Hứa hẹn tiềm năng cá anh vũ

Anh vũ (Semilabeo notabilis Peters, 1881) là một loài cá quý, thịt thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao. Việc đưa cá anh vũ vào nuôi đang mở ra một hướng đi mới nhiều hứa hẹn.

Đặc điểm sinh học

Cá anh vũ thuộc họ cá chép (Cyprinidae), bộ cá vược (Cypriniformes), mình thon dài màu xám tro, bụng màu vàng nhạt, có 2 đôi râu. Râu mõm lớn hơn râu hàm. Miệng có môi trên rộng, nhiều u tròn nổi. Rãnh sau môi dưới không có. Kích cỡ mắt trung bình, vây lưng không có tia gai cứug và có màu xám, vây ngực, vây bụng, vây hậu môn có màu xám pha vàng. Vảy vừa phải, xếp đều đặn, phủ kín toàn thân.

Cá anh vũ sống chủ yếu trong các ghềnh đá ngầm, nơi có nguồn nước chảy mạnh ở thượng lưu sông Hồng, sông Kỳ Cùng và sông Lam, thuộc các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Lạng Sơn và Nghệ An.

Đây là loài cá có tốc độ sinh trưởng chậm, ngoài tự nhiên tốc độ tăng trưởng của cá khoảng 0,2 – 0,3 kg/năm, kích cỡ cá trưởng thành 30 – 70cm, trọng lượng có thể đạt 5kg. Cá tham gia sinh sản sau 2 – 3 năm tuổi, mùa sinh sản bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 4 (dương lịch), trong các hang động dưới đáy sông.
Ngoài tự nhiên, cá chỉ xuất hiện vào cuối thu đầu đông khi trời có sương mù, không có mưa trên thượng nguồn, nước trong. Mùa hè mưa nhiều, nước nguồn đục hầu như cá không xuất hiện.

Triển vọng trong nuôi trồng

Cá anh vũ được xếp vào hàng “ngũ quý hà thủy”. Hiện nay, trên thị trường mỗi kilogam cá đánh bắt ngoài tự nhiên có giá hàng triệu đồng. Do giá trị cao, nhu cầu lớn nên ngư dân tại các khu vực sông nơi cá phân bố ráo riết săn bắt, thậm chí cả trong mùa sinh sản. Do vậy, cá anh vũ có nguy cơ tuyệt chủng rất cao.

Trước tình hình trên, Trung tâm Quốc gia Giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc (Phú Tảo, Gia Lộc, Hải Dương) đã thực hiện đề án ”Bảo tồn, tái tạo và phát triển nguồn gen cá anh vũ”. Kết quả, đã nghiên cứu sinh sản thành công và hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm cá anh vũ bằng thức ăn công nghiệp, mở ra một triển vọng lớn đối với nghề nuôi cá quý hiếm.

Theo ông Nguyễn Anh Hiếu, Phó Giám đốc Trung tâm thì triển vọng của nghề nuôi đối tượng đặc sản này là rất khả thi. Cá anh vũ tốc độ sinh trưởng chậm nhưng bù lại có giá trị kinh tế. Đối tượng này có thể nuôi trong ao nước chảy, trong lồng bè và những nơi có nguồn nước trong sạch và có hàm lượng ôxy hòa tan cao (4mg/l trở lên). Mùa vụ thả giống từ tháng 5 dương lịch, mật độ 2 – 3m2/con. Thức ăn cho cá nên kết hợp giữa thức ăn nhân tạo và tự nhiên, thời gian nuôi từ 1 năm trở lên mới có thể thu hoạch.

Cá anh vũ mới được thuần hóa từ tự nhiên nên sự thích nghi của nó đối với môi trường nuôi chưa cao. Do vậy cần đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống ao nuôi, lồng nuôi bài bản và phải nắm rõ quy trình kỹ thuật. Mặt khác, do cá có tốc độ sinh trưởng chậm nên thời gian nuôi dài, ở môi trường nuôi nhân tạo cá thường mắc một số bệnh ngoài da nên chế độ chăm sóc cũng khắt khe hơn… Việc nuôi thành công loài cá này không chỉ giúp một loài cá quý hiếm thoát nguy cơ tuyệt chủng, mà còn góp phần đa dạng trong nuôi trồng thủy sản.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Phòng và trị bệnh hay gặp ở cá trê lai

Cá trê có sức chống chịu với bệnh tật rất cao. Tuy vậy ở điều kiện nuôi dưỡng quá xấu, một số bệnh thường phát sinh.

Cá trê lai vàng

Cá trê cũng như các loại thủy sản khác, lấy công tác phòng bệnh là chủ yếu:

    * Phòng bệnh:

    + Cải tạo ao ban đầu thật kỹ, vùng nuôi phù hợp, sạch, thức ăn đảm bảo chất lượng, hợp vệ sinh.

    + Vận chuyển cá giống không để xây xát, trước khi thả cá vào ao nuôi nên tắm qua bằng nước muối 3% trong 5 phút hoặc Iod 10% trong 5-10phút.

1. Bệnh do vi khuẩn

    * Triệu chứng: Cơ thể có nhiều vết loét rỉ máu, vây cá bị thối, râu quăn, bụng trướng, da tiết nhiều chất nhầy, cá chết rất nhanh.

    * Tác nhân gây bệnh: do các loại vi khuẩn Aeromonas sp, Flexibacter sp… gây nên.

    * Trị bệnh:

    + Thay nhiều nước, tốt nhất nên xi phông lớp đáy dơ.

    + Bón vôi 15-20kg/1000m3 kết hợp trộn thuốc kháng sinh Oxytetracylin hoặc Gencin, Ciprocan, Beta N…vào thức ăn với liều lượng 3-5g/kg thức ăn.

    + Sau khi ổn định cho cá ăn Vitamin và men tiêu hóa để cá phục hồi đồng thời phục hồi đáy ao bằng Zeofish.

2. Bệnh do ký sinh trùng

    * Triệu chứng: trên da có nhiều chất nhày, vết loét rỉ máu, vây thối, có những điểm trắng trên lưng. Cá có màu đen hơn so với bình thường, cá bị mất thăng bằng.

    * Tác nhân: Do các loại ký sinh trùng: trùng bánh xe, Costia…

    * Điều trị: phun  Sunphát đồng (CuSO4) trực tiếp xuống ao với liều lượng 0,3-0,5ppm hoặc Formalin 30-50ppm để 2-3 ngày sau mới thay nước.

    Cho ăn ngày 2 lần : 5-6h và 16-18h, nên cho ăn tại những vị trí cố định trong ao để dễ theo dõi, điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cá trê lai

Cá trê lai là cá được lai giữa cá trê phi và cá trê vàng, có ngoại hình tương tự cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu dẹp, thân hình trụ, dẹp ở đuôi. Thân có màu xám có những chấm nhỏ mờ, u lồi xương chẩm có hình gần giống chữ M với các góc tròn, trong khi ở cá trê vàng là chữ U còn có trê phi là chữ M có các góc nhọn và rõ nét. Cá trê lai dễ nuôi, mau lớn, nuôi tốt có thể  tăng trọng bình quân 100g/con/tháng.

