Gieo lạc bằng máy chỉ 15 phút xong 1 sào

Lạc được gieo bằng máy tỷ lệ mọc tốt hơn, khoảng cách đảm bảo và đất được giữ ẩm nên củ mọc đều.

Trong giai đoạn 2017 – 2019, Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Khuyến nông (CETDAE) được Bộ NN-PTNT giao chủ trì dự án khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hóa SX lạc tại các vùng trồng chính”.

Qua 3 năm triển khai, dự án đã nhận được những tín hiệu rất khả quan từ các địa phương trên cả nước.

Đại biểu dự hội thảo đầu bờ tại xã Liên Minh.

Tham quan mô hình cánh đồng lớn SX lạc L23 trên quy mô 15ha, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản (Nam Định), chúng tôi thấy bà con rất phấn khởi, bởi những hiệu quả mà mô hình đem lại.

Đây là vụ đầu tiên CETDAE phối hợp với Cty CP Tư vấn đầu tư và Dịch vụ nông nghiệp Việt Nam, UBND huyện triển khai thử nghiệm máy làm đất kết hợp gieo trồng thay thế máy làm đất và công cụ gieo hạt bằng tay đã được triển khai 2 năm trước đây.

Trên diện tích thử nghiệm 7ha, toàn bộ bờ thửa được phá bỏ, ban chỉ đạo tổ chức cắm mốc lộ giới từng hộ. Toàn bộ diện tích lạc được chăm sóc cùng quy trình, thu hoạch chung và sản lượng được chia theo diện tích của từng hộ.

Giám đốc HTX Lương Kiệt, Nguyễn Văn Kế cho biết, mô hình áp dụng cơ giới hóa giúp lạc sinh trưởng, phát triển tốt và hiệu quả hơn. Việc sử dụng máy làm đất kết hợp gieo hạt thay thế cho máy làm đất và công cụ gieo hạt cầm tay giúp bà con tiết kiệm được công lao động, giảm chi phí SX.

Ông Kế phân tích: Gieo hạt bằng tay phải làm nhiều khâu hơn như rạch hàng, tra hạt, lấp hạt, mất khoảng 2 công/sào; còn gieo bằng máy chỉ mất 15 – 20 phút là gieo xong 1 sào (360m2). Lạc được gieo bằng máy tỷ lệ mọc tốt hơn, khoảng cách đảm bảo và đất được giữ ẩm nên củ mọc đều.

Đối với đào củ bằng máy, chỉ mất 20 – 30 phút/sào, trong khi đó nhổ bằng tay phải mất 1 ngày/1 sào (ngày làm 8 tiếng). Như vậy, nếu nhổ lạc bằng máy sẽ tiết kiệm thời gian và công sức rất nhiều.

Về bứt củ, nếu thực hiện bằng tay thì mất khoảng 1,5 công/sào, còn bứt củ bằng máy chỉ mất 20 phút/sào. Qua đó, giúp giảm chi phí và thời gian thu hoạch, nâng cao hiệu quả SX.

“Ngoài những ưu điểm trên, mô hình còn đưa giống lạc mới về địa phương. Giống lạc L23 rất thích hợp với thổ nhưỡng nơi đây, cây lên đồng đều, khỏe, lạc đều quả, chắc và đẹp mã, năng suất ước đạt khoảng 4,5 – 5,0 tấn/ha.

Trong khi đó, trước đây, địa phương chủ yếu trồng giống lạc Trạm dầu 207, đã bị thoái hóa nên dễ nhiễm sâu bệnh, cho năng suất thấp, chỉ từ 3 – 3,5 tấn/ha. Tính sơ bộ vụ này, chúng tôi thu nhập cao gấp 2 lần mô hình cũ. Vụ tới, chúng tôi tiếp tục mở rộng mô hình để bà con biết và tham gia”, ông Kế nhấn mạnh.

Theo dõi chỉ tiêu năng suất tại ruộng.

Nông dân Vũ Mạnh Tường (đội 3, xã Liên Minh) chia sẻ, trong SX lạc, khâu nhổ lạc và bứt củ lạc là khâu nặng nhọc nhất.

Trước đây, chúng tôi phải thức dậy từ 3 – 4h sáng để đi nhổ lạc, rất vất vả. Từ khi tham gia vào mô hình SX thâm canh và áp dụng cơ giới hóa cho lạc, chúng tôi chỉ cần mang bao tải ra đầu bờ để thu lạc về, tiết kiệm công lao động, chi phí SX.

Ông Bùi Văn Kiên, Q. Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Vụ Bản đánh giá, mô hình đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Sử dụng máy liên hoàn làm đất, lên luống, gieo hạt làm giảm 30% chi phí so với làm đất và gieo bằng công cụ đẩy tay.

Đồng thời, áp dụng máy đào củ và máy bứt củ sẽ làm giảm công lao động, rút ngắn thời gian thu hoạch để chuyển sang gieo cấy lúa mùa, giảm chi phí SX, giải quyết bài toán thiếu nguồn lao động và bỏ hoang ruộng đồng.

“Chủ trương đẩy mạnh SX lạc theo hướng thâm canh, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ đã được UBND huyện quan tâm từ nhiều năm qua. Huyện cũng có chủ trương hỗ trợ các địa phương có diện tích trồng lạc lớn xây dựng các mô hình mẫu từ đó nhân rộng ra các xã trên địa bàn huyện”, ông Kiên cho biết thêm.Phạm Văn Dân, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Khuyến nông, chủ nhiệm dự án cho hay, đây là năm thứ 3 trung tâm triển khai dự án tại 5 tỉnh trên địa bàn cả nước. So với cây lúa, cây lạc có những khó khăn hơn trong việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong các khâu. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chúng tôi đã hoàn thành tốt mục tiêu của dự án đề ra.

Theo ông Dân, để mô hình có thể dễ dàng áp dụng vào SX cần sự vào cuộc của chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch và tổ chức SX, tạo cánh đồng lớn. Bên cạnh đó, phải xây dựng các chính sách hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng để phát huy hiệu quả nguồn hỗ trợ của nhà nước.

Ngoài ra, các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu quy trình thâm canh lạc phù hợp với áp dụng cơ giới hóa đồng bộ và xây dựng mối liên kết “4 nhà” nhằm phát triển các vùng SX lạc đạt hiệu quả cao và bền vững.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

9X xứ Tuyên trồng dưa sạch ‘5 không’

 

Bỏ nhiều cơ hội làm việc tại các thành phố lớn, anh Vũ Văn Sơn (SN 1993) ở thôn Mường, xã Phù Lưu, huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) trở về quê dấn thân vào nông nghiệp sau bao ngày tháng trăn trở.

