Sử dụng thức ăn tươi trong nuôi trồng thủy sản: Những hệ lụy

Thời gian gần đây, thức ăn tươi phục vụ nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa khan hiếm, giá tăng cao khiến chi phí đầu tư nuôi cá, tôm và một số đối tượng khác tăng theo. Ngoài ra, việc sử dụng thức ăn tươi cũng để lại nhiều hệ lụy, gây ô nhiễm môi trường làm chết thủy sản nuôi.

Chi phí tăng

Mới đây, khi đến các vùng trọng điểm NTTS trên địa bàn tỉnh như: Cam Ranh, Cam Lâm, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Nha Trang, chúng tôi được các chủ bè nuôi cá, tôm hùm chia sẻ, thời gian gần đây, các loại thức ăn tươi khan hiếm, giá tăng cao, riêng giá cá tạp lên đến 12.000 đồng/kg (trước đây cao nhất chỉ 7.000 đồng/kg) khiến chi phí đầu tư đội lên, lợi nhuận sau khi xuất bán thủy sản không cao.

Giá thức ăn tăng cao khiến chi phí đầu tư nuôi trồng thủy sản của người dân tăng lên

Ông Lê Văn Minh, người nuôi cá chẽm ở xã Cam Thành Bắc (huyện Cam Lâm) cho biết: “Gia đình tôi nuôi 40.000 con cá chẽm trên 4 đìa nuôi, mỗi ngày cho ăn cả tấn thức ăn tươi. Mới đây, tôi xuất bán 1 đìa, sản lượng 10 tấn, giá bán 63.000 đồng/kg, thu được 630 triệu đồng, trong đó chi phí mua thức ăn từ khi thả giống đến khi thu hoạch đã mất 450 triệu đồng, tiền điện 50 triệu đồng, tiền giống 70 triệu đồng, tính ra cả vụ nuôi tôi chỉ lãi vài chục triệu đồng. Nếu giá thức ăn không tăng cao như hiện nay thì lợi nhuận sẽ cao hơn”.

TP. Cam Ranh hiện nay có gần 30.000 lồng bè, trong đó có 20.000 lồng nuôi tôm hùm, số còn lại là nuôi cá bớp, cá mú… Mỗi ngày, lượng thức ăn tươi phục vụ NTTS tại địa phương này lên đến hàng trăm tấn. Có mặt tại bến thuyền phục vụ NTTS tại lăng Ông Nam Hải (phường Cam Phúc Bắc, TP. Cam Ranh), chúng tôi được bà Nguyễn Thị Bốn, người chuyên cung cấp thức ăn tươi cho các bè nuôi cá ở địa phương cho biết: “Tại khu vực này có 3 vựa bán thức ăn tươi cho các bè nuôi cá, mỗi ngày tiêu thụ khoảng 10 tấn cá tạp các loại. Thời gian gần đây, do các ghe giã cào trong tỉnh khai thác đạt sản lượng thấp nên thức ăn cho thủy sản chủ yếu mua từ Bình Thuận, Ninh Thuận. Chất lượng cá tạp lúc tốt, lúc xấu và giá tăng cao hơn trước đến 30 – 40%. Tuy nhiên, để duy trì nghề nuôi, người dân vẫn chấp nhận. Hiện tại, hàng chục điểm bán thức ăn tươi ven vịnh Cam Ranh đều chung tình trạng này”.

Hiện nay, tuy đã có thức ăn công nghiệp phục vụ cho các đối tượng NTTS nhưng chỉ có người nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng và một số ít hộ nuôi cá sử dụng, còn lại các hộ nuôi cá bớp, cá chim, tôm hùm, ốc hương, cá mú, cá chẽm… vẫn dùng thức ăn tươi là các loại cá tạp, sò, tôm loại nhỏ… Ông Phan Tấn Tý, người nuôi cá bớp ở xã Ninh Ích (thị xã Ninh Hòa) cho biết: “Một số hộ nuôi cá ở vịnh Vân Phong đã chuyển sang sử dụng thức ăn công nghiệp. Tuy loại thức ăn này có nhiều ưu điểm về chất lượng, song chi phí cao hơn khoảng 30%, trong khi giá bán thủy sản không tăng nên nhiều hộ nuôi chọn sử dụng thức ăn tươi”.


Nhìn chung giá của thức ăn tươi sống rẻ hơn so với thức ăn công nghiệp

Những hệ lụy

Một thực tế hiện nay, khi thức ăn tươi khan hiếm, các loại cá tạp không đảm bảo chất lượng từ các địa phương khác cũng được đưa về để phục vụ NTTS trên địa bàn tỉnh. Điều này đã để lại nhiều nỗi lo cho người nuôi. Một trong những nguyên nhân khiến thủy sản nuôi trên địa bàn tỉnh chết ở nhiều vùng nuôi từ giữa năm 2016 đến nay một phần là do thức ăn không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng.

Một hệ lụy khác, việc sử dụng thức ăn tươi không đảm bảo chất lượng gây ô nhiễm nguồn nước vùng nuôi. Theo thống kê của Chi cục Thủy sản, toàn tỉnh có 9.893ha NTTS, trong đó có 1.200ha nuôi thủy sản nước ngọt, gần 5.000ha nuôi thủy sản nước lợ, nuôi mặt nước ven biển khoảng 3.785ha. Riêng cá bè có khoảng 4.500 lồng, tôm hùm khoảng 25.000 lồng. Với diện tích nuôi lớn như vậy, lượng thức ăn hàng ngày cho thủy sản nuôi toàn tỉnh rất lớn. Trong khi đó, việc người dân không theo dõi kỹ khả năng bắt mồi của đối tượng nuôi, cho thừa thức ăn đã tác động lớn đến môi trường vùng nuôi. Đó là chưa kể thức ăn không đảm bảo chất lượng còn gây ra dịch bệnh khiến thủy sản nuôi bị chết.

Theo ông Nguyễn Ngọc Sơn – Phó Chủ tịch UBND TP. Cam Ranh, hiện nay, nhiều vùng NTTS ven vịnh Cam Ranh đã bị ô nhiễm nặng, lớp bùn tích tụ lâu ngày từ NTTS và một số hoạt động khác có nơi lên đến gần 0,5m. Đó là chưa kể việc người nuôi vứt bừa bãi các túi ni lông đựng thức ăn khiến những thứ này trôi dạt khắp nơi, tấp vào bờ gây ô nhiễm. Từ thực tế trên, bà Trần Thanh Thúy – Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y khuyến cáo, người dân nên chuyển sang sử dụng một phần thức ăn công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường; đối với thức ăn tươi cần chọn cá tươi, bảo quản đúng cách để đảm bảo chất lượng. Trong quá trình nuôi, cần chú ý theo dõi tình trạng hoạt động, mức độ bắt mồi của đối tượng nuôi để tránh cho thừa thức ăn, gây lãng phí và ô nhiễm môi trường vùng nuôi.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Hoạt động nuôi trồng thủy sản đang phát triển khá mạnh, cùng đó là quá trình phát sinh các nguồn chất thải rắn, lỏng, khí gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Làm thế nào để đảm bảo môi trường nuôi an toàn là vấn đề bức xúc cần có giải pháp tháo gỡ kịp thời.

Nuôi thủy sản kết hợp giúp giảm ô nhiễm môi trường

Xử lý các chất ô nhiễm

Một lượng lớn các chất dinh dưỡng trong thức ăn tôm, cá không được hấp thụ vào cơ thể để tạo sinh khối mà bị thải ra ngoài môi trường xung quanh dưới dạng thức ăn dư thừa, phân và chất thải, là nguồn gây ô nhiễm chính cho môi trường.

Hệ thống xử lý: Cần đầu tư hệ thống xử lý nước thải ao nuôi trước khi xả ra môi trường. Diện tích ao xử lý nước thải tối thiểu bằng 30% diện tích ao nuôi. Bùn thải trong nuôi thủy sản phải có khu chứa riêng trong cơ sở nuôi, hay có phương án xử lý phù hợp như: Bồi đắp nền nhà, tôn cao bờ đê, san lấp mặt bằng… Tránh tình trạng bơm bùn thải trực tiếp ra các kênh rạch, dẫn đến tình trạng ô nhiễm hữu cơ, để lại dư lượng hóa chất trong đất, nước và gây ra tình trạng bồi lắng các kênh rạch trong vùng nuôi.

Dùng chế phẩm sinh học: Vi sinh vật nói chung và vi khuẩn nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình luân chuyển vật chất như phân hủy các chất hữu cơ, chuyển đổi các hợp chất vô cơ từ dạng này sang dạng khác. Do đó, cần đưa các vi sinh vật có lợi như vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm men vào trong ao nuôi giúp phân giải lượng lớn thức ăn dư thừa cũng như các chất thải trong quá trình nuôi. Trên thực tế, có rất nhiều chế phẩm sinh học đã và đang được sử dụng hiệu quả trong nuôi tôm nước lợ ở Việt Nam.

Nuôi trồng kết hợp: Sử dụng một số động vật thân mềm hai mảnh vỏ, rong biển, một số loài cá có khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa từ các ao nuôi tôm thâm canh. Cụ thể, Châu Minh Khôi và cộng sự (2012) đã nghiên cứu khả năng xử lý các chất thải dinh dưỡng dư thừa trong nước thải ao nuôi cá tra thâm canh bằng cây lục bình (Eichhorina crassipes) và cỏ Vetiver (Vetiver zizanioides). Kết quả nghiên cứu cho thấy, lục bình và cỏ Vetiver có khả năng hấp thụ các chất thải dinh dưỡng dư thừa và làm giảm 85 – 88% N và 99 – 100% P hữu cơ trong nước thải của ao nuôi cá tra sau 4 tuần. Tiếp đó, Nguyễn Văn Trai (2013) đã nghiên cứu thử nghiệm dùng vọp (Geloina coaxans) và hàu (Crassostrea sp.) để xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, với các bể xử lý bằng vọp (kích cỡ 37 + 6,6 g, mật độ 60 con/m3, cấp nước thải từ các ao nuôi tôm, sục khí liên tục rất hiệu quả trong việc hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa, thể hiện qua việc giảm hàm lượng các thông số COD (92,7%), TSS (81,8%), TN (82,4%) và TP (89%) trong mẫu nước sau khi xử lý.

Sử dụng bùn ao làm phân hữu cơ phục vụ nông nghiệp: Nhiều hộ nuôi ở vùng ĐBSCL đã và đang sử dụng bùn đáy ao nuôi cá tra thâm canh để bơm cho các khu cây trồng như ruộng lúa, vườn cây, làm giảm ô nhiễm môi trường và tăng năng suất và lợi nhuận thu được từ các vườn cây, ruộng lúa. Hình thức này càng được nhiều người dân ủng hộ, áp dụng hiệu quả. Tuy nhiên, cần có quy hoạch tổng thể lại vùng nuôi cá tra và vùng đất nông nghiệp, hệ thống thủy lợi cũng như xem xét các cây trồng, mùa vụ hợp lý để thúc đẩy mô hình này phát triển. Trương Quốc Phú và cộng sự (2012) đã tiến hành xử lý bùn đáy ao nuôi cá tra thâm canh để sản xuất phân hữu cơ bón cho cây trồng và kết quả bước đầu đáng ghi nhận.

Thực hành tốt quy trình

Trong công tác quản lý môi trường cần kiểm tra, giám sát định kỳ đối với các tổ chức, cá nhân; thường xuyên tuyên truyền, vận động các hộ nuôi cam kết thực hiện đúng theo quy định. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất giống, nuôi thủy sản thương phẩm áp dụng thực hành hình thức nuôi tốt, nuôi có tránh nhiệm (GAP, VietGAP, GlobalGAP, BAP), Biofloc, nuôi an toàn sinh học không sử dụng hóa chất, kháng sinh… nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường nuôi xung quanh.

Giám sát, quan trắc môi trường

Việc giám sát, quan trắc môi trường vùng nuôi cũng góp phần không nhỏ nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường. Chủ cơ sở nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm theo dõi, giám sát môi trường tại cơ sở nuôi trồng thủy sản; thu thập, ghi chép đầy đủ các số liệu, thông tin có liên quan và kịp thời cung cấp thông tin, số liệu về môi trường khi có yêu cầu. Cùng đó, áp dụng các biện pháp xử lý, phòng ngừa, khắc phục theo hướng dẫn của cơ quan quản lý yêu cầu.

Nâng cao ý thức người dân

Chấp hành nghiêm luật môi trường là giải pháp lâu dài và bền vững cho môi trường nói chung và môi trường nuôi trồng thủy sản nói riêng. Người nuôi hạn chế lạm dụng thuốc và hóa chất trong kiểm soát bệnh tôm, xử lý nước, xử lý đáy ao. Giám sát chặt chẽ việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường trên toàn quốc. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của hộ nuôi, chủ cơ sở nuôi về bảo vệ môi trường thông qua tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức nỗ lực ngăn chặn, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Khánh Hòa: rau câu chỉ được mùa, được giá.

Khánh Hòa: rau câu chỉ được mùa, được giá
Năm nay, rau câu chỉ được mùa, được giá đã giúp nhiều gia đình ở một số xã của huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) tăng thu nhập.

Được mùa rau câu chỉ

Phơi rau câu chỉ ở Cam Hải Tây.

Hiện nay, tuy là thời điểm cuối vụ thu hoạch rau câu chỉ nhưng đi dọc bờ đầm Thủy Triều, không khó bắt gặp cảnh người dân đang khai thác rau câu. 11 giờ trưa, trời nắng gắt, nhiều hộ vẫn miệt mài phơi rau câu. Ông Hoàng Tuấn Phương (thôn Bắc Vĩnh, xã Cam Hải Tây) phấn khởi nói: “Trước đây, tôi làm phụ hồ cho các công trình nhưng thu nhập khá bấp bênh. Mấy tháng nay, thấy nhiều người khai thác rau câu chỉ mang lại thu nhập khá nên tôi chuyển sang nghề này. Rau câu chỉ xuất hiện tự nhiên ở đầm Thủy Triều. Tôi chỉ bỏ ra khoảng 1 triệu đồng làm bè, mua vợt… để vớt. Mỗi ngày, vợ chồng tôi khai thác được 10 tạ rau câu tươi, phơi khô còn được 2 tạ. Với giá bán 4.800 đồng/kg, trừ chi phí, tôi kiếm được gần 1 triệu đồng. Điều đáng mừng là thu hoạch tới đâu, người ta mua hết tới đó”.

