Những chiếc lỗ kinh hoàng trên bụng bò sữa

Chúng ta vẫn hay thưởng thức những giọt sữa ngon ngọt, béo ngậy từ những hộp sữa đóng hộp. Vậy có bao giờ bạn nghĩ, để có được những sản phẩm như thế con người đã sản xuất như thế nào và hàng triệu con bò sữa đã từng chịu đựng sự đau đớn đó như thế nào không?

Con bò sữa

Trong trí tưởng tượng của nhiều người, bò sữa sẽ được chăn nuôi trên những cánh đồng đầy cỏ. Nhưng thực chất trong suốt cuộc đời mình, bò sữa sẽ được nhốt trong chuồng, liên tục mang thai để cung cấp sữa cho nhà sản xuất.

Không chỉ bị nhốt, những con bò sữa còn phải trải qua những cuộc phẫu thuật khá man rợ nhằm phục vụ cho công việc đánh giá tình trạng sức khỏe để đem lại hiệu suất sữa cao.

Nhân viên trực tiếp tiếp cho tay vào dạ dày bò để xử lý thức ăn

Mỗi con bò sữa đều trải qua ca phẫu thuật gắn một thiết bị dạng ống vào cơ thể cho phép nhân viên có thể trực tiếp tiếp cho tay vào dạ dày bò để xử lý thức ăn. Nếu tình trạng tiêu hóa của bò sữa gặp trở ngại, những người nhân viên sẽ trực tiếp kiểm tra thông qua chiếc ống đó, trong trường hợp cần thiết, họ sẽ trực tiếp đổ thuốc vào dạ dày, giúp đàn bò tiêu hóa dễ dàng hơn.

Thiết bị dạng ống được lắp vào cơ thể bò

Những chiếc lỗ hổng này có kích thước khá lớn, bằng mắt thường con người có thể nhìn thấy nội tạng bên trong con vật.

Nhiều người lo ngại, những con bò này chịu sự áp bức, lạm dụng từ những người nuôi chúng, nhưng cũng không ít người cho rằng có thể chúng mắc căn bệnh nào đó cần được gắn thiết bị này để hỗ trợ chữa trị. Những con bò sữa bị gắn chiếc ống trên cơ thể dù với mục đích khoa học, cơ bản đã giúp người nông dân nâng cao sản lượng lẫn chất lượng sữa bò đi chăng nữa thì phương pháp này là phản tự nhiên và khá tàn nhẫn.

Những chiếc lỗ hổng kích thước khá lớn khá đau đớn đối với bò sữa

Tuy vậy, việc sản xuất này vẫn còn diễn ra khá nhiều cũng chỉ vì mục đích nhằm tạo ra những sản phẩm từ sữa bò tốt nhất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trị lở mồm long móng cho gia súc

Bệnh lở mồm long móng (LMLM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loài gia súc và một số loài thú hoang, có thể lây từ súc vật sang người. Ở nước ta, hàng năm bệnh thường xảy ra ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi biên giới Việt – Trung, Việt – Lào và Việt – Campuchia, gây nhiều thiệt hại kinh tế cho chăn nuôi trâu bò. Bệnh do virut LMLM gây ra và lây qua đường hô hấp, đường tiêu hóa.


1. Triệu chứng:
Thời gian ủ bệnh từ 2 – 7 ngày. Bò bệnh có triệu chứng:
– Sốt cao 41 – 42 độ C trong 2 – 3 ngày, chảy nước mắt nước mũi khi sốt.
– Nước rãi trắng như bọt xà phòng, chảy liên tục thành sợi từ miệng bò xuống đất.
– Niêm mạc mũi, miệng, lợi răng, trên mặt lưỡi mọc các đám mụn đỏ, sau mọng nước, trắng ra và vỡ loét, để lại các vết sẹo nhiều màu: đỏ, vàng, xám… làm cho súc vật bị bệnh đau đớn, khó ăn uống.
– Quanh các móng chân súc vật cũng mọc mụn loét giống ở miệng, vỡ loét ra, có thể bị nhiễm trùng và bong móng chân làm cho súc vật đi lại rất khó khăn và chỉ nằm một chỗ.
– Một số trường hợp bò bệnh có biến chứng viêm ruột, ỉa chảy, phân có máu và chết nhanh.
– Súc vật non có thể có biến chứng viêm cơ tim cũng chết rất nhanh.
– Bò cái bị bệnh thường có mụn loét ở núm vú, bầu vú giống như ở miệng.
– Bò cái mang thai khi bị bệnh thường sẩy thai.
– Bò trưởng thành bị bệnh chết với tỷ lệ 3 – 5%. Bê non bị bệnh chết với tỷ lệ cao hơn.
2. Điều trị:
Bệnh LMLM hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, người chăn nuôi vẫn dùng các dung dịch thuốc sát trùng như Xanh Methylen 5‰, Lodin 1‰, các dịch lá chát (lá ổi, lá sim) bôi vào các ổ lở loét ở miệng và chân móng, sau 10 – 12 ngày, trâu bò có thể khỏi bệnh về lâm sàng. Nhưng trâu bò này vẫn có thể mang và thải virut sau một thời gian, làm lây nhiễm bệnh sang đàn gia súc khỏe.

– Ở miệng: Dùng chất sát trùng nhẹ như thuốc tím với liều lượng 0,1% hoặc nước quả chua (chanh, khế…) bóp lấy nước xoa vào niêm mạc miệng. Cho gia súc ăn thức ăn mềm, dễ tiêu.

– Móng: Rửa sạch, dùng các loại kháng sinh mỡ, cồn iốt, thuốc nam như lá bàng, lá phèn đen, thanh xoan, lá trầu không… chống nhiễm trùng, kích thích lên da non, chống ruồi muỗi.

– Ở vú: Thường xuyên vắt cạn sữa, sát trùng mụn loét bằng dung dịch sát trùng, nếu bị nặng dùng thêm các kháng sinh Penicillin, Streptomyxin… để tiêm.

Triệu chứng trên heo

3. Phòng bệnh:
* Khi chưa có dịch: Tổ chức tiêm vắc xin phòng bệnh LMLM cho đàn trâu bò ở các ổ dịch cũ và vùng có nguy cơ phát dịch theo định kỳ 12 tháng/lần. Mỗi lần trâu bò phải tiêm 2 mũi, mũi đầu cách mũi thứ 2 từ 4 – 6 tuần tuổi.
– Cách sử dụng vắc xin:
+ Nếu trâu bò có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 3 – 4 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1 vào 4 – 6 tuần sau khi tiêm mũi đầu; tiêm nhắc lại lần 2 vào 4 – 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1.
+ Nếu trâu bò không có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 2 – 3 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1 vào 4 – 6 tuần sau khi tiêm mũi đầu; tiêm nhắc lại lần 2 vào 4 – 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1.
+ Liều tiêm: 2 ml/trâu, bò. Miễn dịch kéo dài 12 tháng.
– Thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày và phun thuốc sát trùng theo định kỳ 2 tuần/lần.
– Nuôi dưỡng chăm sóc tốt đàn trâu bò để nâng cao sức đề kháng với bệnh, đảm bảo khẩu phần ăn đủ chất dinh dưỡng và đủ nguồn nước sạch cho trâu bò.
– Thực hiện kiểm dịch nghiêm ngặt khi phải xuất nhập trâu bò.
* Khi có dịch: Súc vật ốm và chết trong ổ dịch phải tiêu hủy bằng cách đốt hoặc chôn sâu giữa 2 lớp vôi bột theo hướng dẫn của thú y; đồng thời kê khai đúng thiệt hại của chủ gia súc để nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước.
– Thực hiện vệ sinh, tiêu độc triệt để chuồng trại và khu vực có súc vật ốm chết: quét dọn, thu gom rác thải xử lý như đối với súc vật chết; phun thuốc sát trùng mạnh (Lodin 1%, Clorin 3%) 2 – 3 lần/tuần; phun liên tục 3 – 4 tuần.
– Không vận chuyển, giết mổ, phân phối thịt súc vật trong khu vực có dịch theo đúng Pháp lệnh Thú y 2004.
– Tổ chức tiêm vắc xin bổ sung phòng bệnh LMLM ở xung quanh khu vực có dịch và vùng bị dịch uy hiếp; không tiêm vắc xin vào thẳng ổ dịch.
– Chuồng trại đã có súc vật chết dịch phải để trống trong 1 – 2 tháng và nuôi lại trâu bò khi có lệnh công bố hết dịch.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Chế biến thân lá ngô dùng làm thức ăn cho trâu bò

Thân lá ngô khi còn xanh có thể cho trâu bò ăn ngay, song thường khi thu hoạch thì ta có một lượng nhiều nên trâu bò không thể tiêu thụ hết trong một thời gian ngắn.


Chúng tôi xin giới thiệu phương pháp ủ chua yếm khí thân lá ngô với bạn đọc. Thân lá ngô sau khi thu hoạch bắp loại chưa già, lá ngô còn xanh. Thân lá ngô (TLN) lúc này có vật chất khô (VCK) khoảng 25-27%, protein thô (CP) khoảng 9%, vật chất hữu cơ (OM) khoảng 92-94%. Thân lá ngô thu về chặt nhỏ (4-5 cm), chúng được chia ra để ủ theo mấy cách sau:
– TN0: Thân cây ngô đã chặt nhỏ không cho thêm rỉ mật và urê.
– TN1: Thân lá ngô đã chặt nhỏ + 5% rỉ mật.
– TN2: Thân lá ngô đã chặt nhỏ + 2,5% rỉ mật + 0,5% urê.
Ở TN1 và TN2 hỗn hợp TLN, rỉ mật và urê được trộn đều. Tiếp theo từng hỗn hợp của TN1, TN2 và TN0 được cho vào các bao nylon riêng (có thể sử dụng bao với kích cỡ khác nhau, tùy thuộc vào lượng TLN mà ta cần ủ), lèn thật chặt (nếu bao lớn thì cho từng lớp một để dễ nén chặt) cho đến khi gần đầy bao thì thôi, cố gắng lùa hết không khí ra, cuối cùng dùng dây buộc kín và chặt miệng túi. Chú ý khi cho TLN vào túi và lèn tránh không làm bao bị rách. Để bao TLN ủ nơi dâm mát.
Qua kiểm tra để xác định chất lượng khối ủ thông qua các chỉ tiêu pH, hàm lượng VCK, CP và OM tại 0, 7, 14, 21 ngày ủ và thu được kết quả: pH từ 4,9-5,1 (0 ngày) giảm còn 3,54-4,30 (21 ngày), pH như thế này là rất tốt cho tiếp tục bảo quản. VCK gần như giữ nguyên: từ 24,6-26,4% (0 ngày) đạt 25,6-26,2% ở 21 ngày. OM cũng gần như giữ nguyên: từ 93,3-94,0% (0 ngày) đạt 92,1-93,7% ở 21 ngày. Protein thô cũng gần như được giữ nguyên: từ 8,7-12,6% (0 ngày) đạt 8,5-12,0% ở 21 ngày. Đặc biệt, nhờ có bổ sung urê mà CP ở khối ủ TN2 cao hơn hẳn TN0 và TN1, 12,0-12,6% so với 8,5-9,0%. Rõ ràng, quá trình ủ chua yếm khí không làm giảm chất lượng TLN, mà còn bảo quản được lâu dài hơn và nếu có bổ sung 0,5% urê thì cải thiện chất lượng rõ rệt.
Kiểm tra khối ủ TLN ở 21 ngày ủ bằng các chỉ tiêu cảm quan chúng tôi thấy: TN0 có màu sẫm, thơm và chua nhẹ, nhưng bị nhiễm một ít nấm mốc; TN1 có màu vàng, thơm và chua nhẹ, không bị nhiễm nấm mốc; TN2 màu vàng sáng, thơm và chua nhẹ, không bị nhiễm nấm mốc. Về cảm quan khối ủ TN2 tốt nhất, TN0 kém nhất và bị nhiễm nấm mốc nên không bảo quản được lâu.
Kiểm tra đánh giá khả năng tiêu hóa vật chất của các khối TLN ủ tại dạ cỏ của bò đã thu được kết quả: Từ sau khi ăn vào 8 giờ đến 96 giờ, tỷ lệ tiêu hóa VCK, OM và CP trong TLN ủ của TN0, TN1 và TN2 đều tăng dần. Tiêu hóa VCK từ 31,4-44,6% ở thời điểm 8 giờ tăng lên 72,4-76,5% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN1. Tiêu hóa OM từ 30,2-44,4% ở 8 giờ tăng lên 73,6-76,8% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN1. Tiêu hóa CP từ 44,2-67,7% ở 8 giờ tăng lên 86,2-91,9% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN2.


Thân lá ngô còn tươi xanh sau khi thu hoạch bắp, ủ yếm khí có thể bảo quản được trong thời gian khá lâu (21 ngày hoặc dài hơn) vẫn không bị hư hỏng, vẫn sử dụng làm thức ăn cho trâu bò tốt. Nếu có điều kiện nên trộn thêm 2,5 hoặc 5% rỉ mật và 0,5% urê thì chất lượng của thân lá ngô ủ sẽ được cải thiện. Ủ thân lá ngô yếm khí điều quan trọng nhất là phải nến nén chặt, buộc kỹ để bảo đảm điều kiện yếm khí. Mỗi lần lấy TLN ủ ra cho trâu bò ăn, chỉ lấy lượng vừa đủ cho bữa ăn đó, rồi lại phải nén chặt khối ủ và buộc kỹ miệng túi để giữ cho khối ủ yếm khí.

Nguồn : báo Nghệ An, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Sản sinh kháng thể chống virus HIV từ bò

Trên hành trình tìm kiếm phương cách chống lại virus HIV kéo dài hàng chục năm nay trên thế giới. Người ta đã không tưởng khi phát hiện: bò có thể sản sinh kháng thể chống HIV.

Bò có thể sản sinh kháng thể chống HIV

Các nhà khoa học cho biết họ đã tiêm vào 4 con bò một loại protein chứa HIV, sau đó chúng phát triển nhanh chóng một loại kháng thể phản ứng mạnh mẽ với virus HIV.

Kháng thể trên thuộc loại kháng thể trung hòa có tác dụng ngăn chặn quá trình phát triển ở nhiều loại virus HIV. Những con bò có khả năng sản sinh được những kháng thể này chỉ 42 ngày sau khi được miễn dịch.

Trước đây, vấn đề tạo ra vắcxin phòng ngừa HIV vô cùng khó khăn bởi virus HIV thay đổi liên tục, trong khi có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trên khắp thế giới. Virus HIV thậm chí biến đổi ngay trong cơ thể một người.

Thông thường, các nhà khoa học có thể phát triển những kháng thể đặc trị một loại virus nào đó, tuy nhiên lại vô dụng với những loại khác. Vắcxin phòng ngừa HIV được thử gần đây đã thất bại, không thể đưa vào sản xuất rộng rãi.

Chỉ khoảng 1% người bị nhiễm HIV cuối cùng có thể sản sinh ra được kháng thể trung hòa đủ mạnh và có thể chống lại nhiều loại HIV. Các nhà khoa học đã thử phát triển loại kháng thể này, nhưng dường như không giúp được người nhiễm HIV.

Những kháng thể trung hòa có đặc trị virus HIV thì có một số đặc điểm thú vị, trong đó có sự tồn tại của một vùng dài những amino axit trồi lên trên bề mặt của kháng thể. Phần trồi ra này sẽ kết chặt với bề mặt của virus, vì virus cũng cần tìm cánh cổng để vào tế bào.

“Bề mặt dày của virus HIV gây khó khăn cho các kháng thể kết dính với loại virus này. Những đoạn trồi amino axit dài hơn giúp kháng thể dễ xuyên qua lớp này”, Vaughn Smider – nhà nghiên cứu miễn dịch phân tử ở Viện nghiên cứu Scripps ở Califonia.

Ở người bị nhiễm HIV được phát triển kháng thể trung hòa, vùng kháng thể này (gọi là HCDR3) có khoảng 30 amino axit, dài gấp 2 lần so với bình thường, dẫu vậy vẫn rất ngắn so với vùng của bò, Smider cho biết. Đoạn amino axit dài hơn có thể gợi ra phương pháp mới giúp đặc trị virus HIV.

Smider và cộng sự đã lấy huyết thanh từ 4 con bò được miễn dịch và thử chúng với những loại virus HIV khác nhau. Kết quả là, tất cả con bò đều phát triển được những kháng thể trung hòa. Nhóm nghiên cứu sau đó quyết định thử nghiệm bò với một số lượng lớn các loại virus khác.

Sau 281 ngày, kháng thể của nó đã ngăn chặn 96% trong tổng số 117 loại virus HIV từ những tế bào bị lây nhiễm. Phải nói thêm, HCDR3 chứa đến 60 amino axit góp phần ngăn chặn 72% loại virus HIV.

Nếu các nhà khoa học có thể sản xuất ra những đoạn dài HCDR3 ở người, thì đây có thể là bước đi đầu tiên để phát triển vắcxin chống lại “căn bệnh thế kỷ”.

Phát triển vắcxin chống lại virus từ bò

Ngoài ra, cũng có thể tính đến việc sử dụng những sản phẩm từ kháng thể của bò để tạo ra thuốc điều trị HIV nếu kháng thể ở bò có thể ngăn chặn virus HIV trên những động vật khác.

Nguồn tuoitre.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Các phương pháp vỗ béo bò thịt

Vỗ béo bò trước khi giết thịt là rút ngắn thời gian nuôi để đạt tăng trọng cao nhất trong thời gian ngắn nhất nhằm nâng cao số lượng và chất lượng thịt. Trong giai đoạn này các cơ bắp, mô mỡ, mô liên kết phát triển mạnh nên cần nuôi dưỡng tốt và thức ăn phải giàu năng lượng (thức ăn tinh), giàu glucid (cỏ, rơm,..).

Để vỗ béo bò đạt hiệu quả cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến việc vỗ béo bò như sau:
– Giống: các giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng, phát triển, tạo nạc và mỡ khác nhau. Trên bê đực lai hướng sữa thì mức tăng trọng bình quân của bê đạt từ 500 – 600 gram/con/ngày.
– Tuổi: tuổi giết mổ khác nhau sẽ cho chất lượng thịt khác nhau. Cụ thể như:
+ Dưới 1 năm tuổi: sự phát triển của cơ thể chủ yếu là kết quả của sự tích luỹ các mô cơ và xương, còn mỡ và mô liên kết tương đối thấp.
+ Đến 1,5 tuổi: sự tích luỹ mô cơ cao, còn mô xương tương đối thấp.
+ Sau 18 tháng tuổi: tốc độ sinh trưởng của tế bào cơ giảm xuống thấp, hàm lượng nước giảm, sự tích luỹ mỡ tăng lên, kèm theo là hàm lượng calori cũng tăng lên, còn mô liên kết giảm. Thời gian này do sự trao đổi chất thay đổi, làm giảm khả năng tích luỹ nitơ, cường độ hình thành protein giảm thấp và sự sinh trưởng của tế bào bị kìm hãm, đồng thời tốc độ tích lũy mỡ tăng lên. Cụ thể là khi sơ sinh thành phần protein là 18,25%; đến 18 tháng là 17,18%. Trong khi đó, mỡ tăng tương ứng là 3,64% lúc sơ sinh; 26,74% lúc 18 tháng tuổi. Nếu giết thịt lúc 18 tháng tuổi mỡ tích luỹ trong cơ bắp cao hơn mỡ nội tạng. Trong điều kiện chăn nuôi ở nước ta, vỗ béo bò ở giai đoạn 22 – 24 tháng tuổi là hiệu quả kinh tế nhất.
– Chăm sóc, nuôi dưỡng: sức sản xuất thịt của bê phụ thuộc trước hết vào mức độ dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao sẽ đạt được khối lượng thịt gấp 2 lần so với mức độ dinh dưỡng thấp, thành phần thân thịt ở gia súc nuôi dưỡng kém đạt tỷ lệ xương và dây chằng tương ứng là 25 – 30% thân thịt, năng lượng của thịt giảm 40 – 45%. Thông thường, khẩu phần nhiều thức ăn thô thì tỷ lệ nội tạng cao, tỷ lệ thịt xẻ thấp; ngược lại, khẩu phần nhiều thức ăn tinh thì tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ nội tạng thấp.
– Stress môi trường: Trong môi trường càng nóng ẩm thì việc thải nhiệt càng khó khăn. Do vậy, khi bò bị stress nhiệt sẽ làm hạn chế khả năng thu nhận thức ăn và năng suất giảm.


Trong điều kiện chăn nuôi gia đình, hiện nay có 3 cách vỗ béo bò thường được áp dụng như sau:
(1) Nuôi chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng: bò cần được chăn thả 8 – 10 giờ/ngày ngoài bãi chăn để tận dụng được nhiều cỏ tươi mà không phải tốn công thu cắt cỏ và vận chuyển về chuồng. Sau khi chăn thả, bò được bổ sung thêm một ít thức ăn tinh và muối ăn.
Cách vỗ béo này thường áp dụng ở những nơi có diện tích đồng cỏ lớn và năng suất đồng cỏ tương đối khá mới đảm bảo mỗi ngày bò gặm được từ 20 – 25 kg cỏ. Tuy nhiên, để tăng năng suất đồng cỏ chăn thả thì đồng cỏ phải được cải tạo, diệt trừ cỏ dại, trồng cây bóng mát, giữ ẩm đất bằng cách tưới nước hay đắp đập ngăn nước để cỏ có năng suất cao.
Dành cho đàn bò vỗ béo ở những bãi cỏ gần nguồn nước, gần chuồng để chăn thả được nhiều giờ ngoài bãi. Nếu khoảng cách từ chuồng đến bãi chăn quá 2 km thì phải làm lán trại ngoài đồng cho bò ngủ qua đêm trong suốt thời gian chăn thả.
(2) Nuôi tại chuồng kết hợp với chăn thả: hình thức vỗ béo này thường áp dụng ở những hộ có diện tích đồng cỏ giới hạn, bò vừa gặm được một phần cỏ ngoài bãi chăn vừa được cung cấp thêm thức ăn tinh tại chuồng. Có thể bổ sung thêm phụ phẩm công nông nghiệp làm thức ăn vỗ béo cho bò như:
+ Bã mía, lá và ngọn mía: cho ăn tươi hoặc ủ chua, 2 – 3 kg/con/ngày
+ Vỏ và mắt dứa: ủ chua, 3 kg/con/ngày, khi ăn thường trộn với thức ăn tinh.
+ Hèm bia: 5 – 10 kg/con/ngày, kết hợp với cỏ họ đậu.
(3) Nuôi nhốt hoàn toàn: đây là phương thức nuôi thâm canh tại chuồng để giảm vận động, nhằm làm cho bò đạt mức tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn để có tỷ lệ thịt xẻ cao, tạo ra các vân mỡ trong các sớ cơ nên phẩm chất thịt được nâng cao, giảm chi phí sản xuất đồng thời tăng hiệu quả chăn nuôi. Sau thời gian vỗ béo khối lượng cơ thể bò tăng từ 15 – 20% so với trước khi vỗ béo.
Những ngày đầu vỗ béo không cho bò ăn khẩu phần vỗ béo ngay, thời gian làm quen khẩu phần vỗ béo có thể kéo dài từ 2 – 3 tuần. Thức ăn của bò nuôi vỗ béo gồm cỏ tươi, rơm khô, thức ăn tinh (cám hỗn hợp, khoai lang, khoai mì, bắp). Tuần đầu tăng dần thức ăn tinh lên tối đa 1,5kg để tránh rối loạn tiêu hóa; Tuần thứ 2 tăng lên 3kg; Tuần thứ 3 tăng thức ăn tinh tối đa là 6 – 7kg; tiếp tục duy trì lượng thức ăn tinh này cho đến khi xuất thịt. Nên kích thích cho bò ăn càng nhiều càng tốt, cho vận động ít hoặc không cho vận động để bò tăng trọng nhanh, đạt khoảng 1,0 kg/con/ngày.


Lưu ý:
– Trước khi đưa vào vỗ béo bò, người chăn nuôi cần phải tẩy giun, sán cho bò bằng các loại thuốc như: levamisol, albendazole, biomectin…
– Nước uống phải cung cấp thường xuyên và đầy đủ.
Hiện nay, trên thị trường đã có 1 sản phẩm có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả việc vỗ béo bò thịt đó là Microplex 1000, là sản phẩm đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT đưa vào danh mục thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu dùng chế biến thức ăn chăn nuôi, có tác dụng kích thích tăng trọng, giảm tiêu tốn thức ăn, tăng trọng lượng xuất thịt, tạo sản phẩm thịt đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bệnh do kí sinh trùng gây ra ở đà điểu

Trong quá trình nuôi, đà điểu bị nhiễm kí sinh trùng là điều không thể tránh khỏi. Các ký sinh trùng bên trong cơ thể của những con đà điểu được nuôi nhốt thường ít hơn so với những con đà điểu được nuôi theo kiểu chăn thả hoặc tự do. Trong chăn nuôi đà điểu để kinh doanh, trứng thường được ấp nhân tạo và con non thì được nuôi cách ly thành từng nhóm (đàn). Việc nuôi riêng các con non này sẽ giúp cách ly chúng khỏi những con trưởng thành vốn đã đông đúc và như thế sẽ cản trở vòng đời của hầu hết các loại ký sinh trùng trong cơ thể.

Đa số các loại ký sinh trùng này không gây ảnh hưởng lắm về mặt kinh tế. Tuy nhiên, các loại ký sinh trùng sau đây lại được công nhận là gây ra tổn thất nghiêm trọng.

1. Giun dây trong mề đà điểu

Giun sống ở trong mề tuyến (vì thế nên có tên là giun trong mề). Giun trưởng thành có chiều dài từ 0,5-1 cm, màu nâu – hung đỏ, rất mỏng và giống như cái dây. Trứng giun được thải theo phân và vẫn có thể sống tới ba năm sau. Khi có đủ độ ẩm và ấm, trứng sẽ nở thành ấu trùng có khả năng gây bệnh. Kể từ khi nuốt phải, các ấu trùng phát triển thành con giun trưởng thành trong khoảng ba tuần.

Những con đà điểu còn nhỏ đặc biệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi loại ký sinh trùng này. Nếu nhiễm nhiều giun có thể làm ảnh hưởng tới mề và có thể làm cho tỷ lệ chết cao.

Các triệu chứng: Con đà điểu bị nhiễm giun có biểu hiện không muốn ăn, uể oải, không khỏe mạnh, mặt tái nhợt (biểu hiện của triệu chứng thiếu máu), bị bệnh đường ruột (trong trường hợp bị bệnh mạn tính) và chứng táo bón (ở những con đà điểu có đường ruột bị ảnh hưởng). Tỷ lệ ở con non thường cao.

Bệnh lý và chẩn đoán: Phát hiện có giun dây ở trong mề hoặc lớp bên trong sau khi tử vong, tìm thấy trứng giun trong phân nhờ phương pháp đãi nổi. Bề ngoài cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể tái nhợt, gan nhỏ và vàng.

Điều trị và kiểm soát: Levamizol là loại thuốc đầu tiên có tác dụng trị bệnh giun dây tốt. Tuy nhiên, gần đây các biểu hiện cho thấy chúng dường như kháng lại thuốc này. Hiện nay, nhóm benzimidazol đã được đưa vào để điều trị. Ví dụ, fenbendazole với liều lượng 15 mg/kg theo đường miệng. Nên nhớ rằng nếu trước đây chuồng trại đã bị nhiễm giun thì cần phải tẩy giun cho đà điểu (các con non và các con đang lớn) thường xuyên (ba tới bốn tuần một lần). Để tránh trường hợp giun kháng lại thuốc đặc trị thì cần phải dùng lần lượt hai hay thậm chí tới ba loại thuốc. Cần phải kiểm tra tất cả những con đà điểu khi mới đưa về trang trại.

2. Sán đà điểu (sán dây, sán xơ mít)

Sán sống ở trong ruột non và có thể làm cho đà điểu gầy mòn dần do bị đói liên tiếp. Trứng sán được thải ra từ một vật chủ trung gian. Loại vật chủ trung gian của sán đà điểu vẫn chưa được biết đến. Khi đà điểu ăn phải vật chủ trung gian thì sán sẽ phát triển thành con sán trưởng thành.

Triệu chứng: Đà điểu non dễ bị ảnh hưởng nhất và có biểu hiện nhiễm sán rất chậm; tình trạng sức khỏe suy sụp dần, uể oải và thiếu máu, đôi khi kèm theo tiêu chảy nhẹ.

Bệnh lý và chẩn đoán: Có sán trong ruột non, có các khúc sán hoặc trứng sán trong phân.

Điều trị và kiểm soát: Cách điều trị sán này cũng giống như điều trị giun dây nhưng loại thuốc fenbendazole cần phải uổng với liều cao hơn (25 mg/kg) ngoài ra cần uống thêm resorantel với liều 130 mg/kg. Với cách dùng thuốc kết hợp như vậy việc tẩy sán, đặc biệt là sau sáu tuần cho uống lại thuốc đó sẽ có hiệu quả cao.

3. Giun nematode

Loại giun Codiostomum struthionis chỉ có ở đà điểu. Nó sống ở ruột già và cản trở quá trình hấp thụ nước. Nó dài khoảng 1-1,5 cm và có màu trắng.

Triệu chứng: Không có các triệu chứng rõ ràng

Bệnh lý và chẩn đoán: Có giun ở đầu đoạn ruột kết, có thể tìm thấy trứng giun trong phân. Điều trị và kiểm soát: Giống như điều trị giun dây.

4. Sán mắt

Đây là một loại ký sinh trùng có thể gây nhiễm cho đà điểu cũng như một số loài chim khác. Loại sán này cần sử dụng loại sên nước ngọt làm vật chủ trung gian riêng. Nó gây ảnh hưởng tới mắt và sống ở túi dịch của màng kết mạc và dẫn tối bệnh viêm màng kết và viêm túi lệ. Sán mắt rất nhỏ, không dài quá 2 – 3 mm.

Điều trị và kiểm soát: Điều trị khoanh vùng ở túi dịch của màng kết mạc bằng bột muối cacbonat 5%. Đợt điều trị thứ hai sau 48 giờ.

5. Vi sinh vật đơn bào

Cầu trùng đã được tìm thấy ở đà điểu sống tại nhiều vùng Bắc Mỹ và châu Âu, đặc biệt là ở những nơi nuôi đà điểu non theo cách nhốt trong chuồng. Loại ký sinh trùng đơn bào này gây ra bệnh về đường tiêu hóa. Loài Eimeria đã được tìm ra nhưng các giống của loài này vẫn chưa được biết rõ.

Triệu chứng: Các triệu chứng bệnh đối với đà điểu thường rất ít. Bệnh chỉ có thể được chẩn đoán chính xác bằng cách kiểm tra đường ruột của chúng. Những con đà điểu bị nhiễm bệnh thường có biểu hiện ăn không ngon miệng, ốm yếu, lông xù lên, tư thế đứng lom khom và phân của chúng có thể có màu.

Bệnh lý và chẩn đoán: kết quả cho thấy có ký sinh trùng đơn bào trong hệ thống tiêu hóa và trong phân của đà điểu.

Điều trị và kiểm soát: thường xuyên dùng thuốc diệt vi sinh vật đơn bào là cách điều trị tốt nhất. Khi phát bệnh, cần khẩn trương tăng cường bổ sung lượng vitamin K, sulfonamide và vitamin A trong chế độ ăn hàng ngày cho đà điểu. Tẩy uế chuồng trại sạch bằng amoniac sau mỗi lứa con non sẽ là một cách không chế vi sinh vật đơn bào rất hiệu quả.

6. Các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể

Các loại côn trùng, bao gồm rận, mạt, bọ chét là những loài phổ biến nhất và là những loài ký sinh trùng bên ngoài phổ biến có ảnh hưởng tới đà điểu ở mọi độ tuổi. Những con đà điểu bị nhiễm các loại ký sinh trùng bên ngoài nói chung có biểu hiện ngứa ngáy khó chịu và phản ứng bằng cách gãi. Có thể tìm rận và mạt bằng cách kiểm tra da và lông, đặc biệt là ở vùng quanh đít, chân, cánh và cổ. Kiểm tra đà điểu vào ban đêm có thể tìm thấy các loại ký sinh trùng ăn đêm, nhưng để nhận ra được từng loại ký sinh trùng riêng thì cần phải kiểm tra bằng kính hiển vi.

Rận thuộc loài struthiolipenrus có thể gây hư hại và giảm khối lượng lông. Mạt ở đà điểu thuộc họ pterolichidae. Những con mạt soi được dưới kính hiển vi này sống ở trong cuống lông. Trong quá trình sống, mạt chui qua cuống lông và làm hư hại lông. Có mạt ở trong cuống lông sẽ khiến cho con đà điểu tự nhổ lông của chính mình và làm xây sát da. Ngoài việc làm giảm số lượng lông ra, sự khó chịu, căng thẳng cũng gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đà điểu như viêm đường hô hấp, đồng thời giảm khả năng sinh sản của chúng.

Bọ chét ở đà điểu thuộc về rất nhiều giống. Ở những vùng có lượng mưa lớn và cây cối rậm rạp thì bao giờ cũng có nhiều bọ chét. Chỗ hay bị tấn công nhất của đà điểu là ở đầu và cổ. Bọ chét là loại gây thiệt hại kinh tế đối với đà điểu. Thứ nhất là bọ chét không chỉ làm cho đà điểu không được thoải mái mà còn làm xây xát da do đó làm giảm giá trị của da. Thứ hai, một số giống bọ chét là vật mang của loài trùng rận gây ra bệnh “phù tim”.

Cách điều trị và kiểm soát chung

Nói chung có thể làm giảm tối thiểu các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể bằng các phương pháp vệ sinh. Liệu pháp Ivermectin (ivoznec) có khả năng tiêu diệt rất tốt hầu hết các loại ký sinh trùng bên ngoài cũng như các loại ký sinh trùng bên trong cơ thể đà điểu nhờ tiêm dưới da liều lượng 0,2 mg/kg, mỗi tháng tiêm nhắc lại một lần trong vòng ba tháng. Nếu bị nhịễm bọ chét nặng thì dùng carbaryl 5 phần trăm rắc hai lần trong hai tuần sẽ rất hiệu quả.

Nguồn:

Kỹ thuật nuôi đà điểu từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi

Úm đà điểu con hay còn gọi là gột đà điểu là các kỹ thuật nuôi đà điểu từ lúc mới nở đến khi đà điểu con cứng cáp để có tỷ lệ sống cao nhất.

Chuồng nuôi gột

Nên chọn hướng có ánh nắng mặt trời, thoát nước tốt, mặt bằng cao ráo. Khu vực xung quanh yên tĩnh, tránh tiếng ồn như đường sắt, phi trường, nhà máy, đường ôtô… Nhà nuôi gột được thiết kế có chuồng kín nuôi úm và sân chơi đảm bảo diện tích như sau:

Tuổi đà điểu (ngày) Chuồng úm (m2/con) Sân chơi (m2/con)
1-30 0,3-0,5 2,0
30-60 0,7-1,3 3-3,5
60-90 1,5-2,0 4-6

Chuồng úm thông thoáng nhưng phải giữ được ấm. Sân chơi tốt nhất là thảm cỏ hoặc đất nền được nhật sạch các dị vật như mảnh thủy tinh, sợi kim loại, que nhọn… Có thể trải một lớp cát mỏng lên bề mặt sân chơi để đà điếu vận động tốt và hút ẩm các chất đà điểu bài tiết.

Đà điểu đang úm dưới bóng đèn nhiệt hồng ngoại

Thảm lót và chất độn chuồng

Từ 1- 2 tuần đầu nền nhà nuôi úm được lót bằng thảm mềm để đà điểu đi lại vững chắc và giữ ấm được phần bụng. Từ tuần thứ 3 trở đi dùng cát khô lót nền. Chức năng chạy của đà điểu rất quan trọng vì vậy khi nhốt ở nền cứng, trơn sẽ làm chân biến dạng, trật khớp dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao.

Máng ăn, máng uống

Máng ăn dùng bằng nhựa, cao su hoặc chậu sành, không dùng máng có góc cạnh nhọn sắc dễ gây chấn thương chân. Máng uống có thể dùng các chậu bằng sành, sứ, nhựa hoặc vật tương tự có bề mặt rộng để đà điểu thuận tiện khi uống bằng động tác ngậm nước đưa lên cao rồi mới nuốt.

Chọn đà điểu giống

Chọn đà điểu nở đúng ngày (ngày thứ 42 – 44), khoẻ mạnh không bị dị tật, nhanh nhẹn, mắt sáng, bụng gọn, khối lượng cơ thể đạt từ 0,8 – 1kg/con. Thức ăn và nuôi dưỡng

Tiêu chuẩn protein và năng lượng trong khẩu phần thức ăn tinh

Chỉ tiêu 0 -1 tháng tuổi  1-3 tháng tuổi
Protein (%) 21 19
ME (kcal) 2900 2800

Thức ăn nuôi đà điểu mới, không ôi mốc, tốt nhất sử dụng cám viên để đà điểu ăn không rơi vãi. Phương pháp cho ăn: cho ăn nhiều bữa trong ngày:

  • 1 – 30 ngày tuổi cho ăn 6 lần/ngày
  • 31 – 60 ngày tuổi cho ăn 4 lần/ngày
  • 61 – 90 ngày tuổi cho ăn 2 – 3 lần/ngày.

Có thể dùng riêng máng đựng thức ăn tinh và rau xanh. Trong những tuần đầu có thể trộn rau thái nhỏ với thức ăn tinh để đà điểu ăn được nhiều thức ăn tinh hơn. Đà điểu phát triền tốt có khả năng thu nhận thức ăn và đạt tăng trọng như sau:

Khả năng thu nhận thức ăn và khối lượng cơ thể

Tuần tuổi Khối lượng Thức ăn tinh (g/con/ngày)
Sơ sinh 0.85-0,90
1 roo 9,3
2 1,22 38,8
3 1,92 85,6
4 2,94 179,2
5 4,56 257,1
6 7,62 330,6
7 8,23 449,2
8 10,12 487,7
9 12,24 492,4
10 15,03 654,2
11 18,02 653,7
12 20,18 747,1
13 22,18 758,5

Thức ăn xanh gồm các rau mềm: xà lách, bắp cải, rau muống…

Lưu ý: tuần đầu khối lượng sơ sinh có khả năng giảm đến 10 ngày, giai đoạn này đà điểu sử dụng nguồn dinh dưỡng chú yếu là noãng hoàn, vì vậy nhu cầu thức ăn ăn vào không quan trọng bằng nước uống. Cả giai đoạn cho ăn thức ăn tinh tự do.

Giai đoạn 1 – 3 tháng tuổi rất quan trọng, kết quả nuôi tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác các lứa tuổi sau.

Chăm sóc và quản lý

Nhiệt độ và ẩm độ

Sau khi nở 24 giờ đưa đà điểu vào quây úm vì bộ lông lúc này chưa đầy đủ, điều hoà thân nhiệt kém nên phải giữ nhiệt cho nó. Ngoài ra trong bụng còn tích khối noãn hoàn lớn (253 – 350g) dễ bị lạnh khi nhiệt thấp hoặc chất độn chuồng không đủ dày, dẫn đến xơ cứng không tiêu hóa được, viêm nhiễm là nguyên nhân chính gây chết trong những ngày tuổi đầu. Vì vậy, giữ ấm trong giai đoạn gột úm là hết sức quan trọng. Khi úm luôn phải quan sát phản ứng của con vật với nhiệt độ. Nếu thấy nhiều con tránh xa khu vực lò sưởi (đèn) hay há miệng thở, cần giảm nhiệt độ xuống; ngược lại nếu nhiều con tập trung gần nơi phát nhiệt và những con ngoài rìa run run thì đó là nhiệt độ thấp cần phải tăng nhiệt lên. Khi đủ ấm đà điểu vận động mau lẹ hoặc nằm rải rác, ngủ ngon lành.

Tuần tuổi Nhiệt độ (°C) Ẩm độ tốt nhất (%)
Mới xuống chuồng 32-33 65-75
1 30-32 70-80
2 28-30 70-80
3 24-26 70-80
4 22-23 70-80
>5 22 70-80

Từ 1 tháng tuổi luyện cho đà điểu thích ứng dần với điều kiện ngoại cảnh. Ẩm độ chuồng gột giữ tốt nhất ở mức 65-75%

Ánh sáng – vận động

Ánh sáng và vận động phải phù hợp để kích thích đà điểu con ăn nhiều, tiêu hóa tốt, giảm bệnh tật, tăng trường nhanh. Nếu bên ngoài khí hậu tốt, ánh nắng đầy đù thì 20 ngày tuổi có thể cho đà điểu con ra ngoài sân chơi để vận động và tắm nắng. Thời gian thả tăng từ từ theo từng ngày và diện tích sân chơi cũng được mới rộng dần.

Một tháng thả tự do vận động khi thời tiết tốt, nhưng khi trời mưa, xấu thì phải nhanh chóng đưa chúng vào chuồng. Đà điểu không có tuyến nhờn ở phao cầu để bôi trơn lông vì vậy khi gặp mưa lông bị ướt, dẫn đến rét toàn thân, cảm lạnh.

Quy mô đàn

Để quan sát và chăm sóc đồng đều từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi nên bố trí 20 – 25 con/quây úm. Quy mô lớn hơn đà điểu hạn chế vận động, tăng trưởng chậm nếu gặp tác nhân hại đột ngột gây kích động làm chúng sợ hãi nháo nhác dẫm đạp lên nhau dễ gây chấn thương và các khuyết tật về chân.

Điều kiện yên tĩnh

Hệ thần kinh đà điểu rất nhạy cảm, dễ phát sợ kinh động khi có tiếng động lớn, đột ngột hoặc có người lạ mặt.

Lúc đó cả bầy dồn tụ lại một chỗ ngóc đầu lên cao, quay về bốn phía như đề phòng hiểm họa. Nếu có sự kinh động mạnh, cả bầy chạy toán loạn và có thể dẫm đạp lên nhau, đâm vào bất cứ chướng ngại vật nào dễ gây chấn thương, rách da hoặc gẫy cổ mà chết.

Đề phòng các vật lạ

Vì đà điểu là loại ăn tạp nên trong khu vực nuôi cần phải dọn sạch các vật như gạch, đá, mảnh thủy tinh, túi bóng hay các vật nhỏ nhọn sắc để tránh cho chúng ăn phải các thứ này, dễ gây tổn thương đường tiêu hoá.

Nguồn: Caytrongvatnuoi được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Bệnh do virus ở đà điểu

Bệnh do virus gây ra thường khó điều trị và có tỉ lệ chết cao trong thời gian ngắn. Hãy cùng Framtech VietNam tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh, trệu chứng và cách phòng bệnh do virus gây ra ở đà điểu.

1. Bệnh Niucatsơn

Bệnh Niucatxơn ở đà điểu cũng gây ra do các chủng virut Nuicatxơn cường độc. Thường các chủng virut này được thải ra từ các ở dịch Niucatxơn của gà, tồn tại và phân tán trong môi trường tự nhiên. Đà điểu ăn thức ăn, uống nước có virut Niucatxơn sẽ bị nhiễm virut và phát bệnh.

Đà điểu ở các lứa tuổi đều bị mắc bệnh Niucatxơn. Đặc biệt đà điểu non 1-4 tháng tuổi thường bị bệnh thể cấp tính. Đà điểu có các triệu chứng lâm sàng đặc trưng sau:

– Các triệu chứng về tiêu hoá: Đà điểu ỉa chảy, phân không thành khuôn, có nhiều dịch nhày do niêm mạc ruột bị tróc ra. Đà điểu thường đứng ủ rũ, bỏ ăn, uống nhiều nước. Do ỉa chảy làm mất nước và rối loạn các chất điện giải nên đà điểu non thường chết do kiệt sức sau thời gian bị bệnh 6-8 ngày.

– Các triệu chứng hô hấp: Đà điểu có dấu hiệu viêm đường hô hấp, liên tục chảy nước mũi, nước rãi, và đặc biệt thở khó dần. Các trường hợp đà điểu bị bệnh thể hô hấp cũng bị chết với tỷ lệ cao sau 10-15 ngày.

– Các triệu chứng thần kinh: Đà điểu có các cơn run rẩy, đi lại xiêu vẹo, ngoẹo đầu, mổ không trúng thức ăn. Các trường hợp bị bệnh nặng, đà điểu thường lên cơn co giật, lăn quay, rãy rụa, cuối cùng bị liệt chân và sẽ chết sau thời gian hành bệnh 7-10 ngày.

Hiện không có thuốc chữa đặc hiệu bệnh Nuicatxon cho đà điểu cũng như cho gà. Bệnh pháp quan trọng nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh Niucatxơn cho đà điểu:

– Đối với đà điểu non từ 7 ngày đến 45 ngày tuổi. Dùng vacxin Lasota nhỏ và mắt mũi hoặc chủng dưới da cánh cho đà điểu. Vacxin thường được pha theo tỷ lệ 1/200 với nước cất. Sau khi dùng vacxin 10-14 ngày, đà điểu non có miễn dịch chống lại virut Niucatxơn.

Sau 45 ngày được sử dụng vacxin Lasota, đà điểu cần phải tiêm chủng vacxin Nuicatxon hệ 1, cũng tiêm dưới da cánh với liều 0,20-0,30 ml/1 đà điểu bằng dung dịch vacxin pha với nước cất theo tỷ lệ 1/200. Vacxin sẽ tạo miễn dịch chắc chắn cho đà điểu và miễn dịch kéo dài 12 tháng.

– Đối với đà điểu trưởng thành: mỗi năm cần tiêm vacxin Niucatxơn cho chúng một lần vào cuối mùa thu chuyển sang đông.

Thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi trường nuôi đà điểu để tránh lây nhiễm mầm bệnh. Chuồng trại và môi trường cần định kỳ tiêu độc bằng các loại thuốc diệt trùng như Crêsyl- 2% hoặc nước vôi 10%.

Không nuôi gà trong khu vực chăn nuôi đà điểu để đà điểu không bị nhiễm virut Niucatxơn từ gà.

2. Bệnh đậu mùa

Nguyên nhân là do virus đậu (Fowl pox) gây nên. Virut truyền nhiễm qua không khí, côn trùng truyền bệnh (thường là giống muỗi Cules và Aides) hoặc do ăn phải các mảnh vảy da bị nhiễm virut (các vảy da khô bong ra từ các nốt loét của con khác). Thời gian ủ bệnh ở đà điểu từ sáu đến mười ngày.

Triệu chứng: Xuất hiện các mụn trên da nhất nơi khóe mắt, mũi, miệng. Các mụn này vỡ ra chảy nước và dễ bị nhiễm khuẩn gây mủ. Con vật ngứa ngáy khó chịu, nhiều con bị sốt, bỏ ăn.

Tỷ lệ chết của bệnh này thường thấp (15 phần trăm) và nguyên nhân chết chủ yếu là do con đà điểu không thể ăn được hoặc không thể lấy được thức ăn và nước uống.

Điều trị: Không có thuốc trị, chủ yếu dùng các chất tăng cường sức đề kháng như Vitamin C, ADE, đường Glucoza.  Các nốt lở loét có thể điều trị bằng dung dịch nitrat bạc trong bốn đến năm ngày để tránh bị nhiễm virut lại.

Phòng bệnh: Vệ sinh, khử trùng chuồng trại, tăng sức đề kháng cho đà điểu bằng các loại vitamin, điện giải, đường Glucoza, trách gây sốc cho con vật. Dùng vaccin đậu gà chủng qua da cánh liều lượng bằng 1.5 liều gia cầm. Cần diệt trừ muỗi gây bệnh.

3. Bệnh cúm

Nguyên nhân gây bệnh là do virut được gọi là virut “cúm gây bệnh dịch ở loài chim” (HPAI).

Các triệu chứng: Các triệu chứng lâm sàng của bệnh cúm ở loài chim rất khác nhau theo từng độ tuổi và thể loại virut nhiễm phải. Bệnh cúm này gây khả năng chết đột ngột cao, ngừng đẻ trứng hoàn toàn, có các triệu chứng về hô hấp, có tiếng ran khi thở, chảy quá nhiều nước mắt, viêm xoang, đầu và mặt bị phù nề, ỉa chảy và nước tiểu chuyển thành màu xanh.

Điều trị: hiện nay, bệnh cúm ở loài chim không thể chữa được và cũng không có văcxin để phòng bệnh. Phòng bệnh tất nhiên chỉ để hạn chế sự lây lan của bệnh.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tại sao thịt đà điểu có màu đỏ?

Tại sao thịt đà điểu lại đặc biệt?

Điều đầu tiên cần nhắc tới chính là mặc dù đà điểu là gia cầm nhưng thịt của chúng lại đỏ chứ không có màu trắng như hầu hết các loài chim khác. Hơn nữa, loại thịt đỏ này của đà điểu, tuy có màu sắc và mùi vị khá giống nhưng lại chứa ít chất béo, calo và cholesterol hơn thịt bò và thậm chí là cả những loại thịt gia cầm màu trắng khác như thịt gà và gà tây.

Trên thực tế, có một mối liên hệ mật thiết giữa loại cơ và các loại màu của thịt động vật. “Thịt đỏ” là loại thịt có màu đỏ trước khi nấu như thịt bò, thịt hươu và đà điểu. “Thịt trắng” thường có màu rất nhạt trước khi nấu và bao gồm thịt gà và thịt lợn. “Thịt đen” thường liên hệ với phần thịt đen hơn và có hàm lượng chất béo cao hơn ở loài động vật thịt trắng (như phần cánh và đùi gà). Thịt thỏ cũng được coi là “thịt đen”.

Yếu tố chính xác định xem thịt động vật là thịt trắng hay thịt đỏ là cơ của chúng thuộc loại cơ co nhanh hay cơ co chậm. Cơ co chậm thường được sử dụng nhiều trong các hoạt động kéo dài như đi bộ, đứng hoặc bay. Nó chứa rất nhiều myoglobin – loại protein dự trữ một lượng lớn oxy để hỗ trợ các hoạt động mang tính chất lâu bền. Cũng giống như bò, đà điểu dành phần lớn thời gian để đứng và đi bộ. Ngay cả phần cánh của chúng cũng hoạt động tương đối thường xuyên do đóng vai trò như “bánh lái”. Cơ của đà điểu chủ yếu là cơ co chậm nên thịt của chúng có màu đỏ.

Mặt khác, gà và gà tây không sử dụng cơ nhiều như đà điểu. Hầu hết khối lượng cơ của chúng là loại cơ co nhanh được sử dụng cho các hoạt động như nhảy nhanh. Cơ co nhanh không chứa nhiều myoglobin mà chủ yếu sử dụng glycogen nhạt màu. Vậy nên những loài động vật thuộc loại cơ co nhanh có thịt màu trắng nhạt.

Mặc dù vậy, vẫn tồn tại một ngoại lệ thú vị đó là “thịt đen” ở gia cầm. Các phần cơ thể hoạt động nhiều như chân (do gà đi lại thường xuyên) chứa nhiều myoglobin hơn phần ức của chúng. Chính vì vậy, thịt ở chân gà được xếp vào loại thịt đen chứ không phải thịt trắng như những bộ phận khác.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh về nấm ở đà điểu

Bệnh ở đà điểu do nấm tuy không nhiều nhưng người nuôi cần nắm rõ tác nhân và triệu chứng để nhận biết và có biện pháp kịp thời tránh lan rộng toàn đàn.

1. Bệnh nấm Aspergillosis

Nấm cúc nói chung là tác nhân gây bệnh về hô hấp cho đàn đà điểu. Bệnh thường do chủng nấm Aspergillus fumigatus gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh nấm Aspergillosis ở đà điểu nhỡ lại do chủng nấm A. flavus và A. niger gây ra, các bào tử nấm này có thể truyền qua rác rưởi hoặc thức ăn bị nhiễm mốc hoặc do hít phải các bào tử nấm trong khu vực ấp trứng bị nhiễm mốc.

Các triệu chứng: các triệu chứng lâm sàng xuất hiện từ độ tuổi ba tới tám tuần tuổi. Các triệu chứng của bệnh là mệt mỏi, biếng ăn, còi cọc và khả năng chết lên tới 50 phần trăm. Trái với giống chim khác, tuy bị tổn thương phổi rất nghiêm trọng nhưng ở đà điểu không thấy thể hiện bất cứ một triệu chứng lâm sàng nào của bệnh hô hấp thường gặp.

Điều trị: nỗ lực điều trị bệnh này nói chung là vô ích. Có thể pha dung dịch sunfat đồng (tỷ lệ 1:200) làm nước uống cho đà điểu để tránh cho bệnh khỏi lan rộng hơn. Cách hạn chế bệnh tốt nhất là loại trừ nguyên nhân gây bệnh, cần phải kiểm tra kỹ để loại trừ mốc trong các thùng đựng rác, thức ăn và nước uống, đồng thời phải khử trùng buồng ấp trứng bằng formalin (55 ml trong một cm³) và permanganat kali (35 g trong thể tích một cm³).

2.Bệnh nấm gây tưa

Bệnh này do chủng nấm Candida moniliformis gây ra. Ở đà điểu, thường phải điều trị lâu dài bằng thuốc kháng sinh. Nấm tác dụng tới nước dãi ở miệng và thực quản đà điểu gây biếng ăn, mất nước có khả năng gây chết.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.