nhập khẩu từ Pháp và Mỹ.

“Trong quá trình nuôi không được xảy ra các dịch bệnh cúm gia cầm, bệnh dịch tả và không tồn dư kháng sinh. Ngay cả một số kháng sinh mà Việt Nam cho phép dùng trong chăn nuôi, Nhật cũng không cho sử dụng” – ông Kha kể.

Thành công với việc xuất khẩu thương hiệu chuối Fohla sang Nhật, Hàn Quốc và Singapore, ông Võ Quang Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, chia sẻ phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, thất bại nhiều lần mới đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường khó tính này vì trước đây doanh nghiệp chủ yếu xuất dễ sang Trung Quốc.

Ông Huy nhấn mạnh: “Dù khó khăn nhưng khi đã áp dụng theo các tiêu chuẩn, quy trình công nghệ Nhật thì doanh nghiệp không chỉ tiết kiệm được chi phí nhân công, giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giảm hư hỏng nông sản sau thu hoạch… Quan trọng nhất là uy tín, chất lượng, thương hiệu được bảo đảm”.

Lợi cho nông dân

GS Võ Tòng Xuân, chuyên gia lĩnh vực nông nghiệp, cho rằng nông nghiệp Nhật Bản từ lâu đã nổi tiếng với công nghệ hiện đại, sản xuất sạch. Những năm gần đây, các doanh nghiệp Nhật đang chọn Việt Nam nơi có điều kiện thổ nhưỡng tương đồng, thích hợp để hợp tác đầu tư công nghệ cao trong nông nghiệp. Đây cũng là hướng phát triển mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hướng tới, hợp tác trực tiếp với Nhật để làm theo đơn đặt hàng.

Tuy vậy, theo GS Xuân, ngoài áp dụng công nghệ Nhật thì cần phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp như Nhật với khả năng thực hiện đa nhiệm vụ. Cụ thể, một hợp tác xã có thể kinh doanh hàng loạt dịch vụ kinh tế-xã hội như cung cấp nguyên liệu đầu vào, tổ chức thị trường đầu ra, cho vay tín dụng, cung cấp dịch vụ bảo hiểm, phân phối hàng tiêu dùng…“Hợp tác xã kiểu Nhật cũng là đầu mối áp dụng khoa học kỹ thuật hợp tác chuyển giao với các doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra, bảo vệ quyền lợi cho nông dân” – GS Võ Tòng Xuân gợi ý.

Nhiều ý kiến khác cũng cho rằng lời giải việc tăng giá trị nông sản, mang lại lợi nhuận cao nằm ở việc phát triển công nghệ trong nông nghiệp. Câu chuyện hàng Việt áp dụng công nghệ Nhật là kinh nghiệm tốt. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cũng cho biết hiện nay Bộ đang phối hợp với bộ, ngành liên quan đẩy nhanh các mô hình liên kết nông nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực rau quả nói riêng, trồng trọt nói chung phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Nguồn: Tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Triển vọng thuỷ sản xuất khẩu sang Canada

Mặc dù Canada là nước sản xuất thủy sản lớn trên thế giới, tuy nhiên hiện nay, nhiều mặt hàng thủy sản của Việt Nam, nhất là tôm thẻ, tôm sú vẫn được các DN Canada nhập khẩu với số lượng đáng kể từ thị trường Việt Nam và dư địa thị trường này còn rất lớn.

Theo Tổng cục Hải quan, năm 2016, kim ngạch xuất khẩu (XK) thủy sản của Việt Nam sang thị trường Canada đạt hơn 183 triệu USD, đứng đầu trong nhóm các mặt hàng nông sản của Việt Nam sang Canada. 10 tháng đầu năm 2017, XK thủy sản sang Canada đã tiếp tục tăng khá với tổng kim ngạch hơn 186 triệu USD.

Tôm thẻ, tôm sú vẫn được các DN Canada nhập khẩu với số lượng đáng kể

Ông Nguyễn Như Tiệp, Cục trưởng Cục Quản lí chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (Nafiqad) đánh giá: Canada là nước có yêu cầu khắt khe vào diện bậc nhất thế giới về điều kiện nông sản NK, nhất là thủy sản. Vì vậy, đây cũng là thị trường giá trị cao, và khi nông sản Việt Nam đã XK được vào nước này, sẽ tạo ra điều kiện rất lớn để XK được sang các nước khác. Đối với thủy sản, ông Tiệp đánh giá các mặt hàng tôm của Việt Nam có cơ hội hơn cả để XK sang Canada do nhu cầu của nước này khá lớn. Bên cạnh đó, điều kiện của nhiều DN nuôi và chế biến tôm của Việt Nam về cơ bản đã có thể đáp ứng được yêu cầu của Canada. Tuy nhiên đối với vùng nuôi, Việt Nam vẫn cần hoàn thiện thêm mới có thể đáp ứng được yêu cầu.

Cụ thể, Canada đã chuyển sang cơ chế quản lí từ gốc. Theo đó, không chỉ các DN chế biến phải chịu kiểm tra mà cả các vùng nuôi nguyên liệu cũng phải được các cơ quan có thẩm quyền của Canada trực tiếp sang Việt Nam đánh giá, đạt yêu cầu mới có thể được cấp phép XK. Để thúc đẩy XK tôm của Việt Nam sang thị trường này, Canada thời gian qua cũng đã trực tiếp hỗ trợ cho Việt Nam dự án hỗ trợ kỹ thuật để các DN và nông dân tự cải thiện nâng cấp để tự kiểm soát về ATTP. Hiện một dự án giá trị 15 triệu USD do Canada tài trợ với mục tiêu giúp Việt Nam cải thiện ATTP trong nuôi trồng thủy sản sẽ được triển khai trong năm 2017.

Nói về triển vọng thương mại nông sản và hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam và Canada, ông Nguyễn Đức Hòa, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Canada cho biết: Canada là quốc gia có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho nông nghiệp, nhất là đất đai rộng, công nghệ về nông nghiệp hàng đầu thế giới. Vì vậy, kể cả trong hợp tác để trực tiếp đầu tư SX nông nghiệp của Việt Nam tại Canada trong thời gian tới là rất khả quan, hiện một số DN cũng đã và đang sang Canada thuê đất đầu tư nông nghiệp.

Ngoài ra, qua tìm hiểu, các DN tại Canada cũng rất quan tâm tới Việt Nam về nông nghiệp, trong đó có cả vấn đề kinh nghiệm của nền nông nghiệp Việt Nam trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo ông Hòa, hạn chế lớn nhất về thị trường Canada đó là thông tin và sự hiểu biết hai chiều giữa các DN Việt Nam và Canada còn khiêm tốn.

Theo ông Hòa, thời gian tới, Bộ NN-PTNT nên tổ chức các đoàn DN có thế mạnh của Việt Nam trực tiếp sang Canada để cùng gặp gỡ với các DN nước bạn. Phía Đại sứ quán Việt Nam tại Canada sẽ hỗ trợ để các DN hai bên gặp gỡ, tìm kiếm cơ hội hợp tác cụ thể.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Việt Nam chính thức tự sản xuất nguồn tôm bố mẹ

Ngày 11-11, Tập đoàn Việt – Úc đã công bố chương trình sản xuất tôm bố mẹ tại Việt Nam.

Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu, chọn tạo, gia hóa và sản xuất tôm bố mẹ cùng tôm giống ngay trong nước là cấp bách và rất quan trọng trong việc chủ động nguồn tôm giống phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ USD tôm vào năm 2020.

Hiện mỗi năm cả nước nhập khẩu 230.000 con giống, trong khi chỉ có 2 đơn vị được công nhận sản xuất giống thủy sản mới là Tập đoàn Việt – Úc và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1 sản xuất được 20.000 – 25.000 con giống/năm. Nhu cầu này sẽ tăng lên 400.000 – 500.000 con giống/năm 2025.

Năm 2015, Tập đoàn Việt – Úc là doanh nghiệp đầu tiên chọn tạo thành công giống tôm thẻ chân trắng bố mẹ chất lượng cao được Bộ NN-PTNT công nhận giống mới là đóng góp quan trọng chọ sự phát triển chung ngành tôm Việt Nam.

Đây là kết quả của hơn 5 năm triển khai chương trình chọn giống tôm bố mẹ thẻ chân trắng mà Tập đoàn Việt – Úc hợp tác với Viện CSIRO. Hiện đã chọn được giống thế hệ G7 với tốc độ tăng trưởng bình quân tốt hơn thế hệ G0 là 48%. Từ chỗ nguồn tôm bố mẹ chủ yếu được sản xuất từ Mỹ, Singapore, Thái Lan, nay Việt Nam chính thức tự sản xuất nguồn tôm bố mẹ riêng.

Dịp này, Tập đoàn Việt – Úc ký kết hợp tác chiến lược với Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, Đại học Nông Lâm TP, ĐH Cần Thơ, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Nha Trang và một số tỉnh nhằm sản xuất ra tôm giống phục vụ nhu cầu tại chỗ. Tổng công suất các trại nuôi của Tập đoàn Việt – Úc trên 50 tỷ con giống/năm.

Nguồn: Vietuc.com.vn được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Chất lượng tôm giống Nam Trung bộ đứng đầu!

Tôm giống SX tại Nam Trung bộ được người nuôi trồng thủy sản đánh giá đứng đầu cả nước. Để không ngừng nâng cao chất lượng, uy tín và thương hiệu tôm giống “ra lò”, các DNSX tôm giống đã mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất, phát triển theo hướng công nghệ cao, hiệu quả và bền vững.

“Thủ phủ” tôm giống lâu đời

Các tỉnh Nam Trung bộ được xem là thủ phủ tôm giống lớn nhất cả nước. Hàng năm, các cơ sở SX tại khu vực này cung cấp khoảng 50% lượng tôm giống nước lợ cho người nuôi tôm khắp các tỉnh, thành, số còn lại SX tại các tỉnh ĐBSCL (Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,…) cùng một số tỉnh phía Bắc.

Tôm giống sản xuất tại Nam Trung bộ được người nuôi tôm ưa chuộng

Nghề SX tôm giống ở Bình Thuận bắt đầu hình thành từ những năm 1990 với vài cơ sở nhỏ lẻ ở khu vực Bực Lỡ, xã Vĩnh Tân (Tuy Phong). Sau đó bung ra rất mạnh giai đoạn 1996-1998, và đến nay toàn tỉnh đã có 133 cơ sở SX giống thủy sản, với hơn 600 trại giống, tập trung chủ yếu tại xã Vĩnh Tân. Hiện Bình Thuận đóng góp sản lượng tôm giống chiếm 20% thị phần cả nước nhưng chiếm 70-80% về con giống chất lượng.

Ông Lưu Quyết Tiến, Phòng Quản lý nuôi trồng, Chi cục Thủy sản Bình Thuận, cho biết, sở dĩ tôm giống ở đây có chất lượng hàng đầu bởi ngoài điều kiện thiên nhiên ưu đãi như nguồn nước sạch, độ mặn nước biển ổn định, thì các DN còn có truyền thống, kinh nghiệm làm tôm giống nhiều năm, tâm huyết với nghề, chịu đầu tư cơ sở vật chất, áp dụng KHKT…

Trong đó, có nhiều cơ sở quy mô khá lớn, đầu tư trang thiết bị hiện đại với đội ngũ cán bộ kỹ thuật lành nghề, coi trọng chất lượng, uy tín, thương hiệu tôm giống, như Cty CP Thủy sản Việt Úc Bình Thuận (thuộc Tập đoàn Việt Úc), Cty TNHH Đầu tư thủy sản Nam Miền Trung, Cty Thông Thuận, Cty Đại Thịnh, DNTN Trần Hậu Điển, DNTN Tuấn Cự… Mỗi năm tỉnh SX trên 20 tỷ con tôm giống chất lượng cao, kháng bệnh tốt, nuôi mau lớn.

Còn tại Ninh Thuận, ông Nguyễn Xuân Thọ, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản, Chi cục Thủy sản tỉnh cho biết, toàn tỉnh có gần 500 cơ sở nhân ương, kinh doanh tôm giống, với hơn 1.200 trại tôm. Trong đó 2 vùng SX giống tập trung lớn nhất đã được quy hoạch ở xã An Hải (Ninh Phước) và xã Nhơn Hải (Ninh Hải); ngoài ra còn có khu vực SX giống nhỏ lẻ ở Cà Ná, Ninh Chữ, Tri Hải…

Hàng năm Ninh Thuận xuất ra thị trường khoảng 25- 30 tỷ con tôm giống, đáp ứng cho nhu cầu nuôi nội địa 30-40%, còn lại bán đi các tỉnh ngoài. Về chất lượng, tôm giống ở đây cũng đứng tốp đầu, được người nuôi ưa chuộng.

Không ngừng nâng tầm chất lượng

Để nâng cao chất lượng, các DN tôm giống ở cả 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận đã không ngừng nâng cấp, mở rộng quy mô SX. Các cơ sở đều chú trọng đầu tư, tìm kiếm những công nghệ SX con giống sạch bệnh, kháng bệnh, nuôi đạt tỷ lệ sống cao nhất, không sử dụng kháng sinh mà chỉ dùng men vi sinh.

Ông Phan Tuấn Cự, GĐ DNTN Tuấn Cự, Phó Chủ tịch Hiệp hội Tôm giống Bình Thuận chia sẻ: Trong lúc này, nếu các DN tôm giống không tự nâng cao trình độ, tạo ra con giống tốt thì người nuôi sẽ quay lưng lại, tôm giống nhập khẩu về nhiều sẽ “bóp chết” các cơ sở trong nước. Xác định được như vậy, các DN tôm giống ở Bình Thuận đều tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình kỹ thuật.

Thứ nhất, thường xuyên tu sửa, nâng cấp các bể ươm nuôi. Thứ 2, áp dung quy trình xử lý nước và lọc nước để có nguồn nước biển sạch nhất; áp dụng quy trình nuôi tảo tươi, men vi sinh, đặc biệt không dùng kháng sinh. Thứ 3, chọn lựa tôm giống bố mẹ tốt, chất lượng cao, không nuôi tôm bố mẹ quá thời gian quy định. Thứ 4, nguồn thức ăn mua của các Cty, tập đoàn uy tín, đảm bảo tôm ăn đủ lượng dinh dưỡng cần thiết.

Còn ông Nguyễn Xuân Thọ, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản, Chi cục Thủy sản Ninh Thuận cho biết để không ngừng nâng cao chất lượng tôm giống, các cơ sở SXKD ngoài việc đáp ứng các điều kiện cần thiết cho SX thì chất lượng tôm bố mẹ nhập từ nước ngoài cũng hết sức quan trọng.

Do đó các cơ sở tôm giống trong tỉnh đều nhập tôm bố mẹ từ Mỹ, Singapore, Indonesia, Thái Lan là những nước có quy trình giám sát, gia hóa, lai tạo, chọn lọc gen di truyền, ứng dụng công nghệ chọn giống tôm bài bản để cho ra đời những đàn giống chất lượng.

Dẫn chúng tôi tham quan sở sở tôm giống của mình, ông Phan Tuấn Cự cho biết, hiện DN đã quy hoạch khu nuôi tôm bố mẹ và tôm giống thành các khu SX riêng biệt. Để có nguồn nước nuôi ương tốt nhất, DN đã mua 2 máy lọc nước UF, đầu tư trang thiết bị, phòng xét nghiệm riêng, hiện đại cùng đội ngũ nhân viên, kỹ sư giàu kinh nghiệm.

DN chỉ chọn nhập tôm bố mẹ sạch bệnh, kháng khuẩn tốt; áp dụng công nghệ vi sinh (không có kháng sinh) trong SX để cho ra đời những mẻ con giống tốt nhất. Hàng năm DN cung cấp cho người nuôi trên 1 tỷ con giống, hang SX ra đến đâu bán hết đến đó, thậm chí cháy hàng.

Ông Huỳnh Quang Huy, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Bình Thuận khẳng định: Chúng tôi quyết giữ vững chất lượng tôm giống hàng đầu cả nước. Ngoài tăng cường kiểm soát đầu ra, đảm bảo con giống đạt tiêu chuẩn cao nhất, chúng tôi khuyến khích các DN ứng dụng công nghệ cao để chất lượng tôm giống không ngừng nâng lên. Đồng thời tháo gỡ các bất cập, đơn giản thủ tục hành chính và tạo điều kiện tốt nhất cho các DN.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tổng kết tình hình sản xuất muối và artemia

Ngày 15-11, tại Nhà văn hóa xã Vĩnh Tân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp UBND TX. Vĩnh Châu tổ chức Hội nghị tổng kết tình hình sản xuất muối, artemia năm 2017 và triển khai kế hoạch năm 2018.

Sản xuất artemia ở Vinh Châu.

Theo báo cáo, tổng diện tích sân nền sản xuất muối là 50,3ha, sản lượng thu hoạch 2.400 tấn, năng suất bình quân 47,7 tấn/ha và sản lượng muối mà diêm dân sau thu hoạch tiêu thụ được 63%, giá muối dao động từ 600 đồng – 750 đồng/kg; hiện số muối còn dự trữ tại hộ khoảng 880 tấn. Theo bà con diêm dân, sau thu hoạch trừ các khoản chi phí thì sản xuất muối mang lại lợi nhuận 3 triệu đồng/ha.

Đối với artemia, diện tích thả nuôi là 694ha, đạt 100% kế hoạch, có 302 hộ tham gia, sản lượng trứng bào xác thu hoạch gần 13.400kg, năng suất bình quân ước 19kg/ha, sau khi artemia hết cho trứng thì thu sinh khối bán với số lượng 117.950kg, giá trứng bình quân từ 1 – 1,1 triệu đồng/kg, ước giá trị hơn 14,7 tỉ đồng, người dân lợi nhuận đã trừ chi phí là 18 triệu đồng/ha.

Trong quá trình sản xuất, bà con gặp thuận lợi trong chỉ đạo sản xuất của các ban ngành địa phương nên đã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật do ngành chuyên môn chuyển giao trong kỹ thuật sản xuất muối, nuôi artemia, kể cả đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tiến các quy trình sản xuất, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm…

Bên cạnh thuận lợi đã nêu, tình hình sản xuất tại hộ dân được các đại biểu chia sẻ còn gặp một số khó khăn, như: thời tiết diễn biến phức tạp, mưa nhiều làm ảnh hưởng đến làm muối, việc thả nuôi artemia; hiện các kênh thủy lợi nội đồng bị bồi lắng làm ảnh hưởng trong việc lấy nước lên ruộng nuôi, nguồn vốn hỗ trợ còn hạn hẹp, khó tiếp cận vốn ngân hàng, đầu ra sản phẩm phụ thuộc thương lái.

Trong năm 2018, kế hoạch sản xuất muối trên địa bàn TX. Vĩnh Châu dự kiến 100ha, sản lượng 5.000 tấn và artemia sản xuất 650ha, sản lượng trên 30 tấn, năng suất khoảng 50kg/ha.

Để vụ mùa thành công cũng như tiêu thụ tốt sản phẩm sau thu hoạch, đồng chí Trương Văn Đúng nêu giải pháp trọng tâm, gồm: đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông nội bộ ở các hợp tác xã về nạo vét kênh cấp thoát nước bị bồi lắng, sạt lở, gia cố đường vận chuyển muối; tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật; mở các lớp chuyển giao kỹ thuật mới trong sản xuất muối, artemia; đề xuất các chính sách đầu tư vốn tín dụng, hỗ trợ lãi suất cho các hộ dân và hợp tác xã, xúc tiến thương mại mở rộng thị trường; nâng cao chế biến tạo sự ổn định trong khâu tiêu thụ.

Nguồn: Báo Sóc Trăng được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

 

Khánh Hòa: Thủ phủ hoa cúc Ninh Giang căng mình phục hồi sau bão

Thủ phủ hoa cúc Ninh Giang (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) không chỉ cung ứng hoa cho các tỉnh thành trong cả nước, mà còn xuất bán sang Campuchia trong dịp tết. Tuy nhiên, cơn bão số 12 đi qua đã gây thiệt hại nặng nề cho người trồng hoa nơi đây.

Phường Ninh Giang có khoảng 300 hộ trồng hoa, mỗi nhà trồng bình quân từ 200 – 1.000 chậu. Cơn bão số 12 đi qua đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống và tình hình sản xuất của bà con nông dân của phường. Bão đổ bộ, nước lũ dâng cao khiến một số diện tích hoa bị ngập úng; số khác bị đổ ngã, hư hỏng do gió bão kèm mưa lớn. Tuy đã thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ hoa nhưng làng hoa vẫn bị thiệt hại khoảng 30%, ước tính hơn 1 tỉ đồng.

Nông dân làng hoa cúc Ninh Giang đang nỗ lực hết sức để phục hồi cho cây hoa sau bão. 

Về làng hoa sau một tuần cơn bão đi qua, chúng tôi bắt gặp những diện tích hoa bị đổ, ngã, hư hỏng và bị vàng lá khá nhiều. Hiện nay, người dân đang tất bật khắc phục hậu quả sau bão. Những chậu cúc ngã đổ trong mưa bão đang được người dân dựng lại, uốn nắn và chăm sóc.

Không chỉ tốn công khắc phục những cây bị lỏng gốc sau bão, nông dân còn phải căng mình để phục hồi diện tích hoa bị bệnh vàng lá do ngập lụt. Người dân cho biết tuy có thể phục hồi sức sống cho hoa nhưng không thể bằng lúc trước, khiến giá trị cây hoa bị giảm sút.

Mưa bão đã làm một số chậu hoa bị bể, hư hỏng hoàn toàn.

Ông Trần Minh Tự – người trồng hoa ở phường Ninh Giang – cho biết: “Sau bão lại bị mất điện nên chúng tôi phải thuê máy phát điện với giá 300.000 đồng và tốn 10 lít xăng cho một đêm để chong đèn cho hoa. Nhưng nếu không chong đèn, hoa vào nụ sớm thì nông dân sẽ đứng trước nguy cơ trắng tay”.

Cây hoa cúc bị đổ ngã, xiêu vẹo trong gió bão khiến chậu hoa mất dáng được tạo trước đó. 

Ngoài ra, các chủ vườn hoa còn tốn thêm các kinh phí khắc phục, thuê nhân công để uốn lại nhánh, bơm xịt thuốc trừ sâu bệnh để hạn chế thiệt hại. Anh Thanh Nhàn – phường Ninh Giang – cho hay, những chậu hoa trước bão đã được cắm cây, tạo dáng nhưng sau bão bị đổ ngã, siêu vẹo nên phải dựng và chống đỡ lại cho từng cây.

Nhiều cây bị chết, héo úa. 

Những cây bị gãy, buộc phải cắt bỏ, chỉ còn trơ lại gốc.

Nông dân làng hoa còn phải căng mình khắc phục diện tích bị vàng lá do ngập lụt.

Dù trước đó đã được cắm cây, tạo dáng, nhưng sau bão, hoa bị ngã đổ, siêu vẹo nên nông dân phải thực hiện chống đỡ lại cho cây.

Nguồn: Báo Lao động được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm trên núi kiếm trăm triệu mỗi năm

Hàng chục hộ dân tại tỉnh Đồng Nai từ lâu sinh sống bằng nghề nuôi tôm trên núi đá. Hàng chục ha diện tích mặt nước trong xanh giúp họ thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

Nghề nuôi tôm ở vị trí đặc biệt này tồn tại từ lâu tại xã Trà cổ, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Hiện ở địa phương này có gần 50 ha mặt nước trong xanh trên núi dành để nuôi tôm.

Thu hoạch tôm ở Trà Cổ

Cách đây đến vài chục năm, nghề nuôi tôm trên núi đá ở đây đã hình thành. Những hồ nước hình thành trong không gian tuyệt đẹp, khí hậu trong lành lại đem đến nguồn thu nhập nuôi sống người dân.

Tôm được nuôi ở các hồ đá là loại tôm càng xanh, thân lớn, thịt chắc thơm ngon. Thức ăn dành cho chúng không phải thức ăn công nghiệp mà là cám từ bắp và các loại thực phẩm tạp ở miền quê do người dân tự chế biến.

Sản phẩm tôm trên núi

Theo một cán bộ xã Trà Cổ, hiện tại địa phương có khoảng 45 hộ làm nghề nuôi tôm càng xanh. Anh Đoàn Nam Quốc, một hộ nuôi tôm, cho biết nhà anh có hai hồ nuôi với tổng diện tích vài nghìn m². Mỗi đợt thu hoạch tôm cách nhau khoảng 4 tháng. Tôm nước ngọt có màu pha xanh bắt mắt, có con dài đến 25cm, trung bình cứ khoảng 10-15 con nặng 1kg.

Việc nuôi tôm ở vùng núi mang nét độc đáo của địa phương

Hiện, tôm này có giá gần 200.000 đồng/kg. Trung bình mỗi năm với diện tích 1 ha, người nuôi tôm thu về khoảng 200-300 triệu đồng.

Các hộ nuôi tôm cho biết cứ đến đợt thu hoạch thương lái từ các vùng đến thu mua.

Nụ cười mùa thu hoạch

Theo các cán bộ địa phương, hầu hết các hồ có diện tích lớn hình thành lâu đời từ đặc thù địa chất, cũng có nơi ở vùng trũng người dân tự khơi thành ao sử dụng tạo nên nguồn sống mang nét đặc thù cho vùng đất này.

Nguồn: Báo Người lao động được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tại sao côn trùng chưa được chấp nhận như là một nguồn protein để sản xuất thức ăn chăn nuôi?

Sử dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi là rất cần thiết trong tương lai. Chúng ta cần phải khẩn trương tìm một nguồn protein mới và côn trùng là một nguồn cung cấp protein có tiềm năng trong việc đảm bảo an ninh lương thực.

Các sản phẩm thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ côn trùng có chất lượng tương đương với các sản phẩm sản xuất từ bột cá và đậu nành dùng trong nuôi trồng thủy sản và trong chăn nuôi. Ngoài ra, chi phí thức ăn và diện tích đất để sản xuất 1 kg protein từ côn trùng cũng nhỏ hơn rất nhiều so với sản xuất 1 kg protein từ thịt động vật. Tuy nhiên, các quy định và pháp luật hiện hành có liên quan phải được xem xét để có thể chấp nhận việc sử dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Bài viết trình bày về những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng côn trùng để sản xuất thức ăn chăn nuôi. Nó cũng cung cấp một cái nhìn rõ ràng về các văn bản pháp luật hiện hành và những thay đổi cần phải thực hiện để hợp thức hóa việc sử dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi.

1. Những thuận lợi của việc sử dụng côn trùng làm thức ăn

– Có thể thay thế thịt

Bên cạnh việc sử dụng côn trùng làm thức ăn cho động vật, côn trùng còn có thể dùng làm thức ăn cho con người. Côn trùng được xem là một loại “gia súc mini” chúng chiếm một không gian sinh thái rất nhỏ so với nuôi các loài động vật cung cấp thịt khác. Giá trị dinh dưỡng của côn trùng tương tự như thịt bò. Hơn nữa, côn trùng còn chứa rất nhiều acid béo đa phân tử không bão hòa và rất nhiều khoáng chất, ví dụ như sắt.

Thực tế là các nguồn protein thay thế thịt có nhu cầu rất lớn trên thị trường do tốc độ gia tăng dân số trên thế giới ngày một nhanh, nhu cầu protein cũng rất lớn và liên tục tăng hàng năm. Nguồn cung cấp protein thông thường từ động vật đang ngày càng hạn chế. Côn trùng là một nguồn thức ăn đầy hứa hẹn cho con người và nó hiện là một phần trong chế độ ăn uống của hơn 2 triệu người trên thế giới. Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ và Hà Lan hiện đang nuôi côn trùng dùng làm thức ăn cho con người ở quy mô lớn.

– Thành phần sản xuất thức ăn bền vững

PROteINSECT là một dự án về sử dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi đang được triển khai nhằm cung cấp nguồn protein dùng để sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản. Một trích dẫn trong dự án cho biết “Côn trùng đang ngày càng được công nhận như là một nguồn protein thay thế tuyệt vời trong sản xuất thức ăn chăn nuôi.” Ngoài ra, có rất nhiều loài côn trùng có giá trị dinh dưỡng cao và sản xuất (nuôi) chúng rất ít có tác động tiêu cực đến môi trường so với nuôi động vật lấy thịt hay khai thác cá làm bột cá ở biển. Cũng theo dự án này, côn trùng rất dễ nuôi và phát triển rất nhanh trong các môi trường chất thải hữu cơ ví dụ như các loại rau củ thối, chất thải sinh hoạt.

 Ruồi lính đen trưởng thành 

– Chi phí nuôi côn trùng rất thấp

Một công ty mới thành lập của Pháp có tên là Ynsect đã tìm ra được một phương pháp thay thế protein từ đậu nành có giá rẻ và sẵn có ở địa phương trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ruồi lính đen, ấu trùng ruồi nhà (con dòi), con tằm (silkworm) và sâu quy hay sâu bột (mealworm) được xem là các loài có triễn vọng nhất đối với ngành công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi theo báo cáo mới đây của FAO và cơ quan lương thực Liên hiệp quốc. Theo FAO, nguồn protein như là bột thịt, bột cá và bột đậu nành chiếm tới 60-70% giá thức ăn chăn nuôi.

– Chất lượng thịt của động vật nuôi tốt hơn 

Yaohui Che, người làm việc trong một nông trại ở Quảng Đông (Trung Quốc) cho biết “Nuôi gà với côn trùng giúp cải thiện hệ thống miễn dịch của gà. Ngoài ra, nó cũng giúp cải thiện đáng kể chất lượng thịt gà.” Các thông tin này hy vọng giúp cho các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Châu Âu hiểu rõ hơn về nguồn protein mới này.

– Cung cấp nguồn protein bền vững hơn

Elaine Fitches, điều phối viên của dự án PROteINSECT cho biết “Chúng ta biết dân số thế giới ngày một gia tăng, con người ăn thịt nhiều hơn và vì thế chúng ta cần sản xuất một nguồn protein bền vững hơn.” FAO dự tính rằng thế giới cần gia tăng sản lượng thức ăn lên 70% vào năm 2050 để đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho khoảng 9 tỷ người. Sản xuất thức ăn chăn nuôi đang ngày càng cạnh tranh các nguồn tài nguyên (đất, nước, phân bón) với con người, với vấn đề đô thị hóa và thiên nhiên.

 Ấu trùng ruồi lính đen

– Phản ứng của các công ty 

Công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi Hà Lan Coppens và Công ty sản xuất côn trùng Hà Lan Protix Biosystems đã ký một thỏa thuận về việc sử dụng bột côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc. Khi luật pháp cho phép, các công ty có sẵn tất cả mọi thứ để sử dụng bột côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Họ sẽ sử dụng 200 tấn chất béo từ côn trùng và 300 tấn protein từ côn trùng. Nguồn nguyên liệu này đủ để sản xuất đủ 15.000 tấn thức ăn hỗn hợp cho chăn nuôi. Nguồn chất béo và protein này được cung cấp từ ấu trùng ruồi lính đen. Công ty Protix sản xuất được khoảng 2,5-3 tấn côn trùng mỗi tuần.

Ruồi lính đen được chọn nuôi do nó có chu kỳ sống ngắn và đẻ nhiều trứng. Chất béo (tinh khiết) được chiết xuất từ ấu trùng ruồi lính đen đã được chấp thuận sử dụng trong thức ăn chăn nuôi và nó sẽ là nguồn cung cấp chính cho công ty Coppens. Công ty Coppens muốn kết hợp các thành phần từ côn trùng để sản xuất các loại thức ăn đặc biệt, ví dụ như dùng cho heo con. Tỷ lệ tiêu hóa cao của nguyên liệu chế biến thức ăn từ côn trùng rất phù hợp và tốt cho giai đoạn nhỏ của động vật. Cả hai công ty nhấn mạnh rằng côn trùng sẽ là một phần của nguồn thức ăn có nguồn gốc tự nhiên cho gà và lợn. Chất kitin có trong khung xương của côn trùng còn có tác dụng chống lại vi khuẩn. Ảnh hưởng của các chất dinh dưỡng từ côn trùng cũng đang được nghiên cứu thêm.

– Các loài côn trùng phù hợp

Trên thế giới có khoảng hơn 1900 loài côn trùng có thể ăn được. Thực tế cho thấy rằng, ấu trùng của ruồi lính đen, ruồi nhà và sâu bột là rất phù hợp cho việc sử dụng các nguồn chất thải hữu cơ quy mô lớn và thích hợp cho sản xuất protein quy mô lớn. Do đó, các loài này rất phù hợp để nuôi và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm và dược phẩm. Theo dự tính, trong vòng 7 năm tới sẽ có khoảng 80 cơ sở sản xuất quy mô lớn đạt kim ngạch 420 triệu euro. Côn trùng là loài máu lạnh và do đó nó rất có hiệu quả trong việc biến các nguồn sinh khối có giá trị thấp thành nguồn protein có giá trị cao. Hàm lượng protein thô cao nhất trong nhộng ruồi nhà là 65,7% và thấp nhất là trên ấu trùng ruồi lính đen 38,9%.

– Một trường hợp điển hình: Công ty AgriProtein

Công ty AgriProtein thu gom các chất dinh dưỡng từ các lò giết mổ bao gồm máu và ruột để nuôi ruồi. Những quả trứng ruồi sẽ nở thành ấu trùng (dòi) và phát triển với tốc độ phi thường. Ấu trùng ruồi sau đó sẽ là nguồn cung cấp thức ăn tự nhiên cho cá và gà. Một kg trứng ruồi sẽ phát triển thành 380 kg ấu trùng trong vòng 72 giờ. Thành phần dinh dưỡng của bột cá và ấu trùng ruồi gần như giống nhau, do đó nó được chọn lựa như là một sự thay thế tuyệt vời cho bột cá khi công ty AgriProtein bắt đầu sản xuất và thương mại hóa sản phẩm thức ăn chăn nuôi của hãng. Công ty dự tính sản phẩm thức ăn chăn nuôi của hãng sẽ có giá rẻ hơn so với thức ăn làm từ bột cá, khoảng 900 USD/tấn so với 1.350 USD/tấn. Thế giới đang rất cần một nguồn cung cấp protein mới và bền vững hơn. Trong đó, ấu trùng ruồi là một nguồn protein thay thế tuyệt vời.

2. Những khó khăn khi sử dụng côn trùng làm thức ăn

– Cần nhiều thông tin hơn về việc sử dụng côn trùng làm thức ăn

Trong số hơn 1.300 người được hỏi ở 71 quốc gia, đại đa số (88,2%) cho rằng họ cần biết nhiều thông tin hơn về việc sử dụng côn trùng làm thức ăn cho người và động vật. Trong khi đó, có khoảng 66% người trả lời rằng ấu trùng ruồi là một nguồn protein phù hợp để sản xuất thức ăn chăn nuôi, có tới hơn một nửa (52,4%) người cho rằng không nên cho cá, gà và heo ăn thức ăn có chứa nguồn protein từ côn trùng vì họ không có thông tin đầy đủ về chủ đề này.

Rhonda Smith thuộc dự án PROteINSECT cho biết chúng ta cần phải tích cực công bố các thông tin cần thiết về việc sử dụng nguồn protein từ côn trùng đến công chúng. Hendrik de Vor, Tổng giám đốc công ty Coppens cho rằng chi phí sản xuất bột côn trùng hiện tại vẫn còn cao nhưng ông cho biết tiềm năng của việc sử dụng côn trùng trong tương lai là rất lớn. Công ty Coppens của ông muốn sử dụng côn trùng để làm thức ăn cho heo con, nhưng những ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng từ côn trùng lên heo con vẫn chưa được biết chính xác và cần phải nghiên cứu thêm.

– Các quy định và vấn đề pháp lý có liên quan đến việc sử dụng côn trùng

Hiện tại, việc sử dụng côn trùng làm thức ăn cho động vật bị cấm (2014). Như đã đề cập ở trên, các chất béo tinh khiết được chiết xuất từ ấu trùng côn trùng đã được phép sử dụng trong chế biến thức ăn động vật. Tuy nhiên, việc sử dụng protein từ côn trùng trong thức ăn chăn nuôi vẫn bị cấm do các bộ luật an toàn và chất lượng khác nhau, ví dụ như quy định TSE của Châu Âu về việc phòng ngừa và kiểm soát bệnh truyền nhiễm.

Trong các điều luật này, côn trùng thường được liệt kê trong danh mục “động vật nuôi- farm animal”. Do đó, côn trùng không thể được sử dụng để chế biến thức ăn cho một loài động vật nuôi khác. Theo TSE quy định, côn trùng được xem là protein động vật và như vậy nó không được phép sử dụng trong sản xuất thức ăn cho heo và gia cầm. Ngoài ra, chứng nhận GMP+ cũng cần phải được sửa đổi cho phù hợp với côn trùng. Ngoài ra, cũng cần phải có luật về việc sử dụng an toàn các chất thải như là rau củ quả thối, nước và phân dùng để nuôi côn trùng một cách có hiệu nhất.

– Cần quy mô lớn hơn nữa

Một ví dụ, muốn thay thế 5% lượng thức ăn cho gà thịt nuôi ở Hà Lan trong một năm cần phải cung cấp đủ khoảng 75.000 tấn côn trùng! Một cơ sở sản xuất côn trùng quy mô nhỏ có thể cung cấp 1 tấn/ngày (365 tấn/năm), do đó phải cần tới 200 công ty sản xuất côn trùng mới đủ đáp ứng 5% nhu cầu. Vì vậy, việc mở rộng quy mô sản xuất côn trùng là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường thức ăn chăn nuôi đang ngày càng lớn mạnh.

Sâu bột 

– Cần thêm các đánh giá rủi ro

Cần có thêm nhiều nghiên cứu về khả năng tiêu hóa dinh dưỡng của thức ăn sản xuất từ côn trùng. Nghiên cứu chỉ số amino acid thiết yếu của ruồi lính đen, ruồi nhà và sâu bột cho thấy các nguồn protein này cung cấp lượng amino acid thiết yếu vượt hơn nhu cầu tăng trưởng cần thiết của gà thịt và heo. Để thay thế hoàn toàn bột đậu nành trong thức ăn nuôi heo thịt và gà thịt cần khoảng 685,000 tấn côn trùng. Ngoài ra, đánh giá các rủi ro để tiếp tục sử dụng côn trùng như là một thành phần để sản xuất thức ăn chăn nuôi là cần thiết để xây dựng và phát triển các quy định pháp lý khác.

– Chi phí chế biến cao

Ấu trùng của các loài côn trùng như ruồi lính đen, ruồi nhà và sâu bột cần phải được xử lý để có thể sử dụng như là một nguồn nguyên liệu trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Thời hạn sử dụng của các loài côn trùng phụ thuộc vào các phương pháp chế biến và xử lý ví dụ như đông lạnh hay đông lạnh khô sẽ cho thời gian sử dụng lâu hơn so với các phương pháp chế biến khác, tuy nhiên đây là các phương pháp xử lý rất tốn kém.

– Phúc lợi động vật đối với côn trùng

Vấn đề phúc lợi động vật (animal welfare) cũng có liên quan đến các cơ sở nuôi côn trùng. Côn trùng hàng ngày được xem là các loài gây hại và gây ô nhiễm. Nhưng ngay khi chúng được nuôi dùng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, các quy tắc về quyền lợi của động vật và giết chúng cũng phải được quy định cụ thể. Hiện tại, các kiến thức về vấn đề này vẫn còn thiếu. Để đảm bảo rằng côn trùng được nuôi không chịu đau đớn, tổn thương, bệnh tật và sống một cách thoải mái, các định nghĩa về đau đớn và chịu tổn thương cũng cần phải được áp dụng đối với côn trùng. Các nhà nghiên cứu ở trường Đại học Wageningen đang tiến hành một nghiên cứu để xác định liệu côn trùng có cảm giác đau đớn hay không.

3. Những việc cần làm tiếp theo

– Giảm chi phí nuôi và chế biến côn trùng

Điều này là cần thiết để có thể sử dụng côn trùng như là một nguồn protein trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Các vấn đề có thể xem xét để giảm chi phí sản xuất như sau:

+ Gia tăng hiệu quả sử dụng thức ăn của côn trùng
+ Giảm chi phí nhân công lao động bằng cách ứng dụng cơ giới hóa, tự dộng hóa và các dịch vụ hậu cần
+ Giảm chi phí vận hành trang trại nuôi bằng cách nuôi côn trùng ở quy mô lớn
+ Giảm sử dụng năng lượng, trao đổi nhiệt độ và thông gió
+ Chỉ chọn nuôi loài côn trùng giàu protein
+ Giảm chi phí chế biến

– Những nghiên cứu bổ sung

Hiện nay sản lượng côn trùng thấp chủ yếu tập trung vào các đối tượng động vật nuôi trong các vườn thú và các cửa hàng thú cưng. Để sử dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi cần thêm có nhiều nghiên cứu như:

+ Giá trị thức ăn
+ Tỷ lệ bổ sung côn trùng trong thức ăn của động vật
+ Phân tích giá trị và các thành phần dinh dưỡng của côn trùng
+ An toàn khi sử dụng các chất thải sinh học để nuôi côn trùng
+ Chiết xuất các chất dinh dưỡng từ côn trùng
+ Thời hạn sử dụng
+ Khả năng sử dụng các sản phẩm sau khi nuôi và thu hoạch côn trùng

4. Kết luận

Để sử dụng côn trùng như là một nguồn nguyên liệu trong sản xuất thức ăn chăn nuôi ở quy mô lớn cần phải gia tăng sản lượng sản xuất côn trùng cả về số lượng lẫn chất lượng; giảm giá thành nuôi côn trùng để cạnh tranh với các nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi khác; xây dựng các chuỗi bao gồm nguồn cung cấp chất thải hữu cơ sinh học dùng để nuôi côn trùng, các công ty nuôi côn trùng, công nghiệp chế biến các loại côn trùng, công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, sản xuất gia súc, gia cầm, thủy sản và cả ngành phân phối và bán lẻ; vận động hành lang ở khu vực Châu Âu để sớm chấp nhận sử dụng côn trùng như là một thành phần trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Tóm lại, để đẩy mạnh việc ứng dụng côn trùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi cần làm rất nhiều việc đặc biệt là vấn đề pháp lý.

Nguồn: Aquanetviet.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong nông nghiệp và thực phẩm

Ở Nhật và một số nước khác trên thế giới, nông nghiệp đang tiến đến sử dụng công nghệ cao và các máy móc hiện đại. Tuy nhiên những người trẻ làm nông nghiệp đang ngày càng giảm, do vậy những người nông dân lớn tuổi đang đối mặt với nhiều khó khăn trong tiếp cận công nghệ mới.

Trong thế giới công nghệ cao,việc người nông dân lớn tuổi gặp khó khăn trong sử dụng các tiện ích công nghệ cao cho cây trồng hay còn gọi là mù thông tin được các chuyên gia gọi là “khoảng cách số”, là hệ quả của sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin và trở thành một vấn đề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp hiện đại.

“Đây chỉ là một trong những thách thức của công nghệ thông tin và truyền thông trong nông nghiệp”, Tiến sĩ Masayuki Hirafuji, Giám đốc Trạm Nghiên cứu Nông nghiệp vùng cao Memuro – Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Hokkaido thuộc Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp và Thực phẩm Nhật Bản cho biết.

Gần đây, trong buổi hội thảo quốc tế tại Bangkok, Thái Lan về “Quản lý thông minh công nghệ thông tin và truyền thông cho chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ở châu Á”, Tiến sĩ Hirafuji đã trình bày bài viết với tựa đề “Công nghệ thông tin và truyền thông đối với hiện tại và triển vọng đối với nông nghiệp và thực phẩm trong tương lai”. Trong bài trình bày của mình, ông đã giải thích rằng, mù thông tin là một quá trình lịch sử bắt đầu từ thập kỷ trước, khi người nông dân lớn tuổi không biết làm thế nào để sử dụng máy tính bỏ túi. Bây giờ vấn đề được lặp lại với việc sử dụng điện thoại thông minh. Như các nhà khoa học Nhật Bản giải thích: “Công nghệ thông tin và truyền thông trong giai đoạn mới rất quan trọng bởi vì hệ thống sản xuất nông nghiệp cực kỳ phức tạp. Nhiều loại dữ liệu như bản đồ thủy lợi, bản đồ phân bón, bản đồ năng suất và dữ liệu về chuỗi thời gian không thể thiếu cho việc ra quyết định. Người nông dân phải cố gắng ứng dụng các công nghệ và các thiết bị mới và chấp nhận rủi ro nếu họ muốn sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông có hiệu quả trong công việc của họ”.

Hiện nay các trang trại công nghệ cao ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản sử dụng công nghệ mới để đo lường độ ẩm đất, nhiệt độ đất,… trên các đồng ruộng khác nhau tại những thời điểm cụ thể trong ngày. Mọi người đều có thể xem dữ liệu bằng cách sử dụng một điện thoại thông minh bất cứ nơi nào.

Theo Tiến sĩ Hirafuji, hầu hết các chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản đã già, và nói chung, người già không muốn sử dụng các công nghệ mới. Một số người trong số đó rất ghét công nghệ thông tin và truyền thông vì nó nằm ngoài sự hiểu biết của họ. Nông dân lớn tuổi thường quen với nông nghiệp quy mô nhỏ. Công nghệ thông tin và truyền thông thông thường không được hữu ích trong nông nghiệp quy mô nhỏ mà thường phổ biến cho nông nghiệp quy mô lớn.

Vấn đề của sự lỗi thời

Cũng giống như công nghệ điện thoại thông minh đang phát triển nhanh chóng, sự phát triển của công nghệ truyền thông đang tiến triển rất nhanh. Trong bài báo của mình, TS. Hirafuji giải thích rằng sự tiến bộ của công nghệ thông tin thường được gọi là định luật Moore. Trong lịch sử, cứ sau 2 năm số lượng máy thu bán dẫn trên mạch điện tích hợp tăng gấp đôi. Tiến bộ nhanh chóng này gây ra các vấn đề lỗi thời. Người tiêu dùng phải mua các thiết bị và các phần mềm mới. Ngược lại, sự tiến bộ của công nghệ khác chậm hơn nhiều. Điều này trở nên rất khó khăn, đặc biệt là đối với nông dân.

Ví dụ, dữ liệu được ghi lại bằng cách sử dụng công nghệ thông tin đối với chương trình khai thác gỗ sẽ không thể tiếp cận khi định dạng dữ liệu hoặc bất kỳ tiêu chuẩn được thay đổi. Một số vấn đề có thể được giải quyết bằng công nghệ thông tin và truyền thông mới như điện toán đám mây.

Công nghệ sắp tới

Hiện tại, công nghệ canh tác mới đang được Nhật Bản và các nước trên thế giới quan tâm. Trong bài trình bày của TS. Hirafuji, ông đã nói lên những mong đợi trong công nghệ thực phẩm và nông nghiệp trong những năm tiếp theo. Có thể kể đến là kính Google, qua đó nông dân có thể nhận được thông tin bằng cách sử dụng giao diện đơn giản.

Một công nghệ được sử dụng mới nữa là phương tiện trên không (máy bay không người lái UAV), được sử dụng để theo dõi sự tăng trưởng của cây trồng, côn trùng gây hại, bệnh dịch đối với động thực vật, thiên tai và như vậy đây là một công cụ chi phí thấp cho các cảm biến từ xa thay vì các vệ tinh. Các UAV có thể hiển thị toàn bộ sinh trưởng phát triển của cây trồng. Ngoài ra, UAV có thể được sử dụng như một máy nông nghiệp chi phí thấp để gieo hạt và phun thuốc trừ sâu thay vì máy bay và trực thăng.

Điện toán đám mây lưu trữ số lượng lớn các dữ liệu trong hệ thống máy chủ doanh nghiệp và điều hành bởi các công ty công nghệ thông tin như Amazon và Google cũng đang được sử dụng. Đối với một số dữ liệu đo độ ẩm của đất, nhiệt độ đất…, có thể được ghi lại trên các đồng ruộng khác nhau theo từng giờ.

TS. Hirafuji thừa nhận sự phát triển của các ứng dụng cho nông nghiệp quy mô nhỏ là khó khăn hơn nhiều so với quy mô lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông gần đây như điện thoại thông minh, máy tính bảng, các mạng xã hội, công nghệ cảm biến, mạng cảm biến, điện toán mặc, điện toán đám mây,… dần dần được thay đổi. Yếu tố quan trọng nhất, theo ông, là tận dụng công nghệ thông tin để thu thập dữ liệu một cách toàn diện từ trang trại đến người tiêu dùng. Nếu xu hướng này tiếp tục và nông dân thực sự thấy nó hữu ích, các nhà khoa học sẽ luôn luôn tìm cách để điều chỉnh công nghệ phù hợp với các công nghệ theo nhu cầu của người dân.

Nguồn: Trung tâm khuyến nông quốc gia.