Có thâm niên hơn 20 năm khai thác rau câu, vợ chồng ông Trần Văn Khương (thôn Văn Tứ Đông, xã Cam Hòa) xem nghề này là nghề chính để mưu sinh. Ông Khương cho biết: “Vợ chồng tôi khai thác ngày nhiều nhất được 4 tạ rau câu khô, ngày ít khoảng 1,8 tạ, tăng khoảng 30% so với năm ngoái. Rau câu chỉ dễ nuôi nên sau mỗi mùa thu hoạch tôm (khoảng tháng 10 âm lịch), tôi bắt đầu thả xen canh rau câu trong đìa, vài tháng có thể thu hoạch. Với diện tích 5ha, tôi đã thu 9 tấn rau câu khô”.

Theo ông Nguyễn Minh Tâm – Chủ tịch Hội Nông dân xã Cam Hải Tây, toàn xã có hơn 30 hộ khai thác rau câu chỉ ở đầm. Trong đó, tập trung ở thôn Bắc Vĩnh và Tân Hải. Đa số những người làm nghề này thường đánh bắt cá trên đầm hoặc không có việc làm ổn định. Năm nay, mưa nhiều nên rau câu phát triển nhiều hơn năm ngoái. Với giá bán 4.800 – 5.000 đồng/kg khô (cao hơn 1.500 đồng/kg so với năm trước), một người khai thác rau câu chỉ có thể kiếm được vài trăm nghìn đồng/ngày. Tuy nhiên, nghề này chỉ khai thác được 5 – 6 tháng, trong đó tập trung từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch…

Rau câu chỉ khô

Được biết, các hộ khai thác rau câu chỉ tập trung chủ yếu ở các xã: Cam Hải Tây, Cam Hòa, Cam Thành Bắc và ven đầm Thủy Triều. Rau câu chỉ có sợi mảnh như sợi chỉ, vớt lên phải phơi từ 1 đến 2 nắng cho khô rồi mới bán. Mặt hàng này tiêu thụ ở Bình Định, Hải Phòng và một số tỉnh khác. Bà Nguyễn Thị Nga – người chuyên thu mua rau câu hơn 10 năm ở xã Cam Hòa cho biết, rau câu chỉ dùng làm thạch rau câu, nước giải khát… Thời gian qua, nhiều người đến các điểm thu mua để đặt hàng với số lượng lớn. Từ tháng Giêng đến nay, bà thu mua hơn 5 – 6 tấn rau câu khô/ngày. Số lượng người đi khai thác rau câu chỉ cũng nhiều hơn gấp đôi so với năm trước. Mặt khác, năm nay, do các tỉnh khác mất mùa rau câu chỉ nên giá bán cao hơn so với năm ngoái.

Theo khuyến cáo của lãnh đạo Trạm Khuyến công – nông – lâm – ngư huyện Cam Lâm, người dân không nên khai thác rau câu chỉ quá mức, chỉ nên khai thác đúng thời điểm nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Bên cạnh đó, người dân nên nuôi xen canh rau câu chỉ trong các đìa để đảm bảo ổn định môi trường sinh thái vùng nuôi.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Trồng trái cây trong nhà kính ở Khánh Hòa

Kim Kim Hoa là trang trại đầu tiên ở Khánh Hòa có mô hình trồng cây ăn trái trong nhà lưới. Đây cũng là trang trại do một phụ nữ còn trẻ làm chủ – đó là chị Nguyễn Kim Hoa, người đã có sáng kiến, ý tưởng và quyết tâm dám nghĩ dám làm để biến vùng đất khô cằn thành một trang trại bạt ngàn cây ăn trái trĩu quả quanh năm, được trồng theo phương thức hoàn toàn sạch…

Nhà kính được đầu tư kỹ lưỡng

Khi bưởi, xoài vào… nhà kính

Nằm ở thôn Xuân Tây (xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa), cách Quốc lộ 1 khoảng hơn 1,5km, trang trại Kim Kim Hoa giống như một công viên xanh khi được quy hoạch thành từng khu như bàn cờ, có xe điện đưa khách đi tham quan rất tiện lợi. Trang trại rộng hơn 20ha, trồng 2.000 gốc xoài Tứ quý và xoài Úc cùng với hơn 3.000 gốc bưởi da xanh và bưởi đường cho thu hoạch quanh năm. Điểm đặc biệt là xoài và bưởi ở đây được trồng trong nhà kính, có hệ thống tưới nước sạch, không dùng thuốc hóa học khi cây đậu quả. Hiện nay, trang trại đã đầu tư 2 nhà kính với kinh phí tiền tỷ, mỗi nhà kính có diện tích 5.000m2. Chị Kim Hoa cho biết: “Làm nhà kính đòi hỏi kinh phí lớn nhưng bù lại quy trình trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật, tránh được tác động xấu của môi trường, cây cho trái chất lượng và hoàn toàn sạch. Trang trại cũng đang phát triển thương hiệu bưởi da xanh Vạn Hưng với giống bưởi cho trái to, vỏ mỏng, cùi dày, thơm ngon. Xoài Tứ quý và xoài Úc cũng vậy, được chăm bón kỹ nên chất lượng tốt, ra trái quanh năm, được nhiều khách hàng ưa chuộng”.

Một góc trang trại Kim Kim Hoa

Đi giữa trang trại xanh, ngắm nhìn những gốc bưởi, xoài trái sai lúc lỉu, chúng tôi thật sự mãn nhãn và khâm phục cách làm khoa học của chị Kim Hoa – người đã thấy được tiềm năng của vùng đất Vạn Hưng và đeo đuổi dự án này. Trải qua nhiều khó khăn, giờ đây chị đã xây dựng được một trang trại sạch đúng nghĩa. Hiện tại, nông sản trang trại làm ra không đủ cung ứng cho thị trường nên dù đã có 2 doanh nghiệp nước ngoài đề nghị xuất khẩu nhưng chị vẫn chưa dám nhận bởi đối tác nước ngoài yêu cầu nguồn hàng lớn và ổn định. Do vậy, trước mắt, nông sản của trang trại vẫn chỉ tiêu thụ tại các trung tâm cung ứng nông sản sạch ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số khu nghỉ dưỡng, khách sạn cao cấp tại Nha Trang. Chị Hoa còn cất công tìm những loại giống cây ăn trái ngon, lạ, sản lượng cao để nhân giống và phát triển như: thanh long ruột đỏ, cam xoàn, mít ruột đỏ, ổi không hạt… Không chỉ vậy, ngoài cây ăn quả, hàng nghìn cây gỗ quý như: thiên ngân, gõ đỏ, lát hoa, gió bầu… đã cao lớn và được những bụi tiêu leo bám từ gốc đến ngọn cũng sẽ là nguồn thu rất lớn từ trang trại này. Đưa những loại cây này vào trang trại cũng là cách để chắn gió và tạo rừng bởi theo chị Hoa, rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường, có sự liên quan mật thiết với cuộc sống của con người. “Thời gian gần đây, đồng bào miền Trung thường chịu cảnh thiên tai lũ lụt, mình thấy xót xa lắm, suy cho cùng nguyên nhân sâu xa cũng do vấn đề chặt phá rừng bừa bãi. Bởi vậy, tôi muốn vừa trồng cây ăn trái vừa trồng rừng, làm kênh thoát lũ với mục đích là bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái…”, chị Hoa chia sẻ.


Những căn nhà chòi thơ mộng bên bờ ao.

Phát triển du lịch nhà vườn

Tham quan trang trại Kim Kim Hoa, nhiều người có cảm giác như đang đi du lịch nhà vườn ở miền Tây khi được thỏa thích ngắm vườn cây trái sai trĩu quả, được hái trái và thưởng thức bưởi, xoài tươi ngon… ngay tại chỗ. Ý tưởng làm trang trại kết hợp với phát triển du lịch nhà vườn cũng đang được chị Kim Hoa xây dựng và dần hoàn thành khi chị đang đầu tư thêm nhiều hạng mục phục vụ cho nhu cầu của khách. Bên những chòi gỗ dựng sát ao xanh, du khách có thể câu cá thư giãn, nghỉ ngơi sau khi đi tham quan vườn cây ăn trái. Điều khiến du khách thích thú nhất có lẽ là tự mình thu hoạch, tận tay hái những trái bưởi da xanh căng bóng, những trái xoài to hay những quả thanh long chín mọng… trong vườn. Những trải nghiệm làm vườn và thưởng thức nông sản sạch sẽ làm cho du khách thêm yêu nơi này khi được hòa mình vào thiên nhiên, hòa mình với không khí làm việc, vun trồng, chăm bón từng gốc cây của những người làm vườn…

Xoài và bưởi vừa mới thu hoạch

Chị Kim Hoa chia sẻ thêm: “Tôi nhận thấy rất nhiều du khách có nhu cầu thích khám phá mô hình nhà vườn như thế này. Bởi vậy, nhà vườn Kim Kim Hoa trong tương lai gần sẽ có đầy đủ những yếu tố đáp ứng thị hiếu khách hàng mà vẫn giữ được nét độc đáo của trang trại sạch. Hiện tại, tôi đã làm việc với một số công ty lữ hành ở Nha Trang về kế hoạch kết hợp dẫn tour đến trang trại”. Có thể thấy tâm huyết của người phụ nữ này khi chị dồn hết sức vào dự án làm tour du lịch vườn. Theo chị, đó không đơn thuần chỉ giới thiệu cho du khách biết về trang trại Kim Kim Hoa mà còn để mỗi người sẽ được truyền cảm hứng lao động, sự sáng tạo khi được tận mắt chứng kiến cả một vùng đồi núi khô cằn năm nào giờ đã là một trang trại xanh và sạch. Điều đó chứng tỏ khi có sức mạnh và niềm tin, dám nghĩ dám làm, không gì là không thể thực hiện được. Giống như chị Kim Hoa – từ một kỹ sư xây dựng rẽ ngang vào lĩnh vực nông nghiệp nhưng đã thành công từ mô hình này, bắt đầu từ quyết tâm phải tạo ra nông sản sạch cho người Việt, vì người Việt.


Du khách thích thú tham quan vườn bưởi da xanh

Tết này, những quả bưởi, xoài… mang thương hiệu Kim Kim Hoa lại tỏa đi khắp mọi vùng, mọi miền, mang hương vị ngọt ngào đến mọi nhà. Sẽ là niềm tự hào của người dân Vạn Hưng khi trái cây của vùng đất này đã và đang dần trở thành thương hiệu được nhiều người ưa chuộng. Và cũng không lâu nữa, trang trại Kim Kim Hoa sẽ trở thành một điểm đến thú vị – nơi có thiên nhiên hiền hòa, cảnh vật thơ mộng và những vườn cây trái sum suê, cho trái ngọt bốn mùa…

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Khánh Hòa: Phấn đấu hoàn thiện đúng lộ trình chương trình Nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia Nông thôn mới (NTM) tại Khánh Hòa đang gặp không ít khó khăn, nhưng với sự nỗ lực từ nhiều phía, 9 xã đăng ký đạt chuẩn năm 2017 đang hoàn thiện nốt những phần việc cuối cùng để về đích theo đúng lộ trình vào tháng 11/ 2017.

Thu hoạch lúa ở Cam Lâm – Khánh Hòa.

Theo kế hoạch, 9 xã đăng ký đạt chuẩn NTM năm 2017 gồm: Vạn Phú, Xuân Sơn (huyện Vạn Ninh), Ninh Bình, Ninh Đông, Ninh Hưng (thị xã Ninh Hòa), Diên Toàn, Diên Hòa (huyện Diên Khánh), Cam Hiệp Bắc, Cam Hòa (huyện Cam Lâm). Tính đến tháng 8/2017, hầu hết các hạng mục đầu tư xây dựng cơ bản đã được 9 xã này hoàn thành hoặc sắp hoàn thành. Tất cả các xã đã đạt những tiêu chí quan trọng và khó như thu nhập, hộ nghèo, tạo nền móng cho mục tiêu nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân NTM.

Ở các hạng mục đầu tư xây dựng cơ bản, hay còn gọi là các tiêu chí “cứng”, xã Vạn Phú dự kiến đến cuối tháng 9, công trình trường học và cơ sở vật chất văn hóa của xã sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng, hoàn tất 19/19 tiêu chí. Tương tự ở xã Xuân Sơn, công trình trường học cũng đang được gấp rút hoàn thiện để có thể đưa vào sử dụng vào đầu tháng 10. Còn tại Ninh Đông, công trình hạ tầng thương mại nông thôn (chợ) và công trình thuộc lĩnh vực cơ sở vật chất văn hóa cũng đang được thi công và hoàn thành trong năm 2017.

Tại xã Cam Hòa, các hạng mục công trình thuộc lĩnh vực giao thông, trường học, cơ sở vật chất văn hóa đều đang được đẩy nhanh tiến độ thi công, quyết tâm hoàn thành sớm. Riêng 2 xã Ninh Hưng và Cam Hiệp Bắc, ngoài các công trình đang thi công, 2 xã này đang chờ kinh phí tỉnh cấp hỗ trợ khoảng 3,37 tỷ đồng để đầu tư cứng hóa 3 tuyến đường nội đồng. Về vấn đề này, trong cuộc họp Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia tỉnh ngày 6/9 vừa qua, đồng chí Lê Đức Vinh – Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Kế hoạch – Đầu tư khẩn trương phân bổ kinh phí cho 2 xã này hoàn thành đầu tư xây dựng các tuyến giao thông đạt chuẩn.

Như vậy, đến thời điểm này các hạng mục đầu tư xây dựng cơ bản của 9 xã đăng ký đạt chuẩn trong năm 2017 đã cơ bản hoàn tất. Hiện nay, chính quyền các cấp và các sở, ngành đang tập trung hoàn thiện các tiêu chí như: y tế, hệ thống chính trị. Đây là những chỉ tiêu “mềm” trong chương trình xây dựng NTM, không đòi hỏi quá nhiều vốn đầu tư.

Theo ông Huỳnh Quang Thành – Phó Chánh văn phòng điều phối Chương trình NTM tỉnh, so với trước đây, các tiêu chí xây dựng NTM hiện nay có mức độ cao hơn, khó hơn. Chẳng hạn, ở chỉ tiêu tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trong tiêu chí y tế, trước đây yêu cầu từ 70% trở lên, bước sang năm 2017 đòi hỏi phải đạt từ 85% trở lên. Đặc biệt, các xã đang gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn thành chỉ tiêu phải có ít nhất 1 nữ lãnh đạo chủ chốt ở cấp xã trong tiêu chí hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật.

Trong số 9 xã đặt mục tiêu đạt chuẩn trong năm 2017, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế của Xuân Sơn mới đạt 81%, Ninh Đông 82,2% và Ninh Hưng 81,4%. Từ nay đến cuối năm, 3 xã này sẽ tập trung tuyên truyền, vận động để nâng cao tỷ lệ này lên ít nhất 85%. Có 3 xã chưa có cán bộ nữ giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt theo quy định gồm: Ninh Bình, Ninh Đông và Diên Hòa. Ngoài ra, còn một số xã có cán bộ chưa đạt chuẩn chuyên môn. Theo các xã này, việc quy hoạch cán bộ cần có thời gian, trong khi quy định chuẩn NTM trước đây và bây giờ thay đổi đột ngột, khiến các xã trở tay không kịp. Một số xã đã quy hoạch nữ cán bộ vào chức vụ chủ chốt cấp xã, nhưng trong quá trình bầu cử các vị trí này không trúng cử, nên rất khó hoàn thành tiêu chí số 18.

Như vậy có thể thấy, 9 xã đăng ký đạt chuẩn NTM trong năm 2017 đều đã hoàn thành hầu hết các tiêu chí theo quy định. Chỉ còn một số chỉ tiêu cũng đã được UBND tỉnh, các sở, ngành và chính quyền địa phương tập trung hoàn thiện, quyết tâm đến tháng 11 năm nay, 9 xã này sẽ được UBND tỉnh ra quyết định công nhận đạt chuẩn NTM.

Nguồn: baomoi được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Những Việc Cần Làm Khi Nuôi Tôm Vào Mùa Mưa

Các yếu tố ở môi trường ao nuôi dễ thay đổi đột ngột mỗi khi vào mùa mưa khiến tôm dễ bị sốc và phát sinh dịch bệnh. Vì vậy, người nuôi cần xử lý và có biện pháp chăm sóc phù hợp cho tôm ở thời điểm này.

Quản Lý Thức Ăn

Người nuôi cần chú ý khi trời mưa cần phải giảm lượng thức ăn cho tôm.

Nên tránh lượng thức ăn dư thừa trong ao bởi thức ăn thừa sẽ khiến pH nước ao giao động mạnh và thường gây ra hiện tượng tôm đóng rong, lục tảo phát triển mạnh.

Mật Độ Thả Thích Hợp

Trong mùa  mưa việc nuôi thả tôm cần tránh mật độ dày, nên thả với mật độ vừa phải (<25 con/ m2), vì:

  • Mùa mưa hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp.
  • Các yếu tố môi trường dễ biến động ( độ pH, độ kiềm, độ mặn…)

 Ao Nuôi

– Người nuôi tôm có thể nuôi thay đổi ao sau từng vụ.

– Cần cung cấp nước đầy đủ khi cần thiết.

– Việc xử lý và lắng nước cần thực hiện theo đúng quy trình.

Tăng Cường Hệ Thống Quạt Nước, Oxy Đáy Ao

–  Các chuyên gia thủy sản cho rằng cứ 1 cánh quạt cung cấp đầy đủ oxy cho 2.800 con tôm từ lúc mới thả đến khi thu hoạch.

– Người nuôi cần lắp cánh quạt theo đúng yêu cầu kỹ thuật:

+ Để mùn bã hữu cơ được gom vào giữa thì khi vận hành quạt nước phải được xoáy vào giữa ao.

+ Vận tốc của guồng quạt phải đạt từ 80-85 vòng/ phút.

+ Cách thử: Có thể đổ xuống ao từ 5-10 kg saponin, sau đó cho quạt chạy, nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng.

– Tăng cường hệ thống oxy đáy ao nếu có thể.

– Người nuôi cần làm hệ thống lưới đáy ao giúp hạn chế phù sa và tăng thêm diện tích cho tôm ở.

Tăng Cường Bón Vôi Trong Ao Nuôi

Trong ao nuôi pH luôn phải đạt từ 7,5-8,5, sau khi mưa một lượng a-xít trong nước mưa sẽ làm pH giảm xuống và có thể gây sốc cho tôm, do đó:

– Để giúp tôm không bị sốc sau khi mưa cần bón vôi bổ sung cho ao nuôi (tùy theo độ pH để bón).

– Để tránh hiện tượng phân tầng nước, người nuôi cần chú ý kết hợp quạt nước.

– Trước khi có dấu hiệu của những cơn mưa cần rải vôi dọc bờ ao.

 Giải Quyết Nước Đục Trong Ao

– Nước trong ao đục chủ yếu do hạt sét gây nên. Tuy không gây ảnh hưởng trực tiếp cho tôm nhưng gây ra một số ảnh hưởng sau:

+ Làm tảo không quang hợp được dẫn đến thiếu oxy trong ao, hàm lượng CO2 quá cao làm tôm ngạt thở.

+ Tôm hay bị sưng hoặc vàng mang do phù sa bám vào.

– Để khắc phục hiện tượng nước đục sau khi mưa, có thể sử dụng 1 trong những cách sau đây để giải quyết cho ao 5.000m3 nước:

+ Dùng 125kg rơm khô thả dọc bờ ao và kết hợp 10 kg BLUEMIX. Rơm được bó thành từng bó khoảng 3-5 kg thả xuống ao, khi thấy nước tiết ra có màu đỏ thì vớt lên và lặp lại 2-3 lần.

+ Dùng 150 kg thạch cao, nếu sau 2 lần đánh mà nước vẫn chưa trong thì nên tăng nồng độ ở lần thứ 3. Chú ý trước khi sử dụng thạch cao phải nâng độ kiềm của ao lên 100 ppm rồi mới sử dụng.

Sau khi sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên mà không có hiệu quả thì chúng ta sử dụng phương pháp sau:

+ Dùng sun-phát nhôm Al2(SO4)3.14 H2O với liều lượng 50 kg. Khi sử dụng phương pháp này chú ý phải tăng pH và độ kiềm của ao .Đây là biện pháp cuối cùng, chỉ sử dụng khi không còn làm được cách khác vì rất nguy hiểm.

Khi nước đã giảm đục cần phải gây màu nước bằng cách dùng BLUEMIX với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước.

 Thường Xuyên Kiểm Tra Hoạt Động Của Tôm Và Môi Trường Nước Sau Mưa

– Người nuôi cần kiểm tôm nuôi (các đặc điểm hình dáng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…)

– Kiểm tra các yếu tố môi trường ao như:  pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn.

Mô hình chăn nuôi gà thịt trên nền đệm lót sinh học

Để góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2015-2020 và làm phong phú, đa dạng thêm giống gà nuôi trong tỉnh, năm 2017 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái đã phối hợp với UBND xã Phú Thịnh, huyện Yên Bình xây dựng mô hình “Chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái”.

Mô hình có quy mô 400 con được thực hiện tại hộ ông Mai Xuân Vinh ở thôn Thanh Bình, xã Phú Thịnh, huyện Yên Bình với hình thức hỗ trợ 100% con giống và 50% vật tư (thức ăn, vắc-xin, hóa chất sát trùng, chế phẩm xử lý mùi hôi…).

Sau 3 tháng thực hiện mô hình, hộ thực hiện đã áp dụng các chỉ tiêu kỹ thuật được tập huấn về chăn nuôi gà thịt Minh Dư trên đệm lót sinh thái. Gà thịt giống Minh Dư được mua tại Công ty TTHH giống gia cầm Minh Dư ở thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước,tỉnh Bình Định. Gà giống khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lông bông, bụng gọn, không khèo chân, không vẹo mỏ đủ tiêu chuẩn làm giống. Chuồng trại luôn được vệ sinh sạch sẽ, tiêu độc khử trùng đúng định kỳ, thay trấu đệm lót đảm bảo đúng kỹ thuật. Thời gian từ tuần đầu đến hết tuần 4, chiếu sáng 100% để đảm bảo duy trì nhiệt độ phù hợp sao cho đàn gà lúc nào cũng tản đều trong quây úm. Từ tuần thứ 5 trở đi chỉ chiếu sáng về đêm còn ban ngày tùy thuộc vào thời tiết. Về thức ăn, từ tuần 1 đến hết tuần 4 cho ăn thức ăn hỗn hợp đảm bảo độ đạm là 21%, từ tuần thứ 5 cho ăn thức ăn có độ đạm là 19%, từ tuần thứ 7 thả gà ra vườn, từ tuần thứ 10 trở đi cho ăn thức ăn phối trộn giữ thức ăn hỗn hợp và cám ngô, gạo… Cho gà uống đủ nước sạch, thuốc úm và bố trí các máng ăn máng uống phù hợp theo lứa tuổi.

Đàn gà giống Minh Dư lúc 04 tuần tuổi

Công tác thú y được tuân thủ nghiêm ngặt. Thường xuyên cọ rửa máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi, định kỳ phun tiêu độc khử trùng, kịp thời thay đệm lót khi bị bẩn ướt, xử lý chế phẩm khử mùi hôi đúng thời điểm, tiêm phòng và xử lý các loại vắc-xin đúng và đầy đủ theo quy trình kỹ thuật.

Sau khi áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật cho thấy đàn gà tăng trọng nhanh, tỉ lệ nuôi sống ở 90 ngày tuổi đạt 99,75%, tiêu tốn thức ăn: 2,65 kg/1kg tăng trọng. Trọng lượng bình quân gà lúc 90 ngày tuổi đạt 2,0 kg/con đảm bảo chỉ tiêu của mô hình. Khi dùng chế phẩm vi sinh Balasa No1 xử lý trên đệm lót, giúp phân hủy phân, giảm mùi hôi thối và khí độc chuồng nuôi, tạo môi trường trong lành cho vật nuôi phát triển tốt, giảm tỉ lệ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh tiêu chảy, bệnh CRD, lông gà tơi xốp, mượt, sạch đẹp hơn, bán có giá cao hơn trước đây. Mô hình đã được hộ tham gia mô hình và các hộ dân vùng lân thăm quan học tập cận đánh giá cao và có khả năng nhân ra diện rộng.

Từ thực tế triển khai mô hình tại xã Phú thịnh cho thấy, nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái giảm đáng kể các chi phí đầu tư, kể cả công chăm sóc so với hình thức nuôi truyền thống trước đây. Lợi nhuận thu được từ 400 con gà sau hơn 3 tháng nuôi là trên 10 triệu đồng.

Đàn gà giống Minh Dư 10 tuần tuổi

Ông Mai Xuân Vinh hộ tham gia mô hình cho biết thêm, quá trình triển khai mô hình chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư trên đệm lót sinh thái đã giảm 25% chi phí điện úm gà con, 40% công lao động và 30% thuốc thú y. Đặc biệt là chi phí công quét dọn phân hàng ngày với lượng trấu phải thay thường xuyên như trước đây đã giảm đáng kể. Mô hình đã giúp giảm đáng kể mùi hôi, khí độc trong chuồng nuôi và môi trường xung quanh. Từ đó, góp phần định hướng phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung, an toàn, bền vững và quản lý tốt dịch bệnh, tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng và đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dung.

Mô hình chăn nuôi gà thịt giống Minh Dư được Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái thực hiện tại xã Phú Thịnh sẽ là cơ sở để các hộ chăn nuôi trong vùng đến thăm quan học tập làm theo.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trồng thanh long sạch đón đầu thị trường đẳng cấp

Bình Thuận xác định đây là hướng đi tất yếu và bền vững để nâng cao chất lượng và giá trị thanh long của địa phương.

Hiện nay, để tránh lệ thuộc vào thị trường truyền thống, nhiều nông dân ở tỉnh Bình Thuận đã mạnh dạn đầu tư trồng thanh long theo tiêu chuẩn an toàn GlobalGAP (Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu). Ngành nông nghiệp Bình Thuận xác định đây là hướng đi tất yếu để nâng cao chất lượng và giá trị của loại nông sản lợi thế này của địa phương.

Gia đình ông Nguyễn Quốc Nguyên Vũ ở xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam gắn bó với nghề trồng thanh long từ hơn 20 năm qua. Nhận thấy giá cả thanh long canh tác theo lối truyền thống lên xuống thất thường, 3 năm trước, ông Vũ đã quyết định chuyển hướng qua sản xuất thanh long sạch.

Thanh long Bình Thuận đã trở thành thương hiệu

Trang trại thanh long sạch Phúc An của ông Vũ hiện có 25 ha đã cho thu hoạch xuất đi các nước New Zealand, Hàn Quốc và Cananada… Ông Vũ vừa xúc tiến trồng thêm 20 ha, nâng tổng diện tích thanh long trồng theo tiêu chuẩn GlobalGAP của trang trại lên 45 ha.

“Người trồng nên chủ động làm cho thanh long đạt chất lượng cao hơn, từ đó nâng giá thành sản phẩm lên bằng cách sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP hoặc theo hướng hữu cơ. Sản phẩm trồng theo tiêu chuẩn sẽ không phụ thuộc nhiều vào thị trường truyền thống”, ông Vũ cho biết.

Quy trình sản xuất GlobalGAP đòi hỏi kỹ thuật cao và có sự quản lý nghiêm ngặt, từ khâu chăm sóc đến khâu thu hoạch và đóng gói xuất khẩu. Theo quy trình này, vườn canh tác GlobalGAP hoàn toàn khác với vườn bình thường. Diện tích đất trong vườn phân ra thành từng khu, từng lô theo thứ tự có đánh số cụ thể để dễ dàng chăm sóc và quản lý cũng như truy nguyên nguồn gốc khi có sự cố dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hoặc mầm bệnh xảy ra.

Tại trang trại Sơn Trà, huyện Hàm Thuận Nam, với diện tích hơn 20 ha, các nhân công chăm sóc vườn theo một kế hoạch bài bản. Các công đoạn làm vườn như bón phân, cắt cành, tưới nước… đều được người phụ trách kỹ thuật ghi chép cẩn thận theo từng khu vực và quy trình chặt chẽ.

Anh Nguyễn Hữu Phương, quản lý kỹ thuật tại Trang trại Sơn Trà cho biết, thanh long sạch trồng và chăm sóc khó hơn, trong khi các thị trường khó tính luôn đòi hỏi yêu cầu chất lượng từ khâu sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển. Tuy nhiên khi đáp ứng được các yêu cầu này, sản phẩm thanh long sẽ có giá cao hơn.

Hiện nay, ngoài 2 trang trại lớn có tiếng là Hoàng Hậu và Rau quả Bình Thuận, hơn 10 trang trại khác ở tỉnh Bình Thuận cũng đang đẩy mạnh sản xuất thanh long sạch cho hiệu quả kinh tế cao, đáng kể đến như Gia Thành, Phúc An, Sơn Trà… Hầu hết sản lượng làm ra đều được xuất qua các thị trường khó tính như Đức, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… với giá ổn định xấp xỉ trên dưới 30.000 đồng/kg.

Theo Sở NN&PTNT Bình Thuận, toàn tỉnh hiện có 220 ha thanh long trồng theo tiêu chuẩn. Ngành nông nghiệp địa phương định hướng, từ nay đến năm 2020 phải tập trung sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn an toàn để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khó tính.

Ngành nông nghiệp Bình Thuận đang khuyến khích nông dân sản xuất thanh long theo hướng an toàn

Mới đây, Chính phủ Australia cũng vừa chấp nhận cho phép nhập khẩu sản phẩm thanh long Việt Nam. Điều này đã mở ra thêm cơ hội cho người trồng thanh long sạch.

Kỹ sư Phạm Hữu Thủ, Chánh Văn phòng Sở NN&PTNT Bình Thuận cho biết, để xuất thanh long vào thị trường Australia phải cần có nguồn gốc xuất xứ rất rõ ràng, đặc biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác kiểm dịch, kiểm soát côn trùng. “Sở đang tiếp tục vận động bà con nông dân trồng thanh long trên địa bàn tỉnh thực hiện sản xuất theo quy trình GAP và GlobalGAP”, Kỹ sư Phạm Hữu Thủ thông tin.

Toàn tỉnh Bình Thuận hiện có khoảng 27.000 ha thanh long, sản lượng khoảng nửa triệu tấn/năm, nhưng chủ yếu xuất khẩu qua Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch.

Nhìn vào bức tranh chung, diện tích sản xuất thanh long theo hướng an toàn GlobalGAP còn ít so với tiềm năng hiện có. Nhưng đứng trước xu thế hội nhập, đây là hướng đi vững chắc. Những nông dân tiên phong thay đổi tập quán, mạnh dạn đầu tư canh tác theo hướng nông nghiệp an toàn, đang mở ra hướng đi mới cho loại nông sản lợi thế này của tỉnh Bình Thuận.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên

Để phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững thì phải có quy hoạch chi tiết và quản lý quy hoạch này; không để xảy ra việc nuôi tự phát của người dân.

Trước tình trạng vùng nuôi tôm hùm liên tục bị thiệt hại thời gian qua do ô nhiễm, ngày 16.8, tại TP.Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên phối hợp Bộ NN-PTNT tổ chức hội thảo bàn giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở địa phương.

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên phát triển từ những năm 1990, từ năm 2000 tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng này và TX.Sông Cầu được xem là vùng nuôi tôm hùm trọng điểm. Ông Lương Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND TX.Sông Cầu, cho biết hiện ở địa phương có hơn 2.142 hộ nuôi tôm hùm với khoảng 16.000 lồng nuôi tôm thương phẩm, sản lượng hơn 600 tấn/năm với doanh thu khoảng 500 – 600 tỉ đồng. Nghề nuôi này đã đóng góp đáng kể vào nền kinh tế – xã hội của địa phương.

Nuôi tôm hùm ở Sông Cầu, Phú Yên

Quản lý lỏng lẻo

Tuy nhiên, vùng nuôi tôm hùm ở xã Xuân Phương và Xuân Yên (TX.Sông Cầu) liên tiếp 2 năm liền bị chết, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm. Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, mật độ nuôi ở đây gấp 4 lần so với quy định. “Đó là do chúng ta không quản lý, thả lỏng việc nuôi tôm hùm ở vùng này”, ông Phương nói và thừa nhận về quản lý chỉ mới khoanh vùng, chứ chưa giao mặt nước cho người dân. Trong khi đó, những tồn tại hiện nay của nghề nuôi tôm hùm tại Phú Yên là nguồn giống vẫn khai thác tự nhiên nên không đủ cung cấp, phải nhập tôm hùm giống nước ngoài nhưng kiểm soát không tốt; thức ăn chính từ nguồn khai thác cá tạp tươi, ốc, sò, cua ghẹ… góp phần gây ra ô nhiễm môi trường; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Trung Quốc.

Ông Trần Minh Phương ở xã Xuân Cảnh (TX.Sông Cầu) khẳng định nghề nuôi tôm hùm đã tạo ra nguồn thu lớn, thay đổi đời sống nhưng rủi ro nghề này càng ngày càng tăng cao vì phụ thuộc vào thị trường và tôm chết bất ngờ. Hơn nữa, người dân phát triển lồng nuôi tôm hùm rất nhanh, dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường. Vì vậy, đề nghị chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ.

Ô nhiễm từ cách nuôi

Ông Võ Minh Khôi, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), cho biết khi đi khảo sát vùng tôm chết tại P.Xuân Yên và xã Xuân Phương (TX.Sông Cầu) thì thấy nghịch lý là tôm đang chết nhưng người dân vẫn đưa lồng ra vịnh Xuân Đài để thả mới. “Đây là vấn đề nan giải”, ông Khôi lo lắng.

Về nguyên nhân gây ra tôm hùm chết trong tháng 6 vừa qua, theo ông Phan Hữu Đức, Phó giám đốc thú y Vùng 4, Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), là do ô nhiễm chất hữu cơ, dẫn đến làm giảm hàm lượng ô xy hòa tan ở cả tầng mặt nước và tầng đáy khu vực nuôi. Cũng do ô nhiễm chất hữu cơ đã tạo thuận lợi cho vi khuẩn, sinh vật phù du phát triển mạnh. “Số lượng lồng nuôi quá nhiều so với quy hoạch do người dân tự phát. Mật độ nuôi dày, lượng thức ăn tươi sống mỗi ngày đổ xuống vịnh từ 15 – 20 xe container (tương đương 400 tấn thức ăn tươi sống là cá giã cào, ốc, cua, ghẹ…) liên tục trong thời gian dài dẫn đến môi trường ô nhiễm nặng, nhiều chỉ tiêu thủy hóa vượt ngưỡng cho phép”, ông Đức nói, đồng thời chỉ ra việc quy hoạch chưa sát với thực tế nên vị trí quy hoạch làm vùng nuôi thì người dân không nuôi vì cho rằng không thích hợp với dòng chảy, vị trí không quy hoạch thì người dân lại đem lồng đến nuôi.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết đã tiến hành khảo sát vùng nuôi tôm hùm vịnh Xuân Đài (vùng nuôi tôm bị ô nhiễm nặng vừa qua) thì phát hiện nước thải từ các hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi ốc hương, rác thải sinh hoạt của người dân đều đưa xuống vịnh Xuân Đài. Về lượng thức ăn cung cấp, nếu 8 kg thức ăn cho 1 lồng/ngày thì riêng ở xã Xuân Phương là 49 tấn/ngày, còn P.Xuân Yên khoảng 50 tấn/ngày… Thức ăn thừa trong lồng đều đổ xuống vịnh Xuân Đài. “Như vậy, vịnh Xuân Đài đã oằn mình gánh một lượng chất thải kinh khủng mỗi ngày”, bà Hòa nói.

Tôm hùm chết hàng loạt

Cần kiểm soát toàn diện

Ông Võ Minh Khôi cho biết nghề nuôi tôm hùm phát triển chủ yếu ở Khánh Hòa, Phú Yên. Số lượng lồng tăng 1,5 lần, nhưng nghịch lý là sản lượng giảm. Hiện nay có 4 loại tôm hùm, nhưng người dân nuôi chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Ông Khôi xác định việc phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm có nhiều yếu tố, đó là con giống, môi trường vùng nuôi, thị trường.

Vẫn theo ông Khôi, hiện nhu cầu tôm hùm giống hằng năm ở VN khoảng 24 triệu con, nguồn tôm tại địa phương chỉ đáp ứng khoảng 9 triệu con nên phải nhập tôm hùm giống nước ngoài về qua đường tiểu ngạch. “Qua tìm hiểu, chưa có cơ sở nào đăng ký nguồn tôm hùm giống. Nếu quản lý tốt sẽ tránh trường hợp tôm hùm giống trôi nổi. Nếu không kiểm soát được thì nguy cơ dịch bệnh rất cao, chất lượng tôm sẽ ảnh hưởng”, ông Khôi nói. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm hùm tương đối bấp bênh. Khi thị trường Trung Quốc “ăn” thì giá cao, ngược lại là giá rớt thê thảm. Giá trị xuất khẩu từ tôm hùm khoảng 40 triệu USD/năm. Quy hoạch đã có nhưng chưa đầy đủ, giám sát chưa sâu sát nên gây ra yếu tố ô nhiễm cục bộ, khiến tôm hùm chết.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa cho biết muốn vùng nuôi tôm hùm không bị ô nhiễm thì thức ăn thừa trong lồng, bè phải thu gom, đem vào bờ xử lý. “Nếu người dân đưa toàn bộ thức ăn thừa vào thì chứa ở đâu. Đây là chuyện địa phương phải tính đến”, bà Hòa nói. Bà Hòa cũng khuyến cáo không nên nuôi vẹm xanh ở khu vực nuôi tôm hùm vì như thế sẽ dẫn đến cạnh tranh về ô xy, khiến tôm hùm thiếu ô xy, đặc biệt là vào ban đêm hay thời tiết bất thường theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, tôm thẻ chân trắng cũng là nguy cơ lây nhiễm bệnh cần lưu ý. “Nếu tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh thì phải xử lý triệt để trong hồ không được xả ra bên ngoài”, bà Hòa nói.

Quy hoạch nuôi tôm gắn với du lịch

Ông Lương Minh Sơn, Phó bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, cho biết những vùng biển ở các huyện ven biển Phú Yên có nhà cao tầng, đó là nhờ nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, trong đó có nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hiện các vùng nuôi này ô nhiễm nên đề nghị các ngành chức năng đề xuất giải pháp làm sao giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên, quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển du lịch, vì những vùng nuôi này đều là danh lam, thắng cảnh quốc gia. Làm sao có cơ chế quản lý, có quy hoạch chi tiết cho ngành nuôi tôm hùm ở Phú Yên.

Đảo Bình Ba, Khánh Hòa là nơi từng thực hiện thành công mô hình nuôi tôm hùm kết hợp du lịch

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ copefloc cho năng suất cao

Copefloc sử dụng copepods (giáp xác chân chèo), các hạt biofloc và các động vật thân mềm sống đáy (giun nhiều tơ,…) như là một nguồn thức ăn chính yếu cho tôm nuôi và hoàn toàn không sử dụng thức ăn viên công nghiệp.

Công nghệ Copefloc – công nghệ gây nuôi thức ăn tự nhiên

Để gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ Copefloc cho năng suất cao, sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1.2 – 1.5 m, tiến hành gây nuôi copepods, các loài phiêu sinh động vật, giáp xác nhỏ khác (krill) và động vật thân mềm sống đáy (barnacle, giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ, và các loài động vật thân mềm sống đáy khác) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học (probiotics).

Tuyệt đối không cung cấp nguồn copepods hay các sinh vật khác từ bên ngoài vào ao nuôi để tránh trường hợp chúng mang mầm bệnh vào ao nuôi, tất cả các loài thức ăn tự nhiên có trong hệ thống nuôi tự nó sẽ phát triển khi có các điều kiện thích hợp. Cám gạo được cho vào trong chậu (bể) lớn, cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 – 48 giờ.

        Giun nhiều tơ và các loài động vật thân mềm sống đáy trong ao nuôi copefloc

Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài (dạng giống như ống bơm nước), chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men với probiotic lan tỏa khắp ao nuôi. Ao nuôi được sụt khí liên tục trong thời gian từ 7 – 10 ngày trước khi thả giống tôm.

Sử dụng cám gạo lên men ban đầu với liều lượng khoảng 300 kg hoặc 30 ppm trên 1 hecta để gây tạo thức ăn tự nhiên trong ao. Cám gạo lên men sẽ là nguồn thức ăn cho copepod, động vật thân mềm và các loài sinh vật khác trong ao.

Trong quá trình nuôi không cần cho ăn; thay vào đó người nuôi phải quản lý, duy trì quần thể và mật độ thức ăn tự nhiên, lượng biofloc trong ao nuôi. Thu mẫu và tính toán mật độ copepod hằng ngày bằng cách dùng xô, chậu lấy 50 – 100 lít nước ở các vị trí khác nhau trong ao nuôi.

     Đây là nguồn dinh dưỡng tự nhiên rất tốt cho tôm nuôi. 

Sau đó lọc qua lưới phiêu sinh, kích thước mắt lưới 50 – 70 µm, cho vào lọ 60 ml, cố định bằng formol 2 – 4%. Dùng pipet lấy 1 ml và đếm dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 10X, 40X, bằng phương pháp di chuyển buồng đếm theo tọa độ. Từ đó tính toán được mật độ của copepod và điều chỉnh lượng chế phẩm sinh học bón xuống ao làm thức ăn cho copepod và sinh vật trong ao nuôi.

Để kích thích sự hình thành và duy trì tính ổn định của biofloc, cần bổ sung biofloc mồi và bổ sung nguồn cacbon vào hệ thống nuôi. Có rất nhiều nguồn cung cấp cacbon: bột ngũ cốc, mật rỉ đường, bột bã mía, rơm, cỏ. Duy trì hàm lượng biofloc < 1 ml/l trong suốt chu kỳ nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam