Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) đã giúp nhiều nông dân thoát khỏi cảnh nợ nần do nuôi tôm.

Mô hình nuôi ghép tôm cua, cá kình, cá đối mang lại hiệu quả cao, ít xảy ra dịch bệnh

Là người gây dựng cơ nghiệp từ nghề nuôi trồng thủy sản, những sáng kiến của chị Trần Thị Hồng Vân đã giúp nông dân thoát cảnh nợ nần, có thêm sinh kế mới. Vân được T.Ư Đoàn trao giải thưởng Lương Định Của 2017.

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) là giải pháp giúp hàng trăm hộ nuôi trồng thủy sản tại H.Quảng Điền thoát cảnh nợ nần, thua lỗ.

Trần Thị Hồng Vân đã dành nhiều tháng khảo sát trên các ao nuôi, tìm đọc tài liệu về nuôi trồng thủy sản để giải mã hiện tượng tôm sú dịch bệnh. Ngoài nguồn nước, Vân cho rằng người dân chỉ nuôi tôm sú, lượng thức ăn tồn dư quá nhiều cũng làm tăng ô nhiễm nguồn nước, làm phát sinh dịch bệnh. Bằng kiến thức đã tìm hiểu và tham vấn ý kiến các nhà khoa học, chị Vân tìm cách vận động người dân chuyển đổi giống nuôi trồng, đặc biệt là đưa cá đối vào nuôi xen ghép cùng các loại thủy sản khác.

“Người dân bao năm chỉ nuôi tôm sú, tâm lý bảo thủ nên chuyển đổi sang nuôi con khác thì không mặn mà, bỡ ngỡ, mình phải đến từng nhà kiên trì vận động làm thử”, chị kể lại.

Chị Vân đã thử nghiệm nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối trên diện tích 8 ha, được chính quyền địa phương ủng hộ, hỗ trợ miễn phí giống cá đối. Qua một vài đợt nuôi thử nghiệm, các ao nuôi đều cho năng suất cao, đặc biệt là không xảy ra dịch bệnh.

“Khi thả vào ao nuôi xen ghép, con cá đối có vai trò như đối tượng xử lý môi trường khi ăn thức ăn dư thừa và các mùn bã hữu cơ, phân của các loài khác khiến môi trường nước được cải thiện, loại bỏ tác nhân ô nhiễm do thức ăn dư thừa. Chi phí cho mô hình xen ghép này thấp hơn so với chỉ chuyên nuôi tôm sú. Người nuôi có thu nhập tăng thêm từ con cá đối với mức giá bán 80.000 – 120.000 đồng/kg”, chị Vân chia sẻ.

Thành công đó nhanh chóng được người dân nhân rộng. Sau 3 năm, diện tích ao nuôi chuyển đổi, xen ghép đã lên tới 643 ha, chiếm 99% tổng diện tích ao nuôi tại địa phương. Mô hình này cũng được chọn để nhân rộng trong toàn H.Quảng Điền, vực nghề nuôi thủy sản phát triển, kinh tế nhiều hộ gia đình đã phục hồi trở lại sau một thời gian dài rơi vào cảnh nợ nần do thất bại từ việc nuôi tôm.

Nguồn: Báo Thanh Niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Những mặt trái của việc sử dụng hormon sản xuất cá đơn tính

Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành công nghiệp có nhiều triển vọng phát triển trên toàn thế giới. Một trong những bước đầu tiên trong nuôi thủy sản đơn tính là sản xuất cá rô phi toàn đực; vì vậy, hormone được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực này.

Biểu đồ minh hoạ các khía cạnh khác nhau của Androgen trong nuôi trồng thuỷ sản (ví dụ cá rô phi) và môi trường.

Đã có một sự quan tâm ngày càng tăng trong cách các hormone tác động đến sinh học của cá. Nhiều nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đã khảo sát cách Androgen có thể tương tác với nhiều hệ thống của cơ thể; tuy nhiên, hiếm khi ai trong số họ cố gắng tìm cách cải thiện hormone hoặc tìm một phương án thay thế.

Nghiên cứu này tập trung vào những ảnh hưởng tiềm ẩn của hormone, đặc biệt là Androgens đối với hệ thống miễn dịch của cá, và các giải pháp.

Cách đây hàng thập niên, nhiều nhà nghiên cứu đã khảo sát vai trò của hormone trong việc điều chỉnh đáp ứng và chức năng các hệ thống khác nhau của cơ thể trong các động vật có xương sống. Rõ ràng là các hormone giới tính có tác động đến các hệ cơ quan khác nhau của cơ thể bao gồm cả hai nhóm hệ thống miễn dịch (bẩm sinh và thích nghi).

Trong giai đoạn đầu của sự phát triển cá con, các gen quyết định giới tính và nhiễm sắc thể giới tính thông qua steroidogene (Hình 1) đang hoàn thiện các tuyến sinh dục đối với đực và cái. Sản xuất hormone steroid có thể làm gián đoạn giai đoạn này, dẫn đến sự thay đổi giới tính mà không ảnh hưởng đến kiểu gen. Hầu hết các phương pháp sản xuất cá đơn tính đều nhắm tới sự hình thành steroid trong giai đoạn phát triển ban đầu.

Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính

Hình 1. Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính. Testosterone được chuyển thành 11-ketotestosterone (11-KT) thông qua các hoạt động của 11β-hydroxylase và 11β-hydroxysteroid dehydrogenase. 11β-hydroxysteroid dehydrogenase chuyển cortisol thành cortisone. Aromatase chuyển testosterone thành 17 β-oestradiol.

Hình 2. Các phương pháp khác nhau được sử dụng trong sản xuất cá đơn tính, trong đó kỹ thuật sử dụng các hormone là phổ biến nhất. (Các phương pháp sử dụng bên trái: cảm ứng xung điện, xử lý nhiệt, di truyền nhiễm sắc thể giới tính, lai tạo giống đặc biệt và chọn lọc tự nhiên; Bên phải: Sử dụng hormone sinh dục)

Kết quả

1. Tác động của Androgen đến tỷ lệ chết

Nhìn chung, nuôi ấu trùng cá và sản xuất thường bị cản trở bởi tỷ lệ tử vong cao. Mặt khác, bất kỳ sự gián đoạn nào trong khả năng miễn dịch của ấu trùng cá sẽ đe doạ sự sống sót của chúng. Steroid tổng hợp dùng trong sản xuất giống đơn tính gây ra tỷ lệ tử vong cao ở một số loài. Ở cá tạp, MT (Methyl-testosterol) đã ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống sót, và tỷ lệ tử vong trên 50% ở cá rô phi .

Gần đây, Abo-Al-Ela et al. đã chứng minh rằng MT tăng tỷ lệ tử vong của cá bột được xử lý; hơn nữa, tỷ lệ tử vong này tương quan với biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch trong suốt quá trình xử lý. Hơn nữa, tỷ lệ tử vong đã được hiển thị tăng khi tăng liều MT trong một số loài cá rô phi đã ghi nhận.

2. Ảnh hưởng của Androgens đối với môi trường

Androgens và Estrogen đã được phát hiện như là chất gây ô nhiễm trong môi trường, đặc biệt là trong các hệ thống nông nghiệp; Androgens có thể lan rộng sang các loài không phải là mục tiêu, bao gồm giai đoạn đầu của cá, gây ra độc tính tế bào, dị dạng phôi và sự chậm nở của trứng.

Rivero-Wendt et al. cho thấy nguy cơ ô nhiễm môi trường tiềm ẩn của MT ở nồng độ 0.004 mg/L đủ để gây ra sự thay đổi Vitellogenin (Vtg) như một chỉ thị về sự căng thẳng của cá hoặc ô nhiễm môi trường.

3. Tác động của Androgens lên miễn dịch

Về miễn dịch, các hormone steroid đóng một vai trò quan trọng trong điều hòa hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, có rất nhiều tranh luận liên quan đến ảnh hưởng của Androgens trong việc ngăn chặn hoặc kích thích mức độ miễn dịch. Nói cách khác, chúng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức khoẻ và sự phát triển của cá.

Trên mức androgen cho phép, các mạng lưới gen liên quan đến đáp ứng miễn dịch bẩm sinh bị ảnh hưởng bởi điều trị DHT và bằng MT ở cá Rô phi. MT là một chất phân giải nội tiết nghiêm trọng và có tác dụng độc tính trên lymphocyte của cơ thể; nó cũng làm tăng tần số trao đổi sắc tố và làm giảm động học chu trình tế bào.

Tại Ai Cập, các trang trại cá rô phi cá rô phi đã được báo cáo có mức độ RBCs và bạch huyết bào thấp. Ngoài ra, tác động phá hoại của MT đã được mở rộng đến hoạt động của enzyme chống oxy hoá và sao chép gen sau khi tiếp xúc hoặc ăn khẩu phần ăn có chứa MT. Các steroid khác, như 11-ketotestosterone (11-KT), đã được báo cáo để ức chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh và các đường hô hấp ở cá gai ba lá và cá chép.

Kết luận

Nuôi cá và sản xuất là một sự đầu tư quan trọng. Nuôi cá đơn tính, đặc biệt là cá đực, rất cần thiết; và hormone được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp này. Tuy nhiên, các hormone sẽ làm thay đổi các hệ thống cơ thể khác nhau, có thể ảnh hưởng đến sự nhạy cảm của cá với bệnh tật và nhiễm trùng cơ hội và chúng có thể gây ô nhiễm môi trường.

Do đó, cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để tìm ra những cách an toàn hơn để đảm bảo sản xuất thủy sản đơn tính, chẳng hạn như sử dụng di truyền như nhiễm sắc thể YY (cá thể đực) hoặc bổ sung các chất như vitamin C có thể điều chỉnh tác dụng của hormone.

Nguồn:  Ssciencedirect được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thanh Chương – Nghệ An: Nuôi thành công tôm càng xanh trên ruộng lúa

Trạm Khuyến nông Thanh Chương đã xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa ở Thanh Chương và đã thành công.

Người dân xã Thanh Hưng (Thanh Chương) thu hoạch tôm càng xanh.

Mô hình được thực hiện ở ruộng của ông Trần Văn Hải ở xóm Trung Đường, xã Thanh Hưng huyện Thanh Chương. Với 1,5 ha ruộng lúa; sau 4 tháng nuôi ông Hải đã có tôm thu hoạch, loại to 6 con/kg, loại trung bình 10 con/kg. Với giá bán bình quân 220.000 đồng/kg ông thu về 235 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 100 triệu đồng, chưa kể tiền thu về từ 2 vụ lúa.

“Tôi thấy nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa có hiệu quả nhiều so với nuôi cá vụ 3. Sắp tới tôi sẽ tiếp tục mở rộng diện tích và hướng dẫn cho những ai muốn phát triển nghề nuôi tôm càng xanh” – ông Hải vui mừng chia sẻ”.

Trong những năm qua, trên địa bàn huyện Thanh Chương nghề nuôi trồng thủy hải sản phát triển đáng kể; với nhiều hình thức nuôi trồng khác nhau, song đối tượng nuôi chủ yếu là cá truyền thống mà hiệu quả lại không cao. Xuất phát từ thực tế trên, Trạm Khuyến nông huyện đã tham mưu, xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa tại xã Thanh Hưng.

Sau 4 tháng triển khai thực hiện mô hình đã mang lại giá trị thu nhập cao góp phần hạn chế sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng tính bền vững trong sản xuất.

Ông Trần Đình Bình – Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thanh Chương đánh giá, qua quá trình nuôi cho thấy, tôm càng xanh là đối tượng nuôi mới nhưng nó phù hợp với điều kiện thời tiết của địa phương, kỹ thuật nuôi đơn giản, hiệu quả cao.

Thực tế cho thấy, trong quá trình nuôi tôm càng xanh cũng gặp không ít khó khăn nhất là về con giống và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bởi con giống phải vận chuyển từ các tỉnh Long An, An Giang về bằng đường máy bay nên chi phí rất lớn. Trong lúc đó tỷ lệ sống chỉ đạt từ 40 – 50%.

