Kỹ thuật chăn nuôi lợn an toàn sinh học.

Trước diễn biến phức tạp của bệnh dịch tả lợn Châu Phi, gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi nước ta, song song với việc phòng chống dịch bệnh, người chăn nuôi cần thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học để tiếp tục duy trì, ổn định, phát triển đàn lợn…

Từ đó, đáp ứng yêu cầu cung cấp thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường.

Định kỳ phun thuốc sát trùng các dãy chuồng nuôi.

Chăn nuôi an toàn là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự tiếp xúc của vật nuôi với các mầm bệnh. Một số lưu ý về kỹ thuật chăn nuôi lợn an toàn sinh học như sau:

1. Yêu cầu về chuồng trại:

Vị trí xây dựng trang trại phải phù hợp với quy hoạch của địa phương, hoặc được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép. Khoảng cách từ trang trại đến trường học, bệnh viện, khu dân cư, nơi thường xuyên tập trung đông người, đường giao thông chính, nguồn nước mặt tối thiểu 100m; cách nhà máy chế biến, giết mổ lợn, chợ buôn bán lợn tối thiểu 1 km. Nơi xây dựng trang trại phải có nguồn nước sạch; đảm bảo điều kiện xử lý chất thải theo quy định.

Trại chăn nuôi phải có tường hoặc hàng rào bao quanh nhằm kiểm soát được người và động vật ra vào trại và phải bố trí riêng biệt các khu: khu chăn nuôi; khu vệ sinh, sát trùng thiết bị chăn nuôi; khu cách ly lợn ốm… Phải có hố khử trùng ở cổng ra vào trại chăn nuôi, khu chuồng nuôi và tại lối ra vào mỗi dãy chuồng nuôi.

Chuồng nuôi lợn phải bố trí hợp lý theo các kiểu chuồng về vị trí, hướng, kích thước, khoảng cách giữa các dãy chuồng. Nền chuồng phải đảm bảo không trơn trượt và phải có rãnh thoát nước, có độ dốc từ 3-5%.

Đường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến khu xử lý chất thải phải kín, đảm bảo dễ thoát nước và không trùng với đường thoát nước khác.

Các thiết bị, dụng cụ chứa thức ăn, nước uống phải đảm bảo không gây độc và dễ vệ sinh tẩy rửa. Các dụng cụ khác trong chuồng phải đảm bảo dễ vệ sinh, tẩy rửa sau mỗi lần sử dụng.

Các kho thức ăn, kho thuốc thú y, kho hoá chất và thuốc sát trùng, kho thiết bị, … phải được thiết kế đảm bảo thông thoáng, không ẩm thấp và dễ vệ sinh, tiêu độc khử trùng.

2. Yêu cầu về con giống:

Lợn giống mua về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khoẻ mạnh, có đầy đủ giấy kiểm dịch và phải có bản công bố tiêu chuẩn chất lượng kèm theo. Trước khi nhập đàn, lợn phải được nuôi cách ly theo quy định hiện hành.

Lợn giống sản xuất tại cơ sở phải thực hiện công bố tiêu chuẩn. Chất lượng con giống phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn đã công bố. Lợn giống phải được quản lý và sử dụng phù hợp theo quy định hiện hành.

3. Yêu cầu về thức ăn, nước uống:

Thức ăn sử dụng cho chăn nuôi lợn phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn và khẩu phần ăn của các loại lợn.

Không sử dụng thức ăn thừa của đàn lợn đã xuất chuồng, thức ăn của đàn lợn đã bị dịch cho đàn lợn mới. Bao bì, dụng cụ đựng thức ăn của đàn lợn bị dịch bệnh phải được tiêu độc, khử trùng.

Nước dùng cho lợn uống phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Thành phần vô cơ (Asen, xianua, chì và thủy ngân), vi sinh vật (vi khuẩn hiếu khí và coliform tổng số) dưới mức cho phép.

4. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

Các trại chăn nuôi phải áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với các loại lợn và giai đoạn sinh trưởng phát triển.

5. Yêu cầu về vệ sinh thú y:

Chất sát trùng tại các hố sát trùng ở cổng ra vào trại chăn nuôi, khu chăn nuôi và chuồng nuôi phải bổ sung hoặc thay hàng ngày.

Tất cả các phương tiện vận chuyển khi vào trại chăn nuôi, khu chăn nuôi phải đi qua hố khử trùng và phải được phun thuốc sát trùng. Mọi người trước khi vào khu chăn nuôi phải thay quần áo, giầy dép và mặc quần áo bảo hộ của trại.

Định kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, các chuồng nuôi ít nhất 2 tuần/1 lần; phun thuốc sát trùng lối đi trong khu chăn nuôi và các dãy chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần khi không có dịch bệnh, và ít nhất 1 lần/ngày khi có dịch bệnh; phun thuốc sát trùng trên lợn 1 lần/tuần khi có dịch bệnh bằng các dung dịch sát trùng thích hợp theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Định kỳ phát quang bụi rậm, khơi thông và vệ sinh cống rãnh trong khu chăn nuôi ít nhất 1 lần/tháng.

Không vận chuyển lợn, thức ăn, chất thải hay vật dụng khác chung một phương tiện; phải thực hiện sát trùng phương tiện vận chuyển trước và sau khi vận chuyển. Phải vệ sinh máng ăn, máng uống hàng ngày.

Có biện pháp để kiểm soát côn trùng, loài gặm nhấm và động vật khác (nếu có) trong khu chăn nuôi. Khi sử dụng bẫy, bả phải có biển thông báo và ghi sơ đồ chi tiết vị trí đặt bẫy, bả và thường xuyên kiểm tra thu gom để xử lý.

Thực hiện các quy định về tiêm phòng cho đàn lợn theo quy định. Trong trường hợp trại có dịch, phải thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành về chống dịch.

Áp dụng phương thức chăn nuôi “cùng vào cùng ra” theo thứ tự ưu tiên cả khu, từng dãy, từng chuồng, từng ô. Sau mỗi đợt nuôi phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa lợn mới đến. Trong trường hợp trại bị dịch, phải để trống chuồng ít nhất 21 ngày.

6. Xử lý chất thải và bảo vệ môi trường:

Các trại chăn nuôi bắt buộc phải có hệ thống xử lý chất thải trong quá trình chăn nuôi. Chất thải rắn phải được thu gom hàng ngày và xử lý bằng nhiệt, hoặc bằng hoá chất, hoặc bằng chế phẩm sinh học phù hợp. Chất thải rắn trước khi đưa ra ngoài phải được xử lý đảm bảo vệ sinh dịch tễ theo quy định hiện hành của thú y. Chất thải lỏng phải được xử lý bằng hoá chất hoặc bằng phương pháp xử lý sinh học phù hợp.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

“Nghệ thuật” trồng dưa kim.

Xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng có bề dày kinh nghiệm trồng dưa kim. Mỗi vụ diện tích trồng dưa kim của xã lên đến trên 50ha, năng suất đạt từ 8 tạ đến 1 tấn/sào (360m2), giá bán sản phẩm cũng luôn cao.

Kĩ thuật lên luống “mái nhà”, trồng dưa ở chính giữa cho bò sang hai bên của nông dân xã Tân Hưng.

Tham quan những cánh đồng dưa nơi đây chúng tôi học hỏi được nhiều điều bổ ích. Các biện pháp kĩ thuật như làm luống, bố trí mật độ trồng, đặt cây trên luống, định số nhánh, số lá trên thân là cả một “nghệ thuật” mà bà con dày công tôi luyện. Xin chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của họ để bạn đọc tham khảo.

Cách lên luống trồng cây: Không giống với thông thường khi lên luống trồng dưa hấu, dưa kim các nơi khác (luống san bằng phẳng), nông dân Tân Hưng lên luống trồng dưa kim theo kiểu mái nhà (cao ở giữa, thoải về hai bên mé luống). Vị trí đặt bầu cây cũng là chỗ cao nhất của luống (giữa luống), khác hẳn cách làm truyền thống (đặt cây vào mé luống để dưa bò dần ra giữa cho đến mé luống bên kia).

Chiều rộng của luống ở đây cũng để như thông thường (1,8-2m) nhưng mật độ trồng thì cao hơn. Cây cách cây 20-25cm (mật độ 500-550 cây/sào). Đặt cây vào giữa luống là cách làm hay để có thể tăng mật độ cho dưa kim, vì thông thường trồng vào phần mé luống thì mật độ chỉ đạt 420-450 cây/sào. Lên luống cao ở giữa (chỗ vị trí đặt cây) có tác dụng làm cho gốc cây sau này không bị thối hỏng do bị đọng nước sau mưa, vì vốn dĩ dưa kim có bộ rễ, thân gốc yếu hơn các loại dưa khác.

Cách định số nhánh, số lá/cây và định hướng bò cho dưa: Vì trồng ở giữa luống với mật độ dày hơn thông thường và để ngọn dưa bò sang hai bên như đan nên bà con không để nhánh dưa bò dài như truyền thống. Mỗi cây chỉ để 15-17 lá/thân chính và để thêm 3 chèo, mỗi chèo 1-2 lá. Tổng số lá/cây sẽ có khoảng 21-22 lá. Trên một gốc dưa thường chỉ để 1 thân.

Hai dây dưa liền nhau cho bò ngược chiều về hai phía (so le) để cây phủ kín luống và dây dưa không bị chồng chéo nhau. Hướng ngọn về hai bên giúp việc tuyển quả sau này được dễ dàng. Số quả/luống sẽ nằm dàn đều về hai phía chứ không cùng một hàng như phương pháp truyền thống. Quả nọ không tiếp giáp quả kia nên đầy đủ ánh sáng và to đều, dựng quả thuận lợi, màu quả đẹp hơn…

Nông dân Dương Văn Hùng cho biết: Ngay từ những vụ đầu tiên chuyển từ trồng dưa hấu sang dưa kim, nông dân nơi đây cũng làm luống, đặt cây giống như trồng dưa hấu. Song dưa kim được lai tạo và cùng dòng với dưa lê nên thân chính không cần bò dài. Vì vậy nhiều người đã mày mò trồng thử ra giữa luống như trồng dưa lê nhưng không làm luống cao giữa.

Quả dưa kim.

Việc định nhánh, định số lá/cây và hướng ngọn bò cho dưa kim cũng không được “nghệ thuật” như bây giờ. Sau khi gặp một số bất lợi (dưa hay bị thối gốc sau mưa, số lá um tùm làm quả không đẹp, không to, dây dưa chồng chéo khiến sâu bệnh gây hại nhiều…), bà con đã rút được ra kinh nghiệm và dần khắc phục được thông qua các biện pháp kĩ thuật đã làm như trên.

Với thân dưa để bò từ giữa luống ra 2 bên sẽ hạn chế về chiều dài hơn so với trồng vào một mé luống. Vậy việc tuyển quả sẽ như thế nào? Quả dưa sẽ phải lấy gần gốc hơn, vậy có đạt tiêu chuẩn?

Anh Hải, một đại lý chuyên cung ứng vật tư cho nông dân giải thích: Khác với trồng một mé, khi trồng ở giữa luống đòi hỏi vị trí tuyển quả sẽ phải gần gốc hơn. Nông dân lấy quả từ lá thứ 5-8 (khác trồng thông thường lấy quả từ lá 8-10). Song với cách để 3 chèo, mỗi chèo từ 1-2 lá nữa tổng số lá trên một cây đủ để quang hợp và nuôi quả để quả to, mã đẹp. Cuối vụ dưa vẫn phủ kín hết bề mặt luống là đủ để quả phát triển thuận lợi và chín ngọt.

Cách làm luống, trồng dưa kim của nông dân Tân Hưng giúp năng suất đạt cao nhất so với các vùng trồng dưa khác, chất lượng quả cũng luôn cao. Vụ thu đông vừa qua nhiều hộ đã thu lãi trên 100 triệu/mẫu. Vì thế cây dưa kim đã khẳng định vị thế trên “quê hương thuốc lào”.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Tận dụng 40m2 đất nuôi dế, chàng thanh niên thu lãi ròng cả chục triệu đồng.

Chỉ với diện tích hơn 40m2 bên hông nhà, anh Nguyễn Anh Tuấn ở thôn Thanh Lê, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong (Quảng Trị) đã tận dụng nuôi dế. Lứa đầu nuôi anh lãi khoảng 12 triệu.

Anh Tuấn bên trại dế của mình.

Đầu năm 2018 sau khi đi tìm hiểu thực tế, anh Tuấn đã mạnh dạn liên hệ mua giống ở Hà Nội để phát triển mô hình. Anh bố trí 14 hộc nuôi, với kích cỡ 2m2 mỗi hộc.
Anh Tuấn chia sẻ, thức ăn cho dế chủ yếu là bột ngô, cám gạo và một số loại rau, cỏ như xà lách, cải non, lá sắn, rau lang, cỏ voi… Dế là loài vật rất nhạy cảm với hóa chất và mùi lạ nên đòi hỏi môi trường sống phải sạch sẽ, thoáng mát, thức ăn phải sạch và không bị nhiễm thuốc hóa học.

Để chủ động nguồn thức ăn cho dế, anh Tuấn đã tận dụng khu đất sau vườn nhà trồng rau, cỏ. Vào mùa sinh sản anh làm màng lưới phủ lên nắp chuồng, tránh dế bay ra ngoài. Bố trí các khay cát đặt vào trong ô chuồng để dế đẻ.

Sau khi sơ chế cắt cánh dế thương phẩm, 1kg anh bán với giá 200 nghìn đồng. Lứa đầu nuôi anh lãi khoảng 12 triệu. Hiện anh cung cấp cả dế thương phẩm lẫn dế giống. Ngoài nuôi dế anh còn nuôi hơn 100 cặp bồ câu.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Nghề nuôi cá thát lát.

Cá thát lát là một trong những loài cá nước ngọt phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Với phẩm chất thịt ngon, được thị trường ưa chuộng, loài cá này đã và đang trở thành đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao.

Thành công từ mô hình nuôi cá thát lát.

Hiện nay, nguồn cá thát lát ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt do tình trạng khai thác bừa bãi, thiếu khoa học, trong khi nhu cầu trên thị trường ngày càng tăng nên giá bán cá thát lát cao hơn nhiều so với các loài cá nước ngọt khác. Vì thế, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, đồng thời đa dạng hóa các đối tượng thủy sản nuôi nước ngọt, bà con nông dân nên quan tâm đến mô hình nuôi cá thát lát.

Cá thát lát.

Đây là loài cá ăn tạp, thích nghi tốt với nhiều vùng sinh thái nước ngọt khác nhau như sông, rạch, ao, hồ, ruộng lúa… Cá có thể sống trong môi trường nước có hàm lượng oxy trên 4mg/lít, pH 7 – 8, khí Amoniac 0,0125mg/lít nước.

Anh Trần Ngọc Châu (ngụ số 1 đường 614, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi), hộ tham gia mô hình khuyến nông “Nuôi cá thát lát thương phẩm”, chia sẻ: Để mô hình đạt hiệu quả kinh tế, hạn chế tối đa rủi ro, người nuôi cần có những hiểu biết cơ bản về loài cá này, như kích cỡ cá thả nuôi phải khoảng 10cm/con, mật độ 5 – 10 con/m².

Thả cá lúc trời mát, trước khi thả cá phải ngâm bao chứa cá trong ao khoảng 15 phút để cân bằng nhiệt độ trong và ngoài bao cá, sau đó mở miệng bao cho nước ao vào bao để cá tự bơi ra.

Theo dõi cá ăn và điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày cho phù hợp, hạn chế thức ăn dư thừa vì sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng nước, tăng chi phí không cần thiết. Khi thay đổi sang một loại thức ăn mới, cần chuyển từ từ, mỗi lần cắt giảm thức ăn cũ khoảng 20% và thay thế bằng thức ăn mới, cho đến khi cá quen dần thức ăn mới.

Tránh thay đổi thức ăn đột ngột, cá sẽ ăn ít hoặc không ăn, dẫn đến gầy yếu, suy dinh dưỡng, chậm lớn, phân đàn, dễ bệnh, hao hụt nhiều.

Ngoài ra, chất lượng nước ao nuôi cần đảm bảo sạch và ổn định, thay nước định kỳ 7 ngày/lần, mỗi lần thay 20% – 30% lượng nước trong ao. Tuyệt đối hạn chế cá tạp trong ao nuôi.

Với lượng cá thả nuôi ban đầu là 20.000 con, trên diện tích ao nuôi 2.000m², sau 9 tháng nuôi có thể thu được 3.600kg cá, giá bán bình quân 50.000 đồng/kg, lợi nhuận hơn 100 triệu đồng sau khi trừ mọi chi phí (giống, thức ăn, nhân công, vật tư…). Mô hình nuôi cá thát lát thương phẩm góp phần tăng thu nhập cho nông hộ, tạo việc làm cho nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Cách trồng và chăm sóc cây bưởi Diễn

Khi có dịp ghé qua Từ Liêm Hà Nội bạn không thể không nếm thử loại đặc sản bưởi Diễn nơi đây. Hương vị thơm ngon thanh mát cùng mùi hương thơm dễ chịu khiến ai ăn thử một lần đều không thể quên được.

Bưởi Diễn là giống cây bưởi có nguồn gốc từ loại bưởi Đoan Hùng-Phú Thọ đã được người dân mang về trồng tại xã Phú Diễn – Từ Liêm – Hà Nội. Do hợp với thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây mà loại cây này ra trái rất nhiều và có vị ngon đặc biệt hơn hẳn bất cứ nơi đâu. Thời xưa đây được coi là loại cống phẩm thượng hạng để tiến vua. Cho đến nay mỗi dịp tết đến hầu như trên bàn thờ nhà ai cũng có một quả bưởi Diễn để cúng tổ tiên.

Đặc điểm của giống bưởi Diễn

Không chỉ hấp dẫn bởi lớp vỏ mỏng vàng ươm. Những tép bưởi bên trong mọng nước và khi ăn có vị ngọt thanh mát rất đặc trưng. Điểm đặc biệt phải kể đến về giống bưởi này là hương thơm của chúng lan tỏa ra khiến ai gửi đều dễ chịu và thoải mái. Chỉ cần trong nhà bạn có 2 quả bưởi diễm xếp góc nhà thôi là cả căn phòng sẽ tràn ngập mùi bưởi.

Quả bưởi Diễn tròn cầm chắc tay và da bưởi trơn

Bưởi Diễn chính hiệu thường có trái vừa không quá to. Qủa tròn khi cầm chắc tay và da bưởi trơn không sần. Trung bình một quả khi chín nặng từ 0,8-1kg. Múi bưởi Diễn dễ tách rời, mọng nước và có tỷ lệ dinh dưỡng khá cao.

Về kinh tế thì đây là giống bưởi cho năng suất kinh tế cao. Một vụ 1 cây cho thu hoạch từ 60-70 quả. Chất lượng quả cao và ổn định không thấy thường như những giống khác.

Cách trồng và nhân giống bưởi Diễn

Chọn lựa giống : để cho ra được được những cây giống khỏe mạnh cho năng suất cao thì khâu chọn lựa cây giống là rất cần thiết. Cần chọn cây con giống tại những nơi uy tín để đảm bảo chất lượng giống tốt nhất đem trồng. Cây giống tốt cần là những cây con to khỏe cao trên 30cm trở lên. Bộ rễ phát triển và không có mầm bệnh.

Chọn cây giống chất lượng tốt

Đất trồng bưởi Diễn

Loại đất thích hợp để trồng bưởi Diễn là đất cát pha giàu dinh dưỡng và tơi xốp. Độ pH phù hợp từ 5,5-6,5. Đất trồng cần cao ráo sạch sẽ và nên ở những nơi không quá nhiều gió vì sẽ làm quả bị rụng.

Mật độ trồng bưởi Diễn

Tùy theo từng điều kiện Diện tích à điều chỉnh mật độ trồng bưởi Diễn phù hợp. Khoảng cách trung bình từ 3 đến 3,5m là thích hợp để cây phát triển.

Chuẩn bị hố trồng bưởi Diễn

Bạn cần chuẩn bị hố trồng trước 1 tháng. Cần đào hố và bón lót xuống đáy một lượng phân bón rồi lấp đất trên mặt cao so với hố 15cm. Sau giai đoạn này 1 tháng ta tiến hành trồng cây giống. Vét một hố nhỏ bằng bầu đất rồi đặt bầu vào rồi nén chặt phần gốc cây. Bạn có thể cắm thêm cọc giữ cho cây không bị đổ hay nghiêng gây chết cây.

Tưới nước để cây phát triển tốt

Chăm sóc sau khi trồng

Sau khi trồng xong cây con giống bạn tiến hành tưới nước ngay cho cây. Tưới vào sát gốc ngày 1 lần cho đến khi cây bén rễ vào đất mới sau đó giảm dần 3 ngày tưới nước 1 lần.

Cắt tia cành và tạo tán bưởi Diễn

Trong khâu chăm sóc cây bưởi Diễn thì khâu cắt tỉa và tạo tán cho cay cũng khá quan trọng. Việc cắt tỉa cành tạo tán cho cây định kì sẽ giúp cây thông thoáng hơn. Bạn tỉa bỏ các cành bị sâu bệnh, cành héo giữ lại những cành khỏe mạnh và thường xuyên vun xới cỏ dại xung quanh gốc cây giúp đất thông thoáng hơn.

Bón phân cho cây

Cây bưởi Diễn muốn phát triển tốt và cho năng suất trái cao thì bạn cần định kì bón phân giúp cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây phát triển lá và trổ hoa tạo quả. Nếu như trước khi trồng bạn đã bón lót vào đất trồng cây thì giai đoạn ra hoa tạo quả và sau thu hoạch lứa đầu tiên bạn cần bón thêm cho cây một lượng phân chuồng hoai mục và NPK theo tỷ lệ 10:3.

Phòng trừ sâu bệnh cho cây bưởi Diễn

Nếu muốn cây khỏe mạnh phát triển tốt thì việc phòng ngừa sâu bệnh hại là điều tối quan trọng trong khâu chăm sóc. Bằng việc thường xuyên kiểm tra cây bưởi Diễn để kịp thời phát hiện những dấu hiệu sâu bệnh hại ngay thời gian đầu.

Nếu phát hiện sâu bệnh hại bạn có thể loại bỏ bằng tay, cắt tỉa những cành bị sâu bệnh tấn công hoặc có thể sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hoá học ít độc để phun cho cây.

Bón phân và trừ sâu định kì để cây bưởi phát triển tốt

Thu hoạch và bảo quản

Với việc trồng đúng kĩ thuật bạn sẽ thu hoạch được những loại quả bưởi Diễn chất lượng cao, mọng nước. Nhớ thu hái quả vào lúc trời râm mát, khô ráo. Bảo quản trong nơi râm mát để quả giữ được độ tươi ngon. Sau khi thu hoạch xong bạn vệ sinh xung quanh gốc cây, cắt tỉa đi những cành già, héo và cành sâu bệnh và tiếp tục chăm sóc như ban đầu.

 

 

 

 

 

Những điều cần lưu ý khi nuôi cá chạch sụn

Trong thời gian gần đây, có một loài cá chạch được phát triển nuôi ở nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long. Đặc điểm nổi bật của loài cá chạch này là có xương mềm (xương sụn). Có thể do có đặc điểm này nên nó được gọi là cá chạch sụn. Có một số thông tin cho rằng loài cá chạch này có nguồn gốc từ Đài Loan (nên còn có tên gọi là cá chạch sụn Đài Loan). Ngoài ra, loài cá này còn có tên gọi khác là cá chạch bùn hay chạch quế.

Cá chạch sụn

Qua theo dõi một số thông tin chuyên ngành thì loài cá chạch có xương mềm (xương sụn) này có tên khoa học là Macrognathus aculeatus, nhưng có tài liệu lại ghi tên khoa học là Misgurnus anguillicaudatus. Theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN ban hành ngày 02/05/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc Ban hành danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh thì trong 199 loài cá nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh thì không có giống cá chạch nào có tên là cá chạch sụn hoặc cá chạch quế với tên khoa học là Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus. Chỉ có các giống cá nuôi nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh là:

– Cá Chạch (Mastacembelus),

– Cá Chạch bông (Chạch lấu) (Mastacembelus (armatus) favus),

– Cá Chạch khoang (Mastacembelus circumceintus),

– Cá Chạch lá tre (còn gọi là Chạch gai) (Macrognathus aculeatus),

– Cá Chạch rằn (Mastacembelus taeniagaster),

– Cá Chạch sông (Mastacembelus armatus),

– Cá Chạch khoang (còn gọi là cá heo mắt gai) (Pangio kuhlii).

Như vậy, theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN thì cá chạch có tên khoa học Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus là loài cá chạch không có tên trong danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam. Bên cạnh đó, do cá chạch có xương sụn (sau đây gọi là cá chạch sụn) là loài cá mới xuất hiện trên thị trường và có đặc điểm là xương mềm khác với một số loài cá chạch đã có mặt ở thị trường trước đây nên nó gây sự hiếu kỳ cho người tiêu dùng. Và loài cá này nhanh chóng có mặt ở nhiều quán ăn, nhà hàng với giá bán trên dưới 300.000 đ/kg. Với giá bán cao nên một số hộ nuôi thủy sản đã mạnh dạn đầu tư nuôi thương phẩm loài thủy sản mới này trước tình hình một số đối tượng nuôi thủy sản khác kém hiệu quả.

Nhưng do thị trường tiêu thụ có giới hạn nên một số hộ nuôi cá chạch sụn hiện nay đang gặp khó khăn trong tiêu thụ. Theo thông tin từ một số hộ nuôi cá chạch sụn ở tỉnh Đồng Tháp thì hiện nay giá bán chỉ còn 100.000 – 120.000 đ/kg nhưng có hộ nuôi vẫn không có thương lái đến mua.

Cá chạch sụn hầm tàu hũ

Với những thông tin, các hộ nuôi thủy sản nếu có ý định phát triển nuôi loài cá này thì cần tham khảo thông tin thị trường để tránh gặp phải trường hợp tiêu thụ khó khăn như nuôi cá rô đầu vuông hoặc cá lăng nha đã xảy ra trong thời gian qua. Thiết nghĩ, mạng lưới khuyến ngư cần có những thông tin về thị trường tiêu thụ và đầu ra của loài cá này để có những khuyến cáo kịp thời nhằm tránh những thiệt hại do thua lỗ cho người nuôi.

Hiện nay loài cá chạch với đặc tính có xương mềm này có nhiều tên gọi khác nhau như là cá chạch sụn hoặc cá chạch bùn, cá chạch đồng hay còn gọi là cá chạch quế và có khi còn gọi là cá chạch sụn Đài Loan, có thông tin cho là cá chạch bùn còn gọi là cá chạch quế nhưng cũng có thông tin cho là cá chạch bùn và cá chạch quế có hình dáng và cấu tạo xương khác nhau.Vì vậy, rất cần các nhà khoa học có thêm những thông tin về định danh, nguồn gốc và các đặc điểm hình thái phân loại các loài cá chạch nêu trên để xác định là các tên gọi trên là cùng một loài hay là nhiều loài khác nhau để tránh nhầm lẫn cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho người nuôi trong việc lựa chọn giống cá chạch để nuôi.

Tổng hợp và kiểm duyệt bới Farmtech Việt Nam

Tôm hùm đỏ nước ngọt

Tôm hùm nước ngọt (Danh pháp khoa học: Procambarus clarkii), thường được gọi là tôm hùm đất là một loài tôm hùm càng nước ngọt thuộc nhóm tôm hùm đất có nguồn gốc từ Đông Nam Hoa Kỳ và còn được tìm thấy trên các châu lục khác, nơi mà nó gây ra một dịch hại xâm lấn nghiêm trọng. Chúng phân bố tự nhiên ở Bắc Mỹ, là một trong 500 loại Tôm hùm đất (crawfish) và có đời sống như cua đồng, con cáy. Chúng được nuôi để lấy thịt tôm hùm đất.

Tôm hùm nước ngọt

Đặc điểm

Thông thường Procambarus Clarkii có màu đỏ sẫm, con tiền trưởng thành thường có màu màu xám. Tôm hùm nước ngọt có thể đạt kích thước hơn 50g trong 3-5 tháng (Henttonen and Huner, 1999) và có thể dài khoảng 5,5 đến 12 cm.

Thân dạng hình trụ. Toàn thân được bao bọc bởi lớp vỏ cứng, ở con trưởng thành dễ thấy có nhiều nốt sần (nhám) ở phần đầu ngực (Cephalothorax), với 2 càng lớn được dùng để gấp chiến đấu, gấp thức ăn, đào hang. Chũy dài thẳng và trông như một tam giác.

Loài này có 5 cặp chân ngực (Pleopod) dùng cho việc di chuyển trên cạn lẫn dưới nước. Cặp chân đầu nhỏ, dài, có màu đỏ tươi, có thể kìm kẹp thức ăn đưa vào miệng. Ngoài ra chúng còn 5 cặp chân nhỏ ở phần bụng (Pereopod) dùng để bơi lội và cuối cùng là Uropod (chân đuôi) bao quanh Telson (gai đuôi) và được chúng sử dụng như máy chèo.

Phân bố

Tôm hùm nước ngọt có nguồn gốc từ Bắc Mỹ (cụ thể là ở Bắc Mexico đến Florida và phía bắc đến phía nam Illinois và Ohio), sau đó chúng được đưa đến nhiều nơi ở Mỹ: Arizona, California, Georgia, Hawaii, Idaho, Indiana, Maryland, North Carolina, Nevada, Ohio, Oregon, South Carolina, Utah và Virginia, Nam và Trung Mỹ. Loài này cũng đã được đưa đến châu Âu (Tây Ban Nha, Pháp, Síp, Bồ Đào Nha), châu Phi và Đông Nam Á.

Tập tính

Tôm hùm nước ngọt loài sống bò đáy, thích đào hang, ưa tối, chuyên hoạt động về đêm, chúng có thể đào hang trú ẩn, sâu đến 100-200 cm, có thể sống được cả ở dưới nước lẫn trên cạn và chịu được nhiệt độ từ 0 đến 370C (Nguyễn Dương Dũng, 2010), sống ở các sông, hồ, ao, suối, kênh rạch, vùng đất ngập nước theo mùa và đầm lầy, những vùng nước bị xáo trộn như ruộng lúa và các kênh thủy lợi, hồ chứa, vùng nước nông giàu thức ăn, nơi có đất thịt hoặc đất thịt pha cát, có nhiều rong cỏ, rễ cây.

Là loài sinh vật dễ dàng thích nghi với những vùng nước có độ mặn vừa phải, nồng độ oxy thấp, nhiệt độ khắc nghiệt và thậm chí là có thể sống ở những vùng nước bị ô nhiễm.Trong điều kiện môi trường xấu như thiếu oxy, thiếu thức ăn hay môi trường nước bị ô nhiễm tôm thường rời khỏi nơi sinh sống đi đến vùng nước khác, đặc biệt là khi mưa to. Khi thiếu oxy tôm thường bò bám lên cây cỏ thủy sinh lên mặt nước để thở hoặc nằm nghiên trên các bụi rong cỏ, khe đá sát mép nước, thậm chí là bò lên cạn thở bằng oxy không khí (Nguyễn Dương Dũng, 2010).

Tôm hùm nước ngọt được xem là một động vật ăn tạp thiên về thực vật,thức ăn bao gồm mùn bã hữu cơ, chế phẩm của ngũ cốc, thực vật như cỏ, rong, tảo, ấu trùng động vật đáy, động vật thuỷ sinh vừa cỡ miệng, các loại thức ăn chế biến… Chúng thường đi kiếm ăn và ăn mồi vào chiều tối.

Sinh sản

Tôm hùm nước ngọt thành thục sau 10-11 tháng tuổi, chúng thường chỉ đẻ trứng 1 lần trong năm nhưng ở những nơi có thời gian lũ kéo dài (lớn hơn 6 tháng) có thể có hai lần sinh sản vào mùa thu và mùa xuân. Sau khi giao phối, tôm cái sẽ đẻ trứng, trứng được con cái giữ ở chân bụng. Số lượng trứng của mỗi tôm cái phụ thuộc kích thước của chúng.

Tôm cái đạt 6,4cm có thể sinh sản, kích thước từ 10-14cm có thể sinh sản lên đến 500 trứng (Huner và Barr, 1991) và những quả trứng khoảng 0,4 mm.

Tôm con mới nở được con cái chăm sóc trong hang cho đến tám tuần và trải qua hai lần lột xác trước khi con non có thể tự lo cho bản thân (Hunter và Barr, 1991).

Từ giai đoạn ấu thể đến khi trường thành tôm lột xác ít nhất 13 lần (Nguyễn Dương Dũng, 2010) và trong tự nhiên loài này thường không sống lâu hơn 2 đến 5 năm (Smart et al., 2002).

Di cư tự nhiên

Con tôm đực có thể di cư đến 17 km trong vòng bốn ngày, chính hoạt động này thúc đẩy cho việc phân tán của loài tôm này trên khu vực rộng lớn (Gherardi & Barbaresi, 2000).

Hiện trạng

Phát tán: Tôm hùm nước ngọt có thể di cư sang các khu vực khác thông qua việc các cần thủ sử dụng chúng làm mồi câu. Chúng được phát tán nhiều nơi trên thế giới thông qua xuất nhập khẩu với mục đích cung cấp thực phẩm, cung cấp giống nuôi trồng hay qua việc nuôi làm cảnh hay phát tán tự nhiên từ vùng chúng được du nhập sang vùng lân cận ở các nước châu u (Henttonen và Huner, 1999)… Chúng còn được dùng như một tác nhân kiểm soát sinh học chẳng hạn tại Kenya P. clarkii làm giảm bớt số lượng ốc đóng vai trò là vật chủ trung gian cho các sinh vật gây bệnh sáng mán (Bilharzia). Hành động này đã thúc đẩy sự phát tán của P. clarkia ở Châu Phi. Ngoài ra, tại châu Phi đã xảy ra tình trạng buôn lậu loài tôm này làm cho tình trạng phát tán của chúng ngày càng tăng và gây mất cân bằng sinh thái tại châu lục này.

Procambarus clarkii được du nhập sang nhiều nơi với các mục đích khác nhau nhưng chủ yếu là nuôi để cung cấp thực phẩm trong nước và xuất khẩu sang các nước khác hoặc chúng được vận chuyển để nuôi làm cảnh trong các hồ cá công viên hải dương hay để làm sinh vật tiêu diệt các loài ốc truyền bệnh.

Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ có hơn 20 tiểu bang nuôi tôm hùm nước ngọt trong đó ở Louisiana đã tạo ra một ngành công nghiệp trị giá nhiều triệu đô la với hơn 50.000 ha đất canh tác nuôi Procambarus clarkii (Gutierrez-Yurrita et al, 1999) và mô hình nuôi loài tôm này được cho là đã tồn tại từ thế kỉ 18.

Trong những năm 1970 và 1980 chúng được du nhập đến các nước phía Bắc châu Âu (Tây Ban Nha, Pháp, Ý…) nhằm cung cấp nguồn thực phẩm. Đến thế kỷ 20 loài tôm này du nhập sang nhiều nơi trên thế giới như những năm 30 của thế kỉ 20, tôm hùm nước ngọt được nhập từ Nhật Bản sang Trung Quốc. Ở Trung Quốc hiện nay là nước xuất khẩu tôm hùm nước ngọt lớn nhất thế giới. Tôm hùm nước ngọt được bán sang khu vực Scandinavia (châu Phi) nơi chúng được coi là đặc sản.

Kenya và Nam Phi là hai nước đầu tiên ở châu Phi nhập khẩu tôm hùm nước ngọt vào thập niên 70. Mặc khác tại Kenya (Châu Phi), P. clarkia không chỉ được sử dụng như nguồn thực phẩm mà chúng còn được dùng để kiểm soát sự lây lan của bệnh sán máng ở người do ốc Bulinus và Biomphalaria spp. làm vật chủ trung gian cho các sinh vật Schistosom haematobium và S. mansoni gây ra (Mkoji et al, 1999a in Foster & Harper, 2007)

Tuy nhiên do tập tính thích nghi cao loài sinh vật này đã gây nên nhiều tác hại đến hệ sinh thái mà chúng sinh sống. Do đó, chính phủ các nước và các nhà khoa học đã phải đưa ra các giải pháp quản lí nhằm hạn chế sự mất cân bằng môi trường sinh thái do loài này gây ra chẳng hạn như:

– Sử dụng pháp luật ngăn cấm vận chuyển và nhập khẩu khi chưa được phép.

– Sử dụng phương pháp cơ học như đánh bắt bằng lưới kéo, lưới vây,sử dụng các loại bẫy… làm giảm số lượng quần đàn.

– Kiểm soát bằng hóa chất như sử dụng các chất diệt sinh vật, thuốc trừ sâu và các hóa chết khác được dung để tiêu diệt P. clarkii nhưng phương pháp này không được khuyến khích vì các hóa chất này có thể gây hại đến các sinh vật khác, tích tụ trong tôm và phá hủy hệ sinh thái.

– Kiểm soát sinh học: sử dụng sinh vật khác để kiểm soát loài P. clarkia, dùng các loài cá ăn động vật như cá chình, cá lấu (Lota lota), cá măng, cá rô… hay sử dụng sinh vật gây bệnh, vi khuẩn sản xuất độc tố lên P. clarkia… ví dụ: vi khuẩn Bacillus thuringiensis var israeliensis (Pedigo, in 1989, in Holdich et al, 1999).

Tại Việt Nam, Tôm hùm nước ngọt được nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc với mục đích nuôi thử nghiệm ở diện hẹp vào tháng 9/2006. Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho phép Viện Nuôi trồng thủy sản I thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm hùm nước ngọt (Procambarus clarkii) ở các tỉnh miền Bắc phục vụ phát triển vùng nguyên liệu xuất khẩu” và dự án: “Dự án nhập công nghệ sản xuất giống tôm hùm nước ngọt Procambarus clarkii phục vụ phát triển vùng nguyên liệu xuất khẩu ở các tỉnh miền Bắc”.

Kết quả bước đầu của việc nghiên cứu thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã cho rằng tôm hùm nước ngọt sẽ sinh trưởng và phát triển tại miền Bắc nước ta do chúng là loài thủy sinh vật dễ nuôi, thích nghi với điều kiện miền Bắc nước ta và ít dịch bệnh. Các nhà nghiên cứu hi vọng rằng khả năng tôm hùm nước ngọt sẽ là đối tượng thủy sản nước tạo ra hàng hóa phục vụ xuất khẩu có tình khả thi cao.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Thành tỉ phú nhờ nuôi tôm.

Là người dân tộc Khmer, dù chỉ mới học hết lớp 3, nhưng nhờ cần cù lao động, chịu khó học hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi, mỗi năm ông Lâm Văn Linh (TP.Bạc Liêu, Bạc Liêu) thu lãi hàng tỉ đồng từ con tôm.

Thu hoạch tôm

Gặp ông Linh (45 tuổi, ngụ ấp Biển Đông B, xã Vĩnh Trạch Đông) ngoài đầm tôm, nhiều người cứ tưởng là người giữ vuông thuê bởi làn da đen đúa, lúc nào cũng đội nón lụp xụp, cặm cụi dưới ao. Thật ra ông là một tỉ phú, hiện sở hữu trên 100 công vuông (mỗi công khoảng 1.300 m2), 2 xe ô tô và biệt thự thuộc hàng lớn nhất vùng.

Hơn 15 năm nuôi tôm thất bại.

Nhờ nuôi tôm trúng lớn, ông Linh liên tiếp mở rộng quy mô. Hiện ông có 3 khu nuôi tôm công nghiệp với diện tích hơn 10 ha. Ngoài phân chia ra nhiều ao lắng, ông có tổng cộng 51 ao nuôi tôm công nghiệp. Chỉ tính riêng vụ nuôi tôm năm 2018, ông Linh thu hoạch trên 60 tấn tôm thương phẩm, thu lãi trên 4 tỉ đồng.

Ông Linh kể, gia đình ông có 4 công đất trồng lúa nhưng từ năm 2003, nước mặn xâm nhập nên không trồng lúa được nữa. Lúc đó, ông đã đi nhiều nơi tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm nuôi tôm. Sau khi “học lóm” được chút ít kinh nghiệm, ông quyết tâm cải tạo 4 công đất trồng lúa thành ao nuôi tôm sú. Thật bất ngờ, vụ nuôi đầu tiên ông trúng lớn, thu hoạch 4,7 tấn tôm, bán được 470 triệu đồng, sau trừ chi phí còn lãi 300 triệu đồng. Theo ông Linh, thời điểm đó 300 triệu đồng có giá trị rất lớn, bằng người dân làm hàng trăm công lúa. Bởi người làm lúa khi đó lợi nhuận cao lắm chỉ khoảng 500.000 đồng/công.

Có tiền, ông tiếp tục mua thêm đất, cải tạo thêm 2 ao nuôi tôm. Năm tiếp theo, ông Linh lại trúng đậm, thu lãi cả tỉ đồng. Theo ông Linh, từ năm 2003 đến nay, qua hơn 15 năm nuôi tôm bất bại, có năm nuôi tôm chậm lớn, tôm mất giá, cũng có nhiều ao thiệt hại, nhưng tổng kết năm nào ông cũng có lợi nhuận từ 3 – 4 tỉ đồng.

Ông Linh kiểm tra tôm sú nuôi công nghiệp.

Hướng dẫn kỹ thuật nuôi cho hàng ngàn hộ dân.

Ông Linh chia sẻ, trong quá trình nuôi tôm ông tự đúc kết, tích lũy kinh nghiệm là chính. Theo đó, mỗi năm ông thuê máy ủi, máy cuốc cải tạo ao nuôi một lần. Trong quá trình xử lý nước trước khi thả tôm nuôi phải có ao lắng, lưới lọc giám sát, xử lý diệt khuẩn đáy ao. Về con giống, phải lựa chọn giống tốt từ các công ty sản xuất giống có uy tín, chất lượng, đặc biệt phải biết rõ nguồn gốc tôm bố mẹ. Trong quá trình nuôi phải quản lý chặt chẽ về môi trường, sự phát triển của tôm ở cụ thể từng ao nuôi. Khi môi trường có biến động như tôm ăn chậm, đứt râu, đen mang, màu nước thay đổi… thì chủ động xử lý, phòng ngừa. Để ổn định môi trường, giảm ô nhiễm nguồn nước, đáy ao định kỳ phải cấy vi sinh, tạt vôi, tạo khoáng…

Ông Linh cho biết, để đạt được kết quả tốt trong nhiều vụ nuôi tôm liên tiếp, gia đình ông phải thức khuya dậy sớm theo dõi, chăm sóc từng ao nuôi. Hằng đêm, từ 19 – 24 giờ ông phải “đi tuần” kiểm tra các ao nuôi tôm, sau 24 giờ thì giao người con trai thay ca túc trực. Bởi nuôi tôm công nghiệp với mật độ cao, khi xảy ra các sự cố như cúp điện đột ngột, dàn quạt bị gãy đổ, môi trường nguồn nước thay đổi đột ngột nếu không phát hiện kịp thời thì tôm nuôi sẽ thiệt hại bất cứ lúc nào.

Ông Linh nuôi tôm liên tục từ 2 – 3 vụ/năm nên đã tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 20 thanh niên địa phương, với thu nhập bình quân khoảng 7 triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra, ông còn thưởng thêm từ hiệu quả nuôi tôm. Nếu thu hoạch được 1 tấn tôm sú thì thưởng thêm 2 triệu đồng, 1 tấn tôm thẻ thưởng thêm 1,5 triệu đồng. Những lao động gắn bó lâu năm, chuyên cần nhưng có khó khăn về nhà ở được ông xây tặng nhà tình thương, mỗi căn trị giá khoảng 40 triệu đồng… Đặc biệt, những kinh nghiệm nuôi tôm đạt hiệu quả đúc kết được, ông Linh tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật cho hàng ngàn hộ nuôi tôm ở các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng và Cà Mau… thông qua các cửa hàng thuốc thú y thủy sản ở địa phương.

Nguồn: Tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây rau ngót

Cây rau ngót (Sauropus androgynus (L) Merr.) là cây trồng không kén đất, có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên để cây cho năng suất cao, cần chú ý những biện pháp kỹ thuật sau:

1. Chuẩn bị đất trồng

– Rau ngót có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, nhưng muốn có năng suất cao, cần chọn đất thịt nhẹ, thịt trung bình, đất cát pha, không bị úng ngập nhưng không quá khô, độ pH từ 5,5- 7,0, vùng đất chủ động nước tưới. Tốt nhất là nên chọn loại đất thịt pha đất sét vừa dễ canh tác mà lại giữ ẩm tốt.

– Cày xới đất tơi xốp và bón lót phân hữu cơ hoai mục kết hợp hỗn hợp phân đạm, lân, kali để giúp cây phát triển ngay giai đoạn đầu sau khi bén rễ.

2. Chuẩn bị giống

2.1. Giống

Có 2 loại:

– Rau ngót lá to: Sinh trưởng khỏe, thân lá màu xanh đậm, phiến lá to và mỏng, phẩm chất ngon.

– Rau ngót lá nhỏ: Thân, lá có màu xanh nhạt, phiến lá nhỏ và dày, đường gân giữa cuống lá có màu xanh nhạt, ít bị sâu bệnh hại.

2.2. Phương pháp nhân giống

– Nhân giống hữu tính (từ hạt): Tỷ lệ nảy mầm của hạt thường rất thấp và thời gian bắt đầu cho thu hoạch lâu.

– Nhân giống vô tính (giâm cành): Hiện đa số nông dân áp dụng phương pháp này. Để nhân giống đạt nên chú ý những vấn đề sau:

+ Chọn cành khỏe không bị sâu bệnh hại, cành không già, không non (cành vừa hóa nâu) để làm cành giống.

+ Dùng tro trấu hoặc trấu đã được ủ hoai để làm giá thể giâm cành. Liếp giâm tùy theo kích thước vườn, thường liếp giâm có chiều rộng 1-1,2m, chiều cao mặt liếp khoảng 10cm.

+ Cắt xéo từng đoạn cành dài 20 – 25 cm đem giâm, cành đặt nghiêng so với mặt liếp khoảng 450, vùi đất sâu 2/3 đoạn cành rồi lấp đất kỹ để cây nảy nhiều chồi. Để cành mau ra rễ, trước khi giâm ta nhúng cành vào dung dịch NAA (Naphthaleneacetic acid).

Chọn cành khỏe, không bị sâu bệnh hại, cành vừa hóa nâu để làm giống

3. Thời vụ

– Rau ngót có thể trồng quanh năm, tốt nhất là vào mùa mưa. Thời vụ trồng tốt nhất là vụ Xuân khoảng từ tháng 2 – 4 và vụ Thu từ tháng 8 – 9.

– Rau ngót được trồng bằng phương pháp nhân vô tính, trồng một lần và thu hoạch 2-3 năm.

Cây rau ngót sau giâm cành 15 ngày

4. Mật độ, khoảng cách

– Chia luống 1,3- 1,5m, mặt luống rộng 1,0- 1,2m, rãnh 0,3 m; trồng với khoảng cách cây cách cây 25- 30cm, hàng cách hàng 50- 60 cm, mỗi hố có thể trồng 2 cây.

– Chuẩn bị giống từ 9,5- 10 vạn hom/ha, cũng có thể tách thân từ cây gốc của năm trước để nhân thẳng ra ruộng.

5. Phân bón

– Lượng phân bón tính cho 1.000 m2 (tùy theo nền đất có thể tăng hoặc giảm lượng phân vô cơ) như sau:

+ Phân chuồng hoai mục: 1,5 – 2 tấn (đã trộn ủ với 1-1,5 kg chế phẩm nấm Trichoderma)

+ Phân vô cơ: Urê 20- 24 kg + Super lân 40- 50 kg + Kali clorua 6- 8 kg.

– Cách bón:

Bón lót (kết hợp khi làm đất): Toàn bộ lượng phân hữu cơ hoai mục và Super lân + 3- 4 kg Kali clorua.

Bón thúc chia làm 2 lần bón:

+ Lần 1: Sau trồng 15- 20 ngày, sử dụng phân Urê 7- 8 kg. Trong thời gian này, người trồng có thể kết hợp sử dụng thêm phân bón lá NPK 30-10-10 để bổ sung vi lượng cho cây.

+ Lần 2: Sau lần 1 từ 10- 15 ngày với liều lượng còn lại. Có thể bón theo hàng hoặc bón theo hốc, bón cách gốc 15- 20cm, kết hợp làm cỏ, vun gốc cho cây.

Lưu ý: Do cây rau ngót thu hoạch liên tục kéo dài 2- 3 năm, do vậy sau mỗi đợt thu hoạch, cần bón bổ sung từ 0,5- 0,7 tấn phân chuồng hoai mục vào gốc, kết hợp tưới NPK để bổ sung dinh dưỡng cho cây.

Bên cạnh việc sử dụng các loại phân hữu cơ và phân hóa học thì người nông dân còn sử dụng kết hợp thêm các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thuộc nhóm auxin và gibberellin (GA3). Xử lý GA3 có tác dụng kích thích gia tăng chiều cao chồi rau ngót nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng diệp lục tố (chlorophyll) và trọng lượng tươi rau ngót giai đoạn thu hoạch. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng GA3 với nồng độ từ 10- 80 ppm phun trên rau ngót, thời gian cách ly (PHI) 7 ngày, không để lại dư lượng GA3 trên rau khi thu hoạch.

– Nguồn nước tưới: Sử dụng nguồn nước sạch để tưới (nước sông hoặc nước giếng khoan). Tuyệt đối không được sử dụng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước bị ô nhiễm, nước thải từ bệnh viện. Luôn giữ độ ẩm đất 80-85%.

– Thường xuyên vệ sinh vườn và làm cỏ. Khi bón phân kết hợp vun gốc và tưới giữ ẩm cho vườn cây thường xuyên.

– Khi thu hoạch cần kết hợp cắt cành tỉa tán, tạo cho cây có bộ khung cân đối, giúp vườn rau thông thoáng và hạn chế sâu bệnh hại.

– Vào tháng 11-12 hàng năm, khi thấy cây đã cao (20- 25 cm), lá hơi vàng và ít lá (thời kỳ cây ngừng sinh trưởng) ta nên thực hiện biện pháp sau:

+ Trẻ hóa cây: Nhằm giúp cây đâm nhiều chồi, tăng năng suất bằng cách đốn cây. Dùng dao hay kéo cắt sát gốc cách mặt đất 15cm, các lần cắt sau cách vết cắt cũ 7-10 cm, tỉa thưa bớt các cành già.

+ Xới rãnh sâu 10- 15cm giữa 2 hàng, bón bổ sung lượng phân như sau (tính cho 1.000 m2): 0,7- 1 tấn phân chuồng hoai mục + 7- 8 kg Urê + 10- 15 kg Super lân + 5- 7 kg Kali clorua, trộn đều, lấp đất lại và tưới đủ ẩm để cây bung các đợt chồi mới, vườn rau được trẻ hoá, sung sức hơn.

6. Phòng trừ sâu bệnh

6.1. Sâu hại chính

– Rầy xanh (Empoasca sp.): Gây hại nặng vào các tháng nắng nóng, khô hạn. Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC, Cyperan 25EC), Fipronil (Regent 800WG) hoặc chế phẩm nấm xanh,…

– Nhện đỏ (Tetranychus sp.): Sống tập trung dưới mặt lá, gây hại nặng trong điều kiện khô hạn. Cần phát hiện sớm để phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Propargite (Comite 73EC), Diafenthiuron (Pegasus 500SC), Fenpyroximate (Ortus 5SC).

– Bọ phấn (Bemisa myricae): Vừa gây hại, vừa là môi giới gây bệnh virut, cần phòng trừ triệt để bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC), Lambda -cyhalothrin (Karate 2,5EC),…

– Bọ trĩ (Thrip sp.): Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Emamectin benzoate (Dylan 2EC), Imidacloprid (Admire 50EC, Confidor 100SL), Cyfluthrin (Baythroid 50 SL).

6.2. Bệnh hại chính

– Bệnh phấn trắng (Erysiphe sp.): Gây hại nặng trong điều kiện khô hạn, nắng ấm. Phòng trừ khi bệnh mới xuất hiện bằng các thuốc có hoạt chất như: Metalaxyl + Mancozeb (Vinomyl 72BTN), Carbendazim (Vicarben 50HP), Hexaconazole (Anvil 5SC), Cyfluthrin (Bayfidan 25EC).

– Bệnh xoăn lá (virut): Cần diệt trừ môi giới truyền bệnh là bọ phấn; nên nhổ bỏ những cây bị bệnh ra khỏi vườn để tránh lây lan; nếu nặng thì phá bỏ trồng lại.

Lưu ý:

– Rau ngót có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, thường hay bị một số sâu hại chủ yếu như cuốn lá, sâu xanh, rầy rệp nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp với phương châm phòng là chính. Áp dụng đúng kỹ thuật canh tác để hạn chế phát sinh gây hại:

+ Chọn giống từ vườn sạch bệnh.

+ Thường xuyên vệ sinh vườn, cắt tỉa bỏ cành già, cành bị sâu bệnh hại đem tiêu hủy.

+ Sử dụng phân hữu cơ hoai mục kết hợp trộn ủ chế phẩm sinh học (nấm Trichoderma) diệt trừ nguồn bệnh và trứng sâu.

– Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:

+ Chúng ta nên thực hiện tốt quy tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); ưu tiên sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học.

+ Phải đảm bảo thời gian cách ly từ 7- 14 ngày trước thu hoạch.

7. Thu hoạch

– 45- 60 ngày sau trồng có thể tiến hành thu hoạch đợt đầu tiên, các đợt tiếp theo cách nhau 25- 35 ngày.

– Thu hoạch rau ngót bằng cách lấy kéo hoặc dao cắt cành hoặc hái lá. Sản phẩm sau thu hoạch phải được đựng trong bao bì chuyên dụng.

Dùng kéo cắt cành để thu hoạch rau ngót

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

 

Những lưu ý khi trồng mít Thái ở miền Nam

Mít Thái siêu sớm là giống mít mới xuất hiện những năm gần đây, là giống cây dễ trồng, ít công chăm sóc, không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, đậu trái quanh năm.

Đặc điểm nổi bật của cây mít Thái là cho thu hoạch rất nhanh. Từ lúc trồng đến lúc cho thu hoạch lứa đầu tiên chỉ mất khoảng 12-15 tháng. Cây đậu trái quanh năm nhất là vào mùa hè. Trái mít khi chín có trọng lượng từ 10-15 kg, bên trong có múi khá to và mọng, ăn thơm ngọt đậm. Bên cạnh đó, mít Thái giàu chất dinh dưỡng như vitamin A, C, canxi, sắt, kali, ma-giê và nhiều dinh dưỡng khác, do đó rất có lợi cho sức khỏe người dùng. Tuy mít Thái dễ trồng nhưng để trồng thành công cây mít Thái, cần lưu ý một số kỹ thuật sau:

1. Chọn giống

Không nên nhân giống bằng hạt vì bị lai giống và cây lâu cho trái. Nên sử dụng cây ghép có đường kính gốc ghép từ 1 – 1,5 cm, cành ghép cao 20 – 30 cm (kể từ vết ghép), cây khỏe mạnh, sạch bệnh nhưng phải là dòng F1 thuần chủng thì mới đảm bảo về năng suất và chất lượng. Nên chọn cây có bộ rễ phát triển mạnh; lá đang giai đoạn già; vết ghép tiếp hợp tốt.

2. Thời vụ và khoảng cách trồng:

– Thời vụ trồng: để cây sinh trưởng và phát triển có hiệu quả nhất, nên trồng vào đầu mùa mưa, nghĩa là từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch.

– Khoảng cách trồng: trước khi trồng mít Thái cần làm đất và đắp mô cao từ 50 – 70 cm. Sau đó trồng cây lên mô đất. Do mít Thái có khả năng cho trái sớm nên có thể trồng theo mật độ dày, khoảng 3,5m x 3,5 m hoặc 4 m x 4 m. Sau khi thu hoạch mít từ 5 – 7 năm, có thể loại bỏ cây ở giữa, đảm bảo mật độ giữa các cây mít luôn thông thoáng, giúp cây phát triển và đậu trái tốt hơn.

3. Trồng và chăm sóc:

– Cách trồng: Móc lỗ sâu và to hơn bầu cây đôi chút. Dùng dao, kéo cắt đáy bầu và cắt bỏ đuôi chuột (rễ cọc) bị xoắn lại. Đặt bầu vào lỗ đã móc sẵn và rút nhẹ túi đựng bầu ra bỏ và lấp đất lại, không làm vỡ bầu, đứt rễ. Nếu đất khô phải tưới cho cây ngay, dùng rơm, rạ, cỏ rác… đậy xung quanh bầu để giữ ẩm. Cây cao, ốm yếu dùng cọc cắm cố định cho cây khỏi ngã đổ.

– Tưới nước: Tháng đầu sau khi trồng, nếu khô hạn phải tưới thường xuyên 2-3 ngày/lần. Sau đó, có thể tưới 4-5 ngày/lần. Từ năm thứ hai về sau, tưới cho cây vào giai đoạn mới bón phân và những tháng quá khô hạn. Mít Thái rất sợ úng nên vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra kênh mương cống rãnh và có kế hoạch chống úng.

– Bón phân:

+ Đối với cây 1 năm tuổi: mỗi tháng bón phân một lần bằng nước phân chuồng hoai pha tỷ lệ 1: 3 (tức 1 phần phân : 3 phần nước), tưới 10 – 15 lít/cây hoặc đạm urê 1% để tưới.

+ Cây 2 – 3 năm tuổi: mỗi cây nên bón 1,5 kg vôi bột, 30 – 50 kg phân chuồng hoai; 0,5 kg urê; 0,5 – 1 kg lân; 0,3 – 0,5 kg kali. Chia làm 4 lần để bón: sau khi thu hoạch, bắt đầu ra hoa, sau khi đậu trái 1 tháng, sau khi đậu trái 2,5 tháng.

+ Cây từ 4 năm tuổi trở lên: lượng phân tăng so với năm trước 0,5 – 1,0 kg/cây. Trong thời gian trái đạt trọng lượng tối đa sử dụng phân bón gốc Kali sulphate (K2SO4), bón mỗi gốc 400-500 g giúp trái chín tập trung, màu thịt trái vàng hơn, mùi vị thơm ngon hơn.

+ Cách bón: Xới rãnh xung quanh theo đường kính tán cây, rắc phân rồi lấp đất, tưới ẩm. Bón càng nhiều phân chuồng hoai thì mít Thái càng sai và chất lượng trái càng ngon.

4. Tỉa cành, tỉa trái:

– Tỉa cành: Tỉa những cành sâu bệnh để cây thông thoáng nhằm tăng năng suất và mang tính thẩm mỹ. Tiến hành tỉa cành khi cây cao khoảng 1 m trở lên, cây còn nhỏ tỉa cành tạo tán 2-3 lần/năm. Cây lớn mỗi năm một lần khi thu hoạch trái xong. Cách tỉa cành mít như sau:

+ Cắt bỏ các cành gần sát mặt đất (từ 40 cm trở xuống).

+ Tỉa bỏ bớt các cành cấp 2, cấp 3… cho cây vừa đẹp vừa thoáng.

+ Giữ lại cành cấp 1 cách gốc khoảng 40 cm trở lên, chọn các cành mọc theo các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40 – 50 cm, tạo thành tầng không quá 5 cành cấp 1.

– Tỉa trái: Tỉa bớt trái xấu, trái sâu bệnh, trái nhỏ và cả những trái bình thường cho mật độ trái phù hợp với từng cây.

+ Khi cây 1 năm tuổi: nên tỉa bỏ chỉ chừa một trái/lứa.

+ Năm thứ hai: để 2 trái/lứa, thu hoạch được 4 trái/năm.

+ Năm thứ ba: để 3 trái/lứa, một năm 2 lứa, sẽ được 6 trái và như thế tăng số trái/cây theo từng năm tuổi.

5. Phòng trừ sâu, bệnh hại mít Thái:

5.1. Bệnh hại:

a. Bệnh thối nhũn

– Cây con ở vườn ươm có độ ẩm cao, quá rậm rạp dễ bị bệnh và bệnh lây lan rất nhanh. Bệnh có thể do nấm Rhizoctonia solani, Sclerotium, Pythium gây nên.

– Trên thân gốc và bề mặt vật liệu nuôi cây có nhiều hạch nấm tròn to, nhỏ dầy đặc và lây lan nhanh. Bệnh làm teo gốc, thân lá có đoạn tươi xanh và phần non chết gục như bị luộc trong nước nóng.

– Phòng bệnh: Sử dụng phân hoai mục. Tạo thông thoáng, khô ráo và thoát nước tốt. Xử lý nguyên vật liệu trong vườn ươm bằng các loại thuốc có chứa các hoạt chất như Iprodione (Rovral), Metalaxyl + Mancozeb (Ridomyl Gold 68WG),…

– Trị bệnh bằng các loại thuốc có chứa các hoạt chất: Cyproconazole (Bonanza 100 DD), Difenoconazole (Score 250 EC, Tilt 250 ND).

b. Bệnh thối gốc chảy nhựa

– Bệnh xảy ra trên các vườn mít quá ẩm ướt và có nhiều loại sâu hại chích hút nhựa cây, gây những vết thương và là cơ hội tốt cho nấm Phytopthora xâm nhập.

– Bệnh thể hiện ở vùng gốc có nhiều vết loét, nước dịch từ bên trong chảy rỉ ra, vỏ vùng gốc bị thối từng mảng to, bề mặt lớp gỗ ẩm ướt và thâm đen. Lá vàng, rụng và cây chết. Thường khi phát hiện được thì bệnh ở tình trạng nặng, khó chữa trị.

– Cách phòng hữu hiệu nhất là trồng cây trên đất cao ráo, thoát nước tốt. Bảo vệ các thiên địch để hạn chế mật độ sâu rầy gây hại, khi cần thiết dùng các loại thuốc hóa học có chứa các hoạt chất để phun xịt như Metalaxyl + Mancozeb (Ridomyl Gold 68WG), Fosetyl Aluminium (Aliette 800WG).

5.2. Sâu hại:

a. Sâu đục thân, đục cành

Thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu có các hoạt chất sau vào giai đoạn ra lá non, trái non như Chlorantraniliprole + Thiamethoxam (Vitako 40WG); Abamectin (Nouvo 3.6 EC).

b. Ruồi đục trái (loài dacus sp)

Đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Nên dùng chất dẫn dụ sinh học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái hay xịt thuốc có các hoạt chất diệt ruồi như Etofenprox (Trebon 10 ND), Deltamethrin (Decis 2.5 EC),…

Mít được bao trái

c. Sâu đục trái

Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất. Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm. Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.

d. Rầy, rệp

Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá quăn queo, cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng các loại thuốc hóa học có các hoạt chất sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Fenobucarb (Bassan 50 EC), Methidathion (Supracide 40 EC),…

5.3. Phòng ngừa hiện tượng xơ đen:

Giống cây mít Thái Lan thường bị xơ đen, da không bóng, hình dạng bên ngoài vẫn phát triển bình thường. Trên cùng một cây có thể có trái bệnh, trái không bệnh. Nguyên nhân có thể do thiếu canxi – do mưa quá nhiều khiến canxi trong đất bị hao hụt. Do đó, trước khi cây ra hoa và trong thời gian ra hoa, cần bổ sung canxi cho mít. Loại canxi tốt nhất là canxi lỏng, phun lá và tưới gốc giai đoạn mít ra nụ và cứ định kỳ 2 tháng phun lại 1 lần đến khi thu hoạch.

6. Thu hoạch:

Thu trái chín khi đã thơm, từ 90 – 120 ngày sau khi trổ hoa. Trái mít già, các gai nở căng, chuyển từ màu xanh sang màu xanh vàng hoặc nâu nhạt, mủ lỏng và trong, vỗ kêu bồm bộp. Mít Thái tự chín ở nhiệt độ bình thường, trái mít có thể để lâu trong 6 tuần ở nhiệt độ 11 – 130C, nếu điều kiện bình thường thì để được 7 – 10 ngày.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam