Giải pháp sản xuất hoa bền vững

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp Sở NN-PTNT Hải Phòng vừa tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề: “Giải pháp phát triển sản xuất hoa bền vững vùng đồng bằng sông Hồng”.

Lãi cao

Theo Viện Nghiên cứu Rau quả, nước ta là một quốc gia có tiềm năng về sản xuất hoa và trong những năm gần đây diện tích và sản lượng hoa tăng lên nhanh chóng. Năm 2017, cả nước có khoảng 25,46 nghìn héc ta trồng hoa. Diện tích này lớn gấp 1,7 lần so với diện tích trồng hoa năm 2011 và diện tích gia tăng của năm 2014 gấp 1,56 lần so với năm 2011.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Trần Văn Khởi phát biểu tại diễn đàn

Riêng vùng đồng bằng sông Hồng, diện tích hoa năm sau luôn cao hơn năm trước và sản xuất hoa gia tăng khá ổn định ở Hà Nội và Nam Định… Nhiều mô hình đạt thu nhập từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng/ha. Thu nhập bình quân trồng hoa, cây cảnh trên cả nước năm 2014 là 285 triệu đồng/ha/năm.

So với giá trị thu nhập/ha canh tác toàn ngành trồng trọt là 82 – 83 triệu đồng/ha/năm, mức thu nhập này gấp gần 3,5 lần. So sánh với một số loại cây trồng chính hiện nay cho thấy, lợi nhuận thu được từ 1ha trồng hoa cao hơn 10 – 15 lần so với trồng lúa và 7 – 8 lần so với trồng rau… Vì vậy, sản xuất hoa đã đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp và đặc biệt đóng góp vào xây dựng NTM.

Ngoài ra, sản phẩm hoa của Việt Nam sản xuất ra không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu. Vào những thời điểm nhu cầu hoa cao như Tết hoặc các dịp lễ hội thì nước ta còn phải nhập khẩu…

Ông Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả chia sẻ, trước năm 2000, nước ta chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh truyền thống như quất, đào, mai, hồng, cúc, lay-ơn, huệ… Những năm gần đây, một số chủng loại hoa mới cao cấp đã dần được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.

Riêng vùng đồng bằng sông Hồng, diện tích hoa năm sau luôn cao hơn năm trước và SX hoa gia tăng khá ổn định ở Hà Nội và Nam Định… Nhiều mô hình đạt thu nhập từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng/ha. Thu nhập bình quân trồng hoa, cây cảnh trên cả nước năm 2014 là 285 triệu đồng/ha/năm.  So với giá trị thu nhập/ha canh tác toàn ngành trồng trọt là 82 - 83 triệu đồng/ha/năm, mức thu nhập này gấp gần 3,5 lần. So sánh với một số loại cây trồng chính hiện nay cho thấy, lợi nhuận thu được từ 1ha trồng hoa cao hơn 10 - 15 lần so với trồng lúa và 7 - 8 lần so với trồng rau… Vì vậy, SX hoa đã đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp và đặc biệt đóng góp vào xây dựng NTM.  Ngoài ra, sản phẩm hoa của Việt Nam SX ra không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu. Vào những thời điểm nhu cầu hoa cao như Tết hoặc các dịp lễ hội thì nước ta còn phải nhập khẩu...  Ông Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả chia sẻ, trước năm 2000, nước ta chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh truyền thống như quất, đào, mai, hồng, cúc, lay-ơn, huệ... Những năm gần đây, một số chủng loại hoa mới cao cấp đã dần được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.
Ban Chủ tọa và Ban cố vấn

“Có sự thay đổi trên là do nhu cầu của người tiêu dùng luôn hướng đến những chủng loại hoa, cây cảnh mới lạ, có chất lượng cao. Ngoài ra, do sự hội nhập với bên ngoài và do có đóng góp rất lớn của các cơ quan khoa học trong việc lai tạo, thu thập, tuyển chọn các giống hoa, cây cảnh mới”, ông Đông nêu 3 lý do.

Chia sẻ tại diễn đàn, ông Nguyễn Đình Chuyến, Phó Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng đã khái quát một số tiềm năng, thế mạnh trồng hoa, cây cảnh của thành phố tại các làng hoa truyền thống. Hiện, một số vùng trồng hoa đang tích cực nâng cao giá trị sản xuất, trồng hoa theo công nghệ cao.

“Hải Phòng có khoảng 20.000ha sản xuất tập trung. Trong đó diện tích trồng hoa chiếm khoảng 700ha. Các vùng trồng hoa duy trì khá tốt. Hàng năm, vào dịp tết các vườn đào, vườn hoa tiêu thụ với số lượng lớn. Nhờ sự cần cù, chịu khó mà cuộc sống của nông dân được cải thiện, thu nhập từ trồng cây hoa cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác…”, ông Chuyến nói.

Giải Pháp

Phát biểu tại diễn đàn, Q. Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Trần Văn Khởi cho hay: sản xuất hoa là một ngành đặc thù, có vị trí quan trọng trong trồng trọt. Diện tích, năng suất và hiệu quả kinh tế sản xuất hoa ngày càng tăng cao. Ngành sản xuất hoa mang lại giá trị tinh thần, hình thành nhân sinh quan một cách sống hòa đồng, yêu thiên nhiên, mang lại giá trị vật chất, góp phần xây dựng NTM.

Miền Bắc nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng có nhiều lợi thế phát triển ngành hoa như vị trí địa lý, khí hậu, điều kiện đất đai. Đây cũng là vùng có nhiều cơ quan nghiên cứu, cho nên tiến bộ kỹ thuật ở vùng này rất nhiều… Đặc biệt là sự khéo tay, tinh tế của người trồng hoa.

Đoàn đại biểu tham quan mô hình sản xuất hoa lan ứng dụng công nghệ cao tại Cty CP nông nghiệp công nghệ cao Châu Giang (huyện Thủy Nguyên)

Hơn nữa, đây là một nghề sản xuất đem lại kinh tế cao, không đòi hỏi nhiều về đất đai, nước tưới, vật tư, lại dễ áp dụng công nghệ cao và đang trở thành lĩnh vực hấp dẫn của nông dân, đặc biệt là các vùng ven đô.