Thêm vào đó, giá của tôm càng xanh cũng cao nên đối tượng tiêu thụ cũng chỉ dành cho những người có thu nhập cao và các nhà hàng, quán ăn nên đối tượng nuôi trồng cũng phải lựa chọn cụ thể, rõ ràng.

Chính vì thế, trước khi nhân ra diện rộng, huyện đang phối hợp với nhà cung cấp giống và các nhà khoa học thực hiện nghiêm các quy trình.

Việc xây dựng thành công mô hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa ở Thanh Chương đã giúp người dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện tiếp cận được với đối tượng nuôi mới, phương thức nuôi mới có hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích; khai thác có hiệu quả các chân ruộng trũng trên địa bàn huyện, tăng tính bền vững trong sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường do dùng thuốc bảo vệ thực vật.

Nguồn: Báo Nghệ An được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella

Việc chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng làm bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella giúp quản lý mầm bệnh trên cá nuôi.

Mặc dù việc sử dụng ánh sáng xanh (400 – 500 nm) để giảm các mầm bệnh do vi khuẩn ở các trang trại nuôi cá có nhiều lợi thế hơn việc sử dụng thuốc hoá học nhưng đã có rất ít nghiên cứu ứng dụng ánh sáng xanh trong quản lý bệnh trên thủy sinh vật.

Mục tiêu của các nhà khoa học Trung Quốc trong nghiên cứu này là để xác minh tác động diệt khuẩn của các điều kiện ánh sáng (quang phổ và cường độ ánh sáng) trên vi khuẩn Edwardsiella piscicida nhằm chứng minh hiệu quả của việc chiếu xạ ánh sáng xanh trong việc giảm bệnh Edwardsiellosis trong cá chép và phân tích các tác động có hại tiềm tàng của ánh sáng xanh trên cá chép.

Cá bị bệnh do Edwardsiella piscicida

Thí nghiệm

E. piscicida ở nồng độ 105 CFU/ml được phơi ra với ánh sáng 405 hoặc 465 nm trong thời gian phơi nhiễm ước tính sẽ làm mất 99% vi khuẩn.

Thử nghiệm hiệu quả tác dụng của các đèn LED phát sáng đã được thực hiện bằng cách sử dụng thử thách tiếp xúc trong thời nhất định, trong đó tỷ lệ nhiễm bệnh và số lượng E. piscicida trong nước nuôi được theo dõi.

Các tác động có hại tiềm tàng của điều kiện ánh sáng được điều tra bằng cách quan sát các thay đổi mô bệnh học trong mô mắt và biểu hiện gen protein 70 và corticosteroid 11-beta-dehydrogenase isozyme 2 trong mô thận.

Kết quả

Tỷ lệ vi khuẩn E. piscicida bị bất hoạt từ các cường độ khác nhau của bước sóng xanh LED đã chứng minh một mối tương quan mạnh mẽ giữa cường độ ánh sáng và thời gian chiếu xạ. Hơn nữa, bức xạ LED xanh giảm số lượng E. piscicida trong nước nuôi cũng như tỷ lệ cá bị nhiễm bệnh.

Xét nghiệm mô bệnh học cho thấy các hạt melanin và tế bào nhạy cảm tạm thời tăng lên ở võng mạc, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm đối chứng và nhóm chiếu xạ sau 28 ngày tiếp xúc.

Kết luận

Nghiên cứu này chứng tỏ rằng chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng khử bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Sáng kiến ứng phó với lũ dữ

Không để gia đình lâm vào tình cảnh trắng tay, nợ nần khi lũ dữ từ thượng nguồn ập về, nhiều nông dân ở Quảng Ngãi đã mày mò tìm ra nhiều phương cách bảo vệ sản xuất ngay giữa mùa mưa lũ…

Chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox do ông Trần Kim Sanh (Quảng Ngãi) sáng chế.

Sau đợt lũ lớn đầu tháng 12, chúng tôi trở lại thôn Phước Lộc Tây (xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh) – nơi được xem là rốn lũ ở Quảng Ngãi. Sông Trà Khúc hết lũ đã 4 ngày, nhưng đường làng, ngõ xóm vẫn ngập nước. Những người dân nuôi cá chình trên sông Trà cho biết, nhờ sáng kiến của ông Trần Kim Sanh, Trưởng Tổ hợp tác nuôi cá lồng bè sông Trà Khúc, mà kỳ này chống lũ đỡ cực. Bằng kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn, ông Sanh đã mày mò và sáng chế ra những chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox.

Những năm về trước, lũ thượng nguồn sông Trà Khúc đổ về cũng là lúc mọi người trong thôn Phước Lộc Tây kéo nhau ra sông, bất chấp nguy hiểm lao mình ra dòng lũ dữ, dùng dây buộc chặt các lồng bè nuôi cá làm bằng gỗ, tre, lưới… lại với nhau, nhằm níu giữ những con cá nuôi trong lồng. Nhưng nước lũ ở mức báo động 2 thì chống đỡ được, chứ lũ tiếp tục dâng cao và kéo dài thì lồng bè nuôi cá đều bị dòng lũ đánh tan hoặc cuốn trôi.

Ông Trần Kim Sanh ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn (Sơn Tịnh) là một trong những người tiên phong nuôi cá lồng bè và cũng là người đầu tiên thay đổi chất liệu lồng nuôi cá. Ông Sanh cho biết, mùa mưa lũ mang lại nguồn thủy sản tự nhiên phong phú, tuy nhiên nỗi lo đối với nhiều hộ dân nuôi cá lồng bè là thường bị thiệt hại lớn về tài sản. Lý do là những chiếc lồng bè bằng tre dễ bị mục nát, làm thất thoát cá trong lồng.