Nói là làm, anh cùng với người bạn thân của mình là Nông Quốc Doanh cải tạo 1.000 m2 vườn tạp, xây dựng nhà lưới để sản xuất…

Đầu năm 2017, hai anh bắt tay vào trồng thử nghiệm giống dưa lưới, lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt. Áp dụng kỹ thuật trồng, chăm sóc theo quy trình VietGAP. Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên vừa làm, vừa nghiên cứu học hỏi. Vụ đầu cho năng suất thấp, chất lượng dưa nhạt phải cho lợn ăn.

Không hề nản chí, Sơn và Doanh quyết tâm làm lại từ đầu. Được sự ủng hộ vè vốn của gia đình, hai chàng trai tiếp tục đầu tư, đưa giống dưa Malaysia vào trồng và có kết quả tốt.

Vườn dưa lưới Malaysia của anh Sơn.

Sơn chia sẻ: Để cây đạt năng suất, chất lượng tốt nhất thì ngay những bước ban đầu phải làm cẩn thận, tỉ mỉ. Từ khâu làm đất, khi bắt đầu trồng dùng loại phân gà ủ hoai mục, phân hữu cơ từ cây ngô kết hợp một số chế phẩm sinh học khác.

Lên luống che chắn bằng màng phủ nông nghiệp, đục lỗ khoảng cách 40 – 50 cm. Đến giai đoạn ươm hạt, sử dụng xơ dừa và phân gà đã ủ hoai mục, ươm giống từ 10 – 15 ngày. Từ 25 – 30 ngày sau trồng, cây cho hoa cái, dùng ong mật để thụ phấn cho hoa. Khi cây đậu quả, từ nhánh thứ 7 – 12 chỉ để mỗi cây một quả, cây được 24 lá thì bấm ngọn, vừa dễ chăm sóc và các chất dinh dưỡng sẽ tập trung nuôi quả.

Đây là giống dưa tốt, phù hợp với khí hậu ở Hàm Yên ngày nắng nóng đêm mát, độ ẩm cao, chưa phát hiện sâu bệnh. Ngoài ra, để phòng ngừa, anh dùng chế phẩm sinh học và cho cách ly trong thời gian nhất định.

Dưa lưới được dán tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Anh Sơn cũng chia sẻ thêm, muốn quả thơm ngon cần tăng cường bón phân hữu cơ, tuân thủ theo nguyên tắc 4 “đúng”: đúng loại, đúng lượng, đúng thời điểm và bón đúng cách. Đồng thời, áp dụng nguyên tắc 5 “không”, đó là không sử dụng phân bón hóa học, không dùng giống biến đổi gen, không dùng chất kích thích sinh trưởng để phun, tưới, không dùng các loại thuốc diệt cỏ cũng như thuốc trừ sâu.

Sau 80 – 85 ngày dưa lưới cho thu hoạch, một quả có trọng lượng từ 1,8 – 2kg, mỗi vụ đạt từ 2,5 – 3 tấn. Nếu khéo trồng thì 1 năm sẽ được thu 3 vụ. Dưa được giao buôn tại các cửa hàng nông sản sạch tại Hà Nội với giá 40.000 – 45.000 đồng/kg, bán lẻ từ 65.000 – 70.000 đồng/kg. Từ việc trồng dưa và cam sau khi trừ chi phí còn lãi 300 – 400 triệu đồng/năm.

Để khách hàng biết đến sản phẩm của mình nhiều hơn, hai anh đã tiến hành làm thủ tục xác thực thông tin, nguồn gốc sản phẩm. Mỗi quả dưa và cam khi xuất bán, đều gắn tem truy xuất nguồn gốc giúp khách hàng kiểm tra được xuất xứ, ngày thu hái… Về chất lượng, sản phẩm đã được kiểm định bởi Viện Kiểm nghiệm Vệ sinh an toàn thực phẩm Quốc gia và Viện Bảo vệ thực vật.

Về hướng đi sắp tới, Sơn chia sẻ sẽ tiếp tục sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn VietGAP, tập trung canh tác thêm mít và na Thái. Đầu tư mở rộng hệ thống nhà lưới. Thu hút nguồn vốn tín dụng ưu đãi và tìm kiếm những thị trường tiềm năng, ổn định.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Trồng ổi lê Đài Loan cho quả quanh năm, ăn giòn ngọt, không lo ế

Mô hình chuyển đổi diện tích đất kém hiệu quả sang trồng ổi lê Đài Loan của anh Lê Thanh Phú, xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang) cho thu nhập khá.

Đến xã Tứ Quận, hình ảnh ấn tượng đầu tiên là vườn ổi được trồng thẳng hàng, phát triển xanh tốt; điểm xen lẫn trên cành là những túi bọc quả màu trắng treo lẫn trong tán cây.

Anh Lê Thanh Phú ở thôn Bình Ca 2 cho biết, đầu năm 2014, có anh bạn quê ở Hoài Đức (Hà Nội) lên chơi. Thấy vợ chồng anh lao động vất vả với cây rau màu ngắn ngày, bạn có lời khuyên nên trồng ổi (giống ổi lê Đài Loan) sẽ cho thu nhập rất tốt.

Anh Phú tiến hành bọc quả ổi bằng túi chuyên dụng.

Nghe theo lời khuyên của bạn, anh bàn với vợ rồi quyết định trồng thử. Đầu tiên anh đặt mua 20 cây ổi (chiết cành) mang về trồng ở bãi đất ven suối gần nhà. Sau hơn 3 tháng chăm sóc, cây ổi phát triển rất tốt và bắt đầu ra hoa kết trái.

Cuối năm 2014 anh chị thu hoạch lứa quả đầu tiên, do là giống ổi mới và được chăm sóc tốt nên quả to, có mã đẹp, chất lượng ăn giòn, ngọt lại cho quả trái vụ nên bán được giá từ 30 – 40 nghìn đồng/kg, mang lại thu nhập gấp nhiều lần trồng rau.

Nhận thấy thấy ổi là cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, anh bàn với chị chuyển hướng trồng thâm canh ổi. Để mở rộng diện tích trồng ổi, cần phải có diện tích đất canh tác đủ rộng, thuận lợi cho việc tưới và tiêu nước sau này.

Rất may bên cạnh vườn nhà anh có mấy mảnh ruộng ven suối của một số hộ trong thôn sử dụng trồng cây ngắn ngày nhưng cho hiệu quả kinh tế không cao do thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa.

Anh đã dành thời gian đi đến từng nhà có đất ruộng liền kề để vận động chuyển đổi nhằm thuận lợi cho việc canh tác lâu dài. Qua nhiều lần kiên trì thuyết phục, cuối cùng các hộ đã đồng ý đổi nhượng cho anh, cộng với diện tích đất của gia đình gộp lại anh đã có một thửa đất rộng 2.500 m2 .

Năm 2015, gia đình làm đơn gửi chính quyền địa phương đề nghị cho phép cải tạo, nâng cao mặt bằng đất ruộng để chống ngập úng vào mùa mưa; đồng thời xin chuyển mục đích sử dụng đất từ trồng cây hàng năm sang đất trồng cây lâu năm để phát triển kinh tế vườn.

Có mặt bằng đủ rộng và không còn bị ngập khi mùa mưa đến, anh tiến hành lên luống, đào hố với mật độ 3 m x 3 m để trồng mới 250 gốc ổi.

Sau khi trồng, cây ổi bén rễ và bước vào giai đoạn phát triển, cả gia đình tập trung chăm sóc, tỉa cành tạo bộ khung tán hợp lý chuẩn bị cho chu kỳ ra hoa đậu quả.

Miệt mài chăm sóc, cuối năm 2015 vườn ổi cho thu hoạch lứa quả đầu tiên, cân đối tiền bán ổi vừa đủ cho đầu tư chi phí cải tạo đất và trồng mới.

Bước sang năm 2016 với 270 gốc ổi cho quả quanh năm, anh chị thu lợi trên 100 triệu đồng; năm 2017 cho thu nhập khoảng 200 triệu; đặc biệt năm 2018 thu từ bán ổi quả 310 triệu và 30 triệu tiền bán cành ổi giống cho tổng thu nhập 340 triệu, trừ chi phí đầu tư phân bón, túi bọc quả, lợi nhuận thu về 300 triệu.

“Để đảm bảo vệ sinh an toàn sản phẩm, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, được thị trường tiêu dùng ưa chuộng, thì chất lượng quả ổi phải sạch, an toàn không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật; quả to, có dáng mã đẹp, chất lượng ăn giòn, ngọt”, anh Phú chia sẻ.

Chia sẻ kinh nghiệm trồng ổi anh Phú cho biết, để cây ổi ra hoa đậu quả quanh năm, chất lượng quả thơm, giòn và ngọt phải thường xuyên tỉa cành, bấm ngọn tạo chồi mới cho ổi ra hoa.

Sau khi cánh hoa rụng, quả ổi to gần bằng đầu ngón tay cái phải dùng túi chuyên dụng bọc bảo vệ quả để tránh côn trùng (bọ xít muỗi, rệp sáp) gây hại.

Định kỳ bón phân hữu cơ (phân gà ủ hoai mục sau 6 tháng), bón đủ lân, giảm lượng phân đạm vô cơ và bón tăng lượng kali sun phát. Khi cần dùng thuốc hóa học phun trừ sâu bệnh gây hại phải tuân thủ nguyên tắc sử dụng thuốc “4 đúng”.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Đỉnh cao nuôi biển: Sản xuất nhân tạo giống hải sâm quý

Để khai thác hải sâm, thợ lặn phải lặn rất sâu ngoài biển xa và chúng đang ngày càng cạn kiệt. Nay loài sâm biển quý giá đó đã được các nhà khoa học thủy sản Việt Nam nhân tạo thành công, nuôi thương mại dễ dàng…

NNVN xin giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Đình Quang Duy, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, chuyên gia hàng đầu về hải sâm…

Bị săn lùng

Hải sâm (Holothuroidea, Echinodermata) có lịch sử lâu dài về thương mại trên khắp châu Á và Ấn Độ – Thái Bình Dương; chúng được khai thác để làm thực phẩm và sử dụng làm dược liệu cho y học cổ truyền ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ

Hải sâm là loài sống dưới đáy đại dương, là thực phẩm có giá trị bổ dưỡng và giúp tăng cường sinh lực.

Hải sâm (Holothuroidea, Echinodermata) có lịch sử lâu dài về thương mại trên khắp châu Á và Ấn Độ – Thái Bình Dương; chúng được khai thác để làm thực phẩm và sử dụng làm dược liệu cho y học cổ truyền ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ

Hải sâm là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng và nguồn thu nhập cho các cộng đồng ven biển nhỏ trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương; là nhóm động vật không xương sống được khai thác nhiều nhất với khoảng 77 loài được thu hoạch và giao dịch ở ít nhất 70 quốc gia trên toàn thế giới.

Các hình thức phổ biến nhất của sản phẩm hải sâm trên thị trường là hải sâm bỏ ruột, luộc và phơi khô, được gọi là trepang (Indonesia), beche-de-mer (Polynesia thuộc Pháp), namako (Nhật Bản) hoặc gamat (Malaysia).

Hải sâm được coi là món ăn bổ dưỡng ở nhiều vùng, đặc biệt là Trung Quốc và được đánh giá cao vì lợi ích nhận thức như thuốc cổ truyền dưới dạng chiết xuất được chế biến thành thuốc viên, thuốc bổ và các loại thuốc bôi tại chỗ.

Hải sâm cát cũng có các hợp chất hoạt tính sinh học có thể có ứng dụng sinh học và dược lý cho các đặc tính chống ung thư, kháng virus, chống tạo mạch máu trong điều trị ung thư, chống tăng huyết áp, chống viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa, chống huyết khối…

Hải sâm Nhật Bản Apostichopus japonicus là loài được khai thác tự nhiên nhiều nhất với sản lượng trung bình hàng năm là 11.473 tấn, từ năm 2002 đến năm 2015 mức tăng trung bình 131 tấn mỗi năm.

Khai thác nhằm vào các loài hải sâm khác có giá trị thấp hơn đáng kể như hải sâm vú đen Holothuria nobilis, hải sâm ngận Thelenota ananas và hải sâm vú trắng Holothuria fuscogilva, ở mức 12, 89 và 115 tấn mỗi năm, từ năm 2002 đến 2015 (FAO, 2018). H. fuscogilva được coi là loài sắp nguy cấp trong khi H. nobilis và T. ananas được coi là loài nguy cấp (theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, IUCN).

Quần thể hải sâm bị suy giảm nghiêm trọng trong khoảng 50 – 90% do áp lực khai thác. Hải sâm cát (Holothuria scabra) là một trong những loài hải sâm nhiệt đới có giá trị nhất và chịu áp lực đánh bắt nghiêm trọng trong vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương, có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Sản xuất giống và nuôi thương phẩm

Tại Việt Nam, quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát đã được nghiên cứu bởi Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III qua hai đề tài cấp Bộ, giai đoạn 2003 – 2004 là đề tài “Nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống hải sâm cát tại Nha Trang – Khánh Hòa”;

Giai đoạn 2008 – 2009 là đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi thương phẩm hải sâm cát quy mô sản xuất trong ao tại một số khu vực duyên hải Nam Trung Bộ”.

Hai dự án trên cùng với các dự án hợp tác quốc tế khác về loài hải sâm cát khác được nghiên cứu về cơ bản đã hình thành nghề nuôi hải sâm cát tại Việt Nam, chủ yếu là nuôi thương phẩm trong ao.

Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy, quy trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát không ổn định với tỉ lệ sống từ ấu trùng mới nở cho đến giai đoạn con giống có thể thả nuôi (2 – 3cm) thương phẩm trung bình khoảng 5% tính chung cho tất cả giai đoạn ương nuôi; con bố mẹ phụ thuộc đánh bắt từ tự nhiên chưa có quy trình nuôi con bố mẹ thành thục chủ động.

Thời gian nuôi thương phẩm hải sâm cát đạt được tại các mô hình trung bình từ 10 – 12 tháng, có thể thu hoạch với kích cỡ khoảng 3 – 4 con/kg, năng suất trung bình 2,5 tấn/ha, tỷ lệ sống trung bình khoảng 80%.

Trong số các loài hải sâm nhiệt đới, hải sâm cát có giá bán cao nhất trên thị trường, dao động từ 115 – 640 USD/kg đến 1.670 USD/kg (đối với mẫu nặng hơn 1,5kg) (Purcell và cộng sự, 2012). Trong năm 2015, tổng sản lượng nuôi hải sâm cát trên toàn cầu chỉ là 156 tấn, trị giá 732.000 USD, phần lớn được sản xuất ở Việt Nam và Malaysia (FAO, 2018).

Hải sâm giống

Từ năm 2000 đến năm 2003, tổ chức ICLARM (nay là WorldFish Center) hợp tác với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm hải sâm cát Holothuria scabra.

Dự án đã sản xuất nhân tạo vài chục vạn con giống 1 – 2mm với tỷ lệ sống cho ương nuôi ấu trùng từ trứng đến con giống còn thấp chỉ đạt 3,1%, nguyên nhân chính do thức ăn và địch hại.

Dự án cũng đã thử nghiệm thả nuôi hải sâm cát có kích cỡ khác nhau để ương nuôi trong lồng, đăng ngoài biển. Kết quả nuôi trong ao với mật độ 1 con/m2 cho thấy cỡ giống 1,6g/con nuôi khoảng 1,5 – 2 tháng đạt 60g/con, cỡ giống 5,5g/con nuôi khoảng 1,5 tháng đạt 96g/con.

Quy trình sản xuất giống hải sâm cát đã đạt được thành công trong cải tiến kỹ thuật nâng cao tỷ lệ sống trong giai đoạn bám lên 10%. Kết quả ương nuôi thành công từ ấu thể 1 – 2mm lên con giống 2cm đạt tỷ lệ sống gần 50%.

Ao ương hải sâm.

Gần đây,các dự án hợp tác quốc tế về hải sâm giữa Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III và tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc (ACIAR) đã nghiên cứu và làm chủ công nghệ sản xuất giống hải sâm cát, đồng thời nghiên cứu các hình thức nuôi ghép giữa hải sâm và tôm, hải sâm với ốc hương, nuôi đăng biển, tập huấn sản xuất giống và các giải pháp quản lý môi trường ao nuôi và tạo sinh kế cho cộng đồng ven biển…

Lợi ích kinh tế

Nuôi thương phẩm hải sâm cát vẫn chưa được phát triển ở quy mô công nghiệp trên thế giới, ngoại trừ một số mô hình nuôi ao tại Nam Trung Bộ, Việt Nam những năm gần đây.

Trong khi đó, nhu cầu về sản phẩm hải sâm cát trên thị trường thế giới như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan… là rất lớn. Ngoài ra, thị trường trong nước có tiềm năng rất lớn đối với mặt hàng hải sâm cát – vốn là sản phẩm có giá trị y học và thực phẩm cao – nhưng chưa được quan tâm khai thác với nguồn nguyên liệu còn hạn chế do nuôi trồng còn chưa phát triển ở quy mô công nghiệp.

Thu hoạch hải sâm.

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chất lượng giữa hải sâm cát nuôi và tự nhiên là không có sự sai khác nhiều (Hair và cộng sự, 2018).

Do đó, trong tương lai khả năng sản phẩm hải sâm cát nguồn gốc từ nuôi trồng có tính cạnh tranh cao so với nguồn sản phẩm khai thác từ tự nhiên vốn hạn chế và không bền vững.

Khu vực Nam Trung Bộ có điều kiện tự nhiên phù hợp (nhiệt độ, độ mặn cao và ổn định) cho sản xuất giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát.

Nhiều trại sản xuất giống hải sản, diện tích nuôi sử dụng nuôi các loài hải sản (tôm, ốc hương, cá biển…) không hiệu quả có thể chuyển đổi qua sản xuất giống và nuôi hải sâm cát, sẽ phát huy công năng trên một diện tích đất, nhà xưởng, mặt nước nuôi trồng.

Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chất lượng giữa hải sâm cát nuôi và tự nhiên là không có sự sai khác nhiều.

Khu vực miền Trung là nơi có rất nhiều diện tích nuôi tôm bị bỏ hoang do ô nhiễm, dịch bệnh nên việc nuôi hải sâm, vốn là đối tượng ăn lọc, sẽ góp phần cải tạo môi trường ao nuôi, giảm ô nhiễm vùng nuôi.

Việc triển khai sản xuất nuôi trồng hải sâm cát ở quy mô công nghiệp sẽ mở rộng nghề sản xuất giống và nuôi thương phẩm một đối tượng có giá trị kinh tế cao, đa dạng hóa đối tượng nuôi, tạo công ăn việc làm, nhất là việc làm cho phụ nữ vùng hải đảo và ven biển.

Sản phẩm từ nghề nuôi sẽ góp phần vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản, cung cấp nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng và y học cao, góp phần cải thiện sức khỏe người dân.

Cần chiến lược nghiên cứu và nuôi hải sâm thương mại

Mặc dù các kết quả nghiên cứu và thực tế sản xuất tại Việt Nam cho thấy có những chỉ tiêu vượt trội so với công trình đã xuất bản và công nghệ khu vực cũng như trên thế giới nhưng nghề nuôi vẫn chưa phát triển mạnh trong những năm qua.

Việc đầu tư về cơ sở sản xuất hải sâm cát còn hạn chế và hải sâm cát vẫn chưa được xem là đối tượng nuôi trồng ưu tiên của ngành thủy sản nên quy mô sản xuất còn nhỏ, công nghệ chưa thật sự ổn định ở một số khâu kỹ thuật.

Việc sản xuất thử nghiệm ở quy mô công nghiệp đòi hỏi nhiều nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện trong các khâu nuôi vỗ con bố mẹ chất lượng cao; nghiên cứu thức ăn, mật độ, nâng cao tỉ lệ sống từ ấu trùng cho đến giai đoạn bám đáy và giai đoạn ương lên con giống tiêu chuẩn phục vụ nuôi thương phẩm; nghiên cứu thức ăn bổ sung phù hợp và mật độ thích hợp cho hải sâm nuôi nhằm giảm thời gian nuôi, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trên một diện tích nuôi trồng.

Việc kết hợp với doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu hải sâm sẽ hỗ trợ gia tăng quy mô sản xuất, chiến lược tiếp thị và đưa sản phẩm ra thị trường hiệu quả hơn.

TS NGUYỄN ĐÌNH QUANG DUY

Nguồn: https://nongnghiep.vn/

 

 

 

Xây dựng thương hiệu ớt sạch Hồng Thủy

Ngoài sản xuất cây lúa, xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) đã chỉ đạo thành lập các tổ hợp tác tập trung phát triển diện tích đất màu với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Trong đó, cây ớt đang được xem có hiệu quả nhất.

Tuy nhiên vấn đề cần nhất là xây dựng thương hiệu ớt sạch Hồng Thủy, nâng cao chất lượng sản phẩm. Dự án chuỗi giá trị ớt sạch bước đầu áp dụng các biện pháp sản xuất ớt sạch và xây dựng theo mô hình VietGAP. Tổ chức sản xuất theo tổ hợp tác để trồng tập trung và chuyên canh, thống nhất quy trình trồng, chăm bón, thu hoạch. Làm mẫu mã bao bì, đăng ký vệ sinh an toàn thực phẩm, thiết kế nhãn hiệu, đăng ký mã vạch truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Tháng 11/2018, sản phẩm ớt Hồng Thủy được UBND huyện phê duyệt dự án xây dựng chuỗi giá trị ớt sạch cho cơ sở nông sản Thánh Gái và được Trạm khuyến nông huyện Lệ Thủy tập huấn quy trình sản xuất ớt sạch theo tiêu chuẩn VietGAP cho các thành viên tổ hợp tác trồng ớt. Đây là tín hiệu phấn khởi cho hợp tác xã và người trồng ớt nơi đây.

Từ khi tổ hợp tác được thành lập vào năm 2018, phụ nữ xã Hồng Thủy đã có thêm cơ hội để giúp đỡ nhau trong phát triển sản xuất, góp phần vào xây dựng thương hiệu ớt Hồng Thủy. Tham gia với tổ hợp tác trồng ớt do Hội liên hiệp Phụ nữ xã thành lập trong dự án xây dựng thương hiệu ớt sạch Hồng Thủy, các thành viên đã được tập huấn hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ thị trường tìm kiếm đầu ra.

Hiện nay tổ hợp tác trồng ớt Hồng Thủy có 15 thành viên tham gia với hơn 3ha, hầu hết các chị em đều có kinh nghiệm trồng ớt lâu năm, sản xuất có hiệu quả, sản lượng/vụ ước đạt từ 20-30 tấn/ha, thu lãi 70-80 triệu đồng/ha, với đặc trưng về độ nồng, cay, thơm, ngon, ớt Hồng Thủy là sản phẩm được ưa chuộng.

Lợi ích của tổ là quản lý được đầu vào đến sơ chế, chế biến, đầu ra. Ớt sau khi thu hoạch được cơ sở Nông sản Thánh Gái thu mua từ các thành viên trong tổ hợp tác, sau đó tập hợp về tại cơ sở của mình để sơ chế và chế biến. Từ đó, hình thành các dịch vụ nghề ớt như thu mua ớt, vận chuyển, hái ớt trái, lặt cuống ớt, phân loại ớt, phơi (sấy)…

Nhờ vậy, bà con nông dân trồng ớt có nguồn tiêu thụ ổn định và thu nhập cao. Bên cạnh đó, cơ sơ Nông sản Thánh Gái đầu tư mặt bằng xây dựng nhà xưởng, phòng trưng bày sản phẩm, kho đựng, sân phơi được xây dựng tại thôn Thạch Trung, xã Hồng Thủy với diện tích 350m2.

Để cây ớt bền vững, tránh cung vượt cầu, tổ hợp tác đã tổ chức mô hình liên kết, quy hoạch vùng trồng ớt từ nay đến năm 2020. Xây dựng vùng trồng ớt chuyên canh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm với quy mô 03 ha trong vụ thứ nhất làm ra 70 tấn ớt và phát triển lên 04 ha trong vụ thứ hai với 90 tấn trong vùng dự án. Trong đó khoảng 50% sơ chế và bán tươi, 50% chế biến dưới các dạng ớt bột, tương ớt, ớt muối.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

Trồng bí đao, trồng ớt sừng vàng thu 200 triệu mỗi năm

Với số tiền 170 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân, các thành viên Tổ hợp tác (THT) trồng màu khu vực Phú Thạnh, phường Tân Phú, quận Cái Răng (TP.Cần Thơ) đã xây dựng được mô hình trồng màu hiệu quả, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Làm ruộng mà thiếu vốn

Nguồn vốn hỗ trợ THT trồng màu khu vực Phú Thạnh là từ Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng và nguồn xây dựng quỹ này từ Hội ND dân phường Tân Phú. Tuy quy mô nguồn vốn còn khiêm tốn nhưng đã phát huy hiệu quả đối với nông hộ trồng màu và có liên kết với nhau thông qua hình thức THT.

Nhờ vay được nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng, ông Đặng Văn Hên đã có thu nhập ổn định

Năm 2017, THT trồng màu khu vực Phú Thạnh được thành lập với diện tích 5,8ha và có 12 thành viên tham gia. Do thiếu vốn, nhiều thành viên THT gặp khó khăn trong sản xuất. Năm 2017, Hội ND quận Cái Răng và Hội ND phường Tân Phú tạo điều kiện cho các thành viên trong tổ vay 170 triệu đồng để phát triển sản xuất.