Cá trê lai

Chọn địa điểm và xây dựng ao

– Chọn nơi có nguồn nước sạch và chủ động nguồn nước để thay, chất đất là đất thịt hoặc cát pha sét để đắp bờ.

    – Xây dựng ao: có thể nuôi bằng ao đất bình thường hoặc bể xi măng có đáy là bùn đất. Ao có hình chữ nhật (để dễ kéo lưới khi thu hoạch). Diện tích ao thích hợp để nuôi cá trê từ 1.000-3.000m².

Độ sâu mức nước trong ao từ 1,2-1,5m. Bờ ao phải cao hơn mực nước cao nhất là 0,6m và được đầm nén thật chặt, không để nước rò rỉ hoặc chảy thành dòng từ mặt bờ xuống ao vì đặc điểm cá trê thường dùng hai ngạnh cứng của vây ngực để bò, kết hợp đầu bẹt và đuôi quạt rất mạnh để chui và đào ngoáy chỗ rò rỉ thành hang ổ để trú hoặc đi sang ao khác, cá có thể bò hàng giờ trên cạn và bò theo ngược dòng nước rất nhanh. Do đó để chống cá đi ta phải cho chảy rót thẳng xuống ao hoặc dẫn đường ống cấp nước vào trong lòng ao, đầu 2 cống cấp và thoát nước phải có bọc nylon hoặc lưới sắt không cho cá đi. Xung quanh ao không có cây cối che phủ.

Chuẩn bị ao

  – Đối với ao cũ: vét sạch lớp bùn đáy, xảm trét lỗ rò rỉ, đầm nén chặt sau đó tiến hành rãi vôi ở khắp đáy ao và mái bờ. Liều lượng vôi tùy thuộc và độ phèn của ao. Nếu ao ít phèn (pH trên 4,5) dùng 50 – 100 kg/1000m2, nếu ao nhiều phèn (pH dưới 4,5) dùng 100 – 150kg/1000m2.

Sau khi bón vôi xong phơi nắng đáy ao từ 2 – 3 ngày để diệt tạp. Tiếp theo bón phân chuồng ủ hoai (với 1% vôi) với lượng 100-150kg/1000m2. Lấy nước qua lưới lọc 0,5mm để ngăn cá dữ, địch hại vào ao, độ sâu mực nước 1,2-1,5m.Kiểm tra lại các thông số môi trường để điều chỉnh cho thích hợp rồi tiến hành thả giống.

Đối với những ao không có điều kiện tháo cạn nước, trong ao có nhiều cá tạp thì dùng rễ cây thuốc cá dập kỹ ngâm một đêm vắt lấy nước pha loãng tạt đều khắp ao, liều lượng 1kg rễ/1000m² nước hoặc dùng Saponin liều lượng dùng theo hướng dẫn trên bao bì để diệt hết các cá tạp, cá dữ còn trong ao. Thời gian xử lý thuốc diệt cá tốt nhất là vào lúc 7-8h sáng. Chú ý sau khi xử lý thuốc diệt cá phải để 7-10 ngày sau mới thả cá giống.

    – Đối với ao mới: Lấy nước ngâm ao 5-7 ngày sau đó sục rửa nhiều lần để loại bớt chất phèn, kiểm tra lại lỗ rò rỉ, đầm nén cho kỹ rồi tiến hành trình tự các bước; bón vôi, bón phân gây màu, lấy nước kiểm tra môi trường như ao cũ. Sau 5-7 ngày tiến hành thả cá.

Thả giống

1. Chọn giống

    – Chọn mua giống tại các trại có uy tín và chọn trại gần nhất.

    – Chọn giống có kích thước đồng đều, khỏe mạnh, không xây xát, không có dấu hiệu bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn.

    – Cỡ giống chọn thả nuôi tốt nhất: 200 – 300 con/kg.

2. Vận chuyển

    – Cho cá nhịn đói 1-2 ngày trước khi vận chuyển để cá thải hết phân.

    – Vận chuyển bằng 2 phương pháp:

    + Phương pháp hở có sục khí: dùng thùng xốp có lót ni lông, gắn máy sục khí, chứa mật độ 0,1-0,15kg cá giống/1lít nước, sau 3-4 giờ thay nước 1 lần.

    + Phương pháp vận chuyển bằng túi nilon có bơm oxy: Mật độ 0,15-0,2 kg cá giống/1lít nước. Thể tích giữa nước và oxy trong túi là 1:2, sau khi vận chuyển 8 giờ nên thay oxy mới.

    – Nhiệt độ khi vận chuyển 25-32oC. Cần vận chuyển lúc trời mát hoặc có biện pháp hạ nhiệt để chống nóng cho cá.

    – Thời gian thả cá tốt nhất là vào sáng sớm và chiều mát. Để phòng ngừa cá bị bệnh ngoại ký sinh trước khi thả cá xuống ao nuôi ta nên tắm cho cá bằng nước muối 2-3% (20-30gam muối/1lít nước) trong 3 -5 phút. Trước khi thả nên ngâm bao trong nước ao 10-15 phút để cân bằng nhiệt độ trong và ngoài, sau đó mở miệng bao cho một ít nước vào trong bao để yên trong 5 phút rồi thả cá tự bơi ra ngoài.

3. Mật độ thả

    Nuôi đơn thả 15-25 con/m2.

    Nuôi ghép thả 90% trê lai và 10% cá khác (Trắm, trôi, mè, chép,…).

Quản lý và chăm sóc

1. Cho ăn

    Cá trê rất háu ăn và ăn tạp, khả năng tiêu hóa mạnh

    Sử dụng các loại thức ăn: cám gạo, gạo kém phẩm chất, ngô, bã rượu, bột cá nhạt, tôm, cua, ốc, phế phẩm lò mổ, phân gia súc, gia cầm…để cho cá ăn. Có thể dùng thức ăn tổng hợp viên có bán trên thị trường.

    – Tháng đầu tiên: dùng thức ăn dạng bột như cám nhuyễn, bột cá, bột đậu nành rải trên mặt nước hoặc cám tổng hợp cho gia súc. Hoặc dùng cá tạp xay nhỏ trộn với cám gạo đặt vào sàng cho ăn. Lượng cho ăn bằng 20-30% trọng lượng cá.

    – Tháng 2 đến tháng 4: Cho cá ăn từ 10 – 15% trọng lượng thân, thành phần thức ăn bao gồm:

   + Cám gạo                                              : 35%

   + Bột cá                                                  : 50%

   + Rau xanh                                              : 10%

   + Khoáng chất, vitamine, men tiêu hóa     : 5%

    – Tháng 5 đến tháng 6: Khẩu phần ăn là 5% trọng lượng thân, thành phần thức ăn bao gồm:

   + Cám gạo                                              : 40%

   + Bột cá                                                  : 55%

   + Rau xanh                                              : 10%

   + Khoáng chất, vitamine, men tiêu hóa      : 5%

    *Cách chế biến thức ăn: Các loại bột nấu chín trộn với dầu cá, vitamin, men tiêu hóa xay ép thành viên hoặc nắm thành nắm cho ăn.

    Khẩu phần thức ăn được điều chỉnh theo mức ăn hằng ngày của cá, thường từ  4-6% trọng lượng cá/ngày (thức ăn khô), 8-10% (thức ăn ướt).

2. Chăm sóc

    Trong thời gian nuôi thường xuyên theo dõi hoạt động của cá và màu nước của ao để kịp thời xử lý những sự cố kịp thời, điều chỉnh thức ăn phù hợp cho cá.

    Cá trê lai chịu đựng được ở môi trường nước bẩn và hàm lượng oxy thấp nhưng ở môi trường sạch thông thoáng cá phát triển nhanh hơn nên cần thay nước thường xuyên. Tháng đầu chỉ cấp nước bù hao hụt, tháng hai trở đi định kỳ thay nước 5-7 ngày/lần, thay từ 20-40%.

    Khi có mưa lớn theo dõi bờ bao phòng chống cá đi trong mưa, đồng thời rắc vôi bột ở bờ ao 10kg/100m² để hạn chế phèn trên bờ ao theo nước mưa trôi xuống ao.

    Thường xuyên kiểm tra các lỗ rò rỉ, cống ao phòng trường hợp cá trê đi khỏi ao.

    Theo dõi phòng trừ địch hại như chim, rắn… ăn cá.

    Có thể thu tỉa những con lớn tránh trường hợp cá lớn ăn cá bé.

Thu hoạch

Cận cảnh cá trê lai

Sau 4 tháng nuôi cá đạt kích cỡ thương phẩm có thể thu hoạch. Trong điều kiện nuôi tốt cá có thể đạt quy cỡ sau:

    – Nuôi 3 tháng:  200-300g/con

    – 4-6 tháng:       400 – 500g/con

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cá trê ‘thủy quái’ trên 10 kg/con

Thời gian gần đây, tại các chợ xuất hiện những con cá trê “khủng” có trọng lượng lên tới cả chục kilogram khiến nhiều bà nội trợ “mới nhìn đã sợ chết khiếp”. Nhiều người còn e ngại nguồn gốc loại cá này, cho rằng đây là cá nhập từ Trung Quốc và được nuôi bằng thức ăn không an toàn.

Trao đổi với PV, chị Chu Thị Phương – chủ một kiôt bán cá tươi sống tại chợ Đồng Xa (Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội) cho biết: Loại cá trê “cỡ đại” trọng lượng lên tới cả chục kilogram đang được bán nhiều tại các chợ dân sinh được bán hiện nay không phải nhập từ Trung Quốc, mà là cá do các hộ trong nước nuôi thả.

Cá trê khổng lồ

“Đây là cá nuôi trong nước, không phải nhập từ Trung Quốc. Cá nhập từ Trung Quốc chủ yếu là các loại trắm giòn, chép giòn, cá quả (cá sộp), cá tầm, lươn, ếch, chạch… Cá trê phi là giống mới xuất hiện vài năm nay, ăn tạp, chóng lớn, năng suất cao nên nhiều người đã thả nuôi”, chị Phương nói.

Tuy nhiên, do có thân hình đen bóng, trọng lượng to một cách bất thường và hình thù đáng sợ, nên loại cá này bán không chạy. “Con cá to cả chục kilogram, có con tới 12kg, nhìn đã thấy sợ nói chi ăn. Nhìn cái đầu con cá này to bằng cả chiếc nồi, tôi cảm giác đây là cá ăn thịt hoặc cá trê “húc mả” nên không dám mua ăn bao giờ, dù chủ hàng luôn mời chào, quảng cáo là thịt chắc, dai, đậm” – chị Nguyễn Thị An Bình (Cầu Giấy, Hà Nội) cho biết.

Có lẽ bởi thân hình to một cách bất thường, gây cảm giác e ngại, nên mặc dù giá loại cá này chỉ từ 45.000-50.000 đồng/kg, nhưng ít người mua.

“Thực ra, đây là cá trê nuôi bằng thức ăn công nghiệp, lại ăn tạp, ăn khỏe, nên chỉ cần sau vài tháng các con cá đã đạt được trọng lượng khủng. Nhìn thân hình cá tuy có hơi đáng sợ, nhưng thịt loại cá này rất ngon vì vị đậm, thịt chắc, ít xương. Nếu ướp riềng mẻ nướng thì ngon không kém gì các loại cá đặc sản bán giá cả trên trăm nghìn đồng/kg”- chị Trần Thị Thìn, cũng bán ngành hàng cá tươi sống tại chợ Nghĩa Tân (Cầu Giấy, Hà Nội) chia sẻ.

Các chuyên gia nông nghiệp cũng cho rằng, cá trê phi có hình thù đáng sợ, nhưng thịt khá ngon. Nếu được nuôi bằng các thức ăn đảm bảo an toàn thì người tiêu dùng có thể yên tâm ăn. Những thông tin về “cá trê húc mả” chủ yếu là đồn thổi, gây ảnh hưởng đến người chăn nuôi, mọi người nên thận trọng.

Để giải tỏa nghi ngại của người tiêu dùng về nguồn gốc mặt hàng nông sản, thủy sản nhập khẩu từ Trung Quốc, chúng tôi đã có cuộc trao đổi và được Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) cho hay: Các loại nông, lâm, thủy sản nhập khẩu từ Trung Quốc khi nhập khẩu vào cửa khẩu nước ta, đều được kiểm dịch theo quy định. Các lô hàng không đạt tiêu chuẩn an toàn đều bị trả lại. Hàng tiểu ngạch cũng đều được kiểm tra như hàng chính ngạch.

Tuy nhiên, do hàng Trung Quốc thường có vị nhạt, bở hơn, nên phần lớn người tiêu dùng không ưa chuộng bằng hàng trong nước, dù giá các mặt hàng này rẻ hơn khoảng 2-3 giá.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Hiệu quả từ mô hình nuôi cá tai tượng sinh sản trong mương vườn

Thị xã Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) là địa phương phát triển về nuôi thủy sản nước ngọt, với diện tích ương nuôi cá giống khoảng 350 ha, có nhiều đối tượng được bà con quan tâm nuôi như tai tượng, trê lai, diêu hồng, rô phi, cá sặc rằn, cá tra… Trong đó, cá tai tượng là một trong những đối tượng có nhiều lợi thế như: thịt ngon, dễ tiêu thụ, giá bán cao, nên cá tai tượng đang được bà con đầu tư nuôi từ khâu nuôi cá bố mẹ cho đẻ, đến ương cá giống, nuôi cá thịt.