Ông Sanh mày mò cải tiến từ lồng bè bằng khung tre, gỗ sang dùng khung inox với kích thước nhỏ hình chữ nhật, gọn, có thể tích 12m³ nước, mật độ thả 500 con cá/lồng. Thay vì dùng lưới, ông lắp ghép quanh khung lồng những tấm inox đã khoan sẵn nhiều lỗ nhỏ li ti để nước sông tràn vào bên trong lồng, tạo ôxy cho cá thở. Phía trên lồng cá, ông dùng tre, ván khép nối lại để phần bè nổi trên mặt nước và bỏ thức ăn cho cá.

Ngoài ra, ông Sanh còn dùng dây neo giữ lồng cá vào tận nhà, khi nước sông dâng đến đâu dây neo kéo giữ đến đó, lồng không bị trôi. Ông Sanh chi gần 25 triệu đồng/lồng bè, cao hơn lồng bè khung tre, gỗ khoảng 1,5 – 2 lần, nhưng lồng inox sử dụng bền lâu, không bị gỉ sét trong vòng hơn 10 năm. Hiện các hộ nuôi cá lồng ở thôn Phước Lộc Tây đều học cách làm lồng bè như ông Sanh và mọi người sắp thu hoạch vụ cá sau mùa bão lũ được mùa, giá cao.

Nhờ linh hoạt trong việc thay đổi chất liệu lồng nuôi cá, trong mùa mưa bão năm nay, số lượng cá nuôi của ông Sanh ít hao hụt, 3 lồng bè nuôi cá chình và cá trắm cỏ vẫn giữ vững được năng suất. Ông Sanh cho biết, lượng cá xuất ra thị trường hằng năm khoảng 1-2 tạ, thu nhập khoảng 80 triệu đồng/năm.

Ông Nguyễn Thành Chín (cũng ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn), có kinh nghiệm gần 10 năm nuôi cá lồng bè ở sông Trà Khúc, chia sẻ: “Từ khi chuyển sang lồng inox, tôi rất yên tâm. Lồng cá được bảo đảm, không sợ cá bị hao hụt. Mỗi năm gia đình tôi thu nhập trung bình khoảng 150 triệu đồng, nhờ đó kinh tế dần cải thiện”.

Phó Chủ tịch UBND xã Tịnh Sơn Nguyễn Thành Vy, cho biết: “Nghề nuôi cá trong lồng bè, đã giúp nhiều hộ dân trên địa bàn xã ổn định cuộc sống. Chính quyền địa phương đã khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ về nguồn vốn để các hộ dân đầu tư thay lồng tre bằng lồng inox. Việc người dân chuyển từ lồng bè bằng tre sang lồng bè bằng inox đã mang lại hiệu quả rõ rệt, giảm đáng kể thiệt hại trong mùa mưa lũ”.

Nguồn: Báo Quãng Ngãi được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chàng trai Huế đầu tiên đầu tư nhà kính ‘cực’ hiện đại làm nông nghiệp cao

Chỉ sau 5 tháng xây dựng, một khu nhà kính rộng 1.500m2 do Công ty Nhà màng Watanabe Pipe Việt Nam thiết kế và thi công đã hình thành. Khu nhà này làm bằng khung thép mạ kẽm chịu lực có thể chịu được sức gió 120km/h.

Đam mê nông nghiệp công nghệ cao, anh Trương Như Hải (phường Thủy Biều, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) quyết định thôi việc ở công ty bia, mạnh dạn đầu tư số tiền lớn làm nhà màng ứng dụng kỹ thuật tiên tiến của Israel, Nhật Bản để trồng dưa lưới và rau xanh.

Khu nhà màng của anh Trương Như Hải rộng 1.500m2 với kinh phí 1,2 tỷ đồng

Trương Như Hải sinh ra và lớn lên bên dòng sông Hương êm đềm. Thủy Biều có vườn cây quanh năm xanh mướt với nhiều loại trái cây ngon như thơm, mít, dâu, nhãn, chuối… và đặc biệt là vườn cây đặc sản thanh trà nức tiếng, được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu “Thanh trà Huế”. Hiện người dân Thủy Biều vẫn canh tác nông nghiệp theo cách truyền thống.

Anh Hải tâm sự: “Mặc dù làm việc ở nhà máy bia, không liên quan nhiều đến lĩnh vực nông nghiệp nhưng tôi lại mê tìm hiểu về các mô hình nông nghiệp tiên tiến của nước ngoài và các địa phương khác ở Việt Nam. Sau giờ làm việc tôi vào internet tìm kiếm các thông tin về những mô hình ấy, hình ảnh nhà kính hiện đại, vườn rau xanh mượt khiến tôi rất thích”.

Qua 2 năm tìm hiểu các mô hình nhà kính trên mạng, anh khăn gói đi Lâm Đồng, Quảng Bình, Hải Dương… để học tập kinh nghiệm. 38 tuổi, anh quyết định xin thôi việc ở nhà máy bia để toàn tâm toàn ý bắt tay vào xây dựng nhà kính hiện đại như mình đã ấp ủ nhiều năm qua.

Anh Hải có niềm đam mê đặc biệt với nông nghiệp công nghệ cao

Chỉ sau 5 tháng xây dựng, một khu nhà kính rộng 1.500m2 do Công ty Nhà màng Watanabe Pipe Việt Nam thiết kế và thi công đã hình thành. Khu nhà này làm bằng khung thép mạ kẽm chịu lực có thể chịu được sức gió 120km/h. Phía trên phủ lớp màng dày 180 – 200 micromet, xung quanh có lưới chắn côn trùng và hệ thống màng lưu động có thể đóng mở tùy điều kiện thời tiết.

Dẫn chúng tôi tham quan khu nhà, anh Hải vui vẻ cho biết, các hệ thống điều khiển nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thông minh như hệ thống tưới nhỏ giọt công nghệ Israel, hệ thống quạt đối lưu không khí, hệ thống phun sương trong nhà, hệ thống tưới mái, các cảm biến nhiệt độ và độ ẩm… Tất cả được đấu nối với bộ điều khiển trung tâm lập trình sẵn để tự động điều chỉnh nước tưới, bón phân, thông gió, phun sương theo yêu cầu của từng loại cây trồng, đảm bảo môi trường lý tưởng, chất dinh dưỡng cho cây phát triển.

Dưa lưới được trồng trên giá thể và chăm sóc theo phương pháp thủy canh. Sau khi làm luống xong anh đặt dây nhỏ giọt chạy dọc theo luống, song song và cách hàng cây khoảng 5-7cm. Khi cây phát triển tốt được treo lên dây của hệ thống cáp treo giúp tiết kiệm diện tích, cây có đủ không gian, ánh sáng để phát triển cũng như thuận lợi cho việc chăm sóc cắt tỉa cành nhánh, chọn quả, thụ phấn và phòng trừ bệnh cho cây.

Phía trên nhà kính được phủ lớp màng dày và lưới chắn bao quanh để ngăn sâu hại cây trồng, ngăn các hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa bão, rét, nắng nóng gây hại cho cây trồng

Khu nhà kính còn được trang bị hệ thống tưới mái và quạt đối lưu không khí. Hệ thống này được lập trình sẵn, khi gặp thời tiết nắng nóng sẽ tự động vận hành để tưới làm giảm nhiệt độ và lượng ánh nắng chiếu từ mái xuống, quạt hòa trộn không khí trong nhà màng, giúp các vùng nhiệt độ trong nhà đều nhau rồi đẩy không khí nóng ra khỏi nhà qua cửa nóc nên triệt tiêu khí nóng và tránh hiện tượng sốc nhiệt cho cây vào mùa nắng.

“Khi áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật như tưới tự động, treo cây, thông gió, làm mát và sưởi ấm nên cây trồng được bảo vệ và chăm sóc một cách tốt nhất, tránh được các điều kiện thời tiết cực đoan và tránh gần như 100% sâu hại cây, phòng tránh được 80% nguồn bệnh hại cây trồng. Nhờ đó, hạn chế sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật gây hại cho sức khỏe con người, đồng thời tăng năng suất và chất lượng của cây trồng”, anh Hải nói.

Anh Hải chia sẻ, lý do chọn dưa lưới để trồng bởi với mùi vị thơm ngon được người tiêu dùng ngày càng yêu thích. Tuy nhiên, trong địa bàn tỉnh gần như chưa có đơn vị nào tư nhân đầu tư phát triển sản phẩm này, trong lúc đó các tỉnh bạn lân cận đã có mô hình tư nhân trồng dưa lưới khá thành công như Nghệ An, Quảng Bình.

Sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel 

Hệ thống quạt đối lưu không khí

Dưa lưới được trồng trên các luống giá thể

Anh Hải dự kiến sản xuất 4 vụ/năm gồm 3 vụ dưa lưới, 1 vụ cà chua hoặc rau sạch. Ước tính sẽ cho thu hoạch 13.5 tấn dưa lưới, 9.5 tấn rau sạch hoặc cà chua.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

8 giống hoa tulip phù hợp trồng vụ đông miền Bắc

Các nhà khoa học Viện Nghiên cứu Rau quả đã nghiên cứu tuyển chọn được một số giống hoa tulip nhập nội từ Hà Lan, thích hợp trồng trong vụ đông ở miền Bắc nước ta.

Giống AdRem:

Thời gian sinh trưởng 35 – 40 ngày. Mức độ sinh trưởng, trung bình. Chiều cao cây hoa 42 – 45cm. Màu sắc hoa, đỏ cà rốt. Độ bền bông hoa: 10 – 12 ngày.

Giống Ile De France:

Thời gian sinh trưởng 30 – 35 ngày. Mức độ sinh trưởng, trung bình. Chiều cao cây hoa 45 – 48cm. Màu sắc hoa, đỏ nhung. Độ bền bông hoa: 8 – 10 ngày.

Giống Kung Fu:

Thời gian sinh trưởng 28 – 33 ngày. Mức độ sinh trưởng, chậm. Chiều cao cây 47 – 50cm. Màu sắc hoa, đỏ viền trắng. Độ bền bông hoa: 8 – 10 ngày.

Giống Lalibela:

Thời gian sinh trưởng 28 – 33 ngày. Mức độ sinh trưởng, nhanh. Chiều cao cây 47 – 50cm. Màu sắc hoa, đỏ cờ. Độ bền bông hoa: 8 – 10 ngày.

Giống Negrita:

Thời gian sinh trưởng 30 – 35 ngày. Mức độ sinh trưởng, trung bình. Chiều cao cây 45 – 48cm. Hoa màu tím. Độ bền bông hoa: 8 – 10 ngày.

Giống Purple Flag:

Thời gian sinh trưởng 47 – 32 ngày. Chiều cao cây 45 – 48cm. Hoa màu tím. Độ bền bông hoa: 10 – 12 ngày.

Giống Strong Gold:

Thời gian sinh trưởng 30 – 35 ngày. Mức độ sinh trưởng, trung bình. Chiều cao cây 47 – 52cm. Hoa màu vàng. Độ bền bông hoa: 13 – 15 ngày.

Giống Barcelona:

Thời gian sinh trưởng 35 – 40 ngày. Mức độ sinh trưởng, chậm. Chiều cao cây 45 – 48cm. Màu sắc hoa tím cẩm. Độ bền bông cây hoa: 10 – 12 ngày.

* Một số chú ý khi trồng hoa tulip:

– Tulip là cây chịu rét khá, chịu nóng kém. Ưa khí hậu mát ẩm và ánh sáng trung bình yếu. Thích hợp nhiệt độ ban ngày 16 – 20oC, ban đêm 10 – 15oC. Dưới 5oC và trên 25oC cây sinh trưởng kém, hoa bị mù.

– Nên trồng tulip trong giá thể. Hỗn hợp giá thể tốt nhất gồm 2/3 mùn cưa, 1/3 phân chuồng hoai mục, pH từ 5,5 – 6,5 và phải thoát nước tốt.

– Chọn củ giống kích thước đồng đều (chu vi 10/12cm hoặc 12/14cm), không bị trầy xước, bầm giập và đã bật mầm. Trước khi trồng bóc sạch lớp vỏ cứng bên ngoài, sau ngâm củ vào dung dịch nước xử lý nấm (10g Ridomil gold hoặc Daconil/10 lít nước) khoảng 15 phút rồi vớt ra đem trồng.

– Cần căn cứ thời gian sinh trưởng của giống và nhu cầu thị trường tiêu thụ để xác định thời vụ trồng tulip hợp lý. Miền núi phía Bắc có thể trồng từ 01 – 15/11 (âm lịch). Đồng bằng sông Hồng trồng từ 15 – 30/11 âm lịch. Bắc Trung bộ trồng từ 28/11 – 10/12 âm lịch.

– Trồng tulip cho mục đích thương mại cần có mái che và hệ thống bao quanh để hạn chế mưa, nắng nóng và gió rét. Đảm bảo nhiệt độ trong nhà trồng tulip khoảng 10 – 25ºC.

– Lượng phân bón cho 1 sào Bắc bộ là 7kg Supe lân, 5kg Kali Nitơrat và 4kg Urê, kết hợp với bón lá Atonik, Đầu trâu và các chế phẩm vi lượng giàu Ca, Mg, Mn.

– Trong tuần đầu trồng tulip không cần bón phân, chỉ tưới nước cho giá thể hoặc đất luôn đủ ẩm, sau đó giảm dần lượng nước tưới. Khi tulip cao 10 – 12cm mới tiến hành bón thúc định kỳ 7 – 10 ngày/1 lần (pha loãng phân ở nồng độ 5% để tưới).

– Điều khiển sinh trưởng cho Tulip: Để tăng tốc độ sinh trưởng và phát dục, đưa các cây vào điều kiện nhiệt độ cao hơn (không quá 25oC) và kéo dài thời gian chiếu sáng bằng thắp bóng đèn điện. Để giảm tốc độ sinh trưởng và phát dục, đưa cây vào điều kiện nhiệt độ thấp hơn (không thấp dưới 5oC), kết hợp che giảm ánh sáng bằng lưới đen.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cảnh báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (12-18/12)

Rầy nâu phổ biến tuổi 1 – 3. Các tỉnh theo dõi rầy nâu không để lây lan diện rộng và truyền bệnh VL&LXL sang các trà lúa Đông Xuân 2017-2018 mới gieo sạ…

Rầy nâu hại lúa

1. Các tỉnh phía Bắc

– Bệnh đốm lá sâu đục thân, bắp, rệp, trên ngô tăng. Bọ nhảy, sâu ăn lá, rệp gây hại rau màu. Bệnh lở cổ rễ trên cây khoai tây, bệnh héo xanh, mốc sương, xoăn lá hại cà chua. Bệnh chồi cỏ hại mía tại Nghệ An và có xu hướng tăng.

– Bệnh chảy gôm, loét, sẹo, ruồi hại cam, chanh, bưởi tại các vườn già cỗi. Nhện lông nhung hại nhãn. Bệnh chết nhanh xu hướng tăng trên tiêu. Bệnh gỉ sắt, khô cành, rệp tăng trên cây cà phê. Nhện đỏ, rệp sáp, bọ phấn hại cục bộ trên cây sắn. Châu chấu lưng vàng gây hại tại Nghệ An, Thanh Hóa.

2. Các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên

a) Cây lúa: Rầy, bệnh khô vằn, đen lép hạt hại trên lúa mùa, lúa vụ 10+12 giai đoạn đòng trỗ – thu hoạch. Bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ, dòi đục nõn hại trên lúa Đông Xuân giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Bệnh bạc lá vi khuẩn hại cục bộ trên các giống nhiễm, vùng ổ dịch. Ốc bươu vàng lây lan theo nguồn nước.

b) Cây trồng khác: Sâu tơ, sâu xanh, bọ nhảy,… hại ngô và rau màu. Bệnh xoăn lá cà chua tiếp tục gây hại. Rệp sáp, rệp vảy, bệnh khô cành,… hại cà phê. Tuyến trùng rễ, rệp sáp, bệnh chết nhanh, chết chậm hại hồ tiêu. Sâu đục thân, bọ xít muỗi, thán thư tăng trên cây điều. Sâu đục thân, rệp bẹ, đốm vòng hại mía giai đoạn chín sinh lý- thu hoạch. Bọ cánh cứng hại cây dừa. Bệnh đốm nâu, thán thư hại thanh long.

3. Các tỉnh phía Nam

a) Cây lúa: Rầy nâu phổ biến tuổi 1 – 3. Các tỉnh theo dõi rầy nâu không để lây lan diện rộng và truyền bệnh VL&LXL sang các trà lúa Đông Xuân 2017-2018 mới gieo sạ. Bệnh đạo ôn lá gây hại trên lúa Đông Xuân sớm giai đoạn đẻ nhánh, trên lúa Thu Đông – Mùa giai đoạn đòng trỗ. Lưu ý ốc bươu vàng, sâu năn, bệnh bạc lá vi khuẩn giai đoạn mạ đến đẻ nhánh – đòng, bệnh đen lép hạt ở giai đoạn trỗ – chín.

b) Cây trồng khác: Tuyến trùng hại rễ, bệnh chết nhanh, chết chậm tăng trên tiêu. Diện tích nhiễm bọ xít muỗi tăng và bệnh thán thư giảm trên điều. Diện tích nhiễm bọ cánh cứng tăng trên dừa. Bệnh khô cành giảm nhẹ và rệp sáp tăng nhẹ diện tích nhiễm trên cà phê.

Nguồn: Cục bảo vệ thực vật.

Thu 3 tỷ đồng/năm nhờ mô hình trồng các loại rau màu

Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đã và đang trở thành hướng phát triển giúp nhiều người dân vươn lên làm giàu.

Ông Lưu Văn Nhanh, ấp Phú An B, xã Phú Vĩnh, thị xã Tân Châu – An Giang đã ứng dụng cách này trong việc ươm giống cây rau màu thu nhập tiền tỷ mỗi năm.

Ông Lưu Văn Nhanh cho biết, gia đình ông đã hơn 20 năm gắn bó với nghề ươm giống rau màu. Trước đây, gia đình có 2 công đất vườn tạp nên cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, không ươm rau màu thì không biết lấy gì chi phí sinh hoạt hàng ngày. Từ đó, ông đã gắn bó với nghề ươm cây giống rau màu. Ban đầu ông ươm theo kiểu truyền thống, quy mô nhỏ, tỷ lệ cây chết cao nên thu nhập không ổn định.

Trồng rau màu giúp gia đình ông Nhanh trang trải chi phí sinh hoạt gia đình

Với suy nghĩ, phải có kỹ thuật để tránh rủi ro và có thu nhập ổn định hơn, năm 2005, ông quyết định vay vốn ngân hàng chính sách. Ông đầu tư 4.000 m² nhà phủ bạt để ươm cây giống rau màu theo công nghệ cao.

Sau năm đầu tiên áp dụng rất hiệu quả, cây giống phát triển tốt, không nhiễm sâu bệnh, tránh được mưa, gió. Cây giống của ông được khách hàng đánh giá cao, mỗi ngày, cơ sở của ông cung cấp ra thị trường khoảng 50.000 cây giống rau màu các loại. Sau khi trừ tất cả chi phí, ông thu lãi khoảng 2-4 triệu đồng/ngày, nhờ đó đời sống gia đình từng bước được ổn định.

Mấy năm gần đây, phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất lúa kém hiệu quả sang cây rau màu phát triển mạnh, nên nhu cầu về cây giống càng nhiều. Do đó lãnh đạo địa phương rất quan tâm mô hình ươm rau màu của ông Nhanh.

Năm 2014, được Sở KH&CN An Giang tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ hơn 300 triệu đồng để ông hoàn thiện hệ thống nhà màng che phủ, dàn kệ để khay xốp, máy đóng bầu đất, máy gieo hạt chân không, quạt thông gió, hệ thống tưới phun sương tự động… Đây cũng là điều kiện để ông mở rộng sản xuất đáp ứng thị trường.

Được sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền địa phương, cùng với số tiền  được hỗ trợ, ông Nhanh đã vay thêm từ ngân hàng Nông nghiệp – PTNT tỉnh, mạnh dạn đầu tư, mở rộng diện tích, lên đến hơn 12.000 m² ươm các loại cây giống rau màu áp dụng công nghệ cao trong nhà lưới. Từ đó đã giúp tăng công suất gieo ươm cây giống, giảm công lao động, giảm hao hụt cây con từ tại khâu gieo ươm; góp phần hạ giá thành sản xuất, chất lượng cây giống vẫn đảm bảo nên được khách hàng rất tin tưởng.

Hiện nay, trung bình mỗi ngày cơ sở của ông Nhanh cung cấp ra thị trường khoảng 100.000 cây giống rau màu các loại. Chỉ tính riêng năm 2016, thu nhập từ ươm giống cây rau màu, đã mang lại thu nhập gần 3 tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn giải quyết việc làm cho hàng chục lao động thường xuyên tại địa phương, với mức lương từ 4 – 5 triệu đồng/người/tháng.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó chủ tịch UBND xã Phú Vĩnh cho biết, mô hình ươm cây giống của ông Lưu Văn Nhanh, hiệu quả kinh tế rất cao. Đồng thời hàng ngày cơ sở ông còn giúp cho địa phương là giải quyết số lao động nhàn rỗi từ 50-60 người có công ăn việc làm ổn định.

Sản phẩm ươm cây giống của ông Nhanh mang lại hiệu quả cao, chất lượng, có uy tín cung cấp ra thị trường trong và ngoài tỉnh lân cận như Kiên Giang, Đồng Tháp, TP. Cần Thơ…không dừng ở đó ông Nhanh còn xuất khẩu sang Campuchia và Lào.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

12 cách người Israel thay đổi nền nông nghiệp thế giới (P2)

Từ tưới nhỏ giọt đến thuốc bảo vệ thực vật sinh học, cuộc cách mạng nông nghiệp của Israel đang mang đến những phương thức mới để thay đổi bộ mặt của sản xuất nông nghiệp.

7. Công nghệ tưới nước nhỏ giọt từ không khí

Tal-Ya là công nghệ tưới nước bằng khay nhựa dùng nhiều lần để thu thập sương, hơi nước từ không khí, giúp giảm lượng nước phải tưới cho cây trồng, nó có thể tiết kiệm lên đến 50% lượng nước tưới. Mấu chốt của công nghệ là các khay vuông có răng cưa, được làm từ nhựa tái chế với các bộ lọc tia cực tím, nó sẽ bao quanh gốc cây.

Với sự thay đổi nhiệt độ ngày – đêm, hơi nước bốc lên và sương đêm buông xuống sẽ đọng lại trên cả hai bề mặt của khay Tal-Ya, theo phễu sương và tưới thẳng vào rễ cây. Nếu trời mưa, các khay này sẽ hứng nước mưa và tưới cho cây, nó làm tăng hiệu quả hiệu quả tưới của mỗi milimet nước mưa lên 27 lần.

Ngoài ra các khay cũng còn hạn chế ánh mặt trời để cỏ dại không thể bén rễ, và bảo vệ thực vật khỏi sự thay đổi nhiệt độ khắc nghiệt tại các vùng sa mạc, đất cằn, đồng thời cũng làm giảm sự ô nhiễm nước ngầm.

8. Công nghệ bảo vệ thực vật thân thiện với môi trường

Để giải quyết vấn đề bảo vệ thực vật mà vẫn thân thiện với môi trường, công ty chuyển giao công nghệ của Đại học Hebrew hợp tác với Makhteshim Agan, công ty hàng đầu thế giới về các sản phẩm bảo vệ cây trồng đã phát triển và thương mại hóa các sản phẩm thuốc diệt cỏ chậm phát tán vào đất và thuốc trừ sâu không gây tổn hại cho côn trùng có ích.

Cách tiếp cận của Israel là sản xuất các túi thuốc diệt cỏ có tính chất vật lý giống đất sét, mang điện tích âm để cho phép phát tán vào đất chậm và có thể kiểm soát, làm giảm thẩm thấu vào các lớp đất sâu hơn trong khi vẫn duy trì tác động diệt cỏ trên lớp đất bề mặt.

Điều này làm tăng hiệu quả diệt cỏ và giảm liều lượng cần thiết. Với thuốc trừ sâu, các kỹ sư Israel chế tạo ra các loại thuốc đặc chủng chỉ tác động đến 1 hoặc một số loài sâu bệnh trong khi đó không có tác dụng đến các loài khác, điều này làm giảm tác động của thuốc trừ sâu đến các côn trùng có ích, đảm bảo đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.

9. Nuôi cá trong sa mạc

Đánh bắt quá mức là một mối đe dọa nghiêm trọng đến việc duy trì sản lượng các loại cá, cá là nguồn chính cung cấp protein cho hàng trăm triệu người trên thế giới. Rất nhiều quốc gia đang đau đầu vì muốn phát triển nguồn cung cấp cá trong nước, nhưng điều kiện về diện tích nuôi trồng lại bị giới hạn bởi điều kiện tự nhiên và nguồn nước. Những lo lắng đó có thể được giải quyết với một công nhệ của Israel khi cho phép cá có thể được nuôi tại hầu như bất cứ nơi nào, ngay cả trong sa mạc.

Đó là hệ thống GFA (Grow Fish Anywhere). Hệ thống nuôi cá này là một khu vực nuôi cá được khép kín và có thể đặt ở bất cứ đâu, không phụ thuộc vào các điều kiện về điện, nguồn nước cũng như môi trường bên ngoài, nó cho phép loại bỏ các vấn đề về làm sạch môi trường trong nuôi cá thông thường, và không phụ thuộc vào nguồn nước sẵn có. Đặc biệt, hệ thống sử dụng các vi khuẩn được phát triển làm sạch bể nuôi cũng như mầm bệnh ở cá khiến cho hầu như không có chất thải trong ao nuôi và không cần thay nước.

10. Sản xuất thực phẩm từ khí nhà kính

Công nghệ nuôi tảo từ khí thải nhà kính của các nhà máy

Khí nhà kính – CO2 là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu, nhưng nếu nó được sử dụng để nuôi trồng thì sao? Đó là điều mà công nghệ seambiotic của Israel mang lại. Từ lâu con người đã biết tảo là loài thưc vật có thể mang lại giá trị cao gấp 30 lần so với bất kỳ loại cây trồng nào từng được biết đến, và nó cũng là nhân tố chủ chốt trong việc tạo ra phần lớn lượng Ôxy cho chúng ta hít thở hàng ngày. Thức ăn chính của tảo là gì? Chính là CO2 và ánh sáng, và hệ thống seambiotic sẽ đem CO2 được phát thải từ các nhà máy biến thành nguồn cung cấp thức ăn cho tảo.

Tại các vùng châu Phi và Trung Đông, thứ không bao giờ thiếu đó là ánh sáng mặt trời, với thời gian có ánh sáng hàng năm cao nhất thế giới, hai khu vực này chính là thiên đường cho việc nuôi tảo. Còn gì tuyệt với hơn khi một công nghệ vừa có thể giải quyết vấn đề phát thải CO2 ra không khí lại vừa đem lại giá trị kinh tế cao, đó là điều tuyệt vời mà người Israel đã mang lại cho thế giới.

11. Nhân giống cá chép châu Phi

Nửa thế kỷ trước, trong khu vực hồ Victoria, cá chép châu Phi là một phần quan trọng trong chế độ ăn uống của người dân Uganda gần đó. Nhưng khi cá rô sông Nile xâm nhập được vào hồ, nó đã cạnh tranh và tàn sát hầu hết các loài cá trong hồ, kể cả cá chép châu Phi. Cư sân xung quanh đó không có dụng cụ cũng như kỹ thuật đánh bắt cá rô sông Nile cũng như không có kỹ thuật nhân giống và nuôi cá nên đã xảy ra tình trạng thiếu hụt thực phẩm trầm trọng. Từ đó chế độ dinh dưỡng của cư dân bị suy giảm, các vấn đề sức khỏe đã xảy ra.

Để giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn cung, Giáo sư Berta Sivan của Đại học Hebrew đã thực hiện một dự án kéo dài nhiều năm để giúp đỡ các gia đình châu Phi. Nhóm nghiên cứu của bà đã áp dụng các kỹ thuật nhân giống, lai tạo cũng như nuôi trồng được phát triển qua nhiều năm cho người nuôi Israel để giải quyết vấn đề này.

Qua nhiều năm, dự án đã mang lại sự thay đổi to lớn cho Uganda, không chỉ nhân giống được các loại cá chép châu Phi để nuôi tại các trang trại cá Uganda, mà nó còn cung cấp các khóa đào tạo về làm thế nào để khai thác và nuôi trồng giống cá này với quy mô nhỏ. Bây giờ trẻ em địa phương có một nguồn cung cấp dồi dào protein cùng với trái cây và rau quả của họ, vấn đề dinh dưỡng đã căn bản được giả quyết.

12. Hạt giống chất lượng cao cho mùa vụ bội thu

Tại Đại học Hebrew, các nhà khoa học nông nghiệp Ilan Sela và Haim D. Rabinowitch đã phát triển công nghệ TraitUP, một công nghệ cho phép cấy ghép vật liệu di truyền vào hạt giống mà không sửa đổi cấu trúc DNA gốc của chúng. Phương pháp này đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng hạt giống cây trồng ngay trước khi chúng được gieo trồng. Với công nghệ này, các nhà khoa học có thể đưa các đặc tính về kháng sâu bệnh, tăng cường các đặc điểm thích nghi với thổ nhưỡng và khí hậu vào các hạt giống để nâng cao chất lượng cây trồng về sau.

Công nghệ này mở ra các cơ hội cho việc phát triển các giống cây trồng chuyên biệt cho từng vùng khí hậu, thổ nhưỡng nhằm tối đa hóa năng suất, đảm bảo chất lượng. Điều này mang đến cơ hội cho các quốc gia đang phát triển trong việc nang cao năng suất và chất lượng cho các sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và tạo ra lợi thế cạnh tranh.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.