Nuôi cá theo công nghệ ‘tạo sông trong ao’ thu tiền tỷ ở Nghệ An

Anh Đậu Đức Kính ở xã Quỳnh Văn là người đầu tiên đưa công nghệ “tạo sông trong ao nuôi cá” đầu tiên ở Quỳnh Lưu. Sau 2 năm xây dựng mô hình, anh có thu nhập ước tiền tỷ.

Gia đình anh Đậu Đức Kính có 10 ha ao nuôi chuyên canh các loại cá nước ngọt như rô phi, trắm, mè, chép, cá lóc… Mỗi năm, anh thả hàng triệu con giống các loại. Tuy nhiên, tỷ lệ cá chết khoảng 20% do nguồn nước trong ao quá nóng vào mùa hè, cá bị ngạt hơi do nước tù thiếu ô-xy, hoặc do nồng độ khí mê-tan quá cao do lượng phân thải ra của cá quá nhiều.

Mô hình nuôi cá theo công nghệ “tạo sông trong ao” của anh Đậu Đức Kính ở xã Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu). Ảnh: Như Thủy

Từ thực tế đó, qua các lần tham quan học hỏi đưa công nghệ mới vào chăn nuôi ở các tỉnh phía Nam, tháng 1/2016, anh Kính đã mạnh dạn đầu tư hơn 800 triệu đồng xây dựng mô hình “tạo sông trong ao” để nuôi cá. Trên diện tích ao rộng 2ha, anh ngăn và xây 4 bể xi măng giữa lòng ao theo hình thác, lắp đặt hệ thống súc khí, tạo dòng chảy mạnh và máy tự động hút phân thải của cá dẫn ra ngoài.

Sau khi hệ thống hoàn thiện, anh thả nuôi hơn 60.000 con cá rô phi Đường nghiệp, đây là giống cá có trọng lượng lớn từ 1- 2kg/con, thịt cá dày nên khi nuôi bằng hệ thống tạo sông sẽ giúp cá vận động nhiều theo dòng chảy, giúp chất lượng cá dai chắc, thơm ngon hơn.

Mỗi bể xi măng có 1 máy sục khí tạo sóng nước, hệ thống hút phân thải tự động dẫn ra mương tiêu giúp môi trường nước luôn sạch. Ảnh: Như Thủy

Đến nay, sau gần 2 năm thử nghiệm mô hình đã thành công. Năm đầu tiên anh Kính đã thu hồi vốn, năm thứ 2 có lãi gần 1 tỷ đồng/năm qua 3 vụ cá.

“Thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục đầu tư cải tạo 8 ha còn lại để đưa công nghệ tạo sông trong ao vào nuôi đại trà trên tất cả các giống cá, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế” – anh Kính cho hay.

Phân cá được hút vào 1 bể lắng lọc riêng có xử lý diệt khuẩn trước khi xả ra ngoài. Ảnh: Như Thủy

Theo ông Đậu Đức Năm – Trưởng Phòng NN & PTNT huyện Quỳnh Lưu, sau khi kiểm tra đánh giá mô hình tạo sông trong ao nuôi cá nước ngọt của anh Kính, huyện đánh giá đây là công nghệ mới, cho hiệu quả cao. Phương pháp này đã giải quyết được các khó khăn của người dân là giảm tỷ lệ cá chết do ô nhiễm nguồn nước, nâng cao chất lượng thịt; đặc biệt cá được nuôi thả liên tục, thường xuyên chứ không cần phải chờ xử lý ao nuôi. Sắp tới huyện sẽ tổ chức cho các hộ dân tham quan mô hình và nhân ra diện rộng.

Nguồn: Báo Nghệ An được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp xử lý nước nhiễm phèn nặng

Nước nhiễm phèn khiến tôm, cá còi cọc, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp, gây thiệt hại nghiêm trọng về năng suất cũng như chất lượng đầu ra của vật nuôi. Chính vì vậy, việc xử lý phèn trong ao nuôi là vấn đề cấp thiết.

Tác hại của nước nhiễm phèn

Ao nuôi nhiễm phèn nặng thường đi kèm với pH thấp, lượng canxi rất ít làm mất cân bằng áp suất thẩm thấu giữa vật nuôi và môi trường nước, khiến tôm khó lột vỏ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình tạo vỏ, khiến tôm mềm vỏ hoặc lột vỏ không hoàn toàn, bị dính vỏ, tỷ lệ sống không cao.

Nước ao nhiễm phèn nặng còn làm giảm khả năng gắn kết giữa ôxy và hợp chất HP (Hemoglobin) trong máu, quá trình hô hấp tăng cao làm cho tôm cá và vi sinh vật mất nhiều năng lượng hơn từ đó giảm khả năng sinh trưởng, sinh sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nuôi. Hợp chất phèn lơ lửng trong nước sẽ bám vào mang, cản trở quá trình hô hấp của tôm, đặc biệt khi tôm còn nhỏ. Nồng độ pH thấp làm cho lượng khí H2S trở nên độc hơn gây ức chế cho quá trình trao đổi chất và chuyển hóa ôxy của tôm nuôi làm cho tôm nuôi chậm lớn, màu sắc kém, mất giá.

Ngoài ra, ao nuôi bị nhiễm phèn còn làm cho tảo chậm phát triển, từ đó rất khó gây màu nước ao nuôi tôm, cá. Thông thường ao nuôi bị nhiễm phèn màu nước sẽ thay đổi thường xuyên do sự biến động của tảo.

Nguyên nhân nước nhiễm phèn

Nước nhiễm phèn là do đất tại vùng đào ao có chứa hàm lượng sulfat cao, cùng với điều kiện yếm khí và hoạt động của vi sinh vật nên sulfat bị khử, từ đó gốc lưu huỳnh sẽ kết hợp với hàm lượng sắt (Fe) có trong trầm tích tạo thành chất FeS2.

Dấu hiệu cho biết vùng đất nhiễm phèn thường có màu xám đen, vùng có chứa hàm lượng FeS2cao, khi phơi khô đất thường có phấn trắng, khi đào ao nuôi tôm ở vùng này thì việc xử lý phèn sẽ rất vất vả.

Biểu hiện ao nuôi nhiễm phèn

Sau những trận mưa, ao có những biểu hiện nhiễm phèn như nước ao trong hơn hoặc chuyển màu trà nhạt, có váng vàng nhạt nổi trên mặt nước, kiểm tra không có tảo phát triển.

Đối với ao nuôi cá, khi độ phèn cao, da cá chuyển màu đen, cá gầy đi và chậm lớn, nếu pH xuống quá thấp cá có hiện tượng chết hàng loạt mà không rõ nguyên nhân.

Đối với ao nuôi tôm, quan sát thấy toàn bộ thân tôm chuyển từ màu sáng trong sang màu vàng nhạt đến vàng đậm, màu nước trà, sờ vào vỏ tôm có cảm giác cứng hơn bình thường, đồng thời, mang tôm chuyển sang màu vàng và sơ cứng lại. Tôm khó lột xác và bắt đầu bỏ ăn sau những trận mưa kéo dài, nếu ao bị phèn nặng tôm sẽ dạt bờ và chết rải rác, do ngạt thở bởi phèn bám nhiều vào mang tôm cản trở quá trình hô hấp của tôm.

Cách xử lý ao nhiễm phèn

Khi cải tạo ao, người nuôi không nên phơi đáy vì khi phơi hợp chất Pyrit sắt sẽ bị ôxy hóa tạo nên hydroxit sắt Fe(OH)2, giải phóng ion H+ làm pH giảm. Do vậy, cần cải tạo ướt như cày ướt ngâm nước và thau chua liên tục 3 – 4 lần. Sau khi thau chua, nếu nước vẫn có màu đỏ thì cần bón phân lân (photpho) với liều lượng 2 – 3 kg/100 m2 để giảm sắt.

Bón vôi nông nghiệp (CaO) để khử trùng, tăng pH và hệ đệm trong ao, liều lượng 15 – 20 kg/100 m2, vôi được rải đều xuống đáy và bờ ao. Dùng máy đo hoặc quỳ tím để đo pH đáy; nếu pH vẫn thấp thì nên bón thêm vôi, điều chỉnh pH từ 7,5 trở lên. Nếu người nuôi có khả năng về kinh tế thì có thể đầu tư trải bạt toàn bộ nền đáy và bờ ao để ngăn xì phèn là tốt nhất.

Đối với ao đất phèn, nên tăng công suất của dàn quạt nước từ 25 lên 30 hp/ha (mã lực) và thay dàn quạt cánh bằng quạt lông nhím nhằm cung cấp đủ dưỡng khí cho tôm.

Lấy nước vào ao 1,2 – 1,5 m, khử trùng và bật quạt nước, đo lại pH; nếu chỉ số này vẫn thấp thì có thể lấy vôi nông nghiệp và vôi đen (dolomite) hòa loãng lấy nước tạt vào buổi đêm liều lượng 2 – 4 kg/100 m2, nếu nước bị đục và có váng phèn thì có thể dùng  EDTA hoặc AQUAZEX (0,5 – 0,7 kg/100 m3 nước) để keo tụ váng phèn.

Sau khi xử lý nước có thể bón cám ủ, bột cá để gây màu nước trong ao đồng thời bổ sung chất khoáng để giữ màu nước được bền, lâu.

Khi ao lên màu nước, kiểm tra độ trong của nước đạt 35 – 40 cm là được, cần kiểm tra các yếu tố môi trường như độ mặn, pH, H2S lần cuối trước khi thả tôm.

Cần lưu ý, sau mỗi trận mưa, nước mưa có chứa axit và lượng xì phèn trên bờ có thể trôi xuống ao làm giảm pH. Do đó, cần dùng Zeolite để keo tụ chất vẩn, sau đó sử dụng chế phẩm sinh học để khoáng hóa đáy ao, đồng thời dùng vôi dolomite hòa vào nước ngọt 24 giờ; sau đó tạt đều xuống ao lúc 8 – 10 giờ đêm, liều lượng 1,7 kg/100 m3 nước. Nên rải vôi nông nghiệp quanh bờ ao trước khi trời mưa; khi mưa to, mực nước ao nuôi lên cao, cần xả bớt nước mặt để tránh giảm độ mặn đột ngột và tràn bờ, vỡ bọng, cống, kết hợp quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nước.

Trời sắp mưa, cần giảm lượng thức ăn hoặc thậm chí ngừng cho ăn, chờ đến khi ngớt mưa, cho ăn với số lượng giảm 30 – 50% lượng thức ăn bình thường. Nếu dư thức ăn sẽ làm cho tảo lục phát triển mạnh, pH nước ao dao động, tôm sẽ bị đóng rong.

Để bảo đảm sức đề kháng và tránh cho tôm bị mềm vỏ, có thể trộn men vi sinh, khoáng chất và Vitamin C vào bữa chính cho tôm ăn mỗi ngày. Từ tháng nuôi thứ 2 trở đi, cần vận hành quạt khí liên tục để cung cấp đủ dưỡng khí cho tôm nuôi, ổn định pH trong ao bằng vôi nông nghiệp và dolomite. Sau 2 tháng, có thể xi phông chất thải dưới đáy ao do quạt nước gom tụ lại, tạo điều kiện thuận lợi cho tôm phát triển tốt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Liều dùng và vai trò của Vitamin C trên cá

Một nghiên cứu đầu tiên từ trước đến nay về hàm lượng Vitamin C (Ascorbic acid) bổ sung vào thức ăn cá chạch bùn giúp nâng cao hiệu suất tăng trưởng, hệ thống miễn dịch và hoạt tính enzyme chống oxy hóa.

Vitamin C với động vật thủy sản

Động vật thủy sản thường phải chịu sự căng thẳng từ các yếu tố vượt quá khả năng của chúng về sự chịu đựng, chẳng hạn như mật độ nuôi cao, chất lượng nước kém, nhiệt độ cao và sự xâm nhập của vi khuẩn và virus. Tất cả những yếu tố bất lợi này có thể gây ra phản ứng sốc cho cá, dẫn đến năng suất thấp.

Đối với nuôi trồng thủy sản, để giảm phản ứng căng thẳng nhiều tác đã bổ sung vào thức ăn các chất chống oxy hóa (ví dụ như vitamin C và vitamin E), probiotic, prebiotic, B-glucans và các chất kích thích miễn dịch khác, có thể giúp cá giảm sự nhạy cảm đối với những yếu tố gây căng thẳng.

Vitamin C (acid L-ascorbic, ASA) đóng một vai trò quan trọng trong các chức năng sinh lý bình thường và kích thích phản ứng miễn dịch của cá (Lim & Lovell 1978), và nó là một chất chống oxy hóa tan trong nước quan trọng. Vitamin C cũng tăng cường hiệu ứng trên hoạt tính diệt khuẩn ở huyết thanh (Ren, Koshio & Uyan 2008), hoạt động thực bào (Misra, Das & Mukherjee 2007), nồng độ kháng thể (Misra et al. 2007) và chất nhầy trong phản ứng miễn dịch (Roosta, Hajimoradloo & Ghorbani 2014).

Trong nuôi trồng thủy sản, vitamin C thường được sử dụng với mức độ cao khi bổ sung vào thức ăn. Tuy nhiên, những ảnh hưởng ở liều cao của việc bổ sung vitamin C  vào thức ăn trên cá vẫn chưa được xác định chắc chắn.

Nghiên cứu liều lượng bổ sung Vitamin C vào cá chạch bùn

Cá chạch bùn (Misgurnus anguillicaudatus) là một cá sống tầng đáy phân bố rộng rãi ở Châu Á. Trong những năm gần đây, giá trị của chúng trên thị trường đã tăng lên bởi vì giá trị dinh dưỡng và dược liệu cao được công nhận bởi người tiêu dùng (Wang, Hu & Wang 2010;. Gao et al 2012). Cho đến nay, không có nghiên cứu nào về nhu cầu vitamin C trên cá chạch bùn được thực hiện. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành để làm rõ những ảnh hưởng của chế độ ăn khác nhau có bổ sung vitamin C đối với về hiệu suất tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch từ chất nhầy, hoạt tính của enzyme chống oxy hóa và biểu hiện gen chống oxy hóa trên cá chạch bùn.

Một thử nghiệm cho ăn trong 60 ngày đã được tiến hành để xác định những ảnh hưởng của vitamin C ở chế độ ăn khác nhau về hiệu suất tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch và khả năng chống oxy hóa của cá chạch bùn.

Sáu mức độ Vitamin C bổ sung vào thức: 0 mg/kg (VC0), 100mg/kg (VC100), 200mg/kg (VC200), 500mg/kg (VC500), 1000mg/kg (VC1000) và 5000 mg/kg (VC5000) của VC (35% acid ascorbic) với ba lần lặp lại. Kết quả cho thấy cá ăn với mức độ  VC200 cho sự tăng trưởng tối ưu và có tác dụng ngăn ngừa sự oxy hóa cao (cụ thể là hơn 207,4 mg/kg), đồng thời hệ miễn dịch của cá chạch bùn hoạt động mạnh mẽ hơn rất nhiều. Hơn nữa, liều cao của việc bổ sung VC không cho thấy bất kỳ tác động bất lợi đến hiệu suất tăng trưởng của cá chạch bùn.

Do đó, thí nghiệm của nhóm nghiên cứu gợi ý rằng bổ sung từ 200 mg/kg Vitamin C là điều cần thiết để gia tăng sự tăng trưởng và miễn dịch của cá chạch bùn, mức độ này cao hơn nhiều so với hầu hết các loài cá khác, ví dụ 47,6 mg/kg đối với cá chẽm Nhật Bản – Lateolabrax japonicus (Ai, Mai, Zhang, Xu, Duan & Tân 2004), 23,8 mg/kg  cho cá đù vàng lớn – Pseudosciaena crocea (Ái, Mai, Tân, Xu, Zhang, Ma & Liufu 2006) và 35,7 mg/kg đối với cá Cirrhinus mrigala (Zehra & Khan năm 2012). Điều này có thể gợi ý rằng các chạch bùn là loài nhạy cảm hơn nhiều với các yếu tố stress so với các loài cá khác.

Lưu ý khi sử dụng Vitamin C

Mặc dù Vitamin C là một chất chống oxy hóa, nó có thể tạo điều kiện cho quá trình oxy hóa trong điều kiện nhất định (Hininger et al. 2005). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng Vitamin C gây độc với một số loại tế bào (Bhat, Azmi, Hanif & Hadi 2006; Ullah, Khan & Zubair 2011). Thêm vào đó, Vitamin C ở mức cao sẽ ức chế mạnh mẽ của sự hấp thụ Đồng hoặc các enzym phụ thuộc vào Đồng và dễ bị ngộ độc sắt (Prasad 1978). Vì thế khi bổ sung Vitamin C vào thức ăn cá chạch bùn cần phải cân nhắc ở mức hợp lý.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ mới cải thiện môi trường nước nuôi trồng thủy sản

Tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra nghiêm trọng trong nuôi trồng thủy sản do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải khác, kết hợp lượng dư thừa các hóa chất, kháng sinh được sử dụng trong quá trình nuôi đọng lại ở đáy ao nuôi không được xử lý.

Trước thực trạng đó, Tiến sĩ Lê Quang Tiến Dũng và các cộng sự thuộc Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã nghiên cứu thành công giải pháp “Điều chế vi bọt khí sử dụng công nghệ điện hóa, siêu âm và ứng dụng trong xử lý nước nuôi trồng thủy sản”. Nghiên cứu này đã mở ra một hướng mới trong việc khử trùng, cải thiện môi trường nước nuôi trồng thủy sản.

Hướng đi mới đầy tiềm năng

Theo Tiến sỹ Lê Quang Tiến Dũng, trên thực tế có rất nhiều phương pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi, xử lý nguồn bệnh trong môi trường nuôi. Nhiều vùng nuôi trồng thủy sản, hộ nuôi khi gặp phải những vấn đề trên đã phải bỏ ra chi phí lớn từ vài triệu đến vài chục triệu đồng để xử lý môi trường ao nuôi nhưng không đem lại hiệu quả cao như mong muốn.

Mặt khác, việc sử dụng tràn lan các hóa chất để khử trùng nước như Chlorine, Iodin, thuốc tím, Formaline… có thể dẫn đến những hậu quả làm suy thoái môi trường và gây ra hiện tượng nhờn thuốc của các loại vi khuẩn, vi rút, vi sinh vật gây bệnh như: khuẩn Vibrio spp., Aeromonas, Ecoli, Pseudomonas, Proteus, Staphylococcus… Do đó, việc nghiên cứu tìm các biện pháp làm giảm thiểu đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi trồng thủy sản được xem là nhiệm vụ rất cấp thiết.

Với ý tưởng tăng hiệu suất diệt khuẩn của dung dịch anolyte sau điện hóa thành các vi bọt khí bằng cách cho nổ tung bọt khí sau điện hóa sử dụng siêu âm công suất cao để xử lý nước trong nuôi trồng thủy sản, nhóm tác giả đã mở ra hướng mới trong việc khử trùng, cải thiện môi trường nước nuôi trồng thủy sản. Dung dịch hoạt hóa điện hóa anolyte hay còn được gọi là nước oxy hóa điện ly được kỹ sư người Nga V. Bakhir phát hiện năm 1972.

Dung dịch anolyte là một tác nhân khử trùng có nhiều tính ưu việt, hiệu quả khử trùng cao, diệt nhanh nhiều loại vi khuẩn, dễ sản xuất, giá thành rẻ, thân thiện với môi trường. Các nước trên thế giới đặc biệt là Nga, Nhật, Đức, Mỹ, Hàn Quốc… đã đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo thiết bị sản xuất dung dịch anolyte và ứng dụng công nghệ này trong đời sống và sản xuất như y tế, chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng và chế biến thủy sản, chế biến thực phẩm… Trong nước, việc nghiên cứu ứng dụng dung dịch anolyte để khử trùng trong y tế, chế biến và bảo quản nông sản đã được thực hiện từ năm 2001.

Năm 2002, dung dịch anolyte được sử dụng dung để bảo quản vải thiều, thanh long, nho… Trong chăn nuôi gà, vịt, heo, dung dịch anolyte được sử dụng để phòng ngừa các bệnh đường ruột đạt kết quả tốt. Trong những năm gần đây, dung dịch anolyte này được nghiên cứu ứng dụng để thay thế các hóa chất thường dùng trong việc xử lý, khử trùng môi trường nước nuôi trồng thủy sản.

Dung dịch anolyte được điều chế bằng phương pháp điện hóa có nhiều ưu việt trong khử trùng môi trường nước. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là hiệu suất diệt khuẩn vẫn chưa tối ưu, tính ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản vẫn còn một số hạn chế. Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Văn Hiển, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cho biết, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một giải pháp có tính kế thừa và có tính mới nâng cao hiệu quả diệt khuẩn bằng phương pháp công nghệ điện hóa – siêu âm kết hợp chuyển hóa mật độ bọt khí của dung dịch anolyte thành vi bọt khí có hiệu suất diệt khuẩn rất cao, phân hủy các chất hữu cơ và các khí độc.

Kết quả khi sử dụng dung dịch anolyte để xử lý khuẩn Vibrio spp. với nồng độ muối 5g/L, hiệu suất đạt 54,8 %; tăng nồng độ muối lên 30g/L, hiệu suất đạt 96,4 % theo tỉ lệ dung dịch anolyte: khuẩn (1:1). Điều này chứng tỏ rằng, nếu càng tăng nồng độ muối NaCL, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. càng tăng. Khi kết hợp siêu âm – điện hóa, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp được nâng cao và có thể điều chế được dung dịch vi bọt khí.

Khi sử dụng dung dịch vi bọt khí được điều chế từ siêu âm- điện hóa kết hợp khảo sát theo nồng độ muối NaCl với điện áp cố định 4V , hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 77,7% nồng độ Nacl 5g/L. Với nồng độ NaCl 20g/L, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 100% với tỉ lệ dung dịch vi bọt khí : khuẩn (1:1). Dung dịch vi bọt khí có khả năng phân hủy xanh methylene và xử lý khuẩn Vibrio spp. tốt hơn so với khi sử dụng dung dịch anolyte được điều chế từ bộ điện hóa.

Cần ứng dụng rộng rãi

Về hiệu quả kinh tế, bằng việc kết hợp với Trường Đại học Khoa học trong việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ điện hóa- siêu âm, Công ty Huetronics đã tiến hành triển khai chế tạo và thương mại hóa thiết bị xử lý nước sử dụng công nghệ điện hóa- siêu âm với công suất lớn, cấp nước vào ao hoặc cấp nước tuần hoàn trong suốt vụ nuôi mà không dùng bất kỳ sản phẩm diệt khuẩn truyền thống nào.

Về hiệu quả kỹ thuật, theo đánh giá của các hộ nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế, ứng dụng giải pháp thiết bị điện hóa – siêu âm xử lý nước tuần toàn tại ao nuôi giá thành thấp, quy trình sản xuất đơn giản phù hợp với các vùng nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn. Đặc biệt, dung dịch vi bọt khí có tính năng ưu việt như có khả năng xử lý khuẩn Vibrio spp đạt hiệu quả cao, không độc hại, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng, thân thiện với môi trường. Cụ thể, đã giảm chi phí rất lớn về xử lý nước trong quá trình nuôi, chỉ tiêu tốn khoảng 700 đồng/m3 so với 2.000 đồng/m3 khi sử dụng các hóa chất để xử lý. Nâng tỷ lệ thành công các vụ nuôi trồng thủy sản rất lớn cho các hộ nuôi so với trước đây.

Giáo sư Vũ Hoan, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội đánh giá: Nghiên cứu, chế tạo thành công thiết bị điều chế vi bọt khí sử dụng công nghệ điện hóa kết hợp siêu âm công suất của Tiến sĩ Lê Quang Tiến Dũng đặc biệt có ý nghĩa về mặt kinh tế, xã hội lớn đã góp phần quan trọng trong việc chủ động phát triển các loại sản phẩm công nghệ cao, giá thành thấp, mang thương hiệu Việt.

Kết quả nghiên cứu không chỉ được ứng dụng hiệu quả cho các vùng nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế mà thiết bị điện hóa – siêu âm vi bọt khí còn được tín dụng cao ở các vùng nuôi tôm trọng điểm miền Nam như Gò Công, Tiền Giang, Bạc Liêu…Với những thành quả về mặt kinh tế, kỹ thuật và xã hội, đề tài đã đoạt giải Ba Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ toàn quốc (VIFOTEC) năm 2016 trong lĩnh vực công nghệ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên.

Hy vọng trong thời gian không xa, thiết bị này được ứng rộng rãi trong cả nước để mang lại hiệu quả cao cho người nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường và phát triển nuôi trồng thủy sản một cách bền vững.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Dự đoán trước bệnh trên các loài thủy sản nuôi bằng cách phân tích mẫu DNA môi trường

Để đánh giá sự hiện diện của mầm bệnh lây lan qua môi trường nước ở ngành nuôi cá chẽm Úc, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một kỹ thuật di truyền tiên tiến. Thành công của dự án cho thấy tiềm năng to lớn của kỹ thuật này đối với sự phát triển của ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản.

Giana Bastos Gomes là một nghiên cứu sinh tại Trung tâm Nuôi trồng thủy sản và Nghề cá nhiệt đới bền vững, thuộc Đại học James Cook, Úc. Cô đã thực hiện một dự án nhằm nghiên cứu khả năng sử dụng mẫu eDNA (environmental DNA) để phát hiện sự có mặt của các loài trùng miệng lệch (Chilodonella spp.) ở các trang trại nuôi cá chẽm nước ngọt. Các kết quả eDNA của Giana đã chỉ ra rằng có thể dự đoán được các đợt cá chết khi có nhiều kí sinh trùng lông tơ trong nước.

Chilodonella nghiêm trọng đến đâu và nó có ảnh hưởng đến các loài cá hay các vùng địa lý khác không?

Chilodonella spp. là những loài ký sinh trùng lông tơ phân bố trên toàn thế giới, lây nhiễm đến hầu hết các loài cá nước ngọt. Những ký sinh trùng này đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu đáng kể trong 10 năm qua do sự gia tăng nuôi thủy sản nước ngọt trên toàn thế giới. Việc tăng cường nuôi thâm canh của các hệ thống nuôi trồng thủy sản nước ngọt đã làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như chilodonellosis (bệnh nhiễm trùng do Chilodonella spp. gây ra).

Lấy mẫu eDNA khác như thế nào so với các thủ tục lấy mẫu truyền thống, chẳng hạn như mô bệnh học?

Sử dụng eDNA để phát hiện các mầm bệnh – chẳng hạn như vi khuẩn và ký sinh trùng – tập trung vào việc phát hiện và định lượng vật liệu di truyền mục tiêu có trong nước hoặc trầm tích, ví dụ trước khi động vật bị bệnh. Vì vậy, chúng ta có thể gọi nó là một phương pháp tiên đoán, trong khi mô bệnh học truyền thống xác định những mô bị tổn thương do bệnh gây ra khi động vật đã bị nhiễm bệnh và đang có triệu chứng của bệnh.

eDNA có được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản hoặc các ngành chăn nuôi khác?

eDNA chủ yếu được sử dụng cho các nghiên cứu về pháp y và bảo tồn. Đây là một cách tiếp cận mới đối với nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là cho mục đích thương mại, mặc dù đã được các nhà nghiên cứu sử dụng khá rộng rãi trong thời gian gần đây.

Về thời gian giữa lấy mẫu và cho kết quả?

Phụ thuộc vào khoảng cách giữa trang trại và phòng thí nghiệm. Một khi mẫu đã về phòng thí nghiệm thì chỉ mất vài ngày là có kết quả khuyếch đại vật liệu di truyền. Để một dự án nghiên cứu bắt đầu từ một mớ hỗn độn (như dự án của tôi), cần phải mất hai năm để phát triển phương pháp. Nhưng trong tương lai gần, chúng tôi muốn phát triển các thiết bị tại chỗ (tại trang trại) để thu được kết quả tối đa trong vòng hai giờ.

Trên thực tế, làm thế nào để so sánh chi phí? Và tính khả thi ra sao để đào tạo công nhân ở các trang trại nuôi cá sử dụng?

Phương pháp eDNA phải được sử dụng như một cách tiếp cận để phòng ngừa bùng phát dịch bệnh. Lý tưởng nhất là nên sử dụng kết hợp với việc phân tích các thông số về chất lượng nước. Người nuôi sẽ tiết kiệm tiền bằng cách không đợi cho đến khi vật nuôi bị bệnh để hành động. Giống như sức khỏe con người, phòng bệnh trong nuôi trồng thủy sản ít tốn kém hơn so với trị bệnh.

Lấy nước để thu mẫu eDNA rất đơn giản và bất cứ người nuôi nào cũng có thể làm được. Phần việc có tính kỹ thuật và phức tạp hơn thì hiện phải được làm trong phòng thí nghiệm phân tử. Nhưng trong tương lai, với việc sử dụng các thiết bị phát hiện tại chỗ, các kỹ thuật viên trong lĩnh vực này sẽ có thể thực hiện được.

Tôi cũng đang làm việc trên một thiết bị tại chỗ điểm dựa trên DNA (DNA-based point-of-care device) trong một dự án do công ty Nghiên cứu và Phát triển nghề cá (FRDC) cùng với Bộ Nông nghiệp và Thủy lợi Úc tài trợ nhằm giúp đỡ cho những người nuôi thủy sản ở các vùng hẻo lánh, xa các phòng thí nghiệm chẩn đoán.

Điều gì đã thu hút cô đến với ngành nuôi cá chẽm?

Cá chẽm (barramundi) là một loài cá mang tính biểu tượng ở Úc và đã thu hút được rất nhiều nghiên cứu, không chỉ ở nước này mà còn ở Châu Á. Từ thực tế này, cùng với mối quan hệ gần gũi mà tôi đã có được với các trang trại nuôi cá chẽm lớn ở Úc đã thôi thúc tôi tìm ra những cách giải quyết mang tính đột phá đối với các bệnh gây ra trên loài cá này.

Cô có ngạc nhiên về các kết quả nào không?

Tôi ngạc nhiên rằng kỹ thuật này đã làm việc rất tốt để phát hiện ra Chilodonella, vì nghiên cứu luôn có may rủi. Bạn có một ý tưởng khi bạn thiết kế dự án, nhưng kết quả có thể hoàn toàn khác so với những gì bạn mong đợi.

Nghiên cứu của cô đã làm sáng tỏ những điều kiện cụ thể thích hợp nào để dịch bệnh Chilodonella bùng phát?

Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh một số xu hướng liên hệ giữa lượng mưa thấp và mật độ Chilodonella cao, đặc biệt nguy hiểm đối với cá nhỏ. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiếp theo trên các loài cá khác cũng như lấy mẫu nước và các thông số về chất lượng nước thường xuyên hơn trong tương lai sẽ là rất quan trọng để xác định được các yếu tố môi trường thích hợp cho sự bùng phát của bệnh Chilodonella.

Các kết quả nghiên cứu của cô có gợi ý điều gì cho các ngành nuôi thủy sản khác?

Ý định kết hợp với nghiên cứu này là sử dụng phương pháp eDNA và các dữ liệu về chất lượng nước từ trang trại nuôi cá nước ngọt làm một mô hình để chứng minh khái niệm này. Hiện các ngành công nghiệp nuôi trồng thuỷ sản khác có thể sử dụng được phương pháp này.

Làm thế nào mà người nuôi có thể phản ứng để giảm thiểu những tác động của mật độ ký sinh trùng cao do kỹ thuật này phát hiện ra?

Mỗi loài thủy sản và hệ thống nuôi trồng thủy sản sẽ có cách tiếp cận khác nhau, nhưng trong trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, người nuôi có thể xem xét việc thay đổi thời gian nuôi trong năm và có thể cân nhắc để thả cá lớn hơn. Có thể có các phương pháp xử lý bằng hóa chất có hiệu quả hơn trước khi cá bị bệnh và ký sinh trùng lây lan thêm. Quan trọng hơn là eDNA có thể giúp các nhà quản lý trang trại cải tiến các quy trình an ninh sinh học và tăng cường năng lực phản ứng của họ.

Cô hoặc các nhà nghiên cứu khác có thể sử dụng các kết quả của nghiên cứu này như thế nào?

Các ứng dụng có thể của phương pháp eDNA trong nuôi trồng thuỷ sản là rất lớn. Ví dụ, liên kết giữa việc định lượng các mầm bệnh (phương pháp eDNA) trong các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản với các cảm biến thời gian thực để kiểm tra chất lượng nước có thể là một “kẻ là thay đổi cuộc chơi” đối với người nuôi. Nó có thể nhanh chóng chứng minh xu hướng giữa sự hình thành mầm bệnh và những thay đổi lớn của oxy hoặc nhiệt độ, ví dụ như thế. Tiếp cận nhanh chóng với loại thông tin này sẽ cho phép người nuôi áp dụng các chiến lược quản lý phù hợp để giảm thiểu hoặc tránh các tổn thất về kinh tế do dịch bệnh bùng phát gây ra.

Nguồn: TheFishSite.com được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phòng, chữa bệnh hiệu quả cho cá nuôi với 7 loại thảo mộc

Biến động của thời tiết như rét đậm, rét hại, xâm nhập mặn đã làm sức đề kháng của cá nuôi bị suy giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập, gây ra các bệnh. Để phòng bệnh theo hướng an toàn, việc sử dụng những loại thảo mộc sẵn có trong tự nhiên sẽ giúp xử lý môi trường ao nuôi, phòng ngừa dịch bệnh, giúp cá phát triển tốt.

1. Lá xoan – trị bệnh trùng mỏ neo, trùng bánh xe


Đặc tính của cây xoan có vị đắng, cá được cọ xát thì những con trùng mỏ neo, trùng bánh xe không bám vào vây và da.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 15 ngày ngâm lá xoan trong ao một lần với liều lượng 10 kg cành lá/100 m2 ao; hoặc 20 – 25kg lá xoan/lồng 8m3; có thể bón lót xuống ao với liều 0,3 kg/m3 trước khi thả cá vào ao ương 3 ngày.

Trị bệnh: Lấy cành lá xoan non bó thành lại đem ngâm trong ao nuôi cá đang có trùng mỏ neo, trùng bánh xe gây bệnh; cũng có thể ngâm trong bè hoặc vèo nuôi cá ở phía đầu nguồn nước với lượng 1,5 – 2,0 kg lá xoan/150 – 200 m2 ao đến khi thấy lá xoan bị mục thì vớt cành ra khỏi ao.

2. Lá đu đủ tía (lá thầu dầu) – trị bệnh loét mang, đốm đỏ ở cá

Lá đu đủ tía (cây thầu dầu),có vị đắng chứa hoạt chất Ricin, dùng để chữa bệnh loét mang, đốm đỏ ở cá.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 15 ngày ngâm lá đu đủ tía trong ao một lần với liều lượng 15 kg cành lá đu đủ tía/1000 m2 ao.

Trị bệnh: Lấy lá đu đủ tía bó thành bó ngâm xuống ao với lượng 2,5 – 3 kg lá/150 – 200 m2 ao. Đối với lồng nuôi cá ngâm 15 – 20 kg lá/8 – 10 m3 lồng.

3. Cây rau sam – trị bệnh viêm ruột do virus ở cá trắm cỏ

Cây rau sam có chứa beltalan ankaloit dùng chữa bệnh viêm ruột do vi khuẩn cho cá trắm cỏ.

Cách phòng bệnh: Định kỳ 10 ngày cho cá ăn một lần với liều lượng 1 kg rau sam/100 kg cá.

Trị bệnh: Lấy rau sam đem rửa sạch rồi thả vào khung cho cá ăn một lần/ngày, liên tục trong 5 – 7 ngày, với 1,5 – 3 kg rau/100 kg cá. Đối với cá giống, cần băm nhỏ rau rắc đều trên mặt ao, chú ý để cá thật đói rồi mới cho ăn.

4. Cây răng cưa (chó đẻ) – trị bệnh hoại tử ở cá trê


Cây chó đẻ răng cưa, là kháng sinh đối với vi khuẩn gây bệnh hoại tử ở cá trê, vòng kháng khuẩn 11 – 20 mm.

Cách sử dụng: Dùng 5 kg cây tươi, giã lấy nước rồi trộn vào 100 kg thức ăn để trị bệnh cho cá.

5. Cây nghể – trị bệnh viêm ruột, loét mang cho cá trắm cỏ, rô phi

Là loài cỏ mọc hoang dại ở nơi ẩm thấp (thường thấy ở các đầm lầy) sống quanh năm, thân cây có nhiều nhánh, lá hình lưỡi mác, có hoa đỏ mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá. Cây có vị cay nóng, hắc.

Cách trị bệnh: Lấy thân cây và lá băm nhỏ, nấu kỹ lấy nước, sau đó trộn với thức ăn cho cá ăn, với liều lượng 3kg thân lá nghể tươi/100kg cá giống, cho cá ăn liên tục từ 3 – 6 ngày. Cũng có thể dùng lá nghể khô xay thành bột trộn với thức ăn cho cá, 1-2kg nghể khô/100kg cá giống.

6. Cây sòi – trị bệnh thối rữa mang và trắng đầu ở cá


Cây sòi còn có tên khác là ô thụ quả, ô du, thác tử thụ. Cây sòi có nhựa, có khả năng diệt khuẩn. Dùng lá sòi để trị bệnh thoái rửa mang, tráng đầu ở cá. Lấy cành bó thành bó nhỏ cho xuống ao.

Trị bệnh: Cần bón xuống ao với nồng độ 6,0 ppm (6,0 gram cành lá sòi phơi khô/m3 nước) Thường dùng 1 kg cành lá sòi khô (hoặc 4 kg tươi) ngâm vào 20 kg vôi sống 2% trong một đêm, sau đó đun sôi 10 phút, pH trên 12 rồi bón xuống nước.

7. Cây cỏ sữa lá nhỏ – trị bệnh viêm ruột, bệnh thối rữa mang của cá do vi khuẩn

Cây cỏ sữa lá nhỏ có phổ kháng khuẩn rộng, có tác dụng ngưng máu, trung hoà độc tố. Dùng toàn thân cây để trị bệnh viêm ruột, thoái hoá mang cá do vi khuẩn gây ra.

Trị bệnh: Dùng 50 gram cây cỏ sữa khô hoặc 200 gram cây được giã thành bột + 20 gram muối cho 10 kg trọng lượng cá ăn trong 1 ngày, ăn liên tục trong 3 ngày.

Theo báo Nghệ An, được tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Lợi ích cá rô phi trong ao tôm

Môi trường vùng nuôi xuống cấp sau nhiều năm nuôi liên tục, quy trình nuôi thâm canh tăng mạnh thì ít nhất giải pháp này sẽ góp phần giảm bớt lượng thuốc, hóa chất đưa xuống ao nuôi, cá rô phi còn giúp giảm áp lực khí độc dưới đáy ao nuôi tôm, như các nhà khoa học nhận định: “cá rô phi là máy lọc nước sinh học” cho ao nuôi tôm.

Ông Nguyễn Văn Nhiệm – Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh tỉnh Sóc Trăng cho biết: “Môi trường xuống cấp nghiêm trọng, ở đây nhiều bà con trong hiệp hội cũng đã nuôi cá rô phi ghép trong ao nuôi, lấy nước nuôi cá rô phi để nuôi tôm thời gian vừa qua bà con làm rất hiệu quả. Tuy nhiên đây là biện pháp nuôi để ổn định môi trường, hạn chế thuốc hóa chất nhất là môi trường nước trong ao rất tốt, ít tốn chi phí để xử lý”.

Khi môi trường vùng nuôi thâm canh, tăng vụ với quy mô hơn 30.000 ha, canh tác mang tính chuyên canh nhiều năm liên tục đã gây ra tình trạng suy thóai, môi trường ao nuôi thì biện pháp nuôi cá luân canh, nuôi ghép cá rô phi trong ao là giải pháp khắc phục môi trường ao nuôi hữu hiệu trong giai đoạn này.

KS Trần Hoàng Dũng – Phó Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trần Đề cho biết: “Ngoài con cá rô phi thì cá kèo, cá chẻm,… có thể nuôi để rồi sau đó lấy nước để nuôi tôm.

Chúng ta có thể nuôi một vụ cá kèo, cá chẻm sau vài tháng thì lấy nước vào ao nuôi rất hiệu quả. Tuy nhiên cá chẻm chi phí nuôi rất cao nên tốt nhất là nuôi cá rô phi để lấy nước nuôi tôm là tốt nhất, dễ làm nhất”.

Thạc sĩ Lâm Ánh Tiên – Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng cho biết thêm: “Các nhà khoa học cũng đã chứng minh được hình thức nuôi cá phi trong ao, nuôi lồng, nuôi cá lấy nước nuôi tôm thì lợi ích khá lớn vì nguồn nước này có chứa các loại vi khuẩn có lợi.

Nuôi cá rô phi trong ao lắng là một phương pháp vệ sinh nước trước khi nuôi tôm, giảm bớt tối đa sự phát sinh mầm bệnh xảy ra trong ao tôm. Theo thống kê thì ao nuôi cá rô phi có màu nước tốt, ít tảo tàn, môi trường ổn định. Cá rô phi có khả năng làm xanh nước, giảm sự phát triển vi sinh vật. Nhiều nhà khoa học cho rằng lấy nước nuôi cá rô phi phục vụ nuôi tôm có lợi ích khá lớn, vì nguồn nước này chứa vi khuẩn có lợi. Hơn nữa, cá rô phi còn sử dụng xác tôm, cá, động vật thủy sản chết, từ nguồn nước lấy vào hệ thống ao lắng, nhằm hạn chế sự phát tán của sinh vật gây bệnh từ ngoài vào hệ thống nuôi. Như vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng để có nguồn nước chất lượng tốt, dùng trong ao nuôi tôm hạn chế tối đa sự phát triển mầm bệnh.

Nghiên cứu của Đại học Arizona (Mỹ) đã xác định cá rô phi giúp thiết lập hệ sinh thái vi sinh trong nước với các quần thể tảo và vi khuẩn cân bằng. Trong một hệ sinh thái vi sinh cân bằng như vậy, vi khuẩn gây bệnh ít có cơ hội phát triển đến đủ mật độ có thể gây bệnh cho tôm. Vì vậy, nuôi cá rô phi trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi có thể đem lại tác dụng phòng bệnh tích cực, giúp khống chế bệnh hoại tử gan tụy cấp.

Nuôi ghép cá phi sẽ làm giảm các độc tố đáy ao tôm, như khí NH3 gây ô nhiễm nền đáy ao. Mặt khác khi lấy nguồn nước này thì các chất lơ lững trong ao nuôi rất hạn chế, có lợi cho nuôi tôm”.

Lợi ích từ quy trình luân canh để lấy nước từ ao nuôi cá sang nuôi tôm, hình thức nuôi ghép, nuôi đăng quầng… đã khẳng định được tính hiệu quả, song hình thức này cũng chỉ phù hợp với mật độ thấp, còn đối với quy trình nuôi tôm thâm canh hiệu quả nhất cũng chỉ ở mật độ 30 – 40 con/m2 là thích hợp.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, đặc biệt là hệ thống thủy lợi vừa giữ vai trò cấp nước vừa thoát nước như hiện nay thì xu hướng nuôi tôm an toàn sinh học là hướng phát triển trước mắt đối với vùng nuôi tôm giai đoạn hiện nay.

Những ao lắng được nuôi cá rô phi, những đăng quần giữa ao nuôi, nuôi ghép cá rô phi trong ao tôm xuất hiện ngày càng nhiều là một tín hiệu đáng phấn khởi trước xu thế nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh tăng nhanh như hiện nay.

Nguồn: Tomvang được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp mới ngăn ngừa tuyến sinh dục cá phát triển

Các nhà khoa học Hoa Kỳ mới đây đã tìm ra một phương pháp mới gây bất dục trên cá bằng cách ngăn cản sự phát triển của tế bào mầm mà không dùng kỹ thuật gây đột biến hay chuyển gen. Mở ra một triển vọng nhằm nâng cao năng suất thịt cá và an toàn cho người tiêu dùng.

Lợi ích của việc gây bất dục trên cá

Việc gây bất dục cá nuôi cung cấp cho ngành nuôi trồng thuỷ sản một số lợi ích đáng kể. Đối với nông dân, nó có thể ngăn chặn cá thành thục sinh dục sớm hơn mong muốn vì sự trưởng thành sớm sẽ làm giảm chất lượng thịt và làm cho cá dễ bị bệnh hơn.

Việc gây bất dục cũng có thể hạn chế tác động môi trường của chúng trong việc phòng ngừa các mầm bệnh, vốn thường không tối ưu trong cuộc sống ngoài tự nhiên.

Phương pháp làm bất dục cá

Trình tự của sự làm bất dục theo phương pháp mới này là: Trứng được tiếp xúc với áp suất cao hoặc nhiệt độ cao, phá vỡ chuyển động của nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào. Các trứng được xử lý sẽ giữ lại nhiều nhiễm sắc thể hơn bình thường – ba thay vì chỉ hai – làm cho động vật không có khả năng sinh sản sau này.

Biện pháp này cũng đã được sử dụng trong các hệ thống nông nghiệp trên cạn. Hầu hết các loại chuối và dưa hấu không hạt mà chúng ta ăn chẳng hạn. Cũng có thể gây bất dục cho từng cá thể – chẳng hạn như làm bất dục bằng thủ công nhưng cần có nhiều thao tác hơn – và thực sự chỉ thích hợp cho việc xử lý một số lượng nhỏ cá cùng một lúc.

Các bước của phương pháp tạo ra cá bất dục cho nuôi trồng thuỷ sản. Các hợp chất gây bất dục được điều khiển bởi ngâm tắm, phá vỡ sự phát triển của tế bào mầm ở giai đoạn rất sớm, dẫn đến sản xuất cá bất dục

Tiến sĩ Ten-Tsao Wong (Đại học Maryland, Quận Baltimore)cho biết các quy định khác nhau của các quốc gia cũng là một trở ngại đáng kể. Ngay cả khi có sự chấp thuận của chính quyền, vẫn còn một trở ngại nữa để vượt qua – đó là sự lựa chọn của người tiêu dùng, cho đến nay đã có sự phản đối đáng kể đối với cá biến đổi gen. Do đó nếu mọi việc suôn sẻ, quá trình này có thể mang lại nhiều lợi thế hơn: Nó không đòi hỏi phải có một giống cá mới biến đổi gen; Phương pháp tắm có thể dễ dàng kết hợp vào các phương pháp canh tác hiện đang được sử dụng; Và quá trình này có thể gây bất dục một số lượng lớn trứng trong một lần.

Wong, tác giả của nó được hỗ trợ bởi Chương trình Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản  Hoa Kỳ và Chương trình Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản NOAA, cũng đã xem xét việc phá vỡ sự phát triển tế bào mầm nguyên thủy bằng kỹ thuật ngâm chứ không phải là sự biến đổi di truyền. Ông đã phát triển một bồn tắm đặc biệt bao gồm một phân tử tổng hợp được thiết kế để phá vỡ biểu hiện gen, và một chất mang để đưa phân tử vào trứng. Việc xử lý ngăn ngừa tuyến sinh dục phát triển tạo ra cá bất dục. Wong hy vọng rằng trong vài năm tới, ông sẽ có thể đánh giá hiệu quả của cá được xử lý bằng phương pháp ngâm và so sánh chúng với cá tam bội.

Sự khác biệt giữa cá tam bội và cá lưỡng bội

Cá hồi Đại Tây Dương cá Triploid (tam bội) có nhu cầu về phốt pho cao hơn cá nheo – đặc biệt là những con non và trải qua sự tăng trưởng nhanh. Nghiên cứu của Tiến sĩ Per Gunnar Fjelldal (Viện Nghiên cứu Hàng hải, Na Uy) đã cho thấy rằng nếu không có đủ phốt pho – cá thậm chí cũng có thể tử vong. Điều này có nghĩa là triploid (3n) không nên chỉ đơn giản được cho ăn cùng một chế độ ăn như các đối tượng lưỡng bội (2n), như thường xảy ra. Chính xác bao nhiêu phốt-pho nên được thêm vào chế độ ăn của chúng để thực hiện tối ưu là một vấn đề cần điều tra nghiên cứu.

Cũng đã có kết luận rõ ràng rằng cá hồi tam bội nhạy cảm hơn với nhiệt độ và sự giảm ôxy (oxy thấp) hơn cá lưỡng bội bình thường. Theo Tiến sĩ Florian Sambraus (Viện Nghiên cứu Hàng hải, Nauy), có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, lượng thức ăn ăn được và tỷ lệ tử vong. Trong các thí nghiệm của mình, cá tam bội cho thấy lượng thức ăn ăn được cao hơn đáng kể so với cá lưỡng bội khi nhiệt độ trong khoảng từ 3° C đến 9°C, với lượng ăn vào đạt đến đỉnh điểm ở 12°C. Nguồn cung cấp thức ăn của lưỡng bội, đạt đỉnh điểm lúc 15°C, chỉ vượt qua cá tam bội một khi nhiệt độ vượt quá 12°C.

Khi họ xử lý cho các điều kiện thiếu oxy, cá triploid (3n) thực sự phải rất khó khăn: lượng thức ăn ăn vào giảm và ở nhiệt độ 18°C đã trở thành một vấn đề khó khăn đáng kể đối với chúng. Nghiên cứu cung cấp lời khuyên cho các nhà nuôi trồng thuỷ sản cá hồi: Chỉ nên nuôi cá hồi ta bội ở những nơi có tình trạng giảm ôxy hiếm khi xảy ra – và ở những nơi nhiệt độ nước không cao hơn 15°C. Nếu điều kiện thay đổi nhiều hơn nơi trang trại của bạn, cá lưỡng bội có thể là đối tượng an toàn nhất.

Kết luận: Phương pháp xử lý ngăn ngừa tuyến sinh dục phát triển để tạo ra cá bất dục bằng việc ngâm là một hứa hẹn trong tương lai bởi tốc độ tăng trưởng cũng như an toàn cho người tiêu dùng.

Nguồn: TheFishSite được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Thủy sản đơn tính

Ở một số loài thủy sản nước ngọt, giới tính đực hoặc cái sẽ có kích thước và chất lượng vượt trội hơn hẳn giới tính cò lại. Tuy nhiên, khi đưa vào nuôi thương phẩm thì đa số thường nghiêng về giới tính bất lợi cho người nuôi. Vì vậy, người nuôi có xu hướng tạo vật nuôi đơn tính toàn đực hoặc toàn cái nhằm tăng hiệu quả kinh tế.

Hiện nay, có khá nhiều phương pháp được ứng dụng trong thực tế như: lai xa, xử lý bằng hormon sinh dục, kỹ thuật nhiễm sắc thể, thông qua con siêu đực, siêu cái hoặc kết hợp giữa nhiều phương pháp với nhau.

Cá rô phi

Cá rô phi là loài thuộc chi Oreochromis, có số lần sinh sản trong năm tới 12 – 13 lần, vì vậy, nếu trong đàn cá nuôi có số lượng con cái quá nhiều thì sản lượng thu hoạch sẽ thấp. Nguyên nhân, do các con cái phải tích lũy chất dinh dưỡng để phát triển buồng trứng nhằm đáp ứng nhiều lần sinh sản trong năm, do đó tốc độ tăng trưởng giảm khiến sản lượng thấp.

Cá Rophi đực có kích thước vượt trội

Phương pháp dùng hormone chuyển đổi giới tính: Người nuôi có thể trộn hormone vào thức ăn cho cá; ngâm (tắm) cá vào dung dịch trộn hormone hoặc tiêm hormone vào cơ thể. Phương pháp này được ứng dụng trên khá nhiều loài rô phi khác nhau để tạo đàn toàn đực. Kết quả từ phương pháp này cho thành công tới 95 – 97%. Hormone sử dụng trong phương pháp này gồm hai nhóm: Androgen chuyển giới tính từ cá cái thành cá đực và Oestrogen chuyển từ đực thành cái. Với nhóm Androgen, người nuôi có thể sử dụng hormone 19-nor-ethynylestotestosteron (thuộc nhóm mạnh nhất) hoặc Methytestosteron được tổng hợp nhân tạo có hiệu lực không thua kém và cũng có hiệu quả đối với nhiều loài cá, trong đó có cá rô phi. Nhóm Oestrogen có 2 loại phổ biến: Oestradiol-17b và Ethynyloestradiol. Phương pháp được tiến hành theo sơ đồ sau:

Cá bột => Oestrogen trộn vào thức ăn => cá cái

Cá bột => Androgen trộn vào thức ăn => cá đực

Phương pháp lai xa: Dựa trên việc xác định thành công giới tính, từ đó tiến hành lai hai loài cá rô phi thuộc hai nhóm khác nhau sẽ thu được ở thế hệ con lai F1 có 100% cá đực. Với phương pháp này, cá bố mẹ sau thời gian nuôi vỗ khoảng 45 – 60 ngày, bắt cá đực và cái mổ kiểm tra mức độ thành thục của tuyến sinh dục đực và cái. Mức độ thành thục khoảng 70% trên tổng số quần đàn, tiến hành ghép cá bố mẹ phục vụ cho sinh sản. Trong thời gian cá bố mẹ sinh sản, người nuôi sẽ tiến hành thu và vớt trứng. Tùy thuộc vào nhiệt độ nước của ao trong quá trình sản xuất giống mà xác định lịch thu trứng. Nhiệt độ nước 20 – 23oC thì chu kỳ thu trứng là 10 – 12 ngày; nhiệt độ nước 27oC trở lên thì chu kỳ thu trứng chỉ là 7 ngày.

Cá rô đồng

Cá rô đồng thuộc chi Anabas, con cái thường có tốc độ tăng trưởng vượt trội so con đực vì sinh sản ít lần trong năm, tích lũy nhiều mỡ và khối lượng buồng trứng rất lớn, chứa nhiều dinh dưỡng làm trọng lượng con cái lớn hơn con đực rất nhiều.

Cá rô đồng đực (dưới) có kích thước lớn hơn so với cá cái (trên)

Trước đây, người nuôi đã áp dụng phương pháp thủ công bằng hình thức lọc đàn cá thông qua mắt lưới (còn gọi là chặt đầu con), tuyển lại những con có kích thước lớn hơn để nuôi riêng. Đa số những con lớn đều là những con cái, có tốc độ phát triển nhanh hơn và quá trình tuyển lựa này phải được thực hiện 2 – 3 lần trong 1 chu kỳ nuôi, tỷ lệ con cái sẽ đạt 65 – 70%. Mới đây, một nghiên cứu đã thành công trong  sản xuất giống cá rô đồng toàn cái bằng phương pháp tạo cá đực đặc biệt. Giải pháp này nhằm tạo ra những cá đực đặc biệt, mang bộ nhiễm sắc thể cái (XX). Phương pháp cho thế hệ cá con với tỷ lệ cá cái 75 – 92%, trong khi ở điều kiện sản xuất bình thường, tỷ lệ cá cái chỉ khoảng 40%.

Tôm càng xanh

Ở loài tôm càng xanh (tên khoa học Macrobranchium rosenborgii) do con cái thường phải ôm trứng nhiều lần trong chu kỳ sống, ngay cả khi trọng lượng cơ thể còn nhỏ chúng đã tham gia sinh sản và phải sử dụng nhiều chất dinh dưỡng nuôi buồng trứng. Nhưng do điều kiện môi trường không phù hợp (tôm càng xanh đẻ trứng và trứng phải nở trong môi trường nước mặn) nên trứng dần thoái hóa và thải ra môi trường bên ngoài mang theo nhiều dinh dưỡng.

Tôm càng xanh đực (trên) có kích thước lớn hơn hẳn so với con cái (dưới)

Hiện, có 2 phương pháp sản xuất đàn giống tôm càng xanh toàn đực: Phương pháp vi phẫu tạo con cái giả và phương pháp tiêm sợi đôi iRNA chuyển giới tính tôm đực. Đối với phương pháp vi phẫu: Cắt tuyến sinh dục đực của 1 con tôm đực trưởng thành; sau đó, cho giao phối với một con tôm đực khác có ngoại hình tốt và tốc độ tăng trọng nhanh để sản xuất ra 1 đàn giống tôm càng xanh toàn đực. Phương pháp tiêm sợi đôi iRNA: Ở tôm càng xanh và các đối tượng giáp xác khác, sự biệt hóa của tuyến đực có liên quan gen Insulin-like. Gen này điều khiển sự phát triển và biệt hóa tôm con thành con đực. Nguyên tắc của tiêm iRNA là tạo liên kết bất hoạt gen này, do đó tuyến đực không thể hoạt động để chuyển tôm con thành con đực mà sẽ phát triển thành con cái. Với công nghệ này, sau khi tôm chuyển cái thì tỷ lệ thành thục là 95% và số tôm thành thục này tham gia sinh sản đạt 98 – 100%.

Cá chình

Cá chình (Anguilla sp) loài loài thủy sản di cư sinh sản phức tạp nên chưa thể sản xuất giống nhân tạo được. Cá cái có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn và kích thước cơ thể lớn hơn cũng như chất lượng thịt thơm ngon hơn so với cá chình đực.

Công ty nuôi trồng thuỷ sản mới NovaEel  đã thành công trong việc biến cá chình thủy tinh đực thành cá cái, và nuôi chúng ở mật độ cao, các sản phẩm này không gây nguy hại cho sức khoẻ con người. Phương pháp chuyển đổi giới tính trên cá chình bằng cách sử dụng một loại estrogen có tên là estradiol có thể cái hóa này ngay cả trước khi cá chình phát triển bất cứ đặc điểm sinh dục nào có thể nhìn thấy. Điều quan trọng hơn là sau vài ngày hàm lượng estradiol của chình trở lại bình thường,không để lại dư lượng nào trong mô nên đặc biệt an toàn với người tiêu dùng.

Hiện phương pháp này mới chỉ có công ty nuôi trồng thuỷ sản mới NovaEel áp dụng thành công và ở Việt Nam chưa có công nghệ này.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Phương pháp mới chuyển đổi giới tính cá chình tăng năng suất thịt

Một nghiên cứu mới có tính đột phá của nhóm các nhà khoa học Canada trong việc cải thiện chất lượng và năng suất thịt cá chình thông qua phương pháp chuyển đổi giới tính.

Thực hành đánh bắt cá con từ tự nhiên và nuôi chúng ở các trang trại cho đến tuổi trưởng thành đã cung cấp cho thị trường Châu Á những món ăn có hương vị thơm ngon và đầy dinh dưỡng, nhưng phần lớn là cá chình đực, không đủ cung cấp cho thị trường những sản phẩm thật sự chất lượng.

Sự đổi mới từ Nova Scotia, Canada có thể làm cho loại hình nuôi cá nước này trở thành hoạt động có tính thương mại bằng cách biến cá chình đực thành những con cái trưởng thành nhanh hơn và nặng hơn.

Công ty nuôi trồng thuỷ sản mới NovaEel cho biết họ đã thành công trong việc biến cá chình thủy tinh đực thành cá cái, và nuôi chúng ở mật độ cao, các sản phẩm này không gây nguy hại cho sức khoẻ con người.

Công ty đã làm việc với các nhà khoa học tại Trường Y khoa Dalhousie để hoàn thiện phương pháp chuyển đổi cá chình đực thành cái.

Tiến sĩ James Fawcett, giáo sư thuộc khoa Dược lý và giải phẫu cho biết: “Chúng tôi đã xác nhận một phương pháp chuyển đổi giới tính trên chình bằng cách sử dụng một loại estrogen có tên là estradiol có thể cái hóa này ngay cả trước khi cá chình phát triển bất cứ đặc điểm sinh dục nào có thể nhìn thấy”. Bài báo được công bố tại Dalhousie University, Dal News. “Điều quan trọng nhất đối với sức khoẻ con người, chúng tôi nhận thấy rằng hàm lượng estradiol của chình trở lại bình thường chỉ trong vài ngày, không để lại dư lượng nào trong mô.”

Trường đại học này cho biết, với thách thức chính của nghề nuôi chình, bước tiếp theo của NovaEel là tìm kiếm sự chấp thuận của FDA và Health Canada cho quá trình này và thuốc sử dụng, và sau đó chuyển sang các vấn đề thực tế trong việc nuôi chình cái.

NovaEel dự định thu hoạch chình ở tự nhiên và nuôi chúng ở các cơ sở sản xuất có năng suất thấp. Ông Dal News cho biết, dự kiến bắt đầu nuôi cá chình vào đầu năm 2020, giả định tất cả đều tốt với sự chấp thuận của cơ quan quản lý.

Giám đốc điều hành của NovaEel nói. “Chúng tôi muốn nắm bắt được giá trị tiềm năng của ngành công nghiệp này đối với nền kinh tế hàng hải bằng cách cao giá trị của chình biển tại thị trường ở đây. Nhờ các đối tác của chúng tôi tại Dalhousie, chúng tôi hy vọng sẽ có thể làm điều đó.”

Nguồn: Tepbac được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.