Mô hình nuôi cầy hương hiệu quả bất ngờ

Tình cờ biết được mô hình nuôi chồn hương ở Quảng Ngãi, anh Tuấn mua giống về phát triển mô hình. Sau 5 năm theo đuổi nghề nuôi đã đem lại thành công hơn mong đợi. Đến nay anh nuôi 22 con chồn hương giống, trong đó có 18 con chồn cái và 4 con đực giống và 30 chồn con, mỗi ngày cho ăn thức ăn khoảng 70.000 đồng.

Đến tham quan trang trại nuôi chồn hương của gia đình anh Nguyễn Phước Tuấn (45 tuổi ở thôn Châu Lâm, xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, Quảng Nam), chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi anh xây dựng được mô hình nuôi chồn khép kín ngay tại khu dân cư. Khu vực nuôi chồn hương nằm phía sau căn nhà được anh Tuấn thiết kế thoáng mát.

Trang trại chăn nuôi chồn hương của anh Nguyễn Phước Tuấn

Anh Tuấn kể, năm 2011 anh biết một người dân ở tỉnh Quảng Ngãi nuôi chồn hương. Qua tìm hiểu, anh thấy mô hình đầu tư ít vốn lại phù hợp với vùng bán sơn địa xã Bình Trị. Anh mua 4 con chồn cái và hai con chồn đực với giá 20 triệu đồng và đến cơ quan chức năng đăng ký nuôi.
Sau 2 năm chăm sóc, đàn chồn sinh sản lứa đầu được 14 con. Tuy nhiên kinh nghiệm chưa có nhiều, chồn mẹ cắn chết 8 con. “Ban đầu nên tôi không biết để tách chồn còn khỏi chồn mẹ khi sinh nên nhận phải “trái đắng”. Sau đó mỗi lần sinh sản, tôi đều tách ra nên không bị chết”, anh Tuấn cho hay.
Theo anh, chồn có đặc tính dễ nuôi, dễ chăm sóc, nó có thể ăn tất cả các loại thức ăn kể cả thực vật lẫn động vật (trừ chuột dú, cóc). Nó thường ăn cháo trắng và chuối vào ban đêm. Quen dần được tập tính của chồn, anh Tuấn tiếp tục mở rộng chuồng trại.
Đến nay anh nuôi 22 con chồn hương giống, trong đó có 18 con chồn cái và 4 con đực giống và 30 chồn con, mỗi ngày cho ăn thức ăn khoảng 70.000 đồng. “Khoảng 10 tháng nuôi chồn thương phẩm sẽ đạt trọng lượng hơn 3kg. Với giá bán là 1,3 triệu đồng/kg, mỗi năm tôi thu lãi hơn 100 triệu đồng. Nuôi chồn chi phí thấp nhưng lợi nhuận cao, lại nhàn nhã”, anh Tuấn tâm sự.

Mỗi ngày chi phí thứ ăn cho chồn khoảng 70.000 đồng

Theo anh Tuấn, loài chồn này chưa thể thuần chủng được nên vẫn giữ bản tính hoang dã rất dữ, nếu nhốt chung thường cắn nhau đến chết, vì vậy phải thiết kế những ô để nuôi riêng. Khu vực chuồng trại phải được thiết kế phù hợp với từng thời kỳ phát triển của chồn.
Đặc biệt, muốn nuôi được một con chồn cái sinh sản thì phải chú ý không để chồn quá mập. Chuồng trại phải được xây dựng rộng rãi, sạch sẽ để chồn có không gian vận động, có như vậy chồn mới sinh sản nhanh.
“Thường người nuôi không để ý đến những điều này nên nuôi không đạt hiệu quả, chồn cũng không sinh sản được. Ngoài ra chồn hương là loài ưa sạch sẽ, không thích chỗ ẩm ướt, hôi hám. Trong quá trình nuôi phải vệ sinh chuồng trại sạch sẽ để chồn không bị bệnh, thay nước uống thường xuyên, định kỳ mỗi tháng xổ giun một lần để chồn háu ăn, mau lớn”, anh Tuấn chia sẻ.
Người nông dân này cho biết thêm, vào mùa nắng phải tưới nước làm mát mái chuồng nuôi, vì chồn chịu được lạnh chứ không chịu được nóng. Khi chồn đẻ con thì phải chú ý quan sát kỹ lưỡng nếu không con lớn sẽ cắn chết con nhỏ. Nuôi được một tháng thì phải tách chồn con ra riêng, để giảm chồn con bị cắn, chồn mẹ mới tiếp tục sinh sản lứa thứ 2.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Anolit – chất khử trùng từ muối

Hiện cả nước đã có trên 600 thiết bị SX anolit được chế tạo và đưa vào hoạt động. Nhiều bệnh viện, trại chăn nuôi, xí nghiệp giết mổ chăn nuôi, cơ sở nuôi tôm giống…

Từ năm 1998, Viện Khoa học Vật liệu, sau đó là Viện Công nghệ môi trường thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã nghiên cứu chế tạo thiết bị SX anolit trên cơ sở các công nghệ được chuyển giao từ Nga và các quy trình sử dụng anolit.

Phun dung dịch anolit khử trùng, vệ sinh môi trường tại nhà lưới ở Thanh Hóa

Trong 15 năm gần đây, đã có trên 5 đề tài, dự án, nhiệm vụ cấp quốc gia và hàng chục đề tài, dự án cấp Bộ, cấp tỉnh được hàng chục đơn vị nghiên cứu thực hiện.

Hiện cả nước đã có trên 600 thiết bị SX anolit được chế tạo và đưa vào hoạt động. Nhiều bệnh viện, trại chăn nuôi, xí nghiệp giết mổ chăn nuôi, cơ sở nuôi tôm giống, nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản, trồng và bảo quản các loại trái cây có giá trị và khả năng xuất khẩu cao đã sử dụng chất khử trùng này.

Viện Công nghệ môi trường là nơi duy trì được tập thể khoa học chuyên nghiên cứu về anolit sâu nhất và gần đây đã có bước tiến mới trong nghiên cứu chế tạo thiết bị SX anolit, đã được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích năm 2015.

PGS.TS Nguyễn Hoài Châu, Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện Công nghệ môi trường cho biết, chỉ cần dưới 3kg muối đã có thể SX được 2.000 lít anolit, khử trùng được cho 300 – 500m3 nước đạt yêu cầu nước sạch về vi sinh theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới và của Bộ Y tế hoặc khử trùng được cho diện tích 10.000 – 20.000m2 bề mặt sàn các phòng trong bệnh viện, trường học, nhà ở, trại chăn nuôi…

Tính ưu việt của anolit đã được khẳng định qua hàng ngàn công trình nghiên cứu về phương pháp chế tạo và mức độ ứng dụng nó tại rất nhiều nước trên thế giới. Dung dịch này diệt được rất nhiều loài vi khuẩn, nấm, virus và bào tử gây bệnh cho người, kể cả những loài có sức đề kháng cao như vi trùng bệnh lao, vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B.

Anolit khử trùng nhanh và mạnh, ít tác động đến sức khỏe của người và động vật vì có lượng clo hoạt động thấp và nhờ khả năng chống các chất oxi hóa của tế bào động vật cấp cao.

Anolit được tạo ra từ nước muối và dần trở về dưới dạng muối ăn thông thường có trong thiên nhiên nên không là chất tồn lưu làm ô nhiễm môi trường. Có giá rẻ do được SX chỉ từ điện và nước muối, tuy nhiên dung dịch anolit không bảo quản được lâu và hàm lượng clo hoạt động thấp nên không thuận tiện cho SX lớn vì chi phí vận chuyển cao, cần lắp đặt thiết bị tại cơ sở.

Do ảnh hưởng của áp mưa lớn trên diện rộng liên tục trong các ngày từ 9 đến 13/10/2017, nhiều địa phương ở Thanh Hóa đã bị ngập lụt nghiêm trọng. Một số nhà lưới của Cty TNHH Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Lam Sơn (huyện Thọ Xuân) bị ngập dài ngày. Cty đã đề nghị Viện Công nghệ môi trường hỗ trợ dung dịch anolit để khử trùng, làm vệ sinh. Với các thiết bị thế hệ mới đang được chế tạo thử nghiệm, trong thời gian gần 6 giờ, Viện SX được 1.200 lít dung dịch anolit để cung cấp kịp thời.

Ông Lê Huy Khiêm, PGĐ Cty đánh giá cao hiệu quả khử trùng, vệ sinh môi trường của dung dịch anolit và cho hay: “Đây là lần đầu tiên, chúng tôi sử dụng cùng lúc chất khử trùng này cho diện tích 5.000 – 6.000m2 trong các nhà màng, nhà lưới và tác dụng khử trùng, làm sạch môi trường của anolit thể hiện rõ rệt. Hiện dung dịch được SX tại Hà Nội, sau đó chúng tôi vận chuyển về bằng phương tiện xe tải. Về lâu về dài, Cty sẽ đầu tư thiết bị để chủ động SX tại chỗ”.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thâm canh cây có múi theo VietGAP

Đó là mục tiêu chính được các đại biểu 6 tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ (từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên – Huế) tập trung thảo luận tại diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp về “Giải pháp nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng cây ăn quả có múi” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Sở NN-PTNT Hà Tĩnh vừa tổ chức.

100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo an toàn

Hiện khu vực Bắc Trung Bộ đã phát triển được khoảng 16.279ha cây ăn quả có múi (cam, bưởi, quýt). Nếu so sánh với các vùng khác trong cả nước thì diện tích này không lớn, tuy nhiên những năm gần đây, khi thực hiện chương trình Nông thôn mới thì phong trào sản xuất cây ăn quả có múi tăng mạnh cả về quy mô diện tích, năng suất và hiệu quả kinh tế.

Theo Cục Trồng trọt, toàn vùng Bắc Trung Bộ đang có hơn 9.800ha cam phát triển tốt, tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Những năm gần đây diện tích cam trên cho năng suất, hiệu quả kinh tế khá cao, thương hiệu một số loại “đứng” được trên thị trường trong và ngoài vùng, thậm chí ở các thị trường “khó tính” như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Điển hình là cam Vinh, cam Vân Du, Sông Con (Nghệ An); cam Khe Mây, Thượng Lộc, cam bù Hương Sơn (Hà Tĩnh)…

Đối với cây bưởi, diện tích hiện có là 5.155ha (chiếm 20,6% so với diện tích toàn vùng phía Bắc và 8,6% so với cả nước). Tập trung nhiều ở Hà Tĩnh (khoảng 2.000ha); Thanh Hóa, Thừa Thiên – Huế (hơn 1.000ha/tỉnh) và Nghệ An (730ha). Có 2 thương hiệu bưởi nổi tiếng là Phúc Trạch (Hà Tĩnh) và Thanh Trà (Thừa Thiên – Huế). Còn cây quýt, hiện diện tích đạt khoảng 1.270ha; chủ yếu tập trung ở tỉnh Nghệ An với hơn 900ha.

Mặc dù nằm trong nhóm 15 loài cây trồng có diện tích và sản lượng lớn nhất trong sản xuất cây ăn quả của cả nước. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay trong phát triển cây có múi khu vực Bắc Trung Bộ là sản xuất quy mô nhỏ lẻ, phân tán (bình quân phổ biến 0,2 – 0,6ha/vườn hộ) dẫn đến quy cách, mẫu mã, chất lượng sản phẩm chưa đồng đều. Bên cạnh đó, tâm lý trồng cây ăn quả theo phong trào, tự phát; năng suất thấp, đầu ra bấp bênh nên không đảm bảo tính ổn định, bền vững.

Phó Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh cho biết, cam và bưởi là 2 cây trồng được tỉnh chọn chủ lực tập trung phát triển thời gian tới

Để khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế các vùng đất đồi khu vực Bắc Trung Bộ, ngành NN-PTNT và các nhà khoa học đang khuyến khích các địa phương tập trung thâm canh, hướng tới mở rộng áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP). Đối với cây cam, quýt, sản xuất tập trung trên 70% diện tích gắn với ngành công nghiệp chế biến; 100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo ATTP. Riêng cây bưởi, chú trọng tại Hà Tĩnh và Thừa Thiên – Huế, trong đó diện tích sản xuất tập trung trên 70% và 100% sản phẩm vùng tập trung đảm bảo ATTP.

Thu 5 tỷ từ cam

Theo đánh giá của nhiều hộ dân, hiệu quả kinh tế từ cây ăn quả có múi cao hơn nhiều lần so với trồng cây lâm nghiệp và các cây trồng khác. Đặc biệt, ở khu vực Bắc Trung Bộ, diện tích đất đồi núi lớn, nghèo chất dinh dưỡng và thường xuyên phải đối mặt với thời tiết bất thuận thì việc phát triển cây ăn quả là một hướng đi đúng đắn. Vấn đề bà con quan tâm, lo lắng nhất hiện nay là giống và đầu ra sản phẩm.

Ông Đinh Văn Oánh (64 tuổi) ở xã Hương Đô, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) nói: “Bây giờ virus gây hại cam rất nhiều do đó để nông dân tiếp cận được nguồn giống tốt, đề nghị các ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các giống cam mới; quản lý chặt chẽ hoạt động cung ứng giống tại các doanh nghiệp, đơn vị”.

Cũng theo ông Oánh, ngoài chất lượng giống thì cần khuyến khích, hỗ trợ người sản xuất tuân thủ quy trình VietGAP để nâng cao chất lượng trái cam.

Ông Oánh là một nông dân điển hình vùng đất Hà Tĩnh trong sản xuất đặc sản cam Khe Mây (huyện Hương Khê). Năm 1991 ông là người đem những cây cam chanh đầu tiên về trồng trên đất Hương Đô, đến nay diện tích tăng lên đạt 20ha; trong đó, 7ha cho thu hoạch; năng suất bình quân 15 – 20 tấn/ha; doanh thu năm 2017 ước đạt 5 tỷ đồng. Toàn bộ diện tích của ông đều áp dụng quy trình VietGAP.

“Đất Hương Khê là đất cát pha sỏi, cằn cỗi lại hứng nhiều đợt gió nồm, gió lào nên có vị rất riêng, hội tụ đủ 3 vị ngọt, chua, mặn. Với giá trị dinh dưỡng cao đó nên giá bán thường giao động từ 60.000 – 70.000đ/kg, cao hơn các vùng khác từ 20.000 -30.000đ/kg”, ông Đinh Văn Oánh nhấn mạnh.