Hiện số hộ nuôi cá tai tượng sinh sản ở Thị xã Cai Lậy khoảng 200 – 300 hộ, với đàn cá bố mẹ từ 15.000 – 18.000 con, sản lượng cá bột tai tượng hàng năm từ 35 – 40 triệu cá bột. Trong đó, khoảng 50% cá bột được bà con để lại ương thành cá giống, còn 50% bán cho người nuôi ở trong tỉnh và ngoài tỉnh. Nhờ đó, góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho bà con nông dân…

Trứng cá tai tượng được ấp trong các chậu

Mô hình nuôi cá tai tượng sinh sản được bà con nuôi chủ yếu ở các xã: Phú Qúy, Nhị Quí, Nhị Mỹ, Tân Bình, Long Khánh…, nhiều năm qua đã mang lại hiệu quả cao cho người dân, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn. Điển hình như hộ anh Phạm Văn Tâm, (sinh năm 1974), ngụ tại ấp Phú Hưng, xã Phú Qúy.

Gia đình anh Tâm có 5 nhân khẩu, trong đó có 2 lao động chính, diện tích canh tác 9.000m2. Là một nông dân chí thú làm ăn, trước đây anh làm 3 vụ lúa mỗi năm, nhưng lãi không nhiều, đời sống còn nhiều khó khăn. Qua chương trình tập huấn và theo dõi tham quan những mô hình nông dân sản xuất giỏi tại địa phương, sau khi bàn bạc với gia đình, anh quyết định chuyển đổi 5.000m2 diện tích lúa, lên liếp trồng sầu riêng và thiết kế mương để nuôi cá tai tượng. Anh thiết kế 4 mương (rộng 3m, dài 120m, sâu 1,2 m), anh dùng lưới ngăn mỗi mương thành 4 ô, mỗi ô dài 30m; như vậy tổng cộng anh có 16 ô nuôi cá.

Anh Phạm Văn Tâm – một trong những hộ nuôi cá tai tượng điển hình

Trong mỗi ô anh thả tổng cộng 20 con cá bố mẹ tai tượng, trong đó 15 con cá cái và 5 con cá đực. Số cá bố mẹ thả tổng cộng là 320 con. Chi phí ban đầu từ mô hình gồm: Cá bố mẹ gần 500 kg, khoảng 30 triệu, với 240 con cá cái, mỗi năm đẻ gần 960 ổ trứng, số cá bột đạt khoảng 2,5 triệu con. Năm vừa qua, anh cho cá tai tượng đẻ, trừ đi chi phí anh thu lãi được 70 triệu đồng từ mô hình này.

Anh Tâm cho biết, nuôi cá tai tượng sinh sản phải được chuẩn bị cẩn thận theo các bước như sau:

Cải tạo mương

Vét sạch bùn, bón vôi liều lựợng 3 – 5 kg/100m2 mương, phơi mương 2 – 3 ngày, phải làm cẩn thận không để cá tạp, cá dữ còn lại trong mương, sau đó cấp nước đến độ sâu 1,2 m.

Chọn cá bố mẹ

Phải kỹ lưỡng, tuổi cá bố mẹ phải trên 2 năm tuổi, trọng lượng đạt từ 1,2 kg trở lên, không dị hình hay xay sát.

Thời gian nuôi vỗ

Từ tháng 10 – 11 âm lịch năm trước. Giai đọan đầu cho cá ăn thức ăn viên 26 – 28% đạm, với liều lượng 1 – 1,5% trọng lượng đàn, sau 2 tháng nuôi tích cực thì cá bắt đầu đẻ vào cuối tháng 12 âm lịch.

Làm ổ đẻ

Vật liệu cho cá đẻ được làm bằng xơ dừa; sử dụng những cây trúc để đan thành những giỏ hình nón, đường kính của miệng tổ dài khoảng 25cm, cắm tổ vào bờ để cố định sao cho miệng tổ thấp hơn mặt nước 20cm, cắm nghiêng xuống 15 – 20 độ so với mặt nước.

Cho cá đẻ

Cá thường đẻ vào thời điểm từ 16 – 18 giờ chiều. Khi quan sát thấy có giọt dầu nổi trước ổ hay có mùi tanh của trứng là cá đã đẻ, anh tiến hành thu trứng. Mỗi ngày anh thu được từ 4 – 5 ổ cá đẻ, mỗi ổ cá đẻ từ 2.000 – 6.000 trứng.

Ấp trứng

Sau khi thu trứng, đem trứng vào ấp trong thau. Hàng ngày anh thay nước và vớt trứng cá hỏng ra khỏi thau nhằm tránh ô nhiễm môi trường nước ấp và tránh lây lan nấm bệnh từ những trứng ung sang những trứng khỏe. Sau 3 ngày thì anh xuất bán cá bột, đầu vụ anh bán với giá 40 – 45 đồng/con cá bột.

Anh lưu ý, phải định kỳ cấp thêm nước mới vào mương cá bố mẹ để bù lại lượng nước bị thất thoát (khoảng 7 – 10 ngày/lần).

Khi cây sầu riêng 4 – 5 năm tuổi, anh chuyển cá bố mẹ sang mương khác vì cần lấy nước tưới cho sầu riêng, hơn nữa ao có nhiều bóng mát, sẽ ảnh hưởng tới sức sinh sản của cá. Khi sử dụng thuốc xịt sầu riêng, anh chỉ dùng thuốc sinh học không độc cho ao nuôi cá.

Toàn ấp Phú Hưng, xã Phú Qúy có gần 50 hộ chuyên nuôi cá tai tượng sinh sản, đã giúp bà con có cuộc sống ngày càng khấm khá hơn. Tuy nhiên, hiện nay, mô hình này có lúc cũng trầm lắng do cá tai tượng bị dịch bệnh thích bào tử trùng hay người dân còn gọi là bệnh “sùi bọt cua”, làm cho cá bố mẹ chết hàng loạt, đến nay chưa có thuốc đặc trị, người nuôi chỉ có biện pháp phòng bệnh như: cải tạo ao đúng kỹ thuật, chăm sóc cá bố mẹ tốt, khi cá bệnh phải trôn xác cá, không xả ra nguồn nước cá bệnh ra môi trường, có thể ngưng nuôi một thời gian là 6 tháng hoặc chuyển đối sang nuôi đối tượng khác.

Theo navifeed.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Thu 1 tỷ đồng/vụ từ nuôi cá tai tượng an toàn sinh học

Ông Đỗ Hiếu Liêm, 68 tuổi ở ấp Phú Khương B (Phú Kiết, Chợ Gạo) là người đi tiên phong và thành công với mô hình nuôi cá tai tượng an toàn sinh học, cho thu nhập gần 1 tỷ đồng mỗi vụ nuôi. Đây là mô hình mà ngành nông nghiệp tỉnh đang khuyến khích nông dân áp dụng, đồng thời có chủ trương nhân rộng ra những địa phương khác.

Một mô hình nuôi cá an toàn sinh học.

Xã Phú Kiết được xem là “cái nôi” của nghề nuôi cá bởi địa phương có dòng sông Bảo Định chảy qua cung cấp nước ngọt quanh năm, nông dân biết tận dụng diện tích mặt nước mương vườn sẵn có và đầu tư đào ao nuôi cá các loại, trong đó chủ lực là con cá tai tượng có giá thành hấp dẫn, ít tiêu tốn thức ăn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ phong trào nuôi cá, đã xuất hiện nhiều điển hình nông dân sản xuất giỏi nuôi cá làm giàu, trong số này có ông Đỗ Hiếu Liêm là “kiện tướng” nuôi cá ở địa phương.

