Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây khoai tây.

Ở Việt Nam, khoai tây là một trong những cây thực phẩm quan trọng và đặc biệt là một cây hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao. Chỉ trong vòng 90 ngày, từ khi trồng đến khi thu hoạch, cây khoai tây cho giá trị thu nhập cao gấp từ 2 đến 3 lần giá trị thu nhập so với cây lúa. Khoai tây được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, Vùng Bắc Trung bộ, Tây Nguyên.

Cây khoai tây.

1. Chọn đất, chuẩn bị đất và giống

a) Chọn đất

Cây khoai tây thích hợp với chân đất tơi xốp, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa ven sông với thành phần cơ giới nhẹ thoát nước và giữ ẩm tốt, quy hoạch tập trung, gọn vùng, chủ động tưới tiêu, tốt nhất là ruộng luân canh với lúa nước.

b) Làm đất

Vơ sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng vụ trước. Nếu đất còn ướt áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu. Nếu đất khô tiến hành cày bừa và lên luống. Đất sau khi gặt lúa xong, cắt rạ sát gốc, tiến hành cày rãnh để thoát nước và chia luống.

Luống đơn trồng bằng 1 hàng, luống rộng 60 – 70 cm, cao 20 – 25 cm.

Luống đôi trồng 2 hàng, luống rộng 120 – 140 cm, rãnh rộng: 30 – 40 cm, sâu 15 – 20 cm.

Việc làm rãnh nhằm mục đích thoát nước, tránh không để úng nước ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây khoai tây.

c) Chuẩn bị giống

Giống khoai tây có thể để nguyên cả củ trồng nếu là loại củ giống nhỏ. Nếu củ giống to (khối lượng≥ 50 g/củ) nên cắt củ giống trước khi trồng. Ngoài biện pháp cắt củ giống, xử lý bằng cách nhúng vào bột xi-măng, tro bếp, có thể áp dụng biện pháp cắt dính. Phương pháp này bao gồm các bước sau đây:

Chuẩn bị củ giống:

– Củ giống được đem cắt phải có độ trẻ về sinh lý. Tốt nhất là dùng củ giống từ nguồn nhập khẩu hoặc củ giống được bảo quản trong kho lạnh.

– Củ giống khi cắt phải hết thời gian ngủ nghỉ (đã phát mầm).

Chuẩn bị vật liệu và xử lý dao cắt:

– Vật liệu xử lý: Khi áp dụng cắt củ giống thì việc xử lý dao cắt phải rất chú ý; có thể xử lý dao bằng cồn công nghiệp, lửa đèn cồn hay lửa ngọn nến hoặc nước đun sôi bằng bình siêu tốc.

– Dao cắt: Phải sắc và mỏng, không được dùng dao có bản dày, để tránh làm dập nát tế bào ở chỗ cắt.

-Sau mỗi lần cắt nhất thiết phải xử lý lại dao cắt để tránh lây lan bệnh từ củ bị bệnh sang củ sạch bệnh.

Phương pháp và tiêu chuẩn miếng cắt:

-Cắt dọc củ theo chiều của mầm đỉnh với tiết diện miếng cắt phải là nhỏ nhất, để tránh gây thương tổn không cần thiết.

– Cắt củ giống phải tuân thủ tuyệt đối theo phương pháp cắt dính, nghĩa là miếng cắt không rời hẳn ra mà còn dính lại khoảng 2 – 3 mm.

– Cắt củ xong, phải úp ngay hai miếng cắt còn dính lại với nhau (như trước khi cắt) rồi xếp vào khay đựng hoặc rổ, rá và không được cho vào bao tải ẩm ướt.

– Không cần xử lý củ giống sau cắt với bất kỳ loại hoá chất nào.

– Để đảm bảo năng suất khoai tây, mỗi miếng cắt phải có ít nhất 2 mầm trở lên.

– Mỗi củ giống chỉ nên cắt đôi, không nên cắt làm 3 hay 4.

Phương pháp và thời gian bảo quản củ giống sau cắt:

– Sau khi cắt, củ giống phải được bảo quản trong điều kiện 18 – 20 độC, thoáng khí.

– Thời gian để miếng cắt lành lại vết thương mất khoảng 7 – 10 ngày. Trước khi trồng 1 – 2 ngày nên tách hẳn miếng cắt ra làm đôi để’ miếng cắt lành hoàn toàn.

2. Thời vụ trồng

a) Vùng Đồng bằng Bắc bộ: Có 3 vụ:

– Vụ Đông Xuân sớm: Trồng đầu tháng 10, thu hoạch vào tháng 12.

– Vụ chính: Trồng từ 15/10 – 15/11, thu hoạch vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm sau.

– Vụ Xuân: Trồng tháng 12, thu hoạch vào đầu tháng 3 năm sau.

b) Vùng miền núi phía Bắc

– Vùng núi thấp <1000 m: Vụ Đông trồng tháng 10, thu hoạch tháng 1 năm sau. Vụ Xuân trồng tháng 12, thu hoạch cuối tháng 3.

– Vùng núi cao >1000 m: Vụ Thu Đông trồng đầu tháng 10, thu hoạch tháng 1. Vụ Xuân trồng tháng 2, thu hoạch tháng 5.

c) Vùng Bắc Trung bộ

Chỉ trồng vụ Đông: Trồng đầu tháng 11, thu hoạch cuối tháng 1.

d) Vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng)

Vùng chuyên canh sản xuất khoai tây tại Tây Nguyên chủ yếu là ở tỉnh Lâm Đồng. Lâm Đồng có thể sản xuất khoai tây quanh năm nhưng mùa vụ thuận lợi nhất vẫn là vụ Đông xuân và vụ Xuân, kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

3. Mật độ, khoảng cách

– Lượng giống: Trung bình 830 – 1.100 củ/ha. Có thể trồng với lượng củ cao hơn tùy thuộc vào tập quán từng vùng và loại củ giống.

– Mật độ: Với củ nhỏ: Cứ 1 m2 trồng 10 củ, cách nhau 17 – 20 cm. Với củ bình thường: 1 m2 trồng 5 – 6 củ, cách nhau 25 – 30 cm.

4. Cách trồng

a) Cách trồng khoai tây nguyên củ

Bón lót phân chuồng hoặc rải một lớp rơm rạ đã ủ hoai mục, đạm và lân xuống đáy rồi lấp 1 lớp đất mỏng lên phân. Đặt củ giống so le nhau, nằm ngang và mầm khoai hướng lên trên. Chú ý không để củ giống tiếp xúc với phân, nhất là phân hóa học. Phủ một lớp đất mỏng (3-5 cm) lên củ giống; sau đó dùng rơm rạ phủ lên mặt luống. Tưới nước ướt đều lên mặt luống làm ẩm rơm rạ và đất; nếu độ ẩm đất còn cao không cần tưới. Có thể dùng đất đè lên rơm rạ tránh rơm rạ bay nếu gió mạnh.

b) Cách trồng khoai tây bổ củ

Rạch hàng trên mặt luống, rải toàn bộ phân chuồng hoai mục và lân vào rạch trộn đều với đất trong rạch. Đặt củ giống hay miếng bổ vào rạch, chú ý tuyệt đối không để mặt cắt của miếng bổ tiếp xúc trực tiếp với phân, đặt mầm hướng lên trên, rồi phủ kín mầm bằng 1 lớp đất dày từ 3 – 4 cm, không được để hở mầm.

Gieo củ.

5. Bón phân

a) Lượng phân bón

– Lượng phân bón bình quân cho 1 ha: Phân chuồng loại mục: 15 – 20 tấn; Đạm urê: 250 – 300 kg; Lân supe: 350 – 400 kg; Kali clorua: 150 – 200 kg. Chú ý: tùy thuộc vào chất đất có thể điều chỉnh lượng phân bón cao lên hoặc thấp đi.

Nếu dùng phân NPK cần đọc kỹ hướng dẫn trên bao bì và quy đổi về dạng phân đơn để điều chỉnh lượng bón cho phù hợp và cân đối.

Nếu bón phân NEB 26 thì giảm đi 50% đạm (trộn 7 ml NEB 26 với 1 kg đạm để bón sẽ có tác dụng như 2 kg đạm). Không phun NEB26 lên lá và không trộn NEB26 với phân khác ngoài đạm.

b) Cách bón

– Bón lót: Rải toàn bộ phân chuồng và lân + 1/3 đạm + 2/3 kali lên trên mặt luống giữa hai hàng khoai.

– Bón thúc lần 1: Sau khi cây mọc cao 15 – 20 cm: 1/3 đạm, 1/3 kali. Bón vào mép luống hoặc giữa 2 khóm khoai, không bón trực tiếp vào gốc cây vì dễ làm cây chết.

– Bón thúc lần 2: Sau thúc lần 1: 15 – 20 ngày: 1/3 đạm, 1/2 kali.

Chú ý: Bón lót nhiều kali sẽ cho củ to, mẫu mã đẹp. Không bón phân chuồng tươi vì có nhiều vi khuẩn nấm bệnh làm cho mã củ không đẹp và khoai dễ bị thối. Chỉ dùng phân chuồng hoai mục.

6. Chăm sóc

a) Phủ luống

Sau trồng có thể phủ luống khoai tây bằng chất liệu hữu cơ như: rơm, rạ hoặc mùn mục để tạo độ tơi xốp cho đất, giúp cho việc trao đổi chất.

b) Xới xáo, làm cỏ, vun gốc

– Khi cây mọc lên khỏi mặt đất 7 – 10 ngày, cao khoảng 15 – 20 cm tiến hành chăm sóc lần 1 bằng cách xới nhẹ, làm sạch cỏ, bón thúc đợt 1 rồi vun luống, kết hợp tỉa cây để lại 2 – 3 mầm chính.

Cách lần 1 từ 15 – 20 ngày khi đã qua tưới nước lần 2 thì tiến hành xới nhẹ, làm cỏ và vun luống lần cuối, lấy đất ở rãnh vun cho luống to và cao, dày cố định luôn, vun luống không đủ đất sẽ làm vỏ củ bị xanh hoặc mọc thành cây. Vét đất ở rãnh để khi ruộng bị nước sẽ nhanh khô.

c) Tưới nước

Thường xuyên giữ đất đủ ẩm, dùng nguồn nước sạch để tưới. Trong 60 – 70 ngày đầu khoai rất cần nước, nếu thiếu nước hoặc nước trong ruộng không đồng đều lúc khô, lúc ẩm làm củ bị nứt, chất lượng củ và năng suất giảm.

Có hai phương pháp tưới cho khoai tây:

– Tưới gánh: Không tưới nước trực tiếp vào gốc khoai mà tưới xung quanh gốc. Có thể kết hợp tưới với phân đạm và kali nhưng phải chú ý lượng phân hòa với nước, thùng 10 – 12 lít chỉ pha 1 nắm phân nhỏ là vừa. Không kết hợp tưới nước với phân chuồng vì có nhiều nấm gây thối củ.

– Tưới rãnh: Với ruộng phẳng, cho nước ngập 1/2 rãnh, khi nước ngấm đều thì tháo kiệt, tránh để nước đọng ở rãnh trong thời gian dài sẽ làm phát sinh và lây lan nguồn bệnh. Đặc biệt, kh iphát hiện trên ruộng có bệnh héo xanh vi khuẩn thì tuyệt đối không được tưới rãnh vì sẽ tạo điều kiện cho bệnh lây lan rộng. Từ khi trồng đến khi khoai 60 – 70 ngày thường có 3 lần tưới nước. Tưới phải kết hợp với xới xáo, làm cỏ, bón phân thúc.

• Tưới lần 1: Sau trồng khoảng 2 – 3 ngày, khi khoai mọc cao khoảng 20 – 25 cm, nếu đất khô có thể dẫn nước vào ruộng, mỗi lần chỉ cho vào 3 – 4 rãnh, khi đủ nước thì cho tiếp vào 3 – 4 rãnh khác, lấp đầy rãnh củ, tháo đầu rãnh mới để nước thêm đều vào luống. Đất cát pha cho ngập1/2 luống; đất thịt nhẹ cho ngập 1/3 luống, cho nước vào cùng một lúc nhiều rãnh hơn.

• Tưới lần 2: Khoảng 2 – 3 tuần sau lần 1, đất cát pha cho nước ngập 2/3 luống, đất thịt nhẹ cho ngập 1/2 luống làm như lần 1. Kết hợp bón thúc đợt 1 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.

• Tưới lần 3: Sau lần tưới 2 khoảng 15 – 20 ngày tiến hành tưới nước lần 3. Đợt tưới nước này cũng là kết thúc cho chu kỳ sản xuất khoai tây, kết hợp bón thúc đợt 2 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.

Chú ý: Trước khi thu hoạch khoảng 2 tuần cần ngừng tưới nước. Nếu trời mưa phải tháo nước kịp thời để đất khô ráo tuyệt đối.

7. Phòng trừ sâu bệnh hại chính

Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng và khuyến khích áp dụng các biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp (sử dụng giống kháng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, kỹ thuật làm đất, bón phân, luân xen canh cây trồng hợp lý, vệ sinh đồng ruộng…).

Chú ý các loại sâu chính hại khoai tây là sâu xám, nhện trắng, bọ trĩ, rệp, sâu hà khoai tây; các bệnh chính hại khoai tây như: bệnh vi rút xoăn lùn, bệnh vi rút khảm, bệnh vi rút cuốn lá (PLRV), bệnh héo xanh, bệnh mốc sương. Dùng các loại thuốc đặc hiệu để phòng trừ theo đúng hướng dẫn trên bao bì của mỗi thuốc. Chú ý cách sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng lúc, đúng cách và đúng nồng độ, liều lượng).

8.Thu hoạch và bảo quản

a) Thu hoạch

– Trước khi thu hoạch cần loại bỏ cây bệnh, cắt bỏ thân lá để hạn chế bệnh hại truyền về củ giống. Thu hoạch khoai tây ở thời điểm phù hợp khi thấy lá vàng, cây rạc dần với thời tiết khô ráo. Khoai tây giống thu hoạch sớm hơn 5 – 7 ngày so với khoai thương phẩm.

– Khi thu hoạch, cần phân loại cỡ củ, củ to và nhỏ riêng rẽ, để nhẹ nhàng cho vào sọt ngay trên đồng ruộng để tránh sự sây sát.

b) Bảo quản

– Loại bỏ những củ bị dập, không nguyên vẹn. Bảo quản ở nơi khô, tối và thoáng khí.

– Khoai thương phẩm đóng gói trong bao bì, vận chuyển đến nơi tiêu thụ.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ.

Sơ sinh là giai đoạn rất quan trọng vì bê phải thích nghi với cuộc sống bên ngoài cơ thể mẹ. Ngay sau khi sinh bê cần được quan tâm và chăm sóc của người chăn nuôi.

Bê con.

1. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê sơ sinh đến 7 ngày tuổi

a. Thức ăn: Sữa đầu rất quan trọng vì giúp tẩy sạch đường tiêu hóa, chứa nhiều kháng thể và các chất dinh dưỡng khác, làm tăng sức đề kháng của bê với các bệnh và tạo thuận lợi trong quá trình sinh trưởng và phát triển sau này. Hệ tiêu hóa của bê sơ sinh có khả năng hấp thu nguyên vẹn các chất từ sữa đầu vào máu, khả năng này giảm dần và đến 62 giờ sau khi sinh khả năng này bằng không. Vì vậy, bê cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất là 1-1,5 giờ sau khi sinh.

b. Chăm sóc và quản lý bê sơ sinh:

Khi mới sinh bê cần được cắt rốn. Rốn phải được cắt như sau: tay trái cầm cuống rốn đồng thời dùng ngón trỏ và ngón cái của tay phải vuốt mạnh rốn theo chiều từ cuống trở ra và cắt rốn ở khoảng cách 5 – 6cm, sau đó sát trùng chỗ cắt bằng cồn iốt 5%.

Vệ sinh cho bê sơ sinh: dùng giẻ lau, móc hết nhớt bẩn trong mũi, miệng bê, bóc móng. Để bò mẹ liếm hoặc dùng khăn, bao tải, rơm khô mềm lau toàn bộ cơ thể bê.

Sau khi sinh, trước lúc bê bú sữa đầu cần tiến hành cân khối lượng của bê, quan sát đặc điểm lông da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc miệng, tình hình sức khỏe, ăn uống, đi lại… để có chế độ nuôi dưỡng phù hợp và xác định hướng sử dụng sau này. Những thao tác này cần làm nhanh để bê được bú sữa đầu sớm.

Trong chăn nuôi bò thịt, sau khi sinh bê thường theo mẹ và bú mẹ trực tiếp theo nhu cầu. Thường trong những ngày đầu tiên cho bú 3 – 4 lần/ngày, về sau giảm xuống 2 lần/ngày.

Trường hợp phải nuôi bê ghép, cho từng con bú một và đảm bảo các bê đều được bú lượng sữa như nhau.

2. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ (sau sơ sinh đến cai sữa)

a. Thức ăn:

Sữa mẹ là loại thức ăn quan trọng nhất đối với bê trong giai đoạn này. Sữa mẹ có các chất dinh dưỡng tương đối hoàn chỉnh và phù hợp với yêu cầu sinh lý của bê. Đồng thời, khả năng tiêu hóa sữa của bê thường trên 95%. Cho nên cần sử dụng tối đa lượng sữa mẹ để nuôi bê. Trong tháng đầu tiên thức ăn chủ yếu của bê là sữa mẹ, các thức ăn khác chỉ là tập ăn.

Thức ăn tinh hỗn hợp: Có thể cho bê tập ăn từ lúc 15 – 20 ngày tuổi vì dạ cỏ phát triển chưa hoàn thiện nên loại thức ăn tinh hỗn hợp tập ăn phải có chất lượng tốt, hàm lượng protein cao. Lượng thức ăn tinh lúc đầu khoảng 0,2kg sau đó tăng dần lên 0,5kg (từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5).

Cỏ khô: Là loại thức ăn cần thiết vì nó kích thích sự phát triển của dạ cỏ và hoàn thiện hệ vi sinh vật dạ cỏ. Có thể tập cho bê ăn cỏ khô từ lúc 7 – 10 ngày bằng cách để cỏ khô chất lượng tốt vào xô treo trên cũi cho bê.

Cỏ tươi: Có thể tập cho ăn từ cuối tháng thứ nhất bằng cách bổ sung tại chuồng hoặc trực tiếp gặm trên bãi chăn.

Củ quả: Đây là loại thức ăn chứa nhiều bột đường, tương đối ngon miệng nên bê rất thích ăn. Tuy nhiên, vì bột đường dễ lên men nên không cho bê ăn quá sớm mà chỉ cho ăn từ tháng tuổi thứ 3 trở đi, khi cho ăn cần theo dõi phản ứng của đường tiêu hóa, nếu thấy bê bị ỉa chảy thì phải dừng lại.

Chất khoáng: Từ tháng thứ nhất đến tháng tuổi thứ 5 bê cần nhiều Ca và P, nên phải bổ sung thức ăn nhiều khoáng như: bột xương, bột đá vôi, bột vỏ sò… Đồng thời phải cho bê vận động dưới ánh sáng mặt trời để tăng tỷ lệ tiêu hóa và hấp thu Ca tránh bệnh còi xương.

Ngoài sữa mẹ và cỏ, cần bổ sung thức ăn khác nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cho bê trước khi cai sữa. Thành phần thức ăn bổ sung cho bê bú sữa tốt nhất là hỗn hợp các loại thức ăn hạt và thức ăn bổ sung protein-khoáng. Thành phần thức ăn bổ sung nên chứa: 2,4-2,6Mcal ME/kg, 13-16% protein thô, 0,7% Ca, 0,5% P, khoáng vi lượng, vitamin A, D và E. Để tăng tính ngon miệng cho thức ăn có thể bổ sung thêm cám 1 và rỉ mật.

b. Chăm sóc và quản lý:

– Hàng ngày cần quan sát đặc điểm lông, da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc, kiểm tra tình hình sức khỏe, bệnh tật của bê, vệ sinh tiêu độc chuồng nuôi và cũi bê.

– Đảm bảo đủ nước uống và hợp vệ sinh.

– Nơi nhốt bê con phải luôn khô ráo, đủ ánh sáng tự nhiên và có mái che.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech.

Kỹ thuật nuôi ong mật (ong nội- Apis cerana).

Những năm qua, nghề nuôi ong lấy mật phát triển mạnh với quy mô nông hộ. Để nuôi ong mật cho hiệu quả cao, người chăn nuôi cần chú trọng đến kỹ thuật nuôi từ khâu chọn giống, chọn địa điểm, tạo chúa….cho đến thu hoạch mật. Sau đây, Ban biên tập xin giới thiệu đến quý bạn đọc kỹ thuật nuôi ong mật (giống ong nội).

Ong mật.

I. Lựa chọn đàn ong giống

– Đàn ong giống phải có nguồn gốc rõ ràng; ong chúa dưới 6 tháng tuổi; không nhiễm bệnh ấu trùng; quân đậu kín 2 mặt cầu; bánh tổ mới, màu vàng và có đủ trứng, ấu trùng, nhộng, mật phấn dự trữ.

– Thùng và cầu ong đúng tiêu chuẩn về kích thước.

II. Kỹ thuật nuôi ong cơ bản

2.1. Chọn địa điểm nuôi ong

– Gần nguồn mật, phấn hoa, khoảng cách kiếm ăn hiệu quả từ tổ ong đến nguồn thức ăn khoảng 500 – 700 m.

– Chỗ đặt thùng ong cần bằng phẳng, khô ráo, mát về mùa hè, ấm về mùa đông, không ngập lụt về mùa mưa; trong điều kiện có đầy đủ nguồn mật, phấn nên bố trí đặt đàn ong với mật độ 40 đàn/ha, khoảng cách giữa các đàn tối thiểu 2 km đối với những đàn có quy mô tối đa 100 thùng.

2.2. Dụng cụ nuôi

– Thùng ong: Làm bằng gỗ khô hoặc nguyên liệu phù hợp, kích thước bên trong là 46,5 cm (dài) x 38 cm (rộng) x 24,5 cm (cao), có cửa sổ để thuận tiện khi di chuyển đàn ong.

– Dụng cụ khác: Mũ lưới, bộ tạo chúa, bộ gắn tầng chân, lưới lọc mật, dao cắt mật, thùng quay mật…

2.3. Tạo chúa

Mục đích: Tạo ra các ong chúa mới để nhân thêm đàn ong, thay ong chúa già, ong chúa của đàn bị bệnh.

* Phương pháp:

– Sử dụng mũ chúa chia đàn tự nhiên: Vào mùa ong chia đàn tự nhiên chọn các mũ chúa to, dài, thẳng, từ những đàn ong chia đàn đông quân nhiều cầu, khỏe mạnh. Dùng dao sắc cắt trên gốc mũ chúa 1,5 cm theo hình chữ V để gắn vào đàn ong cần thay chúa.

– Tạo chúa cấp tạo: Chọn đàn theo tiêu chuẩn: tụ đàn lớn, năng suất mật cao, không nhiễm bệnh ấu trùng, hiền lành để tạo chúa.

+ Tiến hành: Bắt chúa khỏi đàn, loại bỏ 1 – 2 cầu, sau 2 – 3 ngày kiểm tra loại bỏ tất cả các mũ chúa trên bề mặt bánh tổ và mũ chúa đã vít nắp, cho đàn ong ăn 3 – 4 tối liên tục, 9-10 ngày sau cắt những mũ chúa đã chín để sử dụng.

– Tạo chúa di trùng: Khi số đàn ong trong trại từ 10 đàn trở lên, tạo chúa theo phương pháp di trùng là cần thiết nhằm chủ động về thời gian, số lượng và chất lượng ong chúa.

+ Chuẩn bị dụng cụ tạo chúa: Quản chúa đường kính 7 – 7,5 cm, khung cầu tạo chúa, kim di trùng, sáp vít nắp…

+ Chọn đàn mẹ: Theo tiêu chuẩn đàn làm giống.

+ Chọn đàn nuôi dưỡng: Đông quân, không bị bệnh, dự trữ mật phấn nhiều, có biểu hiện chia đàn tự nhiên. Tách chúa khỏi đàn nuôi dưỡng và rũ bớt cầu để tăng cường ong thợ nuôi dưỡng ấu trùng ong chúa, cho ong ăn thêm.

Đưa ấu trùng vào chén sáp.

2.4. Chia đàn

– Chia đàn song song: Là chia 1 đàn ong ban đầu thành 2 đàn ong mới đặt song song với nhau cách đều vị trí ban đầu.

+ Tiến hành: Vào buổi chiều, những ngày thời tiết nắng ấm đem thùng không có ván ngắn đã vệ sinh sạch sẽ đặt cạnh đàn định chia, chia đều số cầu, số quân, số con (trứng, ấu trùng, nhộng) thức ăn về 2 đàn ong. Đặt 2 thùng ong song song với nhau về 2 bên và cách vị trí đàn cũ khoảng 20 – 30 cm, cần biết rõ ong chúa ở đàn nào để giới thiệu chúa vào đàn không chúa. Quan sát ong đi làm về, nếu đàn nào về nhiều cần dịch ra xa và đặt đàn kia gần lại. Trường hợp ong vẫn về 1 đàn sau khi điều chỉnh cần đổi vị trí 2 đàn cho nhau. Chú ý nếu chia đàn sử dụng mũ chúa, khi chúa tơ đã tập bay thì không được điều chỉnh vị trí đàn chia nữa.

– Chia đàn rời chỗ: Là phương pháp chia một nửa đàn ong giống như chia song song hoặc tách một phần đàn rồi chuyển đến chỗ mới cách vị trí đàn cũ khoảng 1 km trở lên.

+ Tiến hành: Mang thùng không đặt cạnh đàn định chia. Tách 1 nửa hoặc một phần đàn với các cầu có mật vít nắp, phấn và con, quân phủ kín cầu cho vào thùng đến nơi có địa hình quang đãng, nên để đàn giới thiệu mũ chúa lại, trường hợp giới thiệu mũ chúa vào đàn chuyển đi nên giới thiệu mũ chúa sau khi đàn ong đã được chuyển đến nơi mới.

2.5. Quản lý ong bốc bay và cho ăn bổ sung

– Ong bốc bay: Do bị thiếu thức ăn, bị các bệnh thối ấu trùng, bị các kẻ thù phá hoại như sâu ăn sáp, kiến, ong rừng, sai sót trong kỹ thuật quản lý như đặt nơi không phù hợp, đàn ong bị chấn động…

+ Đề phòng: Cần duy trì đàn ong có đủ mật, phấn dự trữ; phòng trừ địch hại kịp thời, viện cầu tiêu chuẩn cho đàn ong sắp bốc bay, thường xuyên kiểm tra đàn ong.

+ Khi đàn ong đã bốc bay, nhanh chóng bắt lại, đến tối rũ ong vào thùng đã chuẩn bị sẵn từ 1 đến 2 cẩu ong có mật vít nắp, phấn, trứng, ấu trùng, nhộng.

– Cho ong ăn bổ sung: Hàng năm vào tháng 7 – 8, tháng 1 – 2 ở phía Bắc và tháng 7 – 9 ở các tỉnh phía Nam, khi ngoài tự nhiên thiếu thức ăn hoặc do thời tiết xấu kéo dài ong không đi làm được, phải cho ong ăn bổ sung.

+ Cách cho ăn: Pha nước đường đặc, tỷ lệ 1,5 đường: 1 nước, cho ăn ít lần nhưng lượng nhiều, cho ăn 3 – 4 tối liên tục đến khi các lỗ mật vít nắp. Thông thường 1 đàn ong 3 cầu cho ăn khoảng 1 -1,5 kg đường kính trắng.

– Cho ong ăn kích thích: Khi thức ăn ở ngoài tự nhiên chỉ đủ duy trì, cho ong ăn kích thích để thúc ong chúa đẻ nhiều hơn, ong thợ tích cực kiếm ăn, xây cầu nhanh hơn…

+ Cách cho ăn: Pha nước đường loãng hơn, tỷ lệ 1 đường : 1 nước, cho ăn nhiều lần nhưng lượng ăn ít, mỗi tối đàn ong 3- 5 cầu, cho ăn khoảng 0,2 – 0,3 kg đường trong 2 – 3 tối, sau đó nghỉ 2 – 3 tối rồi lại cho ăn 2 – 3 tối nữa.

2.6. Thu hoạch mật ong

– Chuẩn bị dụng cụ: Rửa sạch, phơi khô máy quay mật, dao cắt vít nắp, lưới lọc mật, đồ chứa mật.

– Quay mật khi thấy ong đi làm nhiều, các bánh tổ có lỗ tổ mật vít nắp trắng, cơi cao (trên 70% lỗ tổ mật vít nắp), trên cây có khoảng 20 – 25% hoa nở.

– Nơi quay mật phải sạch sẽ.

– Nên quay vào buổi sáng để mật đặc hơn, không lẫn mật mới lấy về.

– Các bước thu hoạch mật:

+ Rũ ong khỏi cầu.

+ Dùng dao sắc hớt nhẹ vít nắp lỗ tổ mật, đưa dao từ dưới lên trên tránh làm vỡ các lỗ tổ.

+ Đặt các cầu đã cắt vít nắp vào khung máy quay; quay đều tay với tốc độ tăng dần, khi hết mật thì giảm dần tốc độ để bánh tổ không bị vỡ và ấu trùng không bị văng ra.

+ Trả bánh tổ đã quay vào đàn để ong ủ ấm ấu trùng.

+ Lọc mật bằng vải màn hoặc lưới inox có mặt lưới từ 8 đến 32 lỗ/cm2.

+ Bảo quản mật trong can, chai, có nút đậy kín; để nơi thoáng, mát; không để gần các chất có mùi như dầu hoả, mắm tôm,…

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Ứng dụng tiến bộ kĩ thuật sản xuất giống cá trắm đen.

Để chủ động sản xuất được con giống tại chỗ, năm 2017 và 2018, Trung tâm Giống thủy sản (nay sáp nhập với Trung tâm Khuyến nông Thái Bình) thực hiện đề tài “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất giống cá trắm đen”.

Kiểm soát cá giống.

Trung tâm đã chọn và đưa vào nuôi vỗ 50 cặp cá bố mẹ, kết quả cá bố mẹ thành thục đạt 64%, tiến hành cho sinh sản nhân tạo được 9 đợt. Tỷ lệ đẻ đạt trung bình đạt 78%, thu được 149,5 vạn trứng. Tỷ lệ thụ tinh trung bình đạt 72%, tỷ lệ nở trung bình 62% và thu được 52,7 vạn con cá bột. Tiến hành ương 52,7 vạn con cá bột thu được 26,4 vạn con cá hương, tỷ lệ sống đạt 49,4%. Từ 26,4 vạn con cá hương cỡ 2 – 4 cm nuôi ương thành cá giống cỡ 4 – 6 cm thu được 15,2 vạn con, tỷ lệ sống trung bình đạt 57,4%. Các chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu đề tài xây dựng.

Sau 2 năm triển khai đề tài, Trung tâm đã ứng dụng thành công kỹ thuật lựa chọn và nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ; kỹ thuật sử dụng kích dục tố, cho đẻ và ấp trứng; kỹ thuật ương cá bột thành cá hương cỡ 2- 4cm; kỹ thuật ương từ cá hương cỡ 2 – 4 cm thành cá giống cỡ 4 – 6 cm.

Với việc ứng dụng thành công kỹ thuật sinh sản nhân tạo giống cá trắm đen, Trung tâm Khuyến nông Thái Bình đã góp phần chủ động nguồn giống và khôi phục, bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn lợi cá trắm đen tự nhiên trong tỉnh.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Hướng dẫn phòng trừ sâu bệnh hại quan trọng trên cây rau họ thập tự.

Trên cây rau họ thập tự thường xuất hiện một số sâu bệnh hại: sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, sâu khoang, bọ nhảy, bệnh thối nhũn, bệnh đốm vòng, bệnh thối hạch… Để phòng trừ hiệu quả, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp, theo dõi phát hiện sớm và xử lý kịp thời.

1. Biện pháp canh tác:

– Vệ sinh đồng ruộng: Thu gom và tiêu huỷ tàn dư cây trồng mang nguồn bệnh như các bệnh thối nhũn, thối hạch, sương mai,… hại rau họ thập tự, cỏ dại ký chủ sâu hại, hạn chế nguồn lây lan…

– Sử dụng giống khoẻ, sạch sâu bệnh, sử dụng giống chống chịu:

+ Chỉ sử dụng giống khoẻ, hạt có tỷ lệ nảy mầm cao, sạch sâu bệnh.

+ Nên gieo giống trên giá thể khay bầu, đảm bảo chất lượng cây giống cho ruộng sản xuất.

– Chăm sóc:

+ Phân bón: Bón phân đúng kỹ thuật, bón vừa đủ và cân đối cho từng loại/ giống rau, từng loại đất, từng mùa vụ, đúng thời kỳ tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tôt, tăng sức đề kháng với sâu bệnh (1 ha bón khoảng 20-30 tấn phân chuồng hoai mục, 100-150 kgN, 30-50 kg P2O5, 40-60 Kg K2O, chú trọng phân hữu cơ khoáng, phân lân vi sinh…)

+ Tưới nước: Luôn đảm bảo ruộng rau đủ ẩm, không đọng nước.

– Thời vụ: Lựa chọn loại rau/giống phù hợp với từng mùa vụ để cây sinh trưởng thuận lợi.

– Mật độ gieo trồng: Gieo trồng mật độ hợp lý, đảm bảo ánh sáng và không khí lưu thông tốt, hạn chế sâu bệnh phát sinh

– Xen canh: Xen canh với cây trồng khác họ, hạn chế nguồn ký chủ và xua đuổi sâu hại (cà chua xen rau thập tự để xua đuổi sâu tơ)

– Luân canh: với lúa nước, các cây khác họ không cùng ký chủ sâu, bệnh hại làm gián đoạn nguồn thức ăn của sâu bệnh hại

– Bẫy cây trồng: Trồng xen cây khác không thu hoạch trên diện nhỏ để thu hút sâu hại và phun trừ chúng (cây hướng dương hấp dẫn sâu khoang).

Lựa chọn loại rau và giống phù hợp với từng mùa vụ để cây sinh trưởng thuận lợi.

2. Biện pháp thủ công:

Sử dụng bẫy đèn, bẫy dính màu vàng, màu xanh bắt và tiêu diệt rệp có cánh, ruồi đục lá, bọ nhảy; ngắt ổ trứng sâu, bắt giết sâu non, tiêu huỷ cây bị sâu bệnh, xử lý nhiệt hạt giống,…

3. Biện pháp sinh học: Khai thác và sử dụng những sinh vật có lợi (thiên địch, kẻ thù của sâu hại), các sản phẩm sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại cây.

– Bảo vệ thiên địch: Các loài bọ rùa ăn rệp, ăn sâu hại; Các loài ong ký sinh trứng, sâu non, nhộng của sâu hại; Các loài kiến, bọ cánh cứng, nhện,… ăn sâu hại

– Sử dụng bẫy Pheromone giới tính: Thu hút sâu hại trưởng thành vào bẫy rồi tiêu diệt (trưởng thành sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ,…)

– Sử dụng thuốc sinh học và thuốc thảo mộc:

+ Các chế phẩm sinh học Bacillus thuringiensis phòng trừ sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, nấm ký sinh côn trùng Beauveria, Metarhizium,…

+ Thuốc thảo mộc Azadirachtin, Rotenone,… được dùng phòng trừ, xua đuổi và gây ngán nhiều sâu hại trên rau.

+ Nấm đối kháng Trichoderma hạn chế một số loại nấm bệnh.

4. Biện pháp hoá học: Sử dụng các chất hoá học để phòng trừ sâu bệnh hại cây, chỉ nên sử dụng những loại thuốc sau trong trường hợp cần thiết.

– Các loại thuốc chọn lọc, ít độc hại cho con người và môi trường

– Các loại thuốc nhanh phân hủy

– Các loại thuốc nhóm độc thấp (nhóm 3, 4)

– Áp dụng biện pháp xử lý hạt giống và cây con. Sử dụng thuốc phải theo nguyên tắc 4 đúng:

1. Đúng lúc: Phun lúc sâu non tuổi nhỏ, vết bệnh mới xuất hiện. Giai đoạn sinh trưởng của cây. Phun sáng sớm hoặc chiều mát, không mưa,…

2. Đúng thuốc: Cho từng đối tượng dịch hại, luân phiên các loại thuốc,…

3. Đúng cách: Thực hiện thao tác pha-phun đúng hướng dẫn của từng loại thuốc,…

4. Đúng liều lượng, nồng độ: Theo đúng hướng dẫn của từng loại thuốc (về lượng dùng, lượng nước pha)

NHỮNG SÂU BỆNH HẠI CHÍNH TRÊN RAU HỌ THẬP TỰ

1. Sâu tơ (Plutella xylostella:) Là đối tượng gây hại nguy hiểm, có khả năng chống thuốc rất nhanh. Hại nặng từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

2. Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae): Phát sinh quanh năm nhưng hại nặng từ tháng 8-10 và từ tháng 2- 4. Vòng đời 20-30 ngày .

3. Sâu khoang (Spodoptera litura): Trưởng thành đẻ trứng thành ổ. Sâu non mới nở sống tập trung dưới mặt lá (rất dễ phát hiện), tuổi 3 trở đi sâu mới phát tán và ăn khuyết lá, lúc này sâu hay đục vào nõn.

* Phòng trừ các loại sâu ăn lá: Xử lý cây con, hạt giống trước khi trồng. Trên ruộng: ngắt ổ trứng, ổ sâu non mới nở, thu sâu to, nhộng, bẫy pheromone, sử dụng luân phiên các loại thuốc sinh học với các thuốc hoá học và các thuốc thảo mộc (Một số loại thuốc thông dụng: Delfin WG – 32 BIU; Elincol 12 ME; V-Bt; Proclaim; Xentari 35WDG; Pegasus 500SC; Amate 150EC; Mach 050EC; Vinaneem 2SL; Vertimex 1.8EC; Fortenone 5WP; Success 25EC, Enasin 32WP, Atabron 5 EC,…)

4. Rệp xám (Brevicoryne brassicae), Rệp đào (Myzus percicae): Rệp phát triển mạnh trong điều kiện khô hạn. Nếu không sớm phát hiện, rất khó trừ về sau.

5. Bọ nhảy sọc cong (Phyllotreta striolata): Sâu non hại rễ cây, trưởng thành ăn lá tạo thành những lỗ thủng. Chúng phát sinh quanh năm, trưởng thành sống từ 2-3 tháng hoặc lâu hơn, đẻ trứng lai rai nên không thành lứa rõ rệt, nhiệt độ thích hợp 25-300C.

* Phòng trừ rệp, bọ nhảy: Cần theo dõi phát hiện sớm, xử lý các cây giống trước khi trồng. Đặt bẫy dính, chọn một trong các loại thuốc: Chế phẩm nấm Beauveria, Metarhizium, Elincol 12 ME, Sokupi 0,36AS, Oshin 20WP, Elsin 10EC, Ecasi 20EC,…

6. Bệnh thối nhũn: Do Vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra. Bệnh thường xuất hiện khi cây đã lớn và lây nhiễm rất nhanh, gây thối nhũn, có mùi khó chịu. Bệnh thường hại nặng vào cuối vụ muộn, kể cả trong khi bảo quản bệnh cũng phát triển nhanh.

7. Bệnh đốm vòng: Do nấm Alternaria brassicae gây ra, phá hại trên cải bắp, su hào và gây hại nặng cả khi cây đã lớn. Vết bệnh hình tròn, nhiều vòng tròn đồng tâm, có khi liên kết với nhau , trên mặt có một lớp mốc khi độ ẩm cao

8. Bệnh thối hạch: Do nấm Sclerotinia sclerotiorum gây ra trên cải bắp. Cây con bị bệnh dễ thối nhũn gốc và đổ rạp. Cây lớn bị bệnh, bệnh lan từ thân lên bắp đang cuốn làm thối từ ngoài vào trong, cây có thể chết thối khô trên ruộng. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao.

* Phòng trừ bệnh: Xử lý hạt giống, cây con, dọn sạch tàn dư cây bệnh để tiêu hủy.

Các thuốc sử dụng trừ bệnh đốm vòng: Bellkute 40WP, Score 250EC, Daconil 75WP, Validacin 3L,…

Các thuốc phòng trừ bệnh thối hạch, thối nhũn: Kasai 21,2 WP, Kasuran 50WP, Bavistin 50SL, Ensino 40SC, Cantox-D50WP,…

Nguồn: khuyennongvn.gov.vn được kiểm dịch bởi FarmTech VietNam.

Hướng dẫn trồng rau sạch tại nhà.

Hiện nay, tình trạng thực phẩm bẩn do một số người chạy đua theo năng suất và lợi nhuận đã lạm dụng, sử dung không đúng cách thuốc BVTV gây tồn dư chất độc hóa học trên nông sản, đang xuất hiện tràn lan và đầy rẫy trên thị trường, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiêu dùng.. Vậy tại sao chúng ta không tự cứu lấy mình thoát khỏi vấn nạn này bằng cách trồng rau sạch tại nhà để sử dụng?

HƯỚNG DẪN TRỒNG RAU SẠCH

1.Chuẩn bị giống rau:

Bạn nên tìm đến những cửa hàng giống cây trồng uy tín nơi mình sinh sống, để tìm mua những giống rau năng suất cao chất lượng tốt.Tránh tình trạng mua phải những giống kém chất lượng, ảnh hưởng đến sự phát triển cây rau, gây giảm năng suất và chất lượng của vườn rau.

2. Chuẩn bị đất trồng:

a. Đất vườn:

Đất thích hợp để trồng rau là những loại đất như đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa. Đất cao, dễ thoát nước tránh ngập úng.

Đối với những bạn có diện tích đất vườn rộng thì nên làm đất cày bừa kỹ, tơi xốp và phơi ải dưới ánh nắng mặt trời để làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất.

Sau đó lên luống (liếp) tạo điều kiện cho rễ phát triển, dễ dàng trong chăm sóc và để thoát nước chống úng. Luống có chiều rộng 1-1,2 m, cao khoảng 15cm, luống cách luống từ 20-25cm.

Luống rau.

Bón lón 1 – 2kg/1m2 phân bón hữu cơ vi sinh dành cho rau màu. Những loại phân này cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần thiết nhất cho rau màu phát triển.

b. Trồng trong khay, thùng xốp (thường áp dụng với những người có diện tích đất hẹp như ở thành phố trồng trên sân thượng, ban công,…)

Thùng xốp có đục lỗ để thoát nước.

Vật liệu cần chuẩn bị:
– Thùng xốp, khay nhựa,…có đục lỗ ở đáy để thoát nước, nên tận dụng các vật dụng trong gia đình để tiết kiệm chi phí.
– Giá thế, chất độn (như xơ dừa, mùn cưa, phụ phẩm nông nghiệp,…)
– Đất trồng chọn những loại đất sạch, không bị ô nhiễm và tốt, giàu chất hữu cơ như đất phù sa, đất thịt nhẹ…
– Nơi đặt thùng xốp cần thông thoáng, có đủ ánh sáng (sân thượng, ban công,…) để cho rau sinh trưởng phát triển.
– Lót một lớp giá thế (xơ dừa, mùn cưa, phụ phẩm nông nghiệp,…) dưới đáy thùng rồi đổ đất lên trên (dày khoảng 10-15cm) trộn thêm 2 kg/thùng phân chuồng hoai mục hoặc từ 1 -2kg/thùng phân hữu cơ vi sinh.
Lưu ý : tùy vào kích thước của thùng to hay nhỏ mà bổ sung thêm phân bón cho hợp lý.

3. Xuống giống:

Thời vụ : có thể trồng quang năm với nhiều loại rau khác nhau, luân canh nhau để đảm bảo có rau cung cấp trong suốt một năm, không cần phải đi mua vừa tiết kiệm chi phí vừa an toàn cho sức khỏe của gia đình.

Gieo hạt
– Để hạt rau nảy mầm đồng đều, tỷ lệ nảy mầm cao cần ngâm hạt giống trong nước ẩm với tỷ lệ 2 sôi – 3 lạnh trong khoảng từ 2-6 giờ.Sau đó vớt ra và rửa sạch, để ráo nước rồi đem đi gieo lên đất đã chuẩn bị sẵn. Hoặc có thể ủ trong khăn từ 12-48h khi thấy hạt giống nứt vỏ thì đem đi gieo (thường áp dụng khi trồng trong thùng xốp).

– Rải đều hạt giống với mật độ vừa phải, không gieo với mật độ quá dày và dùng một lớp đất mỏng hoặc rơm rạ phủ lên hạt giống để giữ độ ẩm giúp hạt giống nảy mầm tốt hơn.

Trồng cây con
Cây con mua tại các cửa hàng có uy tín, giống có chất lượng tốt, giống khỏe và sạch bệnh hoặc có thể tự gieo hạt để lấy cây con (giống như gieo bằng hạt, sau khi rau mọc được 3 lá thì đem trồng). Mật độ khoảng các trồng tùy từng loại rau.Nên đa dạng hóa vườn rau (rau cải, rau xà lách, rau muốn, ớt, hành, tỏi, ngò,…) để bữa ăn trong gia đình thêm đa dạng và phong phú.

4. Chăm sóc:

Khi cây rau được 3 lá (đối với rau gieo bằng hạt) và sau trồng 5-6 ngày (đối với rau trồng bằng cây con) thì bón thêm 0,5 – 1kg/1m2 (0,5kg/thùng xốp) phân bón hữu cơ vi sinh.
Tùy vào thời gian sinh trưởng của từng loại rau mà bón phân cho hợp lý, để ý nếu lượng phân còn đủ cho cây sử dụng thì có thể kéo dài thời gian giữa 2 lần bón cho phù hợp.

Tưới nước : Nếu trời nắng nên tưới ngày 2 lần (sáng sớm và buổi chiều tối). Trời mưa thì không cần tưới và chú ý chống úng. Để ý không nên tưới quá nhiều nước rau sẽ dễ bị bệnh, luôn giữ độ ẩm thích hợp cho đất, không để đất khô hoặc quá ướt.

Rau trồng quá dày cần tỉa thưa.

Đối với rau gieo bằng hạt khi rau có từ 2-3 lá với mật độ dày thì cần tỉa thưa, vừa lấy để làm rau ăn sống vừa để tập trung dinh dưỡng, tạo độ thông thoáng và không gian cho những cây còn lại sinh trưởng và phát triển.

Xới đất để cho đất thông thoáng và nhổ bỏ cỏ dại. Thường xuyên kiểm tra phát hiện sâu có thể dùng tay bắt giết sau hại, có thể trồng xen với một số cây gia vị như hành, tỏi, gừng,… có tác dụng xua đuổi để hạn chế sâu bệnh hại.

5. Thu hoạch:

Thời điểm và cách thu hoạch tùy thuộc vào từng loại rau và mục đích sử dụng (rau ăn lá, rau mầm, hay ăn củ…).

Không thu hoạch khi quá non hoặc quá già như vậy sẽ làm giảm chất lượng và làm giảm hương vị của rau ăn sẽ không ngon.

Nguồn: Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

 

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây rau ngót.

Cây rau ngót (Sauropus androgynus (L) Merr.) là cây trồng không kén đất, có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên để cây cho năng suất cao, cần chú ý những biện pháp kỹ thuật sau:

1. Chuẩn bị đất trồng:

– Rau ngót có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, nhưng muốn có năng suất cao, cần chọn đất thịt nhẹ, thịt trung bình, đất cát pha, không bị úng ngập nhưng không quá khô, độ pH từ 5,5- 7,0, vùng đất chủ động nước tưới. Tốt nhất là nên chọn loại đất thịt pha đất sét vừa dễ canh tác mà lại giữ ẩm tốt.

– Cày xới đất tơi xốp và bón lót phân hữu cơ hoai mục kết hợp hỗn hợp phân đạm, lân, kali để giúp cây phát triển ngay giai đoạn đầu sau khi bén rễ.

2. Chuẩn bị giống:

2.1. Giống

Có 2 loại:

– Rau ngót lá to: Sinh trưởng khỏe, thân lá màu xanh đậm, phiến lá to và mỏng, phẩm chất ngon.

– Rau ngót lá nhỏ: Thân, lá có màu xanh nhạt, phiến lá nhỏ và dày, đường gân giữa cuống lá có màu xanh nhạt, ít bị sâu bệnh hại.

2.2. Phương pháp nhân giống:

– Nhân giống hữu tính (từ hạt): Tỷ lệ nảy mầm của hạt thường rất thấp và thời gian bắt đầu cho thu hoạch lâu.

– Nhân giống vô tính (giâm cành): Hiện đa số nông dân áp dụng phương pháp này. Để nhân giống đạt nên chú ý những vấn đề sau:

+ Chọn cành khỏe không bị sâu bệnh hại, cành không già, không non (cành vừa hóa nâu) để làm cành giống.

+ Dùng tro trấu hoặc trấu đã được ủ hoai để làm giá thể giâm cành. Liếp giâm tùy theo kích thước vườn, thường liếp giâm có chiều rộng 1-1,2m, chiều cao mặt liếp khoảng 10cm.

+ Cắt xéo từng đoạn cành dài 20 – 25 cm đem giâm, cành đặt nghiêng so với mặt liếp khoảng 450, vùi đất sâu 2/3 đoạn cành rồi lấp đất kỹ để cây nảy nhiều chồi. Để cành mau ra rễ, trước khi giâm ta nhúng cành vào dung dịch NAA (Naphthaleneacetic acid).

Chọn cành khỏe, không bị sâu bệnh hại, cành vừa hóa nâu để làm giống.

3. Thời vụ:

– Rau ngót có thể trồng quanh năm, tốt nhất là vào mùa mưa. Thời vụ trồng tốt nhất là vụ Xuân khoảng từ tháng 2 – 4 và vụ Thu từ tháng 8 – 9.

– Rau ngót được trồng bằng phương pháp nhân vô tính, trồng một lần và thu hoạch 2-3 năm.

Cây rau ngót sau giâm cành 15 ngày.

4. Mật độ, khoảng cách:

– Chia luống 1,3- 1,5m, mặt luống rộng 1,0- 1,2m, rãnh 0,3 m; trồng với khoảng cách cây cách cây 25- 30cm, hàng cách hàng 50- 60 cm, mỗi hố có thể trồng 2 cây.

– Chuẩn bị giống từ 9,5- 10 vạn hom/ha, cũng có thể tách thân từ cây gốc của năm trước để nhân thẳng ra ruộng.

5. Phân bón:

– Lượng phân bón tính cho 1.000 m2 (tùy theo nền đất có thể tăng hoặc giảm lượng phân vô cơ) như sau:

+ Phân chuồng hoai mục: 1,5 – 2 tấn (đã trộn ủ với 1-1,5 kg chế phẩm nấm Trichoderma)

+ Phân vô cơ: Urê 20- 24 kg + Super lân 40- 50 kg + Kali clorua 6- 8 kg.

– Cách bón:

Bón lót (kết hợp khi làm đất): Toàn bộ lượng phân hữu cơ hoai mục và Super lân + 3- 4 kg Kali clorua.

Bón thúc chia làm 2 lần bón:

+ Lần 1: Sau trồng 15- 20 ngày, sử dụng phân Urê 7- 8 kg. Trong thời gian này, người trồng có thể kết hợp sử dụng thêm phân bón lá NPK 30-10-10 để bổ sung vi lượng cho cây.

+ Lần 2: Sau lần 1 từ 10- 15 ngày với liều lượng còn lại. Có thể bón theo hàng hoặc bón theo hốc, bón cách gốc 15- 20cm, kết hợp làm cỏ, vun gốc cho cây.

Lưu ý: Do cây rau ngót thu hoạch liên tục kéo dài 2- 3 năm, do vậy sau mỗi đợt thu hoạch, cần bón bổ sung từ 0,5- 0,7 tấn phân chuồng hoai mục vào gốc, kết hợp tưới NPK để bổ sung dinh dưỡng cho cây.

Bên cạnh việc sử dụng các loại phân hữu cơ và phân hóa học thì người nông dân còn sử dụng kết hợp thêm các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thuộc nhóm auxin và gibberellin (GA3). Xử lý GA3 có tác dụng kích thích gia tăng chiều cao chồi rau ngót nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng diệp lục tố (chlorophyll) và trọng lượng tươi rau ngót giai đoạn thu hoạch. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng GA3 với nồng độ từ 10- 80 ppm phun trên rau ngót, thời gian cách ly (PHI) 7 ngày, không để lại dư lượng GA3 trên rau khi thu hoạch.

– Nguồn nước tưới: Sử dụng nguồn nước sạch để tưới (nước sông hoặc nước giếng khoan). Tuyệt đối không được sử dụng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước bị ô nhiễm, nước thải từ bệnh viện. Luôn giữ độ ẩm đất 80-85%.

– Thường xuyên vệ sinh vườn và làm cỏ. Khi bón phân kết hợp vun gốc và tưới giữ ẩm cho vườn cây thường xuyên.

– Khi thu hoạch cần kết hợp cắt cành tỉa tán, tạo cho cây có bộ khung cân đối, giúp vườn rau thông thoáng và hạn chế sâu bệnh hại.

– Vào tháng 11-12 hàng năm, khi thấy cây đã cao (20- 25 cm), lá hơi vàng và ít lá (thời kỳ cây ngừng sinh trưởng) ta nên thực hiện biện pháp sau:

+ Trẻ hóa cây: Nhằm giúp cây đâm nhiều chồi, tăng năng suất bằng cách đốn cây. Dùng dao hay kéo cắt sát gốc cách mặt đất 15cm, các lần cắt sau cách vết cắt cũ 7-10 cm, tỉa thưa bớt các cành già.

+ Xới rãnh sâu 10- 15cm giữa 2 hàng, bón bổ sung lượng phân như sau (tính cho 1.000 m2): 0,7- 1 tấn phân chuồng hoai mục + 7- 8 kg Urê + 10- 15 kg Super lân + 5- 7 kg Kali clorua, trộn đều, lấp đất lại và tưới đủ ẩm để cây bung các đợt chồi mới, vườn rau được trẻ hoá, sung sức hơn.

7. Phòng trừ sâu bệnh:

7.1. Sâu hại chính

– Rầy xanh (Empoasca sp.): Gây hại nặng vào các tháng nắng nóng, khô hạn. Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC, Cyperan 25EC), Fipronil (Regent 800WG) hoặc chế phẩm nấm xanh,…

– Nhện đỏ (Tetranychus sp.): Sống tập trung dưới mặt lá, gây hại nặng trong điều kiện khô hạn. Cần phát hiện sớm để phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Propargite (Comite 73EC), Diafenthiuron (Pegasus 500SC), Fenpyroximate (Ortus 5SC).

– Bọ phấn (Bemisa myricae): Vừa gây hại, vừa là môi giới gây bệnh virut, cần phòng trừ triệt để bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC), Lambda -cyhalothrin (Karate 2,5EC),…

– Bọ trĩ (Thrip sp.): Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Emamectin benzoate (Dylan 2EC), Imidacloprid (Admire 50EC, Confidor 100SL), Cyfluthrin (Baythroid 50 SL).

7.2. Bệnh hại chính

– Bệnh phấn trắng (Erysiphe sp.): Gây hại nặng trong điều kiện khô hạn, nắng ấm. Phòng trừ khi bệnh mới xuất hiện bằng các thuốc có hoạt chất như: Metalaxyl + Mancozeb (Vinomyl 72BTN), Carbendazim (Vicarben 50HP), Hexaconazole (Anvil 5SC), Cyfluthrin (Bayfidan 25EC).

– Bệnh xoăn lá (virut): Cần diệt trừ môi giới truyền bệnh là bọ phấn; nên nhổ bỏ những cây bị bệnh ra khỏi vườn để tránh lây lan; nếu nặng thì phá bỏ trồng lại.

Lưu ý:

– Rau ngót có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, thường hay bị một số sâu hại chủ yếu như cuốn lá, sâu xanh, rầy rệp nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp với phương châm phòng là chính. Áp dụng đúng kỹ thuật canh tác để hạn chế phát sinh gây hại:

+ Chọn giống từ vườn sạch bệnh.

+ Thường xuyên vệ sinh vườn, cắt tỉa bỏ cành già, cành bị sâu bệnh hại đem tiêu hủy.

+ Sử dụng phân hữu cơ hoai mục kết hợp trộn ủ chế phẩm sinh học (nấm Trichoderma) diệt trừ nguồn bệnh và trứng sâu.

– Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:

+ Chúng ta nên thực hiện tốt quy tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); ưu tiên sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học.

+ Phải đảm bảo thời gian cách ly từ 7- 14 ngày trước thu hoạch.

8. Thu hoạch:

– 45- 60 ngày sau trồng có thể tiến hành thu hoạch đợt đầu tiên, các đợt tiếp theo cách nhau 25- 35 ngày.

– Thu hoạch rau ngót bằng cách lấy kéo hoặc dao cắt cành hoặc hái lá. Sản phẩm sau thu hoạch phải được đựng trong bao bì chuyên dụng.

Dùng kéo cắt cành để thu hoạch rau ngót.

Nguồn: khuyennongvn.gov.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Vĩnh Long: hiệu quả mô hình chăn nuôi gà thả vườn an toàn sinh học.

Để tăng thêm thu nhập cho nông dân các xã thuộc vùng khó khăn của tỉnh giai đoạn 2017-2020, Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long đã xây dựng dự án nhân rộng các mô hình khuyến nông có hiệu quả.

Gà giai đoạn 3 tháng tuổi.

Năm 2018, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai mô hình nuôi gà thả vườn an toàn sinh học tại 02 xã khó khăn: xã Loan Mỹ (huyện Tam Bình) và xã Tân Mỹ (huyện Trà Ôn) với qui mô 3.900 con/13 hộ. Tham gia mô hình, các hộ được hỗ trợ 100% con giống gà nòi lai (gà lông màu) 1 ngày tuổi (300 con/mô hình), 30% thức ăn và 2 kg chế phẩm sinh học/mô hình.

Trong quá trình nuôi, các hộ tham gia mô hình nhận thấy gà thích nghi tốt với chất đệm chuồng, đặc biệt gà con trong giai đoạn úm luôn ấm nhờ đệm lót sinh học lên men sinh nhiệt làm cho gà con khỏe mạnh, tỉ lệ nuôi sống đến xuất bán 94% (yêu cầu mô hình là 90%), tiêu tốn thức ăn trên kg tăng trọng là 2,7 kg, khối lượng cơ thể bình quân đạt 1,5 kg/con sau 3,5 tháng nuôi. Với giá bán 80.000 đồng/kg, trừ chi phí, mỗi mô hình thu lãi 8,7 triệu đồng. Như vậy, ước tổng lợi nhuận thu được từ 13 hộ khoảng 113.100.000 đồng.

So với các hộ nuôi thả tự nhiên thì mô hình nuôi gà an toàn sinh học hạn chế được dịch bệnh do mô hình đáp ứng đủ các điều kiện từ khâu chọn giống tốt, tiêm ngừa dịch bệnh, chăm sóc. Sau 02 năm thực hiện mô hình đã có khoảng 10 hộ ngoài mô hình áp dụng nuôi với quy mô 100-500 con. Nhiều và con nông dân cũng chia sẻ sẽ chọn lựa nuôi gà an toàn sinh học là hướng sản xuất nông nghiệp của gia đình .

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Mô hình cây tiêu kết hợp cọc cừ tràm.

Từ xưa đến nay người nông dân luôn được biết đến không chỉ ở sự cần cù chịu khó mà còn sức sáng tạo vô bờ bến của họ. Trong nông nghiệp nhiều mô hình kết hợp các loại cây với nhau mang lại hiệu quả kinh tế cao mà chính những kĩ sư nông nghiệp cũng không ngờ tới. Và mô hình trồng tiêu trên cây cừ tràm sống là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của người nông dân.

Cọc cừ tràm phù hợp với cây tiêu

Trước hết cây tiêu là một cây cho thu nhập khá cao, nếu được giá có thể nhanh chóng làm giàu. Chăm sóc cây tiêu không quá khó khăn nhưng cần phải có nọc tiêu để leo bám và phát triển. Và cừ tràm là sự lựa chọn hoàn hảo trên cũng đất nhiễm phèn, một sự kết hợp sáng tạo của những người nông dân sông nước miền tây. Nếu như sử dụng các loại cọc khác như gòn, dừa thì chỉ sau vài năm sẽ bị chết hoặc gãy đỗ. Nhưng cừ tràm thì hoàn toàn khác, đây là loại cây lâm nghiệp lâu năm, gỗ chắc bền đảm bảo thời gian cho cây tiêu phát triển đến lúc đạt năng suất cao nhất. Ngoài ra cừ tràm còn có nhiều lớp vỏ, giữ nước tốt tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu sinh sống và phát triển.

Mô hình cây tiêu kết hợp cọc cừ tràm.

Cừ tràm dùng để làm cọc tiêu quả thực là một sự sáng tạo mang lại hiện quả kinh tế cao đối với những vùng đất nhiễm phèn. Nếu sử dụng cọc xi măng thì sẽ rất tốn kém, tăng chi phí sản xuất lên dẫn đến lợi nhuận không đáng kể. Đối với vùng đất như thế này chính cừ tràm đã giúp cho tiêu sinh sổi phát triển mạnh mẽ như các vùng đất khác. Đầu tiên đó là tán của loài cây này sẽ giúp tiêu tránh được những thời tiết bất lợi. Đặc biệt từ rễ của cây cừ tràm tiết ra một số chất có thể tiêu diệt được nấm trên cây tiêu. Thật bất ngờ phải không, nhưng đó là kết quả qua trình tìm hiểu tại sao mô hình vườn tiêu ôm cừ tràm đều cho năng suất cao và ít bị sâu bệnh tấn công.

Kĩ thuật trồng tiêu kết hợp với cừ tràm

Cho dù mô hình kết hợp có thuận lợi theo tự nhiên đến đâu thì kĩ thuật trồng vẫn đóng một vai trò then chốt cho sự thành công của mô hình kết hợp tiêu với cừ tràm này. Trước hết là trồng cừ tràm hơn một năm tuổi phải tiến hành đào sâu từ 5 tấc đến 7 tấc, tiếp giáp với mặt nước. Sau khi xong công đoạn này tiến hành dùng vôi bột rải lên gốc cừ tràm để hạ độ phèn. Tiếp theo là đặt dây tiêu vào mỗi gốc cừ tràm với mật độ 1,5 m đến 2m cho một nọc tiêu. Đây là kĩ thuật tạo ra được sự hiện quả đã được chứng minh bằng thực tiễn. Về mặt lí thuyết cách trồng này giúp cho tiêu và cừ tràm không cạnh tranh dinh dưỡng với nhau, quá trình sinh trưởng và phát triển đều bảo đảm cho cả 2.
Về khâu chăm sóc thì theo kinh nghiệm của người nông dân, sau khoảng một tuần trồng thì tiến hành bón phân chuồng vào mỗi gốc cừ tràm khoảng 5-7 kg. Và tất nhiên liều lượng bón sẽ tăng dần cùng với sự phát triển của cây nhằm tạo cho đất luôn ở trạng thái tươi xốp và màu mỡ. Nhìn chung nhờ sự kết hợp này mà tiêu với cừ tràm đều phát triển tốt trên đất phèn, chỉ cần chú trọng tới hệ thống tưới tiêu và đào rãnh thoát nước để tránh ngập úng.

Hiệu quả kinh tế của mô hình tiêu ôm cừ tràm này chủ yếu đến từ cây tiêu. Bắt đầu từ năm thứ 3 tiêu sẽ bắt đầu cho thu hoạch với năng suất khoảng 1,5 kg/nọc tiêu. Và khi đến năm thứ 5 thì con số này sẽ tăng lên từ 3-4 kg/ nọc tiêu. Thu nhập bình quân sẽ là 40-50 triệu/ ha với tiêu khoảng 2 năm tuổi và khi tiêu khoảng 5 năm tuổi thu nhập sẽ tăng lên khoảng trên 100 triệu/ha. Theo chu kì sinh trưởng mỗi nọc tiêu sẽ cho thu hoạch lên tới 20 năm, khi kết thúc thì đã có nguồn thu không nhỏ từ việc bán gỗ cây cừ tràm.

Giữ và phát triển được diện tích rừng tràm

Do giá cừ tràm lên xuống thất thường nên rất nhiều người đã không chọn loài cây lâm nghiệp này để phát triển kinh tế nữa. Thay vào đó học cải tạo trồng lúa hay nuôi tôm để có nguồn thu ổn định hơn. Do đó diện tích rừng tràm giảm mạnh ảnh hưởng đến độ che phủ rừng nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Việc khuyến khích người dân trồng cừ tràm rất khó khăn cho đến khi có mô hình này xuất hiện.

Với việc kết hợp tiêu với cừ tràm cho hiệu quả kinh tế cao, giúp người nông dân thoát nghèo thì chắc chắn mô hình này sẽ được mọi người hưởng ứng và lan tỏa rộng rãi. Lúc đó độ che phủ rừng sẽ tăng lên đáng kể, vừa giải quyết được vấn đề môi trường đang nhức nhối hiện nay mà kinh tế vẫn phát bền vững.

Có thể nhận thấy mô hình tiêu kết hợp cừ tràm là một mô hình sánh tạo, vừa phát triển kinh tế vừa giữ rừng bảo vệ môi trường. Vì vậy mô hình này cần được khuyến khích nhân rộng hơn nữa trong thời gian tới để nhiều người nông dân sớm thoát nghèo trên chính mảnh đất quê hương của mình.

Nguồn: agriviet.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Nuôi ong đầu tư ít, hiệu quả cao.

Nghề nuôi ong lấy mật phát triển nhanh chóng, mang lại nguồn thu nhập khá cho nhiều hộ dân trên địa bàn xã An Bình (huyện Lạc Thủy, Hòa Bình).

Các hội viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm nuôi ong lấy mật.

Chi hội Nuôi ong lấy mật xã An Bình được thành lập năm 2011 gồm 18 hội viên để liên kết các hộ nuôi ong nhỏ lẻ, từ đó tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm trong cách nuôi và chăm sóc đàn ong qua từng thời kỳ, giúp sản lượng, chất lượng mật được tăng lên.

Đến nay chi hội có tổng số 1.077 đàn ong (hộ nuôi ít 10 – 15 đàn, hộ nuôi nhiều gần 100 đàn). Các hội viên đều tự nuôi, trông nom, bảo vệ đàn ong tại gia đình, song họ thường gặp nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm chọn giống, kỹ thuật nuôi để mang lại hiệu quả kinh tế cao và sản xuất ra nhiều mật.

Đến kỳ thu hoạch, các thành viên cùng giúp nhau thu hoạch mật. Sản phẩm mật ong của các hộ trên địa bàn xã được thị trường ưa chuộng bởi chất lượng tốt, giá cả phải chăng. Ngoài tiêu thụ trong huyện, sản phẩm mật ong của xã An Bình còn đến được với khách hàng ngoại tỉnh. Năm 2018 sản lượng mật ong của chi hội đạt gần 10.000 kg, giá bán 100.000 đồng/kg. Ngoài khai thác mật, các hộ còn bán 245 đàn ong giống với giá 700.000 đồng/đàn, mang lại tổng thu nhập từ con ong trên 1 tỷ đồng (bình quân 1 hộ nuôi ong thu được 65 triệu đồng).

Ông Đinh Xuân Cẩm, Chi hội trưởng Chi hội nuôi ong xã An Bình cho biết: Đối với nghề nuôi ong, điều quan trọng là phải chọn được ong chúa khỏe mạnh. Bên cạnh đó, ong mật có đặc tính tổ chức bầy đàn cao và nhạy cảm với thời tiết, ánh sáng, nhiệt độ. Vì vậy, người nuôi phải nắm bắt được các đặc tính cơ bản này để có biện pháp chăm sóc thích hợp. Có như vậy, đàn ong mới khỏe mạnh, cho năng suất và chất lượng mật cao.

Ông Cẩm chia sẻ thêm: Do kinh nghiệm nuôi ong được tích lũy nhiều, nắm bắt được các đặc tính của ong, nên sản lượng mật ong thu được năm sau cao hơn năm trước. Để việc nuôi ong lấy mật tại địa phương thực sự có hiệu quả, lượng mật nhiều hơn, mong muốn các cấp chính quyền quan tâm nhiều hơn nữa, quản lý chặt chẽ, hạn chế triệt để những hiện tượng ong ngoại lai sâm nhập vào địa bàn.

Ông Quách Công Mười, Phó Chủ tịch UBND xã An Bình cho biết: Nhận thấy hiệu quả từ mô hình nuôi ong lấy mật, vốn đầu tư ít, nhưng mang lại hiệu quả cao, còn tạo công ăn việc làm cho người lao động lúc nông nhàn, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi giới miễn là có sự đam mê nghề.

Với những hiệu quả ban đầu mang lại, thời gian tới xã An Bình sẽ phối hợp với Chi hội nuôi ong tiếp tục phát triển, thu hút nhiều hội viên tham gia, mở rộng quy mô, tăng thêm số lượng đàn…

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.