Thực tế sản xuất đã có nhiều mô hình doanh nghiệp, trang trại, gia trại đầu tư sản xuất hoa mang lại giá trị kinh tế cao và rất cao, đáp ứng nhu cầu chơi hoa nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, sản xuất hoa đang gặp nhiều khó khăn như sản xuất nhỏ lẻ; manh mún; thị trường còn rủi ro; doanh nghiệp đầu tư ít…

Ông Khởi đã đưa ra một số giải pháp để phát triển hoa bền vững hơn nữa. Một là, quy hoạch vùng sản xuất, kết hợp tận dụng lợi thế các vùng sản xuất truyền thống để tạo ra các ngành nghề. Đây là điều kiện gắn với sản xuất công nghệ cao, nhà kính, nhà lưới, sản xuất quy mô công nghiệp, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất hoa.

Hai là, kết hợp sản xuất hoa, cây cảnh với du lịch sinh thái, du lịch danh lam thắng cảnh để nâng cao giá trị của ngành trồng hoa. Kết hợp khu, vùng sản xuất hoa với đào tạo học sinh, sinh viên, đặc biệt là cấp tiểu học, trung học cơ sở thông qua trải nghiệm thực tế để hình thành nhân sinh quan một cách sống yêu thiên nhiên.

Ba là, đầu tư cho nghiên cứu chọn tạo, phục tráng nhập nội thuần hóa và các biện pháp kỹ thuật phù hợp với sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Tăng cường xúc tiến, quảng bá để mở rộng thị trường tiêu thụ hoa từ vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh khác, vừa đáp ứng nhu cầu hoa phổ thông với các loại hoa đặc thù truyền thống.

Đoàn đại biểu tham quan mô hình trồng đào cổ xã Đặng Cương (huyện An Dương)

Ngoài ra, xúc tiến hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất hoa, trước hết là hình thành HTX sản xuất hoa kiểu mới, nâng cao năng lực sản xuất thông qua đào tạo, tập huấn, trình diễn mô hình, tham quan học tập hoạt động khuyến nông các cấp.

Hỗ trợ, hoàn thiện cơ chế chính sách cho sản xuất trồng trọt nói chung và hoa, cây cảnh nói riêng. Đặc biệt là có chính sách thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước để đầu tư vào sản xuất hoa.

Diễn đàn có khoảng 200 đại biểu tham gia đến từ 6 tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Tại diễn đàn, Ban chủ tọa và Ban cố vấn đã giải đáp hàng chục câu hỏi của người dân. Câu hỏi tập trung vào các vấn đề như dịch bệnh, chính sách hỗ trợ, kỹ thuật chăm sóc một số loài hoa…

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

 

 

 

Kỹ thuật trồng cỏ voi và cỏ sả nuôi bò.

Nhắc đến việc trồng cỏ nuôi bò, nhiều người thường cho rằng đây là việc vô cùng đơn giản. Tuy nhiên, để có thể tạo ra nguyên liệu có năng suất cao, người thực hiện cần phải biết đến một số kỹ thuật vô cùng quan trọng. Dưới đây là một vài lưu ý trong số đó:

Ruộng cỏ được thu hoạch.

I. Trồng cỏ voi nuôi bò:

Điều kiện đất trồng

Cỏ voi là một trong những loại cỏ phổ biến, có thể mọc ở bất cứ đâu cho dù đó là nơi đất cao, đất thấp hay cả những sườn đồi. Tuy nhiên, nếu muốn trồng cỏ voi cho năng suất cao, giúp việc nuôi bò thuận lợi, bạn nên lựa chọn nơi đất có nhiều chất mùn với độ ẩm cao.

Trước khi trồng cỏ, đất cần phải được cày bừa kỹ ở độ sâu 20-25cm cũng như dọn sạch cỏ xung quanh.

– Cách trồng:

Cỏ voi nuôi bò là loài sinh sản vô tính nên được trồng bằng thân. Khi chọn giống, bạn hãy chọn loại bánh tẻ, không non và không già quá. Sau đó, bạn hãy chặt vát cỏ thành hom có độ dài 20 – 25 cm/hom, mỗi hom đặt 3 – 5 mắt mầm.

Tuy nhiên, cỏ không nên trồng luôn sau khi chặt mà nên để vài hôm trong điều kiện râm mát rồi đem trồng là tốt nhất. Nếu để quá lâu, cỏ cũng khó có thể nẩy mầm. Bên cạnh đó, docỏ voi nuôi bò được trồng bằng hom nên khi thực hiện bạn hãy để khoảng cách trồng 30 x 40 m, làm theo từng hàng để tiện chăm sóc về sau.

– Cách bón phân:

Cách bón phân cho cỏ voi nuôi bò cùng cần phải được chú ý. Tùy thuộc vào chất lượng đất mà bạn có thể lựa chọn phân bón sao cho phù hợp.

Thông thường, 1ha cỏ cần được bón khoảng 15 – 20 tấn phân chuồng, 250 -300 kg super lân, 100 – 200 kg KCL, 400 – 500 kg ure trong vòng một năm. Trong số này, bạn hãy dùng phân chuồng và super lân để bón lót. KCL và ure dùng cho bón thúc.

Một vài lưu ý khi chăm sóc và thu hoạch cỏ:

Sau khi trồng cỏ voi nuôi bò được 10-15 ngày, bạn hãy kiểm tra tỉ lệ nảy mầm của cỏ để trồng dặm những nơi cỏ chết.

Sau mỗi lần thu hoạch bạn cần làm đất sạch sẽ để cỏ trồng tái sinh nhanh, cho năng suất cao. Trung bình một năm cỏ sẽ cho thu hoạch từ 6 – 10 lần, trong đó lần 1 từ 2-3 tháng kể từ ngày trồng, những lần sau sẽ từ 30- 40 ngày trong mùa mưa hoặc 60 ngày trong mùa nắng. Bạn nên thu hoạch cỏ khi được 1m là tốt nhất, nếu như để cỏ giá quá, thành phần giá trị dinh dưỡng sẽ kém đi. Tuy nhiên nếu cỏ còn non quá, bò ăn vào sẽ dễ bị tiêu chảy.

II. Trồng cỏ Sả nuôi bò

– Điều kiện đất trồng:

Cỏ sả nuôi bò có thể được trồng trên nhiều loại đất khác nhau bởi khả năng chịu hạn khá tốt. Tuy nhiên, loại đất tốt nhất vẫn là đất cát có độ sâu 15 – 20 cm.

– Cách trồng:

Để trồng cỏ sả nuôi bò, đầu tiên bạn cũng cần làm sạch đất, loại trừ cỏ dại. Sau đó, bạn có thể lựa chọn hình thức trồng cỏ bằng tép hoặc bằng hạt.

Hiện nay, hình thức trồng bằng tép là được ưa chuộng hơn cả bởi khả năng sinh trưởng nhanh. Với hình thức này, bạn cần nguồn giống với 2 -2,5 tấn/ha; trồng thành hàng cách nhau 40 – 60 cm, sâu 15 cm; lấp đất dày 10 cm, để hở phần ngọn. Với hình thức trồng bằng hạt sẽ cần từ 10 – 15 kg/ha và gieo hạt như bình thường.

– Cách bón phân:

Cách bón phân cỏ sả nuôi bò tương tự như cỏ voi và bạn có thể cân nhắc lượng phân sao cho phù hợp.

Một vài lưu ý khi chăm sóc và thu hoạch cỏ

Bạn hãy kiểm tra thường xuyên để biết được tốc độ phát triển của cỏ. Thông thường, cỏ sả có thể được thu hoạch sau 2 tháng trồng bằng tép và từ 2,5 – 3 tháng đối với trồng bằng hạt.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá mú trong lồng lưới.

Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao. Nghề nuôi cá mú ở Châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn cá giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên,cùng tìm hiểu cách nuôi cá mú trong lồng lưới.

Lồng lưới.

Chọn vị trí nuôi

Lồng lưới nên được đặt ở các vùng nước yên tĩnh, tại các vùng đầm phá, eo vịnh khuất gió ở các khu vực cửa sông hoặc đảo, không bị ô nhiễm công nông nghiệp, nội địa các chất độc và ít bị ảnh hưởng lũ mưa.

Mật độ và cỡ cá thả nuôi

Cá giống nhỏ 2-3 cm sẽ được thả ương trong lồng lưới nhỏ (3x3x2 m) với kích cỡ mắt lưới 0,5-1,0 cm để tập cho ăn và tập quen với môi trường bè. Mật độ thả 50-60 con/m3. Thời gian ương 30-45 ngày đạt cỡ cá giống lớn 10-20 cm. Cá giống lớn được thả nuôi trong lồng lưới lớn (5x5x2m), mặt lưới 2-4 cm. Mật độ thả 10-20 con/m3. Trong quá trình nuôi nên tiếp tục phân cỡ để tránh hiện tượng cá ăn nhau.

Cho ăn và chăm sóc

Cá thường được tập cho ăn cá tạp và tôm tép nhỏ đã chết còn tươi trong vòng 1-3 tuần. Trong vài tháng đầu cá được cho ăn khẩu phần 10% thể trọng/ngày. Sau đó, giảm xuống 5-6% thể trọng/ngày.

Hàng ngày nên được kiểm tra lồng lưới để tránh hiện tượng cá ra ngoài do hư hỏng. Định kỳ vệ sinh lưới để đảm bảo sự thông thoáng của nước qua lưới được tốt và loại bỏ một số ký sinh trùng và vi sinh vật có hại bám vào lưới.

Cá mú.

Thu hoạch

Thời gian nuôi 6-8 tháng, cá đạt trọng lượng trên 500gr bắt đầu thu hoạch từng phần bằng lưới nâng (dạng vó) tại các vị trí cho ăn trong ao. Lưới thu hoạch có kích cỡ 4x2x1m được đặt xuống gần đáy ao. Các vật dụng trú ẩn bằng ống PVC (đường kính 100-120 cm) được buộc thành bó đặt ở giữa lưới để gom cá lại trong các vật dụng trú ẩn, khi cá đã tập trung vào các vật dụng trú ấn sẽ nâng lưới lên để bắt lấy những cá có trọng lượng trên 400 gr chuyển đến bè thu hoạch được lắp đặt sẵn trong ao (8x4x1m hoặc 4x2x1m, mắt lưới 2-4 cm). Mật độ thả cá trong các bè này từ 10-20 con/m3. Cá mú được cho ăn 5% trọng lượng thân ngày cách ngày trong khi chờ tiêu thụ. Thu hoạch toàn bộ được tiến hành khi chỉ còn một ít cá mú trong ao sau khi đã thu từng phần, lúc này tháo cạn nước và sử dụng vợt để bắt cá.

Trước khi vận chuyển, cá được cho vào các bể xi Măng sục khí 1-2 Giờ, sau đó cho các bao đựng nước đá vào bể hạ nhiệt độ từ từ xuống 18oC. Sau đó cho từ 3-5 cá vào bao nylon bơm oxygen có mức nước 3-5 cm trong bao, cuối cùng cho vào thùng xốp (30x30x20 cm), cho một ít nước trong thùng xốp để làm mát trong quá trình vận chuyển.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Chi tiết A – Z kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà chua bạch tuộc.

Vì có quá nhiều nhánh, nhiều ngọn tỏa ra từ một gốc và cho sản lượng quả cực kỳ ấn tượng, nên cây cà chua đang được nhiều người hết sức quan tâm.

 

Cây cà chua bạch tuộc.

Chiều cao của cây có thể đạt được 4m và thậm chí cao hơn, các tán cây có thể phủ rộng 40-50m2. Năng Suất cà chua leo giàn rất cao 32.000 quả với trọng lượng 522kg trên cùng 1 thân cây.

Tán của cây cà chua cây giống như con bạch tuộc (Heirloom Tomato) xoắn xung quanh toàn bộ khung được làm cho cây, cây cho năng xuất cao và kháng bệnh rất tốt. Hệ thống rễ cây mạnh mẽ và phát triển tốt

Quá trình tăng trưởng của cà chua kéo dài khoảng 2-2.5 năm. Cây cho quả sau 3 tháng và quả ra liên tục cho đến hết quá trình sinh trưởng. Những cây cà chua bạch tuột này là sản phẩm lai tạo từ một cây cà chua và nho. Thế nhưng nó chỉ lai cách phát triển theo giàn của nho chứ quả thì vẫn nguyên cà chua.

Cà chua leo giàn là nguồn cung cấp vitamin A và C tuyệt vời giúp ngăn ngừa bệnh quáng gà và tăng thị lực cho đôi mắt của bạn. Một nghiên cứu gần đây cho thấy hàm lượng vitamin A cao của cà chua có thể ngăn ngừa thoái hóa điểm vàng, một bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến mù mắt.

Hơn nữa, cà chua có thể giảm nguy cơ đục thủy tinh thể. Trong cà chua còn có các chất chống oxy hóa như lycopene, lutein và zeaxanthin.

Quả cà chua đỏ mọng.

Thời vụ trồng cây

Thời gian sinh trưởng khoảng từ 100 – 120 ngày, có thể trồng được 4 vụ trong năm: vụ xuân hè (tháng 3-4), vụ sớm (tháng 8), vụ chính (tháng 10), và vụ muộn (tháng 11).
Có thể gieo hạt vào bầu, vào khay xốp hoặc trên luống ươm rồi nhổ đi trồng sau 20 – 22 ngày tuổi, khi cây có 3 – 5 lá thật cứng cáp, không bị sâu bệnh.

Kỹ thuật ươm hạt

Trước khi gieo hạt nên ngâm hạt trong nước ấm 40-50oC trong khoảng 3 giờ. Sau đó, cho hạt vào túi vải bọc giấy kín. Để ở chỗ kín. Sau khoảng 3-4 ngày rễ mọc thì đem gieo vào giá thể ươm hạt.

Sau khi gieo hạt, rải 1 lớp tro mỏng, trên phủ một lớp rơm mỏng và tưới nước để có đủ độ ẩm. Sau khi gieo khoảng 30-40 ngày, cây đạt 5-6 lá, có thể đem trồng.

+ Nên trồng cà chua vào buổi chiều

+ Sau khi trồng ấn nhẹ đất vào gốc cây và làm bằng phẳng đất chung quanh gốc.

+ Trồng xong tưới nước cho cà chua ngay

Đất trồng

Cà chua có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng bạn nên tham khảo các loại đất hữu cơ vừa sạch sẽ, vừa đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây trồng trong chậu. Cà chua đòi hỏi đất trồng phải thật giàu chất dinh dưỡng hữu cơ.

Đất trồng như các loại đất cát pha, đất thịt nhẹ, giàu mùn, tơi xốp, dễ thoát nước, có độ pH từ 6,2 – 6,8 là thích hợp nhất, và cần thêm nhiều phân xanh hữu cơ đã ủ cho mục nát, lớp phân này dày khoảng 6 – 8cm. Cách đơn giản là bạn trộn đất và trấu cùng phân cá đã ủ mục hoặc phân gà (có loại phân hữu cơ nào dùng loại đó). Nếu bạn không thể tự ủ phân xanh hữu cơ tại nhà thì có thể mua sẵn ở các cửa hàng

Những cây cà chua có hình thái rễ chạy dọc lên cả phần thân, do đó có thể trồng chúng sâu xuống đất, chỉ để phần lá non nổi trên mặt đất. Đừng lấp đất vào bất kỳ phần lá nào, điều này có thể khiến lá cây bị thối và dễ mắc bệnh.

Ánh sáng: Cà chua là cây ưa sáng, vì thế mà vị trí trồng lý tưởng nhất cho cây cà chua là nơi có đầy đủ ánh nắng mặt trời, ít nhất là 6 – 7 tiếng/ngày. Cà chua cần rất nhiều ánh nắng ấm áp để có hương vị thơm ngon.

Lưu ý trong giai đoạn ươm hạt là bạn nên để trên cao hoặc có biện pháp phòng tránh chuột tha mất hạt. Thời gian nẩy mầm của các giống cà chua trung bình từ 7 đến 14 ngày.

Chọn chậu cây có chiều cao khoảng 20 – 25cm, chiều rộng
cần ít nhất 30cm.

Kỹ thuật chăm sóc cây

Bón lót phân Tribat trộn cùng supe lân, và đạm urê sau khi cây được 30 ngày.

Khi cây lớn cần tỉa nhánh: Tỉa bỏ nhánh phụ và lá già cho cây thông thoáng.

Mỗi cây chỉ để lại 1 thân chính và 2 nhánh cấp 1 ở sát dưới chùm hoa thứ nhất, để cây ra nhiều nhánh cho nhiều hoa, đậu nhiều lứa trái. Chú ý tưới nước đủ ẩm cho cà chua bi, không để chậu cây bị úng ngập hoặc độ ẩm quá lớn.

Thường xuyên phát hiện sâu bệnh và phòng trừ sâu bệnh kịp thời cho cà chua.

Tưới nước: Trong 7 – 10 ngày đầu tiên sau khi trồng cần tưới đều đặn hàng ngày khoảng 500ml nước ấm 25 – 30 độ C cho mỗi cây, thời gian lý tưởng nhất là vào buổi sáng hoặc tầm 4-5 giờ chiều để cây khô ráo trước khi trời tối.

Khi cây cà chua được 1,5-2 tháng tuổi là lúc bạn cần làm gian hoặc cọc để đỡ thân cây. Có thể dùng cọc tre, gỗ, ống nước hoặc sắt để giúp nâng đỡ thân cây cà chua không bị đổ gập hoặc gẫy khi ra nhiều quả.

Nếu chỉ trồng trong chậu nhỏ với cây cà chua anh đào thì chỉ cần một cái cọc dựng lên để đỡ cây, nhưng nếu là giống cây giống lớn hoặc trồng trong vườn thì phải dựng giàn đỡ, khung đỡ nhé.

Trong thời tiết nắng nóng bạn có thể lót một lớp rơm hoặc cỏ khô 2-3cm lên bề mặt chậu cây để giữ ẩm cho đất. Khi cây ra hoa nhiều, bạn lắc nhẹ hoa để hỗ trợ quá trình thụ phấn đậu quả của cà chua.

Thu hoạch cà chua bạch tuộc.

Thu hoạch: Trung bình, cây sẽ cho quả ngọt sau 7 – 8 tháng khi đã phát triển hết tán và cho khoảng hơn 14.000 quả mỗi vụ một cây.

Để có được một cây cà chua trĩu quả sẽ phải mất từ 1,2 đến 1,5 năm cây mới có được kích thước ấn tượng như vậy.

Nguồn: kythuatnuoitrong.edu.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Cả làng trồng quả “mở mắt” thu gần 100 tỷ đồng mỗi năm

Chi Lăng là một trong những xã đi đầu trong phát triển kinh tế của huyện Chi Lăng (Lạng Sơn). Riêng đối với cây na-loại quả “mở mắt” khi chín, mỗi năm xã Chi Lăng đã thu gần 100 tỷ đồng.

Chạy dọc theo Quốc lộ 1A, PV Dân Việt tới huyện Chi Lăng – nơi được coi là thủ phủ của na xứ Lạng. Phóng mắt nhìn chỉ thấy vùng núi đá vôi xanh thẫm một màu át đi màu đen của sườn núi đá tai mèo. Đó chính là màu lá của hàng trăm ngàn cây na vươn mình từ các khe đá.

Cây na đã giúp người dân Chi Lăng thoát nghèo.

Mỗi khi vào dịp thu hoạch na (tháng 8), tại các phiên chợ, các điểm tời đón những sọt na bay vèo từ trên núi xuống luôn nhộn nhịp cảnh bà con cùng thương lái cùng nhau ngã giá những giỏ đầy na trắng hồng, mắt to căng.

Còn thời điểm này, đâu đâu nơi sườn núi đá tai mèo cũng thấy thấp thoáng bóng dáng của người nông dân cắt tỉa, chăm sóc vườn na để chờ một mùa na bội thu sắp tới. Những tời ròng rọc là công cụ để người dân vận chuyển na khi vào mùa thì giờ đây cũng là công cụ để người dân vận chuyển phân bón lên vườn na – nơi sườn núi cheo leo.

Tời ròng rọc được người dân sử dụng để vận chuyển phấn bón từ dưới lên vườn và cũng là công cụ để chuyển những trái na mở mắt từ trên núi cao về nhà.

Nghề trồng na ở xứ Lạng chủ yếu tập trung tại 2 huyện Hữu Lũng và Chi Lăng. Tại đây người người trồng na, nhà nhà trồng na. Mỗi gia đình trung bình có 400 – 1.000 gốc na, thậm chí hơn 1.000 gốc. Na chín thường rất rộ, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng là hết, nhưng hiện tại người dân đã có kỹ thuật thụ phấn để kéo dài thời gian thu hoạch, nhờ đó năng suất và chất lượng tăng lên.

Là một trong những xã đi đầu trong phát triển kinh tế của huyện Chi Lăng, xã Chi Lăng đã tập trung thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tiếp tục nhân rộng, chuyển đổi cây trồng có giá trị thay cho cây lúa. Riêng đối với cây na, mỗi năm đã thu gần 100 tỷ đồng.

Mỗi mùa thu hoạch na là người dân nơi đây vô cùng phấn khởi vì na vừa được mùa vừa được giá.

Được biết Chi Lăng là xã có 85% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng đã có sự sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động bà con áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, cây na từ 1 vụ thành 2 vụ, mỗi vụ lại có năng suất cao hơn.

Ông Lăng Văn Thạch, Bí thư Đảng ủy xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng cho biết: Ngoài cây na, thì xã cũng tập trung phát triển một vài loại cây ăn quả khác có thế mạnh không kém như vải, cam canh, bưởi diễn.. Cụ thể đối với cây vải thu khoảng 1 tỷ đồng, bưởi Diễn thu khoảng 5,4 tỷ đồng; cam canh khoảng 850 triệu đồng… Nhờ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của xã Chi Lăng trong năm 2018 đã đạt 39 triệu đồng/người/năm, cao hơn mức bình quân của huyện là 28 triệu đồng/người/năm.

Hiện người dân đang tất bật với các công việc cắt tỉa, thu phấn và chăm sóc vườn na nơi sườn núi.

Với đặc thù canh tác của địa phương là đất xen núi đá đã tạo ra giống na Chi Lăng trứ danh vỏ mỏng, ít hạt, thịt dày, vị ngọt đậm, mùi thơm vô cùng hấp dẫn. Có những quả na rất lớn có khối lượng từ 800gram đến hơn 1kg. Tuy nhiên, nhiều người dân trồng na cho biết, mỗi vườn cũng chỉ có khoảng vài quả và cũng hiếm khi mua được.

Trao đổi với Dân Việt, bà Triệu Thị Tám, Chủ tịch Hội nông dân xã Chi Lăng cho biết: Trên địa bàn xã Chi Lăng, có nhiều mô hình phát triển kinh tế cho thu nhập từ 300-500 triệu đồng từ cây na và các loại cây có múi khác. Nhờ phát triển cây ăn quả mà cuộc sông người dân ở đây ngày càng khấm khá.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

Trà Vinh: Có giống lúa chịu mặn đến 5‰

Đây là giống lúa độc nhất vô nhị tại Việt Nam do ông Lê Văn Chính, giám đốc HTX lúa giống 9 Táo LK (xã Song Lộc, H.Châu Thành, T.Trà Vinh) sưu tầm và lai tạo thành công.

Theo như chủ nhân của giống lúa này chia sẻ thì khả năng chịu mặn trên môi trường thử nghiệm, độ mặn 5‰, cây lúa vẫn phát triển bình thường, cho năng suất khá. Còn trong điều kiện nước ngọt, lúa cho năng suất tốt dao động từ 7-9 tấn/ha, tùy vụ.

Thu hoạch lúa Táo Tím 39 tại HTX Lúa giống 9 Táo LK

Ông Chính cho biết đã sưu tầm và thử nghiệm từ hơn ba năm nay, chọn được 3 dòng có năng suất khá cao và phẩm chất tốt để làm giống nhân rộng.Ông đã đặt tên cho các giống lúa này là Táo Tím 19, 29, 39. Ba dòng Táo Tím đều có những ưu điểm vượt trội, như Táo Tím 19 có hạt dài hơn giống lúa RVT, sinh trưởng từ 85-89 ngày. Táo Tím 29, hạt dài hơn giống Jasmine thời gian sinh trưởng từ 89-95 ngày. Táo Tím 39 hạt dài như VD 20, thời gian sinh trưởng từ 97-99 ngày. Tất cả ba dòng lúa đều thơm nhẹ và dẻo.

Như giống lúa Táo Tím 39 là giống lúa được ông Chính lai từ tổ hợp VD20, TV39 và tím Ấn Độ cho cây con có đặc tính thơm nhẹ, dẻo và năng suất kháng rầy nâu, đạo ôn, chịu mặn tốt lên đến 5‰. Mới vừa thu hoạch xong gần 10 công lúa Táo 39, ông Chính cho biết, năng suất được bình quân được 875/kg/công.

Còn 1 tuần nữa thu hoạch 5 công lúa Táo Tím 19, ông Lê Đức Tuấn ở ấp Hòa Hảo xã Phước Hảo, phấn khởi nói: “Tôi thấy lúa này sạ được đó, nhẹ phân hơn RVT. Lúa thơm thì có rầy, nhưng cũng bình thường như các giống khác. Dàn lúa tôi vụ này chắc cũng cỡ 700-800 kg/công à. Vậy là ngon rồi vì được cái nhẹ phân”.

Còn chị Trần Thị Thiết ở ấp 2 xã Ba Sao H. Cao Lãnh, T. Đồng Tháp cho biết: “Tôi đang sạ giống Táo Tím 39, nay được 47 ngày rồi. Thấy phân thì bình thường. Từ hồi sạ tới giờ không thấy bệnh đốm lá, đạo ôn gì hết, lá to như lá sả vậy đó. Dàn lúa rất cứng cáp tôi thấy rất yên tâm”.

Tuyển chọn lúa giống Táo Tím tại HTX 9 Táo LK

Được biết, hồi tháng 6/2018, giống lúa Táo Tím 19, 29, 39 đã được Cục Trồng Trồng Trọt chấp nhận đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng mới của ông Chính. Mới đây nhân chuyến công tác sơ kết Vụ ĐX và triển khai kế hoạch xuống giống vụ HT, ông Nguyễn Như Cường, Quyền cục trưởng Cục Trồng Trọt đã đến thăm giống lúa này tại HTX lúa giống 9 Táo LK. Ông Cường cho biết, giống lúa này có năng suất và phẩm chất gạo khá tốt, chống chịu mặn, sâu bệnh khá. Cục Trồng Trọt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để HTX lúa giống 9 Táo nói chung và các HTX lúa giống nói riêng có điều kiện phát triển các giống lúa chất lượng cao, thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

 

Lạc che phủ nilon năng suất cao

Huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển của cây lạc.

Tham quan mô hình trồng lạc che phủ nilon tại xã Phúc Sơn

Cây lạc đã được người dân nơi đây trồng từ nhiều năm nay, tuy nhiên đa số diện tích lạc được trồng thường theo kiểu rạch hàng, gieo hạt… nên năng suất chưa cao.

Vụ Đông 2018, huyện Chiêm Hóa đã triển khai mô hình trồng lạc che phủ nilon, nhằm từng bước thay đổi tập quán canh tác cũ bằng biện pháp canh tác tiên tiến, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho nông dân.

Mô hình trồng lạc theo phương pháp tiên tiến bằng giống L14 nguyên chủng với diện tích trên 53 ha tại 4 xã: Tân Mỹ, Phúc Sơn, Minh Quang và Yên Nguyên. Các hộ thực hiện được hỗ trợ tiền mua nilon và một phần tiền giống, thuê máy làm đất và được cán bộ kỹ thuật trực tiếp theo dõi, hướng dẫn.

Kết quả cho thấy, việc che phủ nilon cho lạc làm tăng nhiệt độ đất, giúp cây phát triển nhanh ở giai đoạn mọc mầm; giữ ẩm đất, tạo điều kiện cho cây phát triển thuận lợi ở các giai đoạn sau; hạn chế cỏ dại, sự rửa trôi chất dinh dưỡng nên năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn.

Ông Quan Vân Trường, thôn Bản Chỏn, xã Phúc Sơn là một trong những hộ được chọn thực hiện mô hình cho biết, vụ Đông 2018, gia đình ông thực hiện che phủ nilon cho 2.300 m2 đất trồng lạc. Qua thực hiện cho thấy so với trồng lạc theo phương pháp thông thường thì trồng lạc che phủ nilon có ưu thế vượt trội như tỷ lệ mọc cao, giảm được công làm cỏ, chăm sóc, cây phát triển tốt, củ lạc chắc, không bị thối… năng suất cũng cao hơn từ 20 – 30% so với trồng lạc theo cách truyền thống trước đây.

Chị Quan Thị Hằng – cán bộ Trạm Khuyến nông huyện cho biết, qua theo dõi quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lạc tại các hộ dân tại xã Phúc Sơn cho thấy, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của diện tích lạc che phủ nilon ngắn hơn so với không che phủ nilon từ thời gian mọc, giai đoạn cây con, thời kỳ ra hoa… Theo đó, cũng hạn chế được những rủi ro như sâu bệnh nhiều, thối rễ, chết cây do mưa, còn nắng thì làm cây héo rũ, kém phát triển.

Theo tính toán của các hộ tham gia mô hình, vụ lạc này cho năng suất 4 tấn củ tươi/ha. Với giá thu mua của Hợp tác xã Phúc Sơn là 12.000 đồng/kg củ tươi, sau khi trừ chi phí, người trồng lạc lãi trên 30 triệu đồng/ha.

Ngay sau khi thu hoạch, huyện tiếp tục hỗ trợ nilon để bà con nông dân mở rộng diện tích trồng lạc che phủ ni lon nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng giá trị trên một đơn vị đất canh tác, tăng thêm thu nhập.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa.

Nuôi tôm trong ruộng lúa là hình thức canh tác kết hợp giữa trồng trọt và thủy sản. Phương thức nuôi này không những làm giảm việc tranh diện tích sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập trên một mảnh đất.Nuôi tôm trong ruộng lúa chẳng những không giảm năng suất lúa mà còn có sản phẩm tôm.

Tôm càng xanh.

1. Mùa vụ

– Thường tận dụng vụ lúa Hè – Thu để nuôi tôm. Lúc này nước nhiều và thời gian ngập nước trong ruộng kéo dài, tôm có điều kiện ăn được thức ăn trên ruộng.

– Nuôi tôm tốt nhất nên nuôi trên các ruộng cấy lúa vì lúa cấy có khoảng trống nên tôm có thể bơi xen giữa lúa ăn được thức ăn trên ruộng.

– Nếu nuôi trên lúa sạ thì nên sạ lúa thưa hơn sạ bình thường. Thả giống tốt nhất khi cây lúa 2 tuần sau khi sạ hay 1 tuần sau khi cấy.

– Lịch thời vụ 2 lúa + 1 tôm.

Một số mô hình nuôi tôm càng xanh ở ruộng lúa

– Mô hình một vụ lúa và một vụ tôm:

+ Ruộng chỉ canh tác vụ lúa Đông – Xuân, sau khi thu hoạch lúa thì tiến hành thả tôm Post (cỡ 1,1 – 1,2 cm).

+ Thời điểm thả giống thông thường từ tháng 3 – 4, mật độ thả từ 3 – 5 con/m2, thời gian nuôi 7 – 8 tháng.

– Mô hình hai vụ lúa và một vụ tôm:

+ Thời gian nuôi ngắn khoảng 4,5 – 5,0 tháng, do đó yêu cầu thả giống lớn (cỡ 3,0 – 5,0 g/con).

+ Mật độ thả từ 2 – 4 con/m2.

2. Thức ăn:

Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi tôm là thức ăn. Tôm cần phải được cung cấp thức ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng để có thể phát triển tốt. Vì vậy, việc xác định nguồn thức ăn đảm bảo giá trị dinh dưỡng và ổn định là điều cần thiết đối với người nuôi tôm.

– Thức ăn tự nhiên: Là thức ăn có sẵn trong thủy vực bao gồm động thực vật thủy sinh, thức ăn tự nhiên giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của các đối tượng thuỷ sản nuôi.

– Thức ăn tươi: Bao gồm cá, tép, cua, ốc, hến,… các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn cao.

– Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến:

+ Các thành phần dinh dưỡng đã được phối chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi.

+ Quy trình công nghệ sản xuất thức ăn hiện đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh hưởng đến chất lượng nước trong hệ thống nuôi.

Phương pháp cho ăn:

– Kiểm tra việc sử dụng thức ăn của tôm và trọng lượng tôm hàng tháng để điều chỉnh khẩu phần ăn, tiến hành như nuôi tôm trong ao.

– Khẩu phần cho ăn chỉ cần 3% trọng lượng cơ thể sau 01 tháng đối với tôm giống tự nhiên và sau 4 tháng đối với tôm bột vì trong ruộng có nhiều thức ăn tự nhiên, mật độ thả thấp.

– Thức ăn nên rải nhiều điểm xung quanh mương hay trong sàng ăn đặt trong ao.

3. Chăm sóc quản lý:

Nuôi tôm trong ruộng lúa cần phải chăm sóc, quản lý thật chặt chẽ vì nó liên quan đến việc canh tác lúa.

– Trao đổi nước thường xuyên, càng nhiều càng tốt nhưng cũng chú ý việc kích thích tôm lột xác như nuôi trong ao. Vào ban đêm do các loại thực vật và rễ lúa sử dụng oxy nên rất dễ xảy ra tình trạng thiếu oxy vào buổi sáng, nếu có hiện tượng tôm nổi đầu vào buổi sáng thì cần tiến hành trao đổi nước ngay.

– Phòng chống và theo dõi thường xuyên địch hại của tôm vì nuôi tôm trong ruộng lúa địch hại có thể ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ sống và năng suất của tôm.

– Việc phun thuốc trừ sâu cho lúa phải cẩn thận, thông thường rút hết nước trên ruộng lúa cho tôm xuống mương và tiến hành phun thuốc nhằm tránh thuốc rơi xuống mương, sau 2-3 ngày dâng nước lên để tôm trở lại ruộng ăn bình thường.

Cần chú ý sử dụng các loại thuốc ít độc đối với tôm và chọn các giống lúa kháng sâu rầy để hạn chế việc phun thuốc.

4. Thu hoạch

– Hai tháng trước khi thu hoạch thì có thể tiến hành thu tỉa những con lớn, con cái và con chậm phát triển để bán.

– Nếu thả giống vào vụ Đông – Xuân thì thu những con lớn và những tôm nhỏ để lại nuôi tiếp.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Một số biện pháp để tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản.

Trong quá trình nuôi trồng thủy sản, người nuôi cần tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản, để giúp giảm thiểu vật nuôi bị mắc bệnh.

Động vật thủy sản.

Dưới đây là một số biện pháp giúp tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản:

– Thả ghép cá

Việc thả ghép các loài cá và mật độ thích hợp sẽ tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên, không gian sống rộng rãi, phòng bệnh tốt.

Mật độ thả ghép cần tuỳ thuộc vào loại hình nuôi như bán thâm canh hay thâm canh, tuy nhiên cần phải đảm bảo mật độ tối thiểu là 2 con/m2.

– Nuôi xen canh các loài động vật thuỷ sản

Ao nuôi sẽ tích luỹ nhiều chất thải và mầm bệnh do trong quá trình nuôi ao nuôi đã tích luỹ nhiều thức ăn dư thừa. Các chất thải và mầm bệnh này sẽ ảnh hưởng và gây bệnh cho các chu kỳ nuôi tiếp theo của đối tượng nuôi đó. Do vậy cần tiến hành nuôi xen canh trên một ao nuôi để khắc phục yếu điểm này.

– Chăm sóc đàn tôm cá

Người nuôi cần thực hiện biện pháp kỹ thuật chăm sóc cá tôm theo “4 định”: Định chất lượng thức ăn; Định số lượng thức ăn; Định vị trí cho ăn; Định thời gian cho ăn.

– Chọn giống động vật thuỷ sản

Khâu chọn giống là rất quan trọng. Người nuôi cần chọn giống có sức đề kháng tốt, có khả năng miễn dịch đối với một số bệnh và sinh trưởng nhanh.

– Cần kiểm tra tôm cá trong ao nuôi một cách định kỳ

– Người nuôi có thể sử dụng một số sản phẩm dưới đây:

+ Men vi sinh Probiotic: Là một chế phẩm sinh học probiotic và enzyme tổng hợp ở dạng bộ, dùng để tăng cường tiêu hóa và bảo vệ đường ruột. Liều lượng sử dụng: trộn 0,5 – 1g/kg thức ăn, cho cá ăn trong suốt vụ nuôi.

+ Dầu mực: Tác dụng bao bọc thức ăn và thuốc, tránh tan rữa nhanh trong môi trường nước. Tạo mùi hấp dẫn cho cá bắt mồi nhiều. Liều dùng 10g/kg thức ăn.

+ Vitamin C: Vào những mùa xuất hiện bệnh nhiễm khuẩn máu trộn thêm vitamin C vào thức ăn cho cá ăn hàng ngày. Liều lượng sử dụng là 50 – 60 mg/kg thức ăn/ngày.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kinh nghiệm trồng cà hiệu quả.

Cà là cây truyền thống của nhiều địa phương đã được nông dân thâm canh nhiều trở lại bởi nó là cây dễ trồng, cho hiệu quả kinh tế khá cao trong những năm gần đây.

Ruộng cà vụ sớm đang giai đoạn ra hoa đậu quả.

Song nhiều vùng trồng cà nông dân vẫn chưa biết cách giữ cho bền cây, sai quả vì bị nhiều sâu bệnh gây hại, nhất là bệnh chết rũ ở các vùng chuyên canh. Hiện đang là thời vụ chính trồng cà. Xin chia sẻ một số kinh nghiệm đúc rút được khi thâm canh cây trồng này như sau:

1. Thời vụ trồng:

Cà (cà pháo, cà bát, cà dài) là cây ưa ánh sáng mạnh nên có thể trồng được quanh năm (trồng từ tháng 7 đến tháng 4 năm sau tùy theo các loại).

2. Giống:

Người trồng có thể sử dụng các giống cà địa phương có năng suất cao, kháng bệnh tốt để trồng. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể lựa chọn cà bát, cà pháo hay cà quả dài. Ngoài ra, có thể mua giống cà Thái từ các công ty cung ứng giống sẽ cho năng suất cao, giống sạch bệnh.

3. Đất trồng:

Cà có bộ rễ khỏe, ăn sâu, tán rộng, lá nhiều nên cần đất có tầng canh tác dày, giàu dinh dưỡng, dễ thoát nước… Tốt nhất nên chọn đất thịt nhẹ hoặc pha cát để trồng cà. Đất trồng được cày lật, phơi ải và được xử lý nấm bệnh và tuyến trùng trước khi trồng là tốt nhất.

4. Gieo ươm cây con và trồng:

Hạt giống sau cất trữ hoặc khi mua về cần được ngâm nước ấm 540C trong 30 phút, tiếp tục ngâm nước sạch 1 ngày đêm để hạt hút no nước rồi mới đem gieo (vì hạt cà có vỏ dày). Tốt nhất nên làm vườn ươm có bón lót phân chuồng mục và NPK để gieo cây cà giống rồi mới nhổ cây con trồng ra ruộng sản xuất. Lượng hạt gieo 2 – 3g/m2 (150-180g/sào BB).

Khi cây có 1-2 lá thật thì tỉa bỏ cây xấu, giữ lại khoảng cách 2 – 3cm/cây. Cây cao 5 – 6cm tỉa lần hai giữ lại khoảng cách 5 – 6cm/cây. Sau mỗi lần tỉa cần xử lý nấm bệnh gây chết thắt thân hoặc thối rễ cây con, sau 2 ngày nữa thì tưới thúc phân hữu cơ pha loãng hoặc NPK (13-13-13+TE) với lượng 50-100g/thùng 20lít. Khi cây giống được 20-30 ngày tuổi thì nhổ đem trồng.

Cần huấn luyện cây con trước nhổ bằng cách ngừng tưới nước trước đó 4-5 ngày rồi tưới đẫm và nhổ cây. Để cây không bị nấm bệnh xâm hại rễ trước trồng nên nhúng rễ các cây con vào dung dịch thuốc trừ nấm đã pha. Lượng còn lại dùng để xử lý đất trồng.

Đất trồng cà cần được cày sâu, bừa kĩ, lên luống cao 25-30cm, rộng 1,4-1,5m. Luống được bố trí trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Tùy theo các loại cà khác nhau mà bố trí mật độ sao cho phù hợp (50x 60cm hay 60x 80cm).

5. Chăm sóc, bón phân:

Cà có bộ rễ ăn sâu và rộng lại cho thu quả kéo dài vì cà ra hoa đậu quả quanh năm nên việc chăm sóc sao cho cây đạt tiêu chuẩn khỏe mạnh là khâu then chốt để nâng cao hiệu quả khi trồng. Người trồng cà muốn có năng suất cao cần phải giữ cho cây vừa bền lại sai quả. Đồng nghĩa rằng chế độ dinh dưỡng cần phải được cân đối và hệ vi sinh vật trong đất trồng cà cần được cân bằng. Cho nên, trước khi trồng cà nông dân cần ưu tiên sử dụng các chế phẩm phân bón vi sinh hay các chế phẩm nấm đối kháng, cộng sinh để bổ sung vào luống đất trồng trong các giai đoạn (lót, thúc định kì). Tuyệt đối không nên lạm dụng phân bón, thuốc BVTV hóa học sẽ làm cây nhanh bị tàn lụi.

Lượng phân lót cho 1 sào Bắc Bộ (360m2) là 0,8 – 1 tấn phân chuồng hoặc 80 -100 kg phân hữu cơ vi sinh + 18 – 20kg NPK (16-16-8+TE.

* Lưu ý: Phân chuồng nếu có cần được trộn cùng chế phẩm nấm đối kháng hay nấm cộng sinh theo liều lượng khuyến cáo để bộ rễ cà được phát triển rộng dài và vi sinh vật có hại ít xâm nhập gây hại. Giữa các lần bón thúc phân nuôi cây và quả sau này cũng cần bổ sung một trong hai chế phẩm này vào vùng rễ cà để giữ cho cây khỏe.

* Bón thúc:

– Sau trồng 12-15 ngày, xới nhẹ mặt luống lần đầu, bón thúc 8-10kg NPK 13-13-13+TE/sào Bắc Bộ.

– Lần 2 vun xới cách lần 1 từ 15- 20 ngày kết hợp với bón phân NPK với loại và liều lượng như lần 1.

– Từ khi cây thu lứa quả đầu đến cuối vụ. Thời kì này cần bón phân định kì nhiều lần để giữ cho cây ra hoa, nuôi quả liên tục đảm bảo năng suất cà quả. Nên ưu tiên loại phân NPK 12-3-10 hoặc 12-5-10 hay 16-16-8, 13-13-13+TE với liều lượng khuyến cáo trên bao bì để thúc nuôi quả và cây.

* Tưới nước: Cà là cây có tán rộng, cành lá rậm rạp lại liên tục ra hoa đậu quả nên cần được dưỡng ẩm thường xuyên. Độ ẩm đất không đủ sẽ làm cây ít hoa dễ bị rụng hoa, quả… Người trồng không nên để cà quá hạn rồi mới tưới nước sẽ làm cho rễ bị đứt vi sinh vật gây bệnh xâm nhập làm thối hỏng. Cần vun gốc để thúc rễ phát triển và giữ ẩm cho gốc cà, chống đổ ngã cho cây bằng cách dùng cọc chống.

* Tỉa cành, lá: Cà có 7- 9 lá bắt đầu ra quả khi đó những nhánh dưới chùm hoa thứ nhất cần vặt bỏ. Ngoài ra khi cây phát tán ra hoa đậu quả cũng cần vặt bỏ bớt các lá già, lá mọc chen chúc trong tán. Việc làm này sẽ hạn chế cho cây bị rệp hại và bệnh hại thân lá. Tùy theo loại cà được trồng mà nông dân có thể để từ 2- 3 cành/cây.

* Phòng trừ sâu bệnh: Cà trồng ở vụ chính thường hay bị rệp, sâu đục quả, đục ngọn, bệnh lở cổ rễ, sương mai, héo xanh, héo vàng gây hại. Cần áp dụng phương pháp phòng trừ tổng hợp, ưu tiên các loại thuốc trừ sâu bệnh sinh học để phòng trừ nhất là khi cây đang ra hoa, thu quả để đảm bảo an toàn cho sản phẩm.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.