Là người có thâm niên hơn 30 năm gắn bó với nghề nuôi cá, ông Đỗ Hiếu Liêm rất am hiểu và nắm vững kỹ thuật nuôi cá, đặc biệt là áp dụng nuôi theo mô hình an toàn sinh học. Từ quan niệm “muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi lợn”, trước đây, ông Liêm cũng từng nuôi các loại cá tra, trê lai kết hợp chăn nuôi lợn, nhưng do giá cả bấp bênh nên gần đây, ông bắt đầu chuyển sang nuôi cá tai tượng.

Hiện tại, với diện tích mặt nước khoảng 3.000m2, trung bình mỗi vụ nuôi, ông thu được hơn 20 tấn cá thương phẩm. Với giá bán từ 40.000 – 50.000 đồng/kg, mỗi vụ nuôi (khoảng 2 năm), cho thu nhập gần 1 tỷ đồng, trừ chi phí ông còn lãi trên dưới 50%.

Để tăng hiệu quả sản xuất, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, gần đây ông Liêm áp dụng mô hình nuôi cá tai tượng theo hướng an toàn sinh học. Ông Liêm cho biết: năm 2011, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Tiền Giang, ông bắt tay đầu tư con giống thả nuôi cá tai tượng thương phẩm theo mô hình an toàn sinh học.

Trên diện tích 3.000 m2 mặt nước, với 6 ao (mỗi ao từ 300 – 500m2 mặt nước) xen trong vườn, ông thả nuôi 20.000 con cá tai tượng giống, kết hợp với cá sặc rằn. Cá được nuôi theo hai giai đoạn, gồm: Ao nhỏ thả cá giống ương nuôi khoảng 8-10 tháng để cá đạt trọng lượng khoảng 0,3 – 0,5 kg/con rồi tiếp tục san qua ao lớn nuôi đến đạt kích cỡ thương phẩm.

Mật độ thả từ 7-10 con/m2 (ghép thêm cá sặc rằn để giúp ổn định môi trường nước). Đến nay, cá đã đạt trọng lượng khoảng 1 kg/con và chuẩn bị đến thời kỳ thu hoạch. Theo tính toán, vụ cá nuôi theo mô hình an toàn sinh học đầu tiên này, ông thu về không dưới 20 tấn cá, thu nhập gần 1 tỉ đồng.

Ông Liêm chia sẻ: “ Để nuôi theo mô hình an toàn sinh học, đòi hỏi người nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy trình từ khâu chọn lọc con giống, thức ăn, mật độ thả… mà cán bộ kỹ thuật khuyến nông đưa ra. Nuôi cá theo mô hình an toàn sinh học, mỗi ngày phải có sổ sách ghi chép về liều lượng thức ăn trong ngày, các chế phẩm theo dõi xử lý ao, lượng rau cho cá ăn hàng ngày”.

Theo ông Liêm, nuôi cá an toàn sinh học có nhiều ưu điểm hơn so với cách nuôi truyền thống lồng ghép với chuồng trại trước đây là bảo vệ được nguồn nước không bị ô nhiễm, quản lý được dịch bệnh trên đàn cá nuôi và hơn hết là cung cấp sản phẩm “sạch” cho người tiêu dùng . Hiện nay, ngoài nuôi cá, trên diện tích 17.000m2 đất vườn, để tăng thêm thu nhập, ông còn kết hợp trồng các loại cây ăn trái có giá trị như: nhãn tiêu da bò, bưởi da xanh, dừa dứa…

Mô hình của ông Đỗ Hiếu Liêm đang được nhiều nông dân ở địa phương học hỏi, nhằm đa dạng hóa sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp, hướng tới làm giàu ở vùng đất thuần nông. Nhiều năm liền, ông Đỗ Hiếu Liêm được công nhận là nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh và được tín nhiệm bầu là chi hội trưởng Chi hội nghề cá xã Phú Kiết.

Nguồn: Cần Thơ TV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đặc điểm sinh học của cá điêu hồng

1. Nguồn gốc và phân bố

Cá điêu hồng còn gọi là cá diêu hồng hoặc cá rô phi đỏ, có xuất xứ từ Đài Loan. Năm 1990, chúng được nhập từ Học viện Công nghệ Châu Á (AIT) về Việt Nam và được nuôi thử nghiệm. Từ năm 1997 đã bắt đầu nuôi thương phẩm cá điêu hồng và hiện nay nhiều địa phương đã nuôi thâm canh trong ao, trong lồng hoặc nuôi quảng canh đối tượng có giá trị kinh tế này.

Cá điêu hồng

2. Đặc điểm hình thái

Toàn thân phủ vảy màu đỏ hồng hoặc màu vàng đậm, màu vàng nhạt. Cũng có những cá thể trên thân có màu hồng xen lẫn những đám vảy màu đen.

3. Tập tính sống

Cá sống chủ yếu trong nước ngọt, nước lợ và cả ở vùng nước có độ mặn từ 5 -12%o, nhiệt độ thích hợp từ 25 – 35°C. Cá có thể sống trong mọi tầng nước, chịu đựng được ở vùng nước có hàm lượng ôxy hoà tan thấp và pH từ 5 – 11, thích hợp nhất là 6,5 – 7,5. Tuy nhiên, cá kém chịu đựng với nhiệt độ thấp. Khi nhiệt độ nước dưới 18°C, cá ăn kém dần, chậm lớn và dễ bị nhiễm bệnh. Khi nhiệt độ nước 11 – 12°C và kéo dài nhiều ngày, cá sẽ chết vì rét.

4. Thức ăn

Cá điêu hồng là loài ăn tạp, thức ăn thiên về nguồn gốc thực vật. Ngoài ra, chúng cũng ăn ấu trùng các loại côn trùng động vật thủy sinh, các phế phụ phẩm khác và thức ăn công nghiệp dạng viên.

Thức ăn dạng viên cho cá

Do ăn tạp nên việc nuôi thâm canh cá điêu hồng đạt năng suất cao khá thuận lợi vì có thế tận dụng phế phụ phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản hoặc lò giết mổ gia súc để chế biến thành thức ăn nuôi cá. Tuy nhiên, do nuôi mật độ cao trong lồng nên cần cho cá ăn thức ăn dạng viên nổi để dễ dàng theo dõi cá ăn, kiểm soát lượng thức ăn thừa, hạn chế thất thoát thức ăn và quản lý chất lượng môi trường nuôi.

Thức ăn được xay nhuyễn cho cá

5. Sinh trưởng

Cá lớn nhanh, tốc độ lớn phụ thuộc vào môi trường nước, thức ăn, mật độ nuôi; chăm sóc. Khi nuôi trong lồng cho ăn bằng thức ăn công nghiệp, cá sinh trưởng nhanh hơn, tỷ lệ hao hụt thấp, đạt cỡ thương phẩm (400 – 500 g trở lên) chi sau 5-6 tháng nuôi.

6. Sinh sản

Cá đẻ nhiều lần trong năm. Ở các tỉnh miền Bắc, cá ngừng đẻ khi nhiệt độ xuống thấp vào mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

Đặc điểm sinh sản của cá giống như các loài cá rô phi khác. Khi cá cái đẻ, cá đực tiết sẹ thụ tinh cho trứng và cá cái ngậm ấp trứng trong miệng. Ở nhiệt độ 30°C, trứng cá nở sau 4 – 6 ngày ấp. Thời gian ngậm cá con có thể từ 3 – 4 ngày, sau đó cá con chui ra khỏi miệng cá mẹ. Khi hết cá con trong miệng, cá mẹ mới đi kiếm ăn và tham gia vào đợt đẻ mới.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cá tai tượng thương phẩm

Tại Việt Nam cá tai tượng phân bố tự nhiên ở sông Đồng Nai, khu vực La Ngà. Trên thế giới cá tai tượng có ở Borneo, đảo Sumatra (Indonesia), Thái Lan, Campuchia, Lào.

Cá tai tượng Osphronemus goramy

1. Chuẩn bị ao:

Nơi có nguồn nước tốt, dồi dào không bị ô nhiễm, có thể cung cấp suốt thời gian nuôi. Cải tạo ao; dọn sạch bùn, cây cỏ mục, lấp các hang cua mọi, tu sửa bờ ruộng có lưới chắc chắn, bờ cao hơn mực nước cao nhất 0,5m, chặt bỏ cây để không che quá 25% diện tích mặt nước.

Có thể sử dụng mương vườn, liếp rẫy có mặt nước từ 100 đến vài ngàn mét vuông để nuôi cá. Mức nước sâu thích hợp từ 1-2m. Sau khi đã vét bùn, bón vôi bột 10- 15kg/100m2 ao. Nếu c̣ó cá tạp, dùng dây thuốc cá đập dập lấy nước, rải theo tỷ lệ 4kg/100m2 mặt nước, phơi khô 5-7 ngày, bón phân lợn, phân bón: 20-30 kg/100m2, phân gà: 10-15 kg/100 m2, rải đều ao. Cho nước vào ao khoảng 40cm, sau 1 tuần, khi nước có màu xanh đọt lá chuối non, cho thêm nước vào tới 0,8-1m.

2. Thả cá và cho cá ăn:

a) Giống cá: Chọn cá đều cỡ khỏe mạnh, không bị xây xát, bị dị tật hoặc mang bệnh. Mật độ nuôi: 3-10 con/m2; nếu thả ghép tai tượng với cá mè trắng, cá hường thì mật độ 1 con/1m2 (để tận dụng thức ăn rơi vãi và làm sạch môi trường nước).

b) Thức ăn cho cá: sau 1 tháng ương cá tai tượng lớn thành cá giống và chuyển dần sang ăn thực vật là chính, giai đoạn đầu ta cho ăn thực vật nhỏ như: bèo cám, hoa đậu lá cải, lá rau muống, lá mì (sắn). Cá lớn hơn ăn hầu hết các loại rau, thực vật thủy sinh, phế phẩm nhà bếp. Cá ăn rau sẽ lớn chậm (2-3 năm đạt trên 1 kg); nếu có thức ăn tinh kèm theo rau, cá sẽ lớn nhanh hơn (1 năm đạt trên 1 kg). Tỷ lệ cho ăn rau khoảng 2-5% trọng lượng cá. Ngoài ra ta có thể thả rau xanh trên mặt nước cho cá ăn:

Thức ăn tinh (bột cá, đầu tôm, cá biển tươi, ruột ốc, cá con 30% + cám, xác đậu nành 30% + tấm, bắp 7% + bột lá g̣n 3%) + rau xanh 30%.

Thức ăn tinh (50% cám + 15% bột cá + 25% bánh dầu) và 10% rau muống.

Chế biến thức ăn: Rau muống, lá mì, rau lang thái nhỏ. Ốc, cá, cua nghiền nhỏ. Nấu cháo tấm với cá, cua, ốc, sau đó cho rau muống vào kết hợp với bột lá g̣n, xác đậu nành nấu riêng rồi trộn chung, để nguội trộn cám vừa đặt dính cho vào máng ép viên.

Cho cá ăn: Thời gian đầu cá c̣n nhỏ dùng sàng cho cá ăn, ngày 2 lần. Khi cá lớn dần ta phân đàn, rải đều thức ăn để cá lớn nhỏ đều ăn được.

3. Chăm sóc và quản lý cá nuôi:

Nếu trong thời gian nuôi mà cá lớn không đều ta kéo lưới, tuyển chọn cá lớn nuôi riêng để đạt cỡ thương phẩm, cá c̣òn lại trong ao đều cỡ sẽ mạnh và lớn nhanh hơn. Cách 45 ngày ta tuyển chọn cá 1 lần.

Cá có thể ăn phân gà, phân lợn. Cần thay nước thường xuyên. Vứt bỏ rau xanh mà cá ăn dư, cho rau mới vào. Nước được thay hàng tuần, tối thiểu nửa tháng/lần, nước phải sạch, tốt, có màu xanh lá chuối non. Giữ mức nước ổn định ở ao nuôi từ 1,2-1,5m.

Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá để xử lư kịp thời, kiểm tra bọng bờ, chống trộm cá.

4. Thu hoạch cá:

Chặn từng khúc mương hoặc từng phần ao, kéo lưới nhẹ nhàng, bắt cá bằng vợt, cho cá vào thùng chứa nước hay cho vào dèo (giai) chứa. Tuyệt đối không để cá bị khô.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá lóc bông trong ao đất

Cá lóc bông (Channa micropeltes) có thịt thơm ngon, rất được ưa chuộng. Nghề nuôi cá lóc bông đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế. Fman giới thiệu cùng bà con kỹ thuật nuôi loài cá này.

Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi nên có diện tích từ 500m2 trở lên, độ sâu từ 2,5 – 3m. Bờ ao phải cao, chắc chắn, không bị rò rỉ, hang hốc. Trước khi thả cá nuôi, cần phải vét bùn, cải tạo ao. Hệ thống cấp và thoát nước dễ dàng.

Rải vôi đáy ao, bờ ao với lượng từ 10 – 15 kg/100 m2, phơi ao từ 2 – 3 ngày rồi cấp nước vào ao. Nguồn nước cấp vào ao phải chủ động, nước không bị nhiễm phèn và mặn (độ pH của nước >6; độ mặn <5‰).

Mùa vụ và mật độ thả giống

Tại các tỉnh Nam bộ, có thể thả nuôi cá lóc bông quanh năm. Còn tại các tỉnh miền Bắc do bị ảnh hưởng bởi thời tiết lạnh nên chỉ nuôi 1 vụ, bắt đầu từ tháng 3 – 4 và thu hoạch trước mùa đông.

Chọn và thả giống: Cá giống phải có kích cỡ đồng đều (trọng lượng thân từ 15 – 20g/con). Cá khỏe mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, màu sắc tươi sáng, cơ thể cân đối, nhiều nhớt. Mật độ thả từ 20 – 25 con/m2.

Lưu ý: Trước khi thả, tắm cá giống qua nước muối có nồng độ 25 – 30‰ để tiêu diệt mầm bệnh. Thả cá vào buổi sáng, hoặc chiều mát.

Cần kiểm tra cá lóc bông thường xuyên để phát hiện các biểu hiện bất thường – Ảnh: Phan Thanh Cường

Chăm sóc và cho ăn

Thức ăn cho cá lóc bông chủ yếu là cá tạp biển, cá vụn, cua, ốc… Khi cá còn nhỏ (2 tháng đầu) thức ăn cần được xay nát hoặc băm nhỏ. Khi cá lớn hơn chỉ cần băm nhỏ hoặc cắt khúc đối với những loại thức ăn có kích cỡ lớn hoặc quá dài. Với loại thức ăn này cho cá ăn với khẩu phần từ 3 – 5% trọng lượng thân.

Có thể dùng thức ăn chế biến (lượng cá tạp phải chiếm 50% trở lên). Hàm lượng đạm trong thức ăn chế biến phải đảm bảo từ 25 – 35% thì mới đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cá. Với thức ăn chế biến cho ăn từ 5 – 7% trọng lượng thân

Cho thức ăn vào sàng ăn (có chiều dài từ 3 – 4m; rộng 0,5m) đặt gần bờ và ngập sâu trong nước khoảng 10cm.

Quản lý môi trường ao nuôi

Hàng ngày kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn của cá để điều chỉnh hợp lý. Thay nước định kỳ mỗi tuần một lần, mỗi lần thay từ 30 – 40% lượng nước.

Phòng và trị bệnh

Kiểm tra cá thường xuyên, phát hiện kịp thời các biểu hiện bất thường của cá: cá bỏ ăn, bơi lội không bình thường, có dấu hiệu bị bệnh… để có biện pháp chữa trị kịp thời. Cá lóc bông có thể mắc một số loại bệnh do các tác nhân như: vi khuẩn, ký sinh trùng, giun sán ký sinh, giáp xác ký sinh… Có thể dùng một số loại thuốc và hóa chất như: thuốc tím (KMnO4, H2O2), muối ăn để phòng và trị bệnh cho cá.

Chú ý:  Cá lóc bông chịu rét kém, vì vậy người nuôi cần phải thu hoạch đúng thời vụ. Nếu muốn giữ cá qua mùa đông (bán vào dịp tết Nguyên đán) cần phải có biện pháp chống rét hiệu quả để tránh thiệt hại.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá lóc (P2)

Ở bài kỹ thuật nuôi cá lóc trước, Fman đã giới thiệu cho người nuôi hiểu qua về đặc điểm sinh học cũng như cách đào ao và cải tạo ao cũ. Ở bài này, chúng tôi xin giới thiệu tiếp kỹ thuật nuôi và cách chữa một số bệnh thường gặp ở cá lóc nuôi.

PHẦN III: KỸ THUẬT NUÔI CÁ LÓC THƯƠNG PHẨM TRONG AO ĐẤT

1. Kỹ thuật ương cá hương lên cá giống

– Cá hương dùng để ương có cỡ từ 0,5-1 g/con, nhanh nhẹn không bệnh tật. Ương trong giai lưới kích cỡ 1,5×1,5x2m hoặc trong ao nhỏ (50-100m2) có lót bạt ni lông.

– Mật độ ương: 3000con/m2 tuần thứ nhất; 1500con/m2 tuần thứ 2; 500con/m2 tuần thứ 3 đến tuần thứ 8.

– Thức ăn:

+ Hai tuần đầu lúc cá còn nhỏ cho ăn lòng đỏ trứng gà trộn với cá tạp xay nhuyễn, lượng thức ăn bằng 20-25% trọng lượng đàn cá.

+ Sáu tuần tiếp theo dùng cá tạp xay nhuyễn cho ăn, với lượng thức ăn hàng ngày bằng 10-15% trọng lượng đàn cá.

– Thời gian ương 60 ngày, khi cá ăn được cá con thì chuyển ra ao nuôi thương phẩm. Lúc này cá đạt chiều dài từ 10-12cm, trọng lượng 80-100g/con.

2. Kỹ thuật nuôi cá lóc thương phẩm trong ao đất

2.1 Thả giống

– Chọn cá giống khoẻ mạnh, kích cỡ đồng đều, không bị xây xát, không bị bệnh.

– Kích cỡ cá giống: dài thân 8-10cm.

– Trước khi thả cá phải để túi chứa cá xuống ao từ 10-15 phút, cho nước vào túi từ từ sau đó mới thả cá ra ao.

– Để phòng ngừa cá bị bệnh ngoại ký sinh, trước khi thả cá xuống ao nên tắm cho cá bằng nước muối nồng độ 2-3% ( 20-30g/lít nước) trong 3-5 phút.

– Mật độ thả: từ 10-20con/m2, tuỳ theo mức độ đầu tư thức ăn và chế độ thay nước mà có thể chọn mật độ thích hợp.

– Ngoài ra có thể thả thêm cá mè trắng hoặc mè hoa với mật độ 1 con/5m2 để cải thiện chất lượng nước.

– Thả cá giống vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.

2.2 Thức ăn

– Cá lóc là loài cá dữ do đó để cá lớn nhanh tốt nhất là người nuôi nên cho cá ăn các loại thức ăn tươi sống như: tôm, tép, cá tạp…. Nếu có khả năng cung cấp thức ăn tươi sống thì cỡ cá giống thả nuôi có thể nhỏ hơn ( 5-6 cm) nhưng cần lưu ý cho thức ăn thích hợp, thức ăn quá nhiều sẽ làm cá nổi đầu.A- Đối với trường hợp sử dụng thức ăn chế biến: công thức chế biến gồm 60% cá tạp hoặc phế phẩm ở các cơ sở chế biến thuỷ sản như: đầu, đuôi, xương, ruột cá xay nhuyễn trộn với 20% bột đậu tương, 10% bột cám, 5% men và 5% còn lại là Vitamin và muối khoáng. Lượng thức ăn cho cá hằng ngày bằng 5-7% trọng lượng đàn cá.

– Cho cá ăn thức ăn chế biến phải tập cho cá ăn từ lúc còn nhỏ. Cần đặc biệt lưu ý trong thời gian cho cá ăn thức ăn chế biến không được cho ăn thức ăn tươi sống.

2.3 Chăm sóc quản lý

– Cá lóc có thể nhảy cao 1m và có thể nhảy qua bờ ao khi trời mưa hoặc có dòng chảy kích thích, vì vậy phải thường xuyên kiểm tra cống và lưới bao xung quanh bờ ao.

– Trước khi cho cá ăn kiểm tra lượng thức ăn dư thừa trong sàng ăn để điều chỉnh và vệ sinh sàng ăn sạch sẽ.

– Cần giữ nước trong ao luôn sạch bằng cách quản lý thức ăn tốt, khi thấy nước dơ bẩn cần thay 30-50% lượng nước trong ao.

– Thông qua quá trình cho ăn, thường xuyên theo dõi khả năng bắt mồi và tình trạng sức khỏe của cá để tăng giảm lượng thức ăn cho thích hợp và có các biện pháp xử lý kịp thời.

– Định kỳ 15 ngày một lần kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá về chiều dài và trọng lượng. Mỗi lần kiểm tra 10con lấy giá trị trung bình.

– Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường để điều chỉnh cho phù hợp như:

pH = 7 – 8,5

NH3 và H2S có hàm lượng dưới 0,1mg/l.

2.4 Thu hoạch

Sau 4-6 tháng nuôi có thể thu hoạch, lúc này cá đạt cỡ 0,8-1kg/con. Thu hoạch bằng lưới hoặc tát cạn ao bắt hết cá.

Cá lóc nếu đầu tư chăm sóc tốt tỷ lệ sống đạt cao (> 80%) và có thể cho năng suất từ 30-50 tấn/ha.

PHẦN IV: NUÔI CÁ LÓC THƯƠNG PHẨM TRONG LỒNG BÈ:

Cá lóc cỡ 3-4 cm đem ương ở lồng rộng 1,5×1,5 x 2 (m) thả 5.000con. Cho ăn bằng cá rô phi, cá tạp ở các chợ hay phế phẩm ở các nhà máy chế biến thuỷ sản như: đầu, ruột, da cá xay nhuyễn đặt lên sàng để trong bè.

Cho cá ăn trong các sàng cho ăn, thức ăn cần đảm bảo tươi, không bị ôi thối dễ gây bệnh cho cá.

Nuôi đến cỡ 10-12cm chuyển sang nuôi ở bè có kích thước lớn hơn. Nuôi tiếp 4-5 tháng nữa cá lóc bông sẽ đạt 1-1,2kg là có thể thu hoạch.

PHẦN IV: MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ LÓC VÀ CÁCH PHÒNG TRỊ.

Cá lóc là loài cá dữ có sức sống bền bỉ rất ít bệnh tật, cá có sức đề kháng cao và có khả năng thích nghi với môi trường nước đục, tù, nóng…, cá có thể chịu được nhiệt độ 39-400C. Khi nuôi mật độ thưa cá khoẻ mạnh, lớn nhanh và hầu như không bị bệnh, nhưng khả năng thích ứng của cá cũng có giới hạn, khi nuôi với mật độ cao thì cá lóc bắt đầu xuất hiện một số bệnh. Có thể gặp một số bệnh ở cá lóc khi nuôi thâm canh như sau:

1. Bệnh không truyền nhiễm

Dấu hiệu: Bệnh do môi trường gây ra như sự biến đổi nhiệt độ, ao nước bị nhiễm bẩn, thức ăn chế biến không tốt….

Phòng trị: Luôn giữ mực nước ao nuôi tốt (từ 1,5-2m) thay nước thường xuyên không để ao nhiễm bẩn, thức ăn chế biến không nên để lâu.

2. Bệnh đốm đỏ

Dấu hiệu: Cá bệnh thường bơi lờ đờ trên mặt nước, trên thân xuất hiện điểm xuất huyết nhỏ li ti, nếu bệnh nặng thì các gốc vây cũng xuất huyết. Bụng cá trương to, thành ruột xuất huyết, cá ít ăn hoặc bỏ ăn, các tia vây lưng, hậu môn và vây đuôi bị rách xơ xác.

Cách phòng trị:

– Dùng Oxytetracyline: 2g + Vitamin C 3g/100kg cá, trộn vào thức ăn cho cá liên tục trong 5-7 ngày. Cũng có thể dùng một số loại thuốc khác đặc trị cho nuôi trồng thủy sản trên thị trường.

3. Bệnh trắng da (bệnh mất nhớt)

Dấu hiệu: Bệnh dễ xuất hiện khi cá bị xây xát hoặc bị sốc do đánh bắt, vận chuyển hay nhiệt độ môi trường thay đổi đột ngột.

Cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, yếu dần, gốc vây lưng xuất hiện màu trắng, lan dần đến cuối đuôi và toàn thân. Bệnh nặng xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ, cá bơi yếu dần và chìm xuống đáy chết.

Phòng bệnh:

– Giữ mực nước (1,5-2m) tốt để ổn định nhiệt độ.

– Vận chuyển cá giống thưa, tránh đánh bắt xây xát cá. Cá giống vận chuyển về, trước khi đưa xuống ao nuôi cần tắm muối 3% trong 5-10 phút.

Trị bệnh: Dùng Cyprocan 4g/kg thức ăn, ngày cho ăn 2 lần trong 5 ngày liên tục.

4. Bệnh đốm trắng

Dấu hiệu: Những đốm trắng mọc khắp cơ thể cá, gần như phủ khắp vảy cá.

Bệnh do kí sinh trùng Ichthyriophthyrius multifilius gây nên. Sau khi kí sinh trên cơ thể cá nó có thể biến thành nang nhớt chìm xuống đáy ao, hồ sau đó sinh sôi phát triển rồi đi tìm vật chủ khác. Ký sinh trùng phát triển nhanh trong nước vì vậy phải điều trị trên toàn ao nuôi.

Trị bệnh: Dùng thuốc tím (KMnO4) hoà loãng với nồng độ 1g/m3 phun tạt đều xuống ao, đồng thời dùng kháng sinh Gencin 100g/15kg thức ăn cho ăn ngày 2 lần dùng liên tục trong 5 ngày.

5. Bệnh thối vây đuôi

Dấu hiệu: Sau khi đánh bắt hoặc vận chuyển cá bị nhiễm trùng vết thương, cũng có thể cá tấn công lẫn nhau cắn vào vây bụng vây đuôi làm cá bị viêm nhiễm khuẩn.

Trị bệnh: Tắm cho cá bằng dung dịch thuốc tím 1g/m3. Dùng kháng sinh Pantacin 200 với lượng 3mg/kg thức ăn cho ăn ngày 2 lần trong 5 – 7 ngày liên tục.

6. Bệnh viêm mắt miệng

Dấu hiệu: Mắt hoặc miệng cá bị viêm do vi khuẩn Chondrococcus gây ra làm cho mắt hoặc miệng cá bị biến dạng, sùi lên. Bệnh nặng làm cá bị mù hoặc mất khả năng kiếm mồi.

Trị bệnh:

– Tắm cho cá bằng nước muối nồng độ 3% trong 10-15 phút, lưu ý nếu trong lúc tắm thấy cá có biểu hiện khó chịu (nổi đầu lên mặt nước) thì vớt cá ra. Tiến hành tắm cá thường xuyên, mỗi ngày 01 lần, bệnh nhẹ thì khoảng 03 ngày thì bớt.

– Trộn kháng sinh Ciprocan với lượng 4g/kg thức ăn, ngày cho ăn 2 lần trong 5-7 ngày liên tục.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.