Nông dân Hà Tĩnh giàu lên nhờ sản xuất cam

Theo báo cáo của Sở NN-PTNT Hà Tĩnh, cam và bưởi đang là 2 cây trồng được tỉnh xác định là cây chủ lực tập trung phát triển tại các huyện có diện tích đất đồi núi lớn như Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang, Can Lộc, Kỳ Anh. Năm 2017, hơn 1.290ha kinh doanh bưởi Phúc Trạch cho năng suất 10,4 tấn/ha; doanh thu bình quân đạt 500 triệu đồng/ha. Còn cây cam, diện tích đang tăng nhanh theo từng năm, năm 2017 đạt hơn 5.000ha; sản lượng hơn 47.000 tấn; doanh thu bình quân 350 triệu đồng/ha.

“Để gia tăng hiệu quả kinh tế, thời gian tới Hà Tĩnh tiếp tục lồng ghép các chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM để hỗ trợ nông dân; đồng thời, xây dựng chuỗi giá trị từ cung ứng giống đến bao tiêu đầu ra cho bà con. Trong đó, quan tâm hàng đầu hoạt động xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu sản phẩm”, ông Nguyễn Văn Việt, Giám đốc Sở NN-PTNT Hà Tĩnh nói.

Hàng năm cơ sở Tuyết Hùng, TP Hà Tĩnh bao tiêu hàng trăm tấn cam, bưởi, quýt cho người dân toàn tỉnh Hà Tĩnh. Theo chị Tuyết, cơ sở của chị là địa điểm thu mua sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, xuất xứ “độc nhất” ở TP Hà Tĩnh. Hơn chục năm qua, cơ sở đã đi tắt đón đầu, hỗ trợ, giúp đỡ người sản xuất trong việc tiêu thụ đầu ra, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà cầu sử dụng thực phẩm an toàn của người tiêu dùng ngày càng cao thì cơ sở Tuyết Hùng càng được chọn lựa hàng đầu.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối

Khu vực nuôi Artemia nằm trên khu vực làm muối là thích hợp hơn để có thể vận dụng kỹ thuật sản xuất muối vào kỹ thuật chuẩn bị nước mặn cho hệ thống nuôi.

1. Thiết kế, xây dựng ao

– Địa điểm tốt nhất phải gần nguồn nước biển và phải là khu đất thịt.

– Khu vực nuôi nằm trên khu vực làm muối là thích hợp hơn để có thể vận dụng kỹ thuật sản xuất muối vào kỹ thuật chuẩn bị nước mặn cho hệ thống nuôi.

– Hướng ao nuôi trùng với hướng gió chính của địa phương, diện tích ao nuôi thích hợp nhất từ 2.000 – 3.000 m2/ao.

– Bờ phải cao để giữ được mực nước tối thiểu trong ao là 50 cm. Có thể lắp đặt thêm hệ thống sục khí để phòng ngừa sự thiếu hụt oxy.

– Riêng đối với ao bón phân gây màu thì diện tích thường chiếm ít nhất 20% tổng diện tích mặt nước ao nuôi; độ sâu mực nước tối thiểu trong ao bón phân nên giữ  khoảng 60 cm.

2. Cải tạo ao nuôi

a) Ao mới

– Tiến hành sên vét lớp bùn đáy và phơi khô trong vòng 5 – 10 ngày.

– Bón vôi: Chỉ bón vôi khi pH của nước ao nuôi nhỏ hơn 7,5 và khó gây màu.  Liều  dùng khoảng 500 – 1.000 kg CaCO3/ha.

– Diệt tạp: Có thể dùng Rotenon (0,05 – 2,0 mg/l), bột hạt trà (15 mg/l) kết hợp urê và Chlorine (5 mg/l “N” và 24 giờ sau dùng 5 mg/l “OCl”), CaO (vôi bột), hoặc dây thuốc cá (1 kg/100 m3). Rotenone, Chlorine và CaO sẽ mất đi tính gây độc sau 24 – 48 giờ, nếu dùng bột hạt trà thì nên rửa ao trước khi thả  nuôi. Thực hiện tốt nhất vào buổi trưa.

– Lấy nước vào qua lưới lọc và tuân thủ nguyên tắc thả nuôi ở đúng độ mặn yêu cầu là 80‰.

b) Ao đã sử dụng

Vệ sinh sạch sẽ đáy ao, nếu ao có rong cỏ tạp phát triển thì phải được dọn sạch, lớp bùn đáy trong ao phải được sên vét ra, thường vào đầu vụ nuôi khi thấy mùa mưa đã kết thúc thì tiến hành bơm tháo nước ra khỏi ao nuôi để phơi ao và nuôi nước mặn (chuẩn bị nước mặn).

Chuẩn bị nước mặn bằng cách cho nước vào ao với mực nước khoảng 2 – 5 cm, sau 1 – 3 ngày thì nước sẽ bốc hơi và độ mặn tăng dần lên khoảng 5 – 10‰ sẽ được gom lại cho 1 ao. cứ  tiếp tục phơi nước như thế cho đến khi độ mặn ở ao trữ đạt 80‰ và mực nước tối thiểu 10 – 15 cm thì bắt đầu thả giống.

3. Thả giống

a) Kỹ thuật ấp nở

– Điều kiện ấp nở:

+ Ánh sáng: đặt đèn neon cách mặt nước bể ấp khoảng 20 cm.

+ Nhiệt độ: 28 – 30oC.

+ Độ mặn: 30 – 35‰

+ pH: 8,0 – 8,5

+ Mật độ ấp: 3 – 5g trứng cho mỗi lít nước.

– Cách làm: Nước được lọc sạch cho vào bể ấp; cân trứng vào bể theo mật độ trên, sục khí mạnh để cung cấp oxy và đảo trộn đều trứng. Sau 20 – 24 giờ trứng nở trên 90%, Artemia mới nở hay còn gọi là con non được chuyển trực tiếp ra ao (nếu thời gian vận chuyển ngắn hơn 30 phút) hoặc phải đóng oxy nếu thời gian vận chuyển kéo dài.

b) Kỹ thuật thả giống

– Khi nước mặn trong ao đạt độ mặn 80‰ và mực nước trong ao nuôi đạt tối thiểu 3-5 cm (trên mặt trảng) thì bắt đầu thả giống.

– Thời gian thả giống: Vào sáng sớm (6 – 7 giờ) hoặc chiều tối (17- 19 giờ).

– Mật độ thả: Mật độ thả giống lúc ban đầu là 100 con/l là thích hợp nhất  (tương đương với 3 lon trứng/ha)

– Vị trí thả giống: Bờ ao phía trên hướng gió hoặc đầu nguồn nước cấp.

4. Chăm sóc, quản lý ao nuôi

– Môi trường nước ao nuôi thích hợp

+ Độ mặn: 80 – 120‰

+ Nhiệt độ: 22 – 35oC

+ Oxy hòa tan: không thấp hơn 2 mg/l

+ pH: 7,0 – 9,0.

– Hàng ngày cần theo dõi một số yếu tố môi trường và quần thể Artemia. Mỗi buổi sáng và chiều nên theo dõi sức khỏe Artemia bằng cách dùng vợt vải mịn vớt mẫu cho vào chai thủy tinh trong suốt để quan sát sự tăng trưởng và phát triển quần thể Artemia. Quan sát tình trạng thức ăn trong ao thông qua quan sát đường ruột và hoạt động bơi lội cũng như màu sắc và các biểu hiện khác của chúng.

Artemia tập trung thành đàn, bơi lội nhanh và liên tục là quần thể khoẻ mạnh, tăng trưởng đồng  đều.

+ Thức ăn trong đường ruột đầy, không đứt đoạn là tốt, nếu có hiện tượngArtemia có “đuôi dài” (thực tế đây là sợi phân còn bám trên cơ thể) là doArtemia không tiêu hoá được thức ăn.

+ Con non Artemia (nauplii) sau khi thả sẽ phát triển qua các giai đoạn con non – thiếu niên –  tiền trưởng thành – trưởng thành, sau đó con cái sẽ tham gia sinh sản (đẻ con và đẻ trứng); con non thế hệ sau tiếp tục phát triển để gia tăng mật độ của quần thể, tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi mà thành phần, mật độ và tình trạng quần thể sẽ thay đổi. Thông thường, một quần thể Artemia khỏe mạnh sẽ có sự hiện diện đầy đủ các thành phần trên. Khi trong ao nuôi xuất hiện các điều kiện không thuận lợi như nhiệt độ cao, thiếu thức ăn, ô nhiễm… thì quần thể có sự mất cân đối giữa các thành phần nói trên (ví dụ có sự thiếu hụt con non, con đực hoặc con cái có buồng trứng nhỏ, hay túi ấp rỗng… đa số bơi lội lờ  đờ, màu sắc nhợt nhạt…)

– Cấp nước: Bù đắp sự thất thoát nước trong ao, đồng thời để cung cấp tảo (nước xanh) làm thức ăn cho Artemia. Lượng nước cấp vào ao đảm bảo độ muối khoảng 80‰ và độ trong 25 –   35 cm.

– Cung cấp thức ăn bổ sung

+ Sử dụng một số loại thức ăn cho tôm giống tôm sú có hàm lượng đạm gần 40%, hoặc một số loại thức ăn công nghiệp tương đương.

+ Lượng cho ăn tùy theo nhu cầu thực tế, thường 4 – 6 kg/ha/ngày.

+ Thời gian cho ăn buổi chiều mát hay buổi tối. Ngâm thức ăn vào trong nước 15-20 phút trước khi cho ăn. Khi cho ăn nên rải đều nơi Artemia tập trung.

– Bón phân trong ao

Các loại phân bón thường sử dụng:

+ Phân đạm (N): 1 – 10mg/l tùy theo môi trường ao nuôi.

+ Phân lân (P2O5): Bón phân lân 2 lần/tuần, khi bón vào ao nuôi thì lượng phân lân ít hơn phân đạm từ 3 – 5 lần.

+Phân bón vô cơ: Hoà tan phân bón trong nước ngọt trước khi bón. Không bón phân vào ngày trời u ám. Nên bón phân trong ao có độ mặn thấp (30 – 50‰). Các điều kịên trong ao bón phân nên được giữ càng ổn định càng tốt. Không nên bón phân vô cơ trực tiếp trong ao nuôi Artemia (trừ trường hợp trước khi thả giống).

+ Khi quần thể tảo phát triển ổn định, duy trì bón phân ít nhất 1 lần/tuần. Khi sử dụng phân gà để gây màu, nên bón ở liều lượng 500 – 1.000 kg/ha/tháng, phân Urê 50 – 100 kg/ha/tháng để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi. Thông thường nên duy trì độ trong của ao nuôi trong khoảng 20 – 30 cm là tốt nhất.

– Chế độ bừa trục: Vừa có tác dụng đảo trộn phân bón và thức  ăn trong ao,  vừa có tác dụng diệt các mầm rong đáy (lab-lab). Khi độ đục thích hợp hoặc nền đáy ao đã tơi mềm thì có thể giảm chế độ bừa trục.

Hàng ngày cần phải thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường để xử lý kịp thời, kiểm tra bờ bọng tránh rò gỉ thẩm lậu, kiểm tra lưới lọc để tránh sự xâm nhập của cá dữ…

5. Thu hoạch và sơ chế sản phẩm

Thời gian thu hoạch trứng bào xác Artemia khoảng sau 2 tuần nuôi từ lúc bắt đầu thả giống, trứng Artemia trong ao thường có màu vàng nâu nổi trên mặt nước và tập trung ở góc ao cuối hướng gió. Sử dụng vợt vải có kích thước mắt lưới khoảng 100 micromet để vớt trứng.

Việc thu hoạch nên được thực hiện 2 – 3 lần mỗi ngày (sáng, chiều mát, buổi tối). Thời gian thu hoạch trứng có thể kéo dài từ 1 đến 2 tháng nếu ao được quản lý tốt.

Trứng được thu phải lọc và rửa sạch qua túi lưới (0,5 mm) để tách rác và tạp chất lẫn, sau đó được rửa sạch và ngâm trong nước muối bão hòa (>250 ‰), hàng ngày nên đảo trộn trứng và rút bỏ cặn bẩn dưới đáy bể chứa, định kỳ hàng tuần nên chuyển trứng cho sấy khô và bảo quản.

6. Một số trở ngại có thể gặp trong ao nuôi và cách phòng ngừa

Địch hại

Thông thường cá rô phi, giáp xác chân chèo, chim là địch hại nguy hiểm đối vớiArtemia. Để ngăn ngừa các đối tượng trên cần: giữ độ mặn trong ao nuôi từ 80‰ trở lên, dùng lưới lọc nước có mắt lưới 0,5 mm khi bơm nước vào ao và giăng lưới, cờ…

Một số hiện tượng khác

– Ao bị rong mền: Sự xuất hiện rong mền khi độ mặn trong ao thấp. Cách khắc phục là duy trì độ mặn ao nuôi từ 80‰ trở lên.

– Ao bị rò rỉ làm thất thoát nước và Artemia thoát ra ngoài: Cần khắc phục đầm nén bờ ao thật kỹ.

– Ao bị đục bùn: Thường do sử dụng thức ăn là cám gạo hay phân gà trực tiếp trong ao quá nhiều hay nền đáy ao có lớp bùn đáy dày. Khắc phục bằng cách tăng cường cấp nước xanh, hạn chế bừa trục nền đáy ao. Tuy nhiên, cách tốt nhất là cải tạo lại  ao nuôi và lấy nước mới để thả giống lại.

– Artemia có hiện tượng đuôi dài do thức ăn không phù hợp hay khó tiêu hóa: Cần thay nước và sử dụng nước tảo có thành phần loài thích hợp cho ao gây màu.

– Không tham gia sinh sản: Thiếu ăn hay ao bị đục bùn làm cho Artemia không đủ năng lượng cho tái phát dục hoặc để đẻ trứng.

– Nổi đầu vào sáng sớm, màu sắc chuyển sang đỏ thẫm: Khi ao bẩn, hoặc tảo phát triển dày đặc, hậu quả làm thiếu oxy về đêm nên Artemia nổi đầu vào sáng sớm hôm sau. Nếu độ mặn tăng cao và ao thường xuyên nhiễm bẩn thì Artemia sẽ chuyển sang màu đỏ thẫm do thiếu hụt oxy nghiêm trọng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mô hình nuôi thỏ, gà kết hợp trồng trọt, thu 30 triệu đồng/tháng

Ngoài mô hình nuôi thỏ ta với quy mô trên 100 con, gia đình bà Lộc còn thực hiện thêm mô hình nuôi gà thả vườn với quy mô trên 350 con. Với kinh nghiệm nuôi gà hơn 15 năm, Bà Lộc luôn cho ấp trứng theo cách thông thường nhưng tỷ lệ nở gà con khá cao…

Thành ngữ Việt Nam có câu “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”. Câu nói đó thật đúng với trường hợp của gia đình bà Nguyễn Thị Lộc và ông Nguyễn Quốc Kim ngụ tại Kp7, phường Tân An, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Ở độ tuổi ngoại ngũ tuần, hai vợ chồng vẫn ngày đêm cần mẫn phát triển mô hình chăn nuôi kết hợp trồng trọt. Từ mô hình kết hợp này, mỗi tháng gia đình ông bà thu nhập được hơn 30 triệu đồng.

Mô hình nuôi thỏ và gà thả vườn của gia đình bà Lộc

Hơn 2 sào lúa đang trổ bông, 1 sào rau muống xanh mướt, một mô hình nuôi thỏ ta với hơn 100 con và hơn 350 con gà ta được nuôi theo cách thả vườn là điều ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi đến thăm gia đình bà Nguyễn Thị Lộc. Chừng ấy công việc, mà chỉ có 2 người làm là điều không hề đơn giản, nhưng với sự cần mẫn, chịu thương chịu khó, vợ chồng bà Lộc đã bố trí thời gian vừa trồng trọt vừa chăn nuôi hợp lý để vừa chăm sóc tốt cho đàn thỏ và gà cũng như chăm bón tốt cho lúa và rau muống, khiến cho ai nhìn vào vào cũng trầm trồ, ngưỡng mộ.

Bà Nguyễn Thị Lộc chia sẻ: “Khởi đầu ngày mới của gia đình bà thường bắt đầu với công việc đầu tiên là vệ sinh chuồng thỏ để đảm bảo vệ sinh môi trường, nhờ được chăm sóc tốt nên tỷ lệ thỏ lớn khỏe mạnh hầu như lúc nào cũng tuyệt đối, trọng lượng mỗi con thỏ ta nuôi khoảng từ 3 đến 4 tháng, xuất bán cho thương lái và các mối hàng kinh doanh lúc nào cũng trên 2 ký rưỡi. Với giá bán lẻ và bán sỉ đều như nhau: Khoảng 65 ngàn đồng/kg nên người mua khá ưa chuộng”

Chất lượng thịt thỏ của gia đình bà Lộc nuôi được nhiều người mua đánh giá là thơm ngon, chắc thịt… vì thỏ nhà bà Lộc nuôi được cho ăn chủ yếu là rau muống mà gia đình tự trồng, chỉ bổ sung một ít thức ăn tinh vào buổi trưa là từ thức ăn gia súc để đảm bảo dinh dưỡng cho thỏ. Với 20 con thỏ giống, mỗi tháng chúng sinh sản phát triển trung bình trên 50 con thỏ con, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình.

Ngoài mô hình nuôi thỏ ta với quy mô trên 100 con, gia đình bà Lộc còn thực hiện thêm mô hình nuôi gà thả vườn với quy mô trên 350 con. Với kinh nghiệm nuôi gà hơn 15 năm, Bà Lộc luôn cho ấp trứng theo cách thông thường nhưng tỷ lệ nở gà con khá cao, sau khi gà nở và trong quá trình chăn nuôi sau bà đều cho chúng uống vắc xin phòng bệnh theo từng giai đoạn, nên rất hiếm khi xảy ra dịch bệnh, tỷ lệ xuất bán mỗi tháng trên 100 con với giá khoảng 90.000 đồng/kg. Vào dịp Tết Nguyên Đán, gà nhà bà Lộc nuôi không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.

Bà Lộc trồng thêm lúa và rau muống để chủ động nguồn thức ăn cho thỏ và gà
Ngoài ra để tăng thêm thu nhập cho gia đình, bà Lộc còn trồng thêm 2 sào lúa và 1 sào rau muống. Một mặt là phát triển thêm kinh tế, mặt khác là để chủ động nguồn thức ăn cho thỏ và gà, không những tiết kiệm chi phí đầu tư thức ăn ban đầu, mà còn còn nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm chăn nuôi.

Ông Đỗ Bách Việt – PCT Hội Nông Dân phường Tân An cho biết: “Với mô hình vừa kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, gia đình bà Lộc thu nhập khoảng hơn 30 triệu đồng mỗi tháng”.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Khuyến cáo nuôi tôm hùm sông Cầu

Kết quả quan trắc môi trường các vùng nuôi tôm hùm tại TX Sông Cầu của Trung tâm Giống và Kỹ thuật thủy sản tỉnh Phú Yên cho thấy một số chỉ tiêu nằm ngoài ngưỡng cho phép.

Nhiều vùng nuôi tôm hùm ở Sông Cầu có các chỉ tiêu ngoài ngưỡng cho phép

Trung tâm đã khuyến cáo người nuôi tôm hùm vùng Phú Dương – Xuân Thịnh dịch chuyển lồng nuôi đến nơi có dòng chảy hoặc nâng lồng nuôi lên từ 0,5 – 1m, bảo đảm độ mặn tối thiểu 30‰.

Bên cạnh đó, hàm lượng DO tại vùng này (nước tầng đáy 4,9mg/l) cũng thấp dưới ngưỡng cho phép. Vì vậy, đề nghị các hộ di dời lồng bè đến nơi có dòng chảy, độ sâu thích hợp hoặc nâng lồng nuôi cách tầng đáy 1,5m.

Tại vùng nuôi Phước Lý – Xuân Yên chỉ tiêu H2S (nước tầng đáy) vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Các hộ nên dịch chuyển lồng nuôi đến nơi có dòng chảy, nâng lồng nuôi tôm cách tầng đáy 1 – 1,5m, bảo đảm độ mặn tối thiểu 30‰.

Ngoài ra, hàm lượng Vibrio spp tổng số vượt ngưỡng giới hạn cho phép tại nuôi Phước Lý – Xuân Yên (nước tầng đáy). Cần tăng cường vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ, không để hàu, hà… bám vào lồng.

Đồng thời Trung tâm lưu ý các hộ thu gom vỏ tôm lột, vỏ nhuyễn thể làm thức ăn cho tôm hùm, hệ thống cây làm bè đã hư hỏng nên thu gom, các bao đựng thức ăn đưa vào đất liền không nên xả thải vào Vịnh. Tăng cường sức khỏe của tôm hùm nuôi bằng cách sử dụng thức ăn tươi, đảm bảo chất lượng và bổ sung các chế phẩm sinh học, vitamin, khoáng chất nhằm giúp tôm giảm stress và tăng sức đề kháng trong điều kiện thời tiết thay đổi và tác nhân gây bệnh.

Hiện thời tiết vẫn còn đang phức tạp, nước ngọt từ thượng nguồn vẫn tiếp tục đổ vào vịnh. Do đó, các hộ nuôi cần chú ý dòng chảy, có khả năng độ mặn xuống thấp cục bộ một số vùng nuôi làm ảnh hưởng đến tôm hùm, cần thường xuyên kiểm tra độ mặn để có giải pháp ứng phó.

Đề nghị UBND các xã, phường và các tổ đồng quản lý thông báo kết quả quan trắc môi trường qua hệ thống loa phát thanh để các hộ nuôi tôm hùm biết và có giải pháp xử lý kịp thời.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Mất vụ bưởi cảnh Tết

Còn 2 tháng rưỡi nữa mới đến Tết Nguyên đán nhưng người trồng bưởi cảnh ở xã Diên Thạnh (huyện Diên Khánh, Khánh Hòa) vẫn không thể phục hồi hàng trăm chậu bưởi bị thiệt hại bởi cơn bão số 12.

Là người trồng bưởi cảnh lâu năm và cũng có số lượng bưởi cảnh lớn tại thôn Trường Thạnh (xã Diên Thạnh), ông Nguyễn Chí Phong buồn rầu trước vụ mùa năm nay. Gia đình ông có hơn 120 chậu bưởi cảnh dự định bán trong dịp Tết Nguyên đán, nhưng sau cơn bão số 12 đã có đến 110 chậu bị thiệt hại như: rụng trái, gãy cây, ngã… “Chi phí bỏ ra không nhiều, chỉ khoảng 40 – 50 triệu đồng nhưng tôi tiếc là số bưởi này đang ở thời kỳ sung sức, cho trái nhiều và đẹp. Nếu bán vào dịp Tết thì gia đình tôi cũng có số tiền lãi hơn 130 triệu đồng. Từ khi dâm cành đến khi bán một chậu bưởi, tôi phải mất gần 3 năm. Vậy mà đến lúc gần thu hoạch thì bị thiệt hại”.

Lo bị ngập lụt, bà Lê Thị Thanh Thủy kê cao các chậu bưởi và tích cực chăm sóc để kịp bán Tết

Ông Nguyễn Luyện (thôn Trường Thạnh) cũng cho biết, gia đình ông trồng gần 100 chậu bưởi cảnh nhưng cũng bị thiệt hại gần hết, phần lớn là bị rụng trái. Một số chậu chỉ còn lại 2 – 3 trái nên cũng không bán được. Ông Luyện nói: “Bưởi cảnh phải khoảng 4 trái trở lên thì thương lái mới thu mua. Các cây còn vài ba trái chỉ còn cách cắt trái bán thôi. Tôi đang cố gắng dọn dẹp, thu gọn lại các chậu bưởi để trồng các loại hoa ngắn ngày như thược dược, mào gà bán kiếm thêm tiền tiêu Tết”.

Những năm gần đây, do có thị trường tiêu thụ ổn định, giá thành cao (trung bình khoảng 1 triệu – 1,5 triệu đồng/chậu), bưởi cảnh đã trở thành cây trồng đem lại thu nhập cao cho nông dân xã Diên Thạnh. Năm nay, toàn xã có khoảng 10 hộ trồng bưởi với hơn 600 chậu. Được biết, sau vụ bưởi Tết năm trước, các hộ nhận tiền đặt cọc của các mối hàng ở TP. Hồ Chí Minh, Ninh Thuận cho vụ bưởi năm nay (từ 20 đến 30 triệu đồng). Với những thiệt hại do bão, các hộ phải hoàn trả tiền cọc, thông báo cho mối hàng biết và thông cảm. Tuy nhiên, người trồng bưởi lo ngại sẽ bị mất mối hàng vào năm sau.

So với những người trồng bưởi trong thôn, gia đình bà Lê Thị Thanh Thủy còn vớt vát được 40 chậu trên tổng số 100 chậu bưởi dự định bán trong Tết năm nay. Những chậu này do có nhiều trái nên khi những trái lớn bị rụng thì trên cây vẫn còn 5 – 6 trái nhưng đều là trái nhỏ. Hiện nay, gia đình bà đang nỗ lực chăm sóc, cắt tỉa cành, bón phân thúc để bưởi phát triển kịp bán Tết. Tuy nhiên, mấy ngày nay mưa nhiều, bà Thủy lại lo sẽ bị ngập nặng thì không còn chậu bưởi nào để bán.

Theo ông Lê Đình Thanh – Chủ tịch Hội Nông dân xã Diên Thạnh, cơn bão số 12 làm thiệt hại khá lớn đến nông dân trồng bưởi cảnh. Số ít chậu còn lại thì không đạt, trái nhỏ. Vài năm gần đây, nông dân trồng hoa nói chung và bưởi cảnh nói riêng đều gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do thời tiết thất thường. Nhiều năm bị mưa lụt, hoa tiêu thụ kém, năm nay lại bị bão nên nông dân lỗ vốn, lỗ nhân công. Vì thế, năm nay, nhiều nông dân đã nghỉ trồng hoa, cây cảnh hoặc vẫn trồng nhưng số lượng ít hơn. Số hộ nông dân trồng hoa, cây cảnh đã giảm một nửa so với trước. Hiện nay, toàn xã chỉ còn khoảng 20 hộ trồng tập trung tại các thôn: Trường Thạnh, Phú Khánh Hạ… Hội Nông dân xã đang xây dựng đề án trồng hoa, cây cảnh và khuyến khích nông dân tham gia nhằm tạo điều kiện cho hội viên vay vốn, nâng cao hiệu quả kinh tế của các cây trồng này.

Nguồn: Báo Khánh Hòa được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tham gia chuỗi sản xuất trứng cút sạch XK sang Nhật, thu 40 – 50 triệu đồng/tháng

Những người nuôi chim cút liên kết với doanh nghiệp tạo ra chuỗi sản phẩm sạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Đó là Tổ hợp tác nuôi chim cút Nguyễn Hồ ở xã Long An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

Thu gom phân loại trứng cút xuất khẩu

Ông Nguyễn Văn Nam, Phó Chủ tịch UBND xã Long An cho biết, ông Trần Nguyễn Hồ là người đầu tiên trong xã nuôi chim cút và sáng chế chuồng nuôi bằng sắt. Đặc biệt ông trực tiếp liên kết với một Cty Nhật Bản để tiêu thụ sản phẩm trứng sạch cho nông dân. Những cố gắng nỗ lực của ông đã được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2013…

Nhằm phát triển nghề nuôi chim cút, tháng 10/2014, UBND xã Long An đã thành lập THT nuôi chim cút Nguyễn Hồ do ông Trần Nguyễn Hồ làm Tổ trưởng. Qua quá trình hoạt động cho thấy, đây là một mô hình liên kết làm ăn rất ổn định và hiệu quả, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho bà con.

Ông Trần Nguyễn Hồ cho biết, từ khi có THT bà con được tập huấn kỹ thuật nuôi chim cút, dùng thức ăn tự trộn theo công thức riêng, có sự giám sát chặt chẽ của DN. Không sử dụng kháng sinh, thuốc tăng trọng và chất bảo quản. Thức ăn trộn cho ăn trong ngày, không để thừa sang ngày hôm sau.

Ông Trần Nguyễn Hồ chia sẻ, thức ăn cho vật nuôi rất quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại của cả THT, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng trứng. THT đã đầu tư 1 xe tải nhỏ chuyên thu gom trứng và 2 máy trộn thức ăn phục vụ các hộ nuôi, trứng sản xuất ra phải đảm bảo sạch. Hàng ngày THT cho xe tải nhỏ gom trứng của các hội viên về phân loại rồi xuất cho nhà máy đóng hộp trứng cút của Nhật. Sản lượng trứng xuất đạt 300.000 quả/ngày, với giá dao động từ 300 – 500 đ/quả.

“Để đảm bảo đủ sản lượng trứng cút cho thị trường XK, tôi đã mua thêm 2ha đất để làm nhà xưởng cho công nhân ở và xây chuồng trại. Tính tới thời điểm này gia đình đã nuôi 200.000 con chim cút”, ông Hồ chia sẻ.

Anh Huỳnh Văn Tuấn ở ấp Long Thạnh, xã Long An cho biết: “Trước đây gia đình anh làm rẫy trồng mía, trồng xoài. Do đất xấu nên SX không có hiệu quả. Năm 2005, ông Hồ chỉ cho cách làm chuồng trại và hỗ trợ vốn đầu tư nuôi 3.000 con. Khi có trứng bán thì ông trừ nợ dần. Ông Hồ không chỉ giúp anh mà còn giúp rất nhiều người ở trong xã. Đến nay họ đều tham gia THT tạo thành chuỗi sản phẩm sạch.

Hội viên tổ hợp tác đang thu hoạch trứng cút

“Bây giờ người nuôi không phải lo thị trường tiêu thụ như trước nữa. Cứ sáng sớm có xe của THT tới gom trứng, chiều là họ có tiền. Gia đình tôi đã phát triển được 30.000 con, mỗi tháng thu nhập 40 – 50 triệu đồng. Nhờ đó gia đình có của ăn của để”, anh Tuấn chia sẻ.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cảnh báo sâu bệnh tổng hợp tuần 1 tháng 11 (5-11/12)

Rầy, khô vằn, đen lép hạt… hại trên lúa mùa, lúa vụ 10 + 12 giai đoạn đẻ nhánh – thu hoạch. Bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ,… hại trên lúa Đông Xuân giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Bệnh bạc lá vi khuẩn hại cục bộ…


1. Các tỉnh phía Bắc

– Cây ngô: bệnh đốm lá, sâu đục thân… tăng. Rau màu: bọ nhảy, rệp, dòi đục hành… hại nhẹ đến trung bình; Bệnh lở cổ rễ trên khoai tây, bệnh héo xanh, xoăn lá trên cà chua… tiếp tục gây hại.

– Cây mía: Bệnh chồi cỏ tiếp gây hại. Cam, chanh, bưởi: bệnh chảy gôm, ruồi đục quả,… hại các vườn cây già cỗi, chăm sóc kém. Cây hồ tiêu: bệnh chết nhanh, bệnh gỉ sắt có xu hướng tăng. Cây cà phê: bệnh gỉ sắt tăng, bệnh khô cành, rệp các loại… gây hại mức độ tăng chậm.

2. Các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên

a) Cây lúa: Rầy, khô vằn, đen lép hạt… hại trên lúa mùa, lúa vụ 10 + 12 giai đoạn đẻ nhánh – thu hoạch. Bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ,… hại trên lúa Đông Xuân giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Bệnh bạc lá vi khuẩn hại cục bộ trên các giống nhiễm, vùng ổ dịch. Ốc bươu vàng di chuyển, lây lan theo nguồn nước.

b) Cây trồng khác: Cây ngô và rau màu: sâu tơ, sâu xanh, bọ nhảy, rệp… hại rải rác; bệnh xoăn lá cà chua gây hại; Bệnh đốm lá, khô vằn, sâu đục thân,… hại ngô giai đoạn trỗ cờ – thu hoạch.

– Cây cà phê: Rệp sáp, bệnh khô cành, gỉ sắt… tiếp tục gây hại. Cây hồ tiêu: tuyến trùng rễ, rệp sáp… tiếp tục gây hại. Cây điều: sâu đục thân, bọ xít muỗi, bệnh nấm hồng, thán thư… hại tăng. Cây dừa: bọ cánh cứng tiếp tục gây hại.

3. Các tỉnh phía Nam

a) Cây lúa: Rầy nâu: phổ biến trưởng thành, trứng, tuổi 1. Bệnh đạo ôn lá phát triển thuận lợi và gây hại trên trà lúa Đông Xuân sớm, trà lúa Mùa. Cần lưu ý đối với ốc bươu vàng, sâu năn, bệnh bạc lá vi khuẩn ở giai đoạn mạ đến đẻ nhánh – đòng, bệnh đen lép hạt ở giai đoạn trỗ chín.

b) Cây trồng khác: Cây thanh long: bệnh đốm nâu tăng diện tích nhiễm. Cây hồ tiêu: bệnh chết nhanh và chết chậm tăng diện tích nhiễm.

Cây điều: Diện tích nhiễm bọ xít muỗi tăng và bệnh thán thư giảm. Cây cà phê: bệnh khô cành giảm diện tích và rệp sáp tăng nhẹ diện tích nhiễm.

CỤC BVTV khuyến cáo

Trên lúa:

+ Để trừ ốc bươu vàng, dùng Honeycin 6G (5-6kg/ha), rải trên ruộng lúa xăm xắp nước 3-5cm khi ốc xuất hiện, hoặc rút nước cho ốc tập trung theo rãnh, rồi rải thuốc diệt ốc.

+ Đối với diện tích gieo sạ mới, dùng thuốc trừ cỏ Rainbow 410SE với cơ chế “Diệt mầm 2 lớp”. Sử dụng 1 cặp Rainbow 410SE (gồm Rainbow 125ml + Chất an toàn Fenclorim 50ml) cho 1.000m2. Phòng trừ rầy nâu, dùng Applaud 25WP – Giải pháp trừ rầy nâu (môi giới truyền bệnh VL-LXL), hoặc sử dụng Wellof 3GR (12-15kg/ha).

+ Đối với sâu cuốn lá nhỏ dùng Opulent 150SC (6ml/bình 16 lít) hoặc Wellof 330EC (0,8-1 lít/ha). Để trừ sâu đục thân dùng Nurelle D 25/2.5EC (1-1.5 l/ha). Để phòng trừ bệnh đạo ôn, dùng BEAM 75WP – “Cắt ngay cháy lá” (250g/ha). Sử dụng Aviso 350SC (0,35 l/ha) để phòng trừ bệnh lem lép hạt.

+ Phối hợp BEAM 75WP (250g/ha) + Bonny 4SL (500ml/ha) + Aviso 350SC (0,35 l/ha) phòng trừ bệnh đạo ôn, bạc lá do vi khuẩn và lem lép hạt cùng lúc tấn công. Sử dụng Pulsor 23DC (0,22-0,33 l/ha), Catcat 250EC, Vali 5SL phun khi bệnh vết bệnh khô vằn (trên lúa, ngô) lúc mới xuất hiện.

Cây rau:

+ Dùng phân bón lá Foliar Blend cung cấp dinh dưỡng vi lượng dễ hấp thụ cho cây trồng; kích thích sự phát triển của cây trồng, sự phát triển của vi sinh vật có ích trong đất.

Cây ngô (bắp): Dùng Maxer 660SC (1,25 – 2,5l/ha) trừ cỏ giai đoạn 7-20 ngày với ruộng ngô (bắp) biến đổi gen.

Cây tiêu: Đối với bệnh chết nhanh, chết chậm khuyến cáo phòng bệnh định kỳ. Kết hợp phun phủ trụ các sản phẩm Manozeb 80WP + Bonny 4SL, và kết hợp rải Wellof 3GR (20-25g/gốc) trừ rệp sáp gốc và rễ. Để trừ nấm Phytophthora (gây bệnh chết nhanh), dùng Gekko 20SC – Chứa hoạt chất Amisulbrom, tưới 4-6l/gốc để tiêu diệt mầm bệnh.

Cà phê: Phòng bệnh thán thư (khô cành, quả) sử dụng Manozeb 80WP (80g/bình 16 lít nước) kết hợp Aviso (20ml/bình 16 lít nước) để phòng và trị bệnh cho cà phê.

Nguồn: Cục bảo vệ thực vật 

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Nhờ phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, hơn 10 năm qua, giá trị sản xuất của ngành thủy sản tỉnh Tuyên Quang liên tục tăng bình quân trên 20%/năm.

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Đặc biệt, 5 loài cá đặc sản quý hiếm (ngũ quý xứ Tuyên) được nuôi bằng lồng trên sông Lô, sông Gâm theo quy trình VietGAP đã chinh phục khách hàng khắp nơi.

Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch

Tháng 5/2016, tỉnh Tuyên Quang có 2 đơn vị là Công ty TNHH Lâm sản và Dịch vụ Long Giang và Trang trại Trương Thị Hoài Linh vinh dự nằm trong tốp 69 đơn vị dẫn đầu được Bộ NN-PTNT công bố, công nhận “Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch”. Đây cũng là hai đơn vị nuôi trồng thủy sản nước ngọt tiên phong đầu tư tại Tuyên Quang. Các loại đặc sản gồm cá lăng, chiên, bỗng, dầm xanh và anh vũ.

Nuôi cá lồng theo quy trình VietGAP là đòi hỏi thiết yếu và mang lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi.

Bà Nguyễn Thị Vĩnh An, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Tuyên Quang cho biết, một mục tiêu quan trọng trong phát triển thủy sản tại Tuyên Quang là khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển nuôi cá lồng theo hướng VietGAP với các loại lồng nuôi có kích thước lớn (lồng kích thước 108m3) nhằm nâng cao năng suất, sản lượng cá lồng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.

Theo đó, Chi cục thường xuyên hướng dẫn người nuôi kiểm tra các yếu tố môi trường nước quan trọng như oxy hòa tan, pH, H2S, NH3… để có giải pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, hướng dẫn người nuôi cá theo dõi và chăm sóc cá nuôi hàng ngày để có biện pháp xử lý khi có hiện tượng bất thường xảy ra.

Khuyến cáo người nuôi không thả cá giống khi các yếu tố môi trường nước chưa đảm bảo, thực hiện nuôi theo đúng mật độ hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, khoảng cách giữa các cụm lồng/bè và mật độ lồng bè phải đảm bảo theo quy định.

Người dân không được cho cá ăn thức ăn hết hạn sử dụng, thức ăn không có trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, đối với thức ăn tươi sống phải cho ăn theo đúng khẩu phần ăn hàng ngày, không để thức ăn dư thừa làm ô nhiễm môi trường vùng nuôi…

Anh Nguyễn Trường Minh, Phó Giám đốc Công ty TNHH Lâm sản và dịch vụ Long Giang cho biết, công ty tổ chức nuôi trồng thủy sản trên hồ sinh thái Na Hang và hồ thủy điện Chiêm Hóa với số lượng 30 lồng nuôi cá đặc sản.

Theo anh Minh, giá cá giống rất đắt nên việc chọn nuôi theo quy trình VietGAP cũng là cách để hạn chế rủi ro. Theo đó, ngoài môi trường chăn nuôi sạch thì thức ăn chăn nuôi cũng phải đảm bảo an toàn. Hàng năm, công nhân công ty đều tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá. Công nhân thường xuyên kiểm tra thức ăn và lượng cá ăn hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp, vệ sinh lồng cá định kỳ tạo sự thông thoáng nước trong lồng để tăng hàm lượng oxy trong nước và chống ký sinh trùng trên cá, bổ sung khoáng chất, thuốc phòng ngừa dịch bệnh cho cá khi cần thiết.

Nhờ làm tốt quy trình, sau khi được Bộ NN-PTNT công nhận là “địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch” trên toàn quốc, tháng 3/2017, công ty đã được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận cơ sở nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn VietGAP. Sản lượng cá sản xuất ra không đủ cung cấp cho các đơn đặt hàng khắp nơi. Công ty đã lập kế hoạch tiếp tục mở rộng sản xuất, ngoài cung cấp thực phẩm tươi, sẽ mở thêm dịch vụ chế biến sẵn để tiêu thụ sản phẩm ở các chuỗi nhà hàng, siêu thị thực phẩm an toàn…

Bà Trương Thị Hoài Linh (chủ trang trại Trương Thị Hoài Linh) cho biết, trang trại của bà có quy mô chăn nuôi 40 lồng cá đặc sản tại huyện Na Hang. Làm VietGAP, ngoài nguồn nước thì việc chăm sóc là yếu tố quyết định hiệu quả chất lượng cá sạch. Hàng ngày, công nhân phải giặt lồng, giặt lưới để loại bỏ rong, rêu, loại bỏ các nguy cơ có thể gây bệnh cho cá; kiểm tra, phân loại cá để có cách chăm sóc phù hợp, bởi cá bé thì phải nghiền nhỏ thức ăn trước khi cho ăn.

Để đảm bảo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá, trang trại đã ký hợp đồng thu mua cá tạp với 30 hộ đánh bắt cá trên hồ thủy điện Na Hang. Đồng thời, đầu tư hệ thống kho lạnh với sức chứa 20 tấn, qua đó, nguồn thức ăn cho cá luôn đảm bảo yêu cầu. Từ nỗ lực thực hiện đúng quy trình chăn nuôi, sản phẩm cá sạch Na Hang của trang trại được khách hàng từ nhiều nơi đặt mua từ trước.

Bà chủ trang trại cho hay, việc mở rộng sản xuất khi trang trại hoạt động hiệu quả là đương nhiên nhưng điều quan trọng và liên tục phải nỗ lực thực hiện là chủ động kỹ thuật chăn nuôi để duy trì, phát triển thương hiệu, khẳng định uy tín, giữ vững niềm tin của khách hàng.

Đổi đời nhờ cá lồng sạch

Tháng 8/2015, trong chuyến làm việc tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã đặc biệt ấn tượng với mô hình nuôi cá lồng tại xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên. Quan trọng nhất là sản phẩm có đến đâu đều được tiêu thụ hết đến đó với giá bán tại thời điểm đó đã lên đến 450 ngàn đồng/kg.

Đầu năm 2015, Hợp tác xã Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa được thành lập. Đây cũng là hợp tác xã nuôi cá lồng đặc sản theo quy trình VietGAP đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang. HTX hiện có 10 thành viên, với 57 lồng nuôi cá, trong đó có 11 lồng nuôi cá bỗng, còn lại đều nuôi cá chiên.

Theo các thành viên của HTX tính toán, 1 con cá chiên giống trọng lượng 200 gram khi mua có giá 150 nghìn đồng, chỉ sau hơn 1 năm nuôi cá có trọng lượng từ 2,5 – 3 kg, giá mỗi kg cá chiên thương phẩm là 450 nghìn đồng/kg. Như vậy, chỉ sau 1 năm nuôi, 1 con cá chiên trừ chi phí lãi gần 1 triệu đồng. Mỗi lồng nuôi cá sẽ cho lãi gần 50 triệu đồng.

Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc HTX Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa cho biết, nghề nuôi cá lồng xuất hiện ở Thái Hòa cách đây khoảng 10 năm. Từ một vài hộ đầu tiên, giờ Thái Hòa đã có gần 40 hộ nuôi trên 100 lồng cá chiên, cá bỗng. Nhờ nuôi cá lồng, các hộ có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên. Chắc chắn, nghề nuôi cá lồng sẽ ổn định và phát triển mạnh hơn nữa khi con giống được đảm bảo ổn định về chất lượng và sự thích nghi.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.