Ông Đặng Văn Hên (ở Phú Thạnh), vui mừng cho biết: “Nói làm ruộng nhưng thiếu vốn thì nông dân cực lắm. Tôi vay được 10 triệu đồng từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận để đầu tư mua giống, phân thuốc trồng màu. Nhờ có số tiền này, gia đình tôi mua hạt giống, phân, thuốc để đầu tư trồng 3,5 công màu. Đến nay, trung bình mỗi năm gia đình thu nhập gần 200 triệu đồng từ các loại rau củ quả…”.

Ông Hên cho hay, 3,5 công màu của gia đình trước đây trồng 3 vụ lúa/năm nhưng hiệu quả kinh tế mang lại không cao bởi chi phí lớn, trong khi giá bán lúa không ổn định. Từ cuối năm 2016, ông Hên chuyển sang trồng màu chuyên canh, thu nhập gia đình được cải thiện rõ rệt.

Trong các loại cây màu, ông Hên tâm đắc nhất là bí đao vì nhẹ công chăm sóc nhưng cho thu nhập khá cao. Ông Hên cho biết: “1 công bí đao có thể đạt năng suất từ 3 – 6 tấn. Tùy thời điểm, bí đao bán được giá từ 3.000 – 5.000 đồng/kg. Trung bình, mỗi công trồng bí đao cho thu nhập không dưới 50 triệu đồng/năm, cao gấp 5 lần so với trồng lúa, trong khi đó chi phí nhân công, phân, thuốc đều giảm đi nhiều so với làm lúa…”.

Hiện tại, gia đình ông Hên trồng màu quanh năm, vụ trồng bí đao, dưa leo, vụ khác lại trồng ớt, rau xanh. Các loại sản phẩm rau màu ông Hên làm ra được các thương lái đến thu mua nên không phải lo đầu ra và an tâm sản xuất. Từ khi chuyển sang trồng màu, cánh đồng của THT trồng màu khu vực Thạnh Phú lúc nào cũng ngan ngát màu canh của rau trái. Không khí lao động, sản xuất của mỗi hộ thành viên theo đó cũng phấn chấn, tạo động lực cho THT phát triển.

Trợ lực để nông dân sản xuất hàng hóa

Cũng được vay 15 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng, hộ ông Nguyễn Văn Hùng (ở Phú Thạnh), cho biết: “Năm 2018, tôi trồng gần 300 gốc ớt sừng vàng thu nhập khoảng 15 triệu đồng. Thấy cây ớt sừng vàng mang lại hiệu quả kinh tế cao, nên gia đình tôi thuê thêm 1 công đất để trồng giống ớt này. So với làm lúa, trồng ớt sừng vàng cho thu nhập khá hơn, trong đó lại nhẹ công chăm sóc… Thêm vào đó, phần đầu tư cây giống, phân thuốc được vay từ nguồn Quỹ Hỗ trợ nông dân nên chúng tôi cũng phấn khởi…”. Ngoài ớt sừng vàng, ông Nguyễn Văn Hùng còn trồng thêm các loại rau xanh, rau cải bán để có nguồn thu nhập hàng ngày.

Theo tập quán sản xuất truyền thống, nông dân thấy cây màu nào trồng cho thu nhập cao là phát triển với diện tích lớn, dẫn đến tình trạng thừa hàng, dội chợ thu nhập không cao, thậm chí còn bị thua lỗ. Nhận thấy được điều đó, năm 2017, nhiều nông dân khu vực Thạnh Phú đã liên kết với nhau và thành lập THT trồng màu.

Nhờ liên kết sản xuất, các thành viên trong tổ được các cấp Hội ND quan tâm, tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất. Đến nay, nhiều thành viên trong THT trồng màu khu vực Thạnh Phú đã mạnh dạn phát triển mô hình trồng màu chuyên canh và cung cấp ra thị trường với số lượng lớn dưa leo, rau cải…

Ông Phạm Thanh Dũng -Chủ tịch Hội ND phường Tân Phú, cho biết: “Từ nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân quận Cái Răng và nguồn xây dựng quỹ này của Hội ND phường đã giúp cho các thành viên trong THT trồng màu Thạnh Phú có điều kiện phát triển sản xuất. Ngoài ra, Hội ND phường còn phối hợp các ngân hàng, tạo điều kiện cho 295 hộ vay gần 10 tỷ đồng.

“Các thành viên trong Tổ Hợp tác trồng màu khu vực Thạnh Phú sau khi tiếp cận nguồn vốn Quỹ Hỗ trợ nông dân đã phát triển nhiều mô hình kinh tế hiệu quả, có thu nhập ổn định, đời sống từng bước được nâng cao. Qua đó, ý nghĩa của Quỹ Hỗ trợ nông dân và vai trò của Hội được nâng lên…” – Ông Phạm Thanh Dũng, Chủ tịch Hội Nông dân
phường Tân Phú cho hay.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Chính thức: Lô xoài Việt Nam đầu tiên đi máy bay sang Mỹ

Sau 10 năm đàm phán, xoài Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Theo đó, tỉnh Đồng Tháp là nơi có lô xoài đầu tiên được xuất khẩu.

Sáng nay (18.4), tại tỉnh Đồng Tháp, Bộ NNPTNT phối hợp với UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức lễ công bố xuất khẩu lô xoài đầu tiên của Việt Nam sang Hoa Kỳ.

Các đại biểu làm nghi thức chào mừng lô xoài đầu tiên của Việt Nam sang Hoa Kỳ

Xoài là loại quả tươi thứ 6 của Việt Nam được cấp phép xuất khẩu sang thị trường Mỹ, trước đó là thanh long (2008), chôm chôm (2011), nhãn và vải (2014), vú sữa (2017).

Để trái xoài vào Hoa Kỳ, Cục Bảo vệ thực vật đã nộp hồ sơ xin mở cửa thị trường từ năm 2009. Đến ngày 18.2.2019 vừa qua, tại Hà Nội, Cục Bảo vệ thực vật đã phối hợp với Văn phòng của Cục Kiểm dịch động thực vật Hoa Kỳ (APHIS) tổ chức “Lễ công bố xuất khẩu xoài của Việt Nam sang Hoa Kỳ”.

Xoài Đồng Tháp được xuất sang Hoa Kỳ

Tại buổi lễ, ông Nguyễn Thanh Hùng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho biết, đơn vị xuất khẩu lô hàng xoài đầu tiên này là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, đơn vị nhập khẩu là Công ty Trái cây nhiệt đới Đại Tân, đơn vị cung ứng sản phẩm xoài là Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh).

“Sau hơn 10 năm đàm phán, chúng tôi rất mừng khi xoài Việt Nam, trong đó có Đồng Tháp được xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đây là kết quả nỗ lực rất lớn của Bộ NNPTNT, Bộ Công Thương, cơ quan chức năng phía Hoa Kỳ đồng ý nhập khẩu xoài Việt Nam. Có thị trường đã khó, giữ thị trường càng khó khăn hơn vì vậy, người dân sản xuất xoài, đơn vị xuất khẩu phải đảm bảo cung cấp sản phẩm chất lượng, an toàn” – ông Hùng nói.

Cũng theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, hiện nay, Đồng Tháp có diện tích trồng xoài lớn nhất khu vực ĐBSCL với khoảng 9.300 ha. Theo đó, 2 giống xoài chủ lực đã đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của địa phương này là xoài Cao Lãnh và xoài cát chu Cao Lãnh.

Đến nay, xoài Việt Nam đã được xuất khẩu sang 40 nước trên thế giới, trong đó có châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand… Các giống xoài được xuất khẩu là xoài cát Hòa Lộc, xoài cát Chu, xoài tượng da xanh, xoài keo,…

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

“Phát sốt” với giá cao, mít Thái “leo” lên đồi núi xứ Nghệ

Giống mít Thái siêu sớm đang được người tiêu dùng quan tâm và săn lùng trên thị trường cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng. Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ An), một số hộ trồng loại mít này đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đem về thu nhập ổn định cho gia đình.

Trước đây, nông dân tỉnh Nghệ An chủ yếu trồng giống mít truyền thống (mít dai, mít mật), sau khoảng 4 – 5 năm mới cho thu hoạch. Với mong muốn cung ứng ra thị trường sản phẩm mít quanh năm, thời gian qua, nhiều gia đình ở huyện Con Cuông đã mạnh dạn đưa giống mít Thái siêu sớm vào trồng, kết quả thu lại hơn cả mong đợi.

Người dân trồng mít Thái mang lại hiệu qua kinh tế cao

Bà Trần Thị Hương, một trong những hộ nông dân trồng mít Thái siêu sớm ở huyện Con Cuông nói: “Không như những giống mít khác, mít Thái siêu sớm ít xơ, múi giòn, vị ngọt đậm và thơm nên giá bán khá cao, từ 20.000 – 30.000 đồng/kg. Hiện, gia đình tôi có hơn 50 cây, bình quân mỗi cây cho 5 – 10 quả”.

Là người tiên phong đưa cây mít Thái về trồng tại địa phương, chị Hà Thị Anh ở thôn Tân Dân, xã Bồng Khê cho biết: “Năm 2017, gia đình tôi nghiên cứu và tìm hiểu giống mít Thái rồi quyết định ra Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Hà Nội) để mua 100 cây mít Thái, mỗi cây giống giá 50.000 đồng. Trên diện tích 2.800 m2 trước đây chỉ trồng cây ngắn ngày, tôi đã trồng 100 gốc mít, hiện đang đến kỳ thu hoạch”.

“Giống mít Thái siêu sớm trồng sau khoảng 18 tháng là cho thu hoạch, sản lượng tăng dần từ năm thứ hai trở đi. Mỗi cây mít Thái siêu sớm chỉ cao khoảng 2 – 3m nhưng đã cho khoảng 5 – 8 quả/cây; mỗi quả nặng từ 3 – 5kg. Mặc dù mới năm thứ 2, nhưng gia đình tôi đã thu được hàng chục triệu đồng” – chị Hà Thị Anh cho biết thêm.

Giống mít Thái siêu sớm trồng sau khoảng 18 tháng bắt đầu cho thu hoạch; trung bình mỗi cây cho từ 5 – 10 quả

Anh Nguyễn Văn Tấn ở thôn Lam Trà, xã Bồng Khê cũng đang trồng gần 100 cây mít Thái. Anh Tấn cho biết: “Trồng mít không tốn nhiều chi phí, kỹ thuật chăm sóc như cây nhãn, cây cam nhưng đòi hỏi phải thường xuyên tưới nước, bón phân và theo dõi để phòng trừ các loại sâu đục thân, đục quả” .

Để cây mít cho năng suất cao và chất lượng tốt, sau mỗi lần thu hoạch quả phải cắt bỏ bớt cành thừa, cành nhỏ và yếu để cây nhận đủ ánh sáng giúp quả to và ngọt. Ngoài ra, nên tỉa bỏ những quả đầu cành, chỉ giữ lại những quả ôm thân và gần gốc để đạt chất lượng tốt nhất.

Để tránh sâu bệnh gây hại, người dân dùng bao bọc lại cẩn thận từng quả mít.

“Muốn mít cho năng suất cao và chất lượng, năm đầu ra quả, chỉ giữ tối đa khoảng 3 – 4 quả/cây. Khi cây đã trưởng thành, số quả có thể tăng lên nhiều hơn. Đặc biệt, mít Thái siêu sớm trồng càng lâu năm múi sẽ càng có vị ngọt đậm, thơm ngon” – anh Tấn cho biết thêm.

Vườn mít Thái 100 cây của gia đình chị Hà Thị Anh ở thôn Tân Dân, xã Bồng Khê đang cho thu hoạch

Hiện, trên địa bàn xã Bồng Khê có 5 hộ trồng tập trung từ 50 -100 cây; còn lại chủ yếu trồng xen canh cùng nhiều loại cây ăn quả khác. Mặc dù cây mít Thái đang cho hiệu quả kinh tế cao, nhưng cơ quan chức năng khuyến cáo người dân cần thận trọng, không nên ồ ạt mở rộng diện tích nhằm tránh tình trạng cung vượt cầu, rớt giá.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kiên Giang: Mang rau dại thả ruộng, tốt vù vù

Hộ gia đình ông Phạm Văn Lợi Em, ngụ tại ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành (Kiên Giang) thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm từ mô hình trồng cù nèo. Cù nèo vốn là loại rau đồng mọc hoang dại khắp nơi. Thế nhưng loài rau dại này lại đang mang về thu nhập cao cho nhiều hộ dân. Đây là chuyện lạ ở Kiên Giang.

Trong những năm qua, nhiều bà con nông dân tại xã Mong Thọ, huyện Châu Thành đã chuyển đổi một phần diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng các loại rau màu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, trồng cù nèo là một trong những loại rau màu được bà con nơi đây lựa chọn để phát triển kinh tế gia đình bởi dễ trồng và đầu ra ổn định…

Ông Phan Văn Lợi Em, ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành (Kiên Giang) hái rau cù nèo để bán

Gia đình ông Phạm Văn Lợi Em và Bà Trần Thị Hải, ngụ tại ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành có 5 công ruộng, trước kia trồng lúa kém hiệu quả, đời sống gia đình khó khăn. Lúc đầu gia đình ông Lợi Em thấy cù nèo mọc xung quanh nhà xanh tốt, và cắt đem ra chợ bán, thấy người tiêu dùng cũng ưa chuộng.

Ông Phạm Văn Lợi Em bèn bắt đầu nhân giống trồng thử nghiệm loài rau dại này trên 1 công đất ruộng. Sau vài năm trồng cù nèo, thấy thu nhập ngày càng khá, ông Em bèn nhân rộng ra cả 4 công đất còn lại. Hiện tại, mỗi ngày thu nhập từ bán cù nèo của gia đình ông từ 700 đến trên 800 ngàn đồng, đời sống kinh tế gia đình ổn định và thoát nghèo.

Bà Trần Thị Hải, Ấp Hòa Thọ, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành cho biết thêm: Lúc trước trồng lúa với diện tích nhỏ cuộc sống tôi khổ lắm, bây giờ thì trồng cù nèo cuộc sống tôi khỏe rồi, kinh tế cũng ổn định.

Mô hình trồng cù nèo của gia đình ông Lợi Em; bà Hải được đánh giá là có hiệu quả kinh tế cao, được nông dân trong và ngoài huyện thường xuyên đến tham quan học hỏi và cù nèo được xem là cây rau màu đã giúp nông dân giảm nghèo, có thu nhập khá, có thể tận dụng trồng xung quanh nhà với các hộ dân ít đất canh tác.

Ông Nguyễn Quốc Sỹ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mong Thọ, huyện Châu Thành có nhận xét: Đối với mô hình trồng cù nèo ở xã trồng rất hiệu quả, đem lại lợi nhuận kinh tế cao, cần khuyến khích nhân rộng.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kiên Giang: Năm nào cũng “đào” được 300 triệu từ khoai lang Bông Súng

Với 1ha đất trồng khoai lang Bông Súng, mỗi năm lão nông Huỳnh Văn Thơm (Mười Thơm), ngụ khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng (Giồng Riềng, Kiên Giang) thu nhập hơn 300 triệu đồng, trừ chi phí làm bờ bao, lên liếp, phân bón, lợi nhuận gần 150 triệu đồng. Trong khi đó, ở nhiều địa phương người trồng khoai lang năm được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa…

Với 1ha đất trồng khoai lang, mỗi năm lão nông Huỳnh Văn Thơm (Mười Thơm), ngụ khu phố 6, thị trấn Giồng Riềng (Giồng Riềng, Kiên Giang) thu nhập hơn 300 triệu đồng, trừ chi phí làm bờ bao, lên liếp, phân bón, lợi nhuận gần 150 triệu đồng.

Nhiều người tò mò trong khi giá khoai lang trên thị trường nhiều năm gần đây rất bấp bênh, nhiều gia đình bán đất , sang ruộng vì giá khoai lao dốc, nhưng ông Mười Thơm vẫn sống khỏe với loài cây trồng đã có mặt ở khu phố 6 từ mấy chục năm nay.

“Kinh nghiệm của tôi là canh thời điểm xuống giống khoai lang lúc ít nơi trồng được, để không bị dội chợ và bán được giá cao. Ngoài ra, kỹ thuật làm đất trồng khoai lang cũng cực kỳ quan trọng, quyết định vụ khoai thất bại hay thắng lợi” – ông Mười Thơm thiệt thà nói.

Ông Mười Thơm, thị trấn Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang bên luống khoai lang giống Bông Súng đang được ươm mới

Với kinh nghiệm theo dõi thị trường của mình, ông Mười Thơm nhận thấy, thông thường mùa nước nổi các vùng trồng khoai lang lớn trong vùng ĐBSCL sẽ ít trồng được khoai lang do ảnh hưởng lũ lên. Nhất là những nơi mực nước lũ cao, không có đê bao kiên cố sẽ không thể trồng khoai lang được. Vậy là cứ khoảng tháng 7 âm lịch ông Mười Thơm lại âm thầm thuê người cuốc dòng, lên luống rồi giâm dây khoai lang xuống.

Cứ như thế, mỗi năm ông Mười Thơm trồng được 2 vụ khoai lang Bông Súng. Để giữ gien giống khoai lang địa phương có từ thời cha ông để lại, cứ khoảng tháng 2 âm lịch hàng năm, ông lại chọn những luống khoai có củ sai, to, trọng lượng khoảng 500gr/củ, cuống nhỏ để ương lấy dây làm dây khoai giống.

Nhờ nhiều năm kinh nghiệm, ông Mười Thơm, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang vẫn thu lãi 150 triệu đồng/năm từ khoai lang Bông Súng

Theo ông Mười Thơm, mỗi củ khoai giống khi ương có thể cho 25-50 chồi. Với 20 củ khoai giống, ông có thể nhân ra được 400 dây giống, sau đó tiếp tục trồng ở một khu vực riêng để trồng làm dây giống phục vụ ruộng khoai của gia đình và chia cho bà con trong ấp cùng trồng.

Ở tuổi 70, với 50 năm kinh nghiệm trong nghề trồng khoai lang Bông Súng, ông Mười Thơm cho biết: “Trồng khoai lang sợ nhất là khoai bị sùng. Để hạn chế việc sử dụng thuốc hóa học ngừa sâu, hà gây hại ruộng khoai lang, kinh nghiệm của tôi là sau khi thu hoạch khoai xong sẽ ban luống khoai cho bằng phẳng lại, rồi cho nước vào ngập ruộng ngâm suốt trong 15 ngày để diệt mầm bệnh trên ruộng khoai”.

Ngoài ra, trước khi cuốc giòng, ông Mười Thơm xử lý vôi bột trên mặt luống để hạ phèn, giúp khoai sinh trưởng tốt. Với những kinh nghiệm này đã giúp năng suất ruộng khoai lang nhà ông Mười Thơm luôn mức 12-15 tấn/ha.

Có lẽ vì điều kiện đồng đất của thị trấn Giồng Riềng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang cùng với nguồn nước ngọt mát lành quanh năm từ kênh Bông Súng hiền hòa, sự cần mẫn tâm huyết của những lão nông gắn bó nhiều năm với củ khoai như ông Mười Thơm đã góp phần làm nên hương vị đặc trưng của củ khoai lang Bông Súng, ít nơi nào sánh được.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam