Tin vui: Da cá tra được xuất khẩu sang Singapore làm… bimbim

Thay vì bán phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi, da cá tra Việt Nam đã tìm đường xuất khẩu sang Singapore với giá trị cao.

Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Trường Giang, Phó Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân gạo Cỏ May có trụ sở ở Đồng Tháp cho biết, nếu trước đây da cá tra chủ yếu bán phụ phẩm để chế biến thức ăn chăn nuôi thì mới đây sản phẩm của đơn vị này được doanh nghiệp ở Singapore đề nghị mua làm sản phẩm ăn liền (snack).

Da cá tra sau khi chế biến thành snack.

“Cách đây 4 tháng, nhiều khách hàng Singapore và châu Âu đề nghị chúng tôi cung cấp da cá tra đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế với giá hấp dẫn. Sau quá trình khảo sát, đối tác Singapore đã ký kết hợp đồng bao tiêu với công ty”, ông Giang nói và cho hay nếu trước đây giá phụ phẩm chỉ 6.000 – 8.000 đồng/kg thì khi bán cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, giá đã tăng 71,4% (giá nhập tại kho); nếu có thêm chi phí đóng gói, cấp đông… thì có thể tăng gấp 3 lần, khoảng 22.000 -24.000 đồng/kg.

Snack da cá tra tại thị trường Singapore hiện có giá 8 SGD (khoảng 136.000 đồng) cho gói nhỏ 230gram.

Hiện mỗi tháng Cỏ May xuất sang thị trường Singapore 50-60 tấn da cá. Qua năm 2018, công ty sẽ mở rộng nhà máy để nâng công suất lên cao hơn. Hiện tại lượng hàng xuất đi cung không đủ cầu. Tuy nhiên, để xuất được, da cá phải đảm bảo các chứng nhận an toàn về vệ sinh thực phẩm quốc tế, không có các dư lượng về thuốc bảo vệ thực vật, hóa học.

Da cá tra là nguồn thực phẩm nhiều dinh dưỡng, giàu collagen và gelatin tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều nhà máy ở Việt Nam chưa thể tận dụng nguyên liệu này để sản xuất sản phẩm ăn liền. Để đón đầu xu hướng, ngoài xuất khẩu, sắp tới Cỏ May sẽ nghiên cứu khẩu vị, cách tẩm ướp của các nước như Singapore, Malaysia, châu Âu, Việt Nam để chế biến ra sản phẩm phù hợp và xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm snack từ da cá tra đầu tiên tại Việt Nam.

Trước đây, các phụ phẩm của con cá tra như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi. Ảnh minh họa

Ông Giang cũng cho biết, để có 35 tấn phi lê cá tra thì cần có 100 tấn nguyên liệu đầu vào. Trước đây, các phụ phẩm như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng của cá đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi.

Hiện nay, ngoài doanh nghiệp Cỏ May thu được giá trị cao từ da cá tra nhờ xuất khẩu, thì trong nước, mới chỉ có Vĩnh Hoàn xây nhà máy sản xuất collagen và gelatin từ da cá tra với công suất 2.000 tấn một năm. Kết thúc quý I/2017, doanh thu từ collagen và gelatin của Vĩnh Hoàn đạt 700.000 USD. Doanh thu năm ngoái của mảng này khoảng 1 triệu USD và kỳ vọng sẽ tăng lên 5 triệu USD năm nay.

Cỏ May ra đời năm 1986 với việc sản xuất xà bông, nhưng đến năm 1990 vì gặp khó nên ngừng sản xuất mặt hàng này và chuyển sang kinh doanh lương thực. Ngoài sản xuất gạo cho thị trường trong nước và Singapore, công ty còn trồng nấm, chế biến cá tra…

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Lai Châu làm chủ quy trình sản xuất giống cá tầm

Sở KH&CN Lai Châu mới thực hiện Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số khoảng vài ba năm trở lại đây.

Ông Nguyễn Trường An, Phó Giám đốc Sở KH&CN Lai Châu, cho biết các nhiệm vụ được thực hiện rất thành công.

Thành công đầu tiên mà ông An nhắc đến là đề tài “Xây dựng mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật ươm giống và nuôi thương phẩm cá tầm (Acipencer spp) phục vụ phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Lai Châu” do Công ty cổ phần Thủy điện Chu Va triển khai từ 2012 – 2013. Nhờ đề tài này, Lai Châu đã làm chủ được quy trình sản xuất giống cá tầm Siberi.

Lai Châu đã làm chủ được quy trình sản xuất giống cá tầm Siberi.

“Hiện giờ chúng tôi lại tiếp tục một đề tài nữa, đó là ‘Xây dựng mô hình liên kết chuỗi cá tầm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất tại Lai Châu’. Có thể hiểu nôm na là Lai Châu đã xây dựng được ‘bệnh viện phụ sản’ cho con cá tầm để phục vụ từ khâu nuôi cá bố mẹ, đẻ trứng ấp nở ra con và cung ứng cho tất cả các nơi có nhu cầu về con giống cá tầm” – ông An khẳng định.

Trong giai đoạn hiện nay, các nhiệm vụ thuộc Chương trình Nông thôn – Miền núi được Lai Châu triển khai đều quy mô, tạo thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ và có sự tham gia của doanh nghiệp – theo ông An.

“Chúng tôi đi vào các mảng như dược liệu, chè hữu cơ và cá tầm để từ đó xây dựng các thương hiệu lớn. Chúng tôi tuyển chọn các đơn vị thực hiện đề tài hết sức chặt chẽ, đặc biệt là sự phối hợp thường xuyên với Bộ KH&CN, Văn phòng Chương trình Nông thôn – Miền núi. Khi kêu gọi được các doanh nghiệp lớn tham gia, họ có vốn, có lợi thế về mặt kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, chắc chắn sẽ phát triển được những sản phẩm có thương hiệu. Thứ hai là tạo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ và gắn với xây dựng thương hiệu, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân” – ông An cho biết.

Nguồn: Báo Khoa học và phát triển được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ phát hiện tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản

Bộ kit này dựa trên cơ chế cạnh tranh miễn dịch giữa chất kháng sinh Enrofloxacin và cộng hợp enzyme đánh dấu lên kháng thể đặc hiệu. Nồng độ Enrofloxacin sẽ được hiển thị dựa trên mức độ phát quang của enzyme.

Sự cần thiết

Enrofloxacin là loại thuốc kháng sinh thuộc họ Fluroquinolone giúp kháng bệnh cho tôm cá, tuy nhiên chất này có thể gây hại cho sức khỏe người sử dụng sản phẩm (gây giảm thị lực cho mắt, gây viêm khớp…). Là một loại kháng sinh nằm trong danh mục cấm. Trên thực tế nhiều hộ nuôi trồng thủy sản vẫn lạm dụng thuốc này. Các nước nhập khẩu tôm của Việt Nam đang lên tiếng cảnh báo về tình hình nhiễm Enrofloxacin. Các mặt hàng thủy sản trong nước cũng có nguy cơ nhiễm Enrofloxacin.

ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) là một kỹ thuật sinh hóa để phát hiện kháng thể hay kháng nguyên trong mẫu cần phân tích. Bộ kit ELISA phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh Enrofloxacin có nhiều ưu điểm, đặc biệt là tất cả các quy trình từ đưa mẫu vào phân tích đến cho ra kết quả chỉ mất 30 phút, nhanh hơn rất nhiều so với các phương pháp khác.

Thực hiện nhanh, thao tác đơn giản, dễ thực hiện. Không đòi hỏi thiết bị đắt tiền. Không cần nhân viên chuyên môn cao. Độ nhạy cao, có khả năng phát hiện dư lượng Enrofloxacin ở ngưỡng phát hiện 1 ppb. Chi phí kiểm mẫu thấp do có thể kiểm đồng thời một số lượng mẫu lớn.

Ngoài ra, bộ kit này là có thể phân tích khoảng 50 – 80 mẫu cùng một lúc.

Thành phần của bộ kit bao gồm:

– Đĩa giếng: Đĩa ELISA 96 giếng được sử dụng nhiều nhất thường là polystyrene hoặc các dẫn xuất của polystyrene thu được bằng cách biến đổi hóa học hoặc chiếu xạ bề mặt. Phổ biến nhất là đĩa 96 giếng được thiết kế thành 8 hàng và 12 cột. Mỗi giếng giữ khoảng 350 µl thể tích với một khu vực bên trong khoảng 2,5 cm2.

– Chứng âm, chứng dương: Có tác dụng kiểm tra xem mẫu, hóa chất và điều kiện chạy đã chuẩn chưa.

– Cộng hợp, cơ chất, dung dịch hãm màu.

Quy trình

Nguyên lý: Kháng thể đặc hiệu kháng Enrofloxacin được gắn lên giếng. Cho mẫu vào, nếu Enrofloxacin có trong mẫu phân tích sẽ bị kháng thể bắt giữ, các tạp chất bị rửa trôi. Cho thêm cộng hợp giữa Enrofloxacin và enzyme vào giếng, khi đó nồng độ Enrofloxacin sẽ được hiển thị dựa trên mức độ phát quang của mỗi giếng. Nếu nồng độ Enrofloxacin cao tương ứng với màu nhạt, còn nồng độ Enrofloxacin thấp tương ứng với màu đậm. Vì vậy, chỉ cần nhìn vào 2 màu đậm hoặc nhạt là có thể biết được thủy sản có nhiễm Enrofloxacin hay không.

Xử lý mẫu: Thông thường có thể xử lý mẫu theo hai cách:

Đối với hệ số pha loãng 3 lần: Cho 2 g mẫu vào ống ly tâm, sau đó cho thêm 4 ml dung dịch methanol 70% vào. Lắc mẫu trong 20 phút. Tiếp đến, ly tâm 10.000 vòng/phút trong 15 phút. Lấy 2 ml dịch trong, thổi khô, sau đó hòa cặn lại bằng dung dịch methanol 35%. Độ pha loãng là 3 lần.

Đối với hệ số pha loãng 6 lần: Cho 2 g mẫu vào ống ly tâm, sau đó cho thêm 4 ml dung dịch methanol 70% vào. Lắc mẫu trong 20 phút. Ly tâm 10.000 vòng/phút trong 15 phút. Rút 1 ml dịch trong pha loãng với 1 ml dung dịch pha loãng đi kèm.

Tiến hành phản ứng

Cho 50 µl dung dịch chuẩn Enrofloxacin và dung dịch mẫu vào mỗi giếng. Cho 50 µl cộng hợp enzyme vào các giếng đã cho chuẩn và mẫu. Ủ tại nhiệt độ phòng trong 30 phút. Rửa các giếng bằng dung dịch rửa 3 lần. Cho 100 µl cơ chất hiện màu vào tất cả các giếng, ủ trong 30 phút.

Kết quả

Để đọc mật độ quang bằng máy so màu thì cho vào mỗi giếng 50 µl dịch hãm màu, hỗn hợp sẽ chuyển sang màu vàng, sau đó đọc tại bước sóng 450 nm. Cách đọc như sau:

Đối chứng dương: Màu rõ ràng, độ hấp thụ ánh sáng (A) phải > 0,6

Đối chứng âm: Không màu hoặc màu nhạt, A phải < 0,1

Mẫu dương tính: Có màu rõ ràng, A phải > 0,3

Lưu ý: Toàn bộ thuốc thử phải bảo quản trong lạnh (4 – 80C). Khi tiến hành thí nghiệm phải đưa toàn bộ thuốc thử về nhiệt độ phòng. Không để các thuốc thử tiếp xúc ánh nắng.

Nguồn: Contom.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm, cá VietGAP phục vụ tết

Nhiều nông dân nuôi tôm, cá tại tỉnh Kiên Giang rất phấn khởi khi sản phẩm do họ nuôi trồng được cơ quan chức năng cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, kịp đưa ra thị trường phục vụ dịp cuối năm.

Cá tôm nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP sẵn sàng phục vụ tết 2017. 

Bà Đặng Khánh Hồng, PGĐ Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang cho biết, từ các nguồn kinh phí của Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Quốc gia, TTKN tỉnh và Tổ chức GIZ thuộc Chương trình Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP), đơn vị đã hỗ trợ hàng chục hộ nông dân nuôi tôm – lúa, tôm thâm canh và cá chạch bùn… xây dựng quy trình nuôi VietGAP. Sau khi nuôi, các hộ được cơ quan chức năng thẩm định, cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Cụ thể, tại tổ hợp tác nuôi tôm sú – lúa ấp Thạnh Hòa, xã Đông Thạnh (An Minh), có 4 hộ nuôi trên diện tích 9,6 ha, sản lượng tôm thu 1.660 kg, được Cty TNHH Công nghệ NhoNho chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP. Ông Nguyễn Văn Trường, tổ viên có 2,6 ha mô hình cho biết, nuôi tôm – lúa theo VietGAP đòi hỏi người nuôi phải được tập huấn, nắm vững quy trình kỹ thuật, ghi chép sổ sách cẩn thận, tuyệt đối không dung chất cấm, hóa chất ngoài danh mục.

Vì vậy, sản phẩm làm ra đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Là người làm ra tôm sạch, không chỉ đảm bảo ATTP cho người tiêu dùng, mà cả cho chính người SX, môi trường nuôi được bền vững, nên người nuôi rất yên tâm. Một khi thị trường tiêu thụ tốt thì thu nhập của họ cũng tăng lên theo.

Trước đó, tổ hợp tác nuôi tôm – lúa tại ấp Thái Hòa, xã Nam Thái A (An Biên) được TTKN Kiên Giang phối hợp với Cty TNHH Công nghệ NhoNho trao chứng nhận VietGAP cho sản phẩm tôm sú, kinh phí do Tổ chức GIZ tài trợ. Tổ hợp tác có 4 hộ nông dân cùng nuôi, sản lượng tôm sú 8 tấn/năm. Ông Nguyễn Văn Ngọc, một hộ nông dân tham gia mô hình chia sẻ: “Năm nay, tôi thu trên 1.000 kg tôm/2ha, bán được trên 500 triệu đồng, trừ chi phí lãi một nửa”.

Theo ông Ngọc, để thực hiện mô hình, nông dân phải có từ 2ha trở lên, vì phải thiết kế lại vuông nuôi thành ao lắng, ao vèo, ao nuôi… Môi trường phải được xử lý kỹ như xới mặt ruộng, xả bỏ nước, rải vôi bột cả trên bờ lẫn mặt ruộng (khoảng 500 kg/ha), diệt khuẩn bằng Iodine… Khi thấy nước đạt chất lượng mới cấp vào vèo và ao nuôi. Tôm nuôi 2 giai đoạn, và trong quá trình nuôi, bổ sung thức ăn cho tôm theo quy trình, đảm bảo tôm phát triển tốt.

Sau khi kết thúc vụ tôm, các hộ dân tổ hợp tác nuôi tôm – lúa tại ấp Thái Hòa được hỗ trợ làm lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, hiện lúa đã chuẩn bị cho thu hoạch. “Chúng tôi đang có kế hoạch hỗ trợ, thu mua chế biến, đóng gói gạo VietGAP để tiêu thụ sản phẩm cho nông dân”, bà Đặng Khánh Hồng cho biết thêm.

Ngoài mô hình tôm – lúa, có 6 cơ sở tại huyện Kiên Lương và TX Hà Tiên đăng ký liên kết SX tôm thẻ chân trắng thâm canh theo quy trình VietGAP. Qua đánh giá, có 5 cơ sở được Trung tâm Chất lượng Nông lâm thủy sản vùng 5 (Cục Quản lý Chất lượng Nông, lâm sản và Thủy sản) cấp chứng nhận sản phẩm thủy sản SX đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Ông Đào Thọ Quí, có 70.000 m2 nuôi tôm tại phường Đông Hồ, TX Hà Tiên, phấn khởi nói: “Mỗi năm, cơ sở của tôi cung ứng ra thị trường 70 tấn tôm thương phẩm. Với quy trình nuôi đạt chứng nhận VietGAP, sản phẩm dễ dàng vào hệ thống siêu thị, các đơn vị thu mua chế biến cũng rất an tâm về chất lượng, ATTP”.

Bên cạnh con tôm nước lợ, TTKN Kiên Giang còn hỗ trợ nông dân 2 huyện Châu Thành, Giồng Riềng nuôi cá chạch bùn thương phẩm trong ao dùng thức ăn công nghiệp theo VietGAP, đã được Cty CP Chứng nhận và Giám định VINACERT cấp chứng nhận. Nông dân tham gia được hỗ trợ 60% chi phí con giống, 30% giá trị vật tư và được tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật trong suốt quá trình nuôi.

Ông Hà Văn Bòn Ba, nông dân ở xã Giục Tượng (Châu Thành), người tham gia mô hình nhận xét: “Cá chạch bùn là đối tượng dễ nuôi, thích nghi rộng với môi trường, quy trình nuôi đơn giản, cá ăn thức ăn công nghiệp nên chủ động và tiết kiệm thời gian chăm sóc, môi trường nuôi ít bị ô nhiễm, hiệu quả kinh tế mang lại khá cao, trung bình lãi 18 triệu đồng/300 m2/vụ nuôi (khoảng 4 tháng)”.

Cá chạch bùn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP được tiêu thụ tốt tại các nhà hàng ở TP Rạch Giá

Nguồn: Tepbac.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đáng nể người đầu tiên đưa con cá thác lác cườm ra nuôi lồng bè trên sông Hậu

Ông Lý Văn Bon là người đầu tiên ở ĐBSCL đưa con cá thác lác cườm từ ao hầm sang nuôi lồng bè sạch trên dòng sông Hậu. Cũng là người thành công với ý tưởng nuôi cá lồng bè kết hợp du lịch sinh thái và kinh doanh các mặt hàng thực phẩm đặc sản.

Ông Lý Văn Bon (Bảy Bon), ở khu vực 1, Cồn Sơn, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ, quê gốc ở vùng U Minh Hạ (Cà Mau) là cái nôi của con cá, con tôm. Ông mang trong mình niềm đam mê bất tận với nghề nuôi cá, từng là sinh viên ĐH Thủy sản Nha Trang. Khi ra trường, vì hoàn cảnh đưa đẩy, ông không gắn bó được với nghề mà xin vào làm việc tại Cục Hải quan tỉnh Cà Mau.

Ông Bảy Bon bên hệ thống lồng bè nuôi cá

Theo ông Bảy Bon, cơ duyên đến với nghề cũng đặc biệt. Năm 1998, trong lần làm thủ tục nhập hàng, ông Bảy Bon gặp ông Philip người Pháp, là tiến sĩ thủy sản. Có chung niềm đam mê nên hai người nói chuyện rất nhiều về con cá, con tôm. Buổi gặp tình cờ, cũng là lúc cuộc đời ông Bảy chuyển sang một hành trình mới, khi được nghe những chia sẻ của “người bạn, người thầy” về dòng Mêkông.

Ông Philip nói: “Trên thế gới chỉ có duy nhất một dòng sông Mêkông, nếu như nuôi cá, muốn khởi nghiệp từ con cá thì không cần đến nước nào khác, Việt Nam là số một. Do số lượng cá bị khai thác quá nhiều, dẫn đến cá trong tự nhiên cạn kiệt, dân số lại ngày càng tăng, cá ngoài tự nhiên thì ngày càng ít, nếu không duy trì ngành này thì nó sẽ mất đi”.

Khi ông Philip nghiên cứu tại Cần Thơ thì nhận ra dòng sông Hậu dưới chân Cồn Sơn nước chảy rất mạnh, có dòng nước xoáy, nên cá chẽm và các loại cá khác tập trung về đây sinh sôi nhiều. Từ đó, theo ông Philip chọn nơi này đầu tư bè nuôi cá là tốt nhất, nhờ lượng oxy cung cấp dồi dào cho cá, nguồn nước ô nhiễm rất ít so với những nơi khác, do nằm ở giữa dòng sông Hậu.

Với những thực tế được kiểm chứng, cũng như những luận điểm chắc chắn của ông Philip, ông Bảy Bon thấy được hướng đi mà ông đã từng ấp ủ, nên xin nghỉ làm hải quan, tập trung về khu Cồn Sơn nuôi cá lồng bè. Ban đầu ông nhận thấy cá điêu hồng đang được người tiêu dùng ưa chuộng, lại dễ nuôi, đầu tư ít, thời gian thu hoạch ngắn nên ông chọn con cá điêu hồng để nuôi, giống nhập từ Đài Loan và Thái Lan, về sau ông tự sản xuất giống.

Ông Bảy Bon cho cá thác lác ăn

Sau vài năm giá cá điêu hồng tuột dốc không phanh, dẫn đến thua lỗ tiền tỷ. Không nản lòng, ông Bảy Bon đi học hỏi, tìm hiểu những mô hình, những loài cá nào đạt hiệu quả kinh tế cao để nuôi. Từ những chuyến đi đó, tình cờ Bảy Bon quen ông Tư Kháng quê ở Hậu Giang, là một trong những người đem con cá thác lác từ Campuchia về Cần Thơ và nhờ ĐH Cần Thơ nghiên cứu, sinh sản thành công, với ý tưởng lấy thịt cá làm chả xuất sang Nhật.

Sau khi được ông Tư Kháng tư vấn, năm 2012, ông Bảy chuyển hướng đầu tư 250.000 con cá thác lác cườm, đến khi thu hoạch xuất bán 70 – 80 tấn đem lại lợi nhuận trên 2 tỷ đồng, xóa được số nợ do thua lỗ khi nuôi cá điêu hồng. Từ đó ông gắn bó với con cá thác lác. Ông Bảy Bon dẫn chúng tôi tham quan trên 30 lồng bè, vèo cá lớn nhỏ với diện tích trên 5.000m2 trị giá gần 20 tỷ đồng, kết thành từng dãy nối với nhau bằng những cây cầu gỗ.

Vừa nuôi cá thác lác cườm, ông còn đẩy mạnh kết hợp du lịch sinh thái. Lúc đầu thì có vài chục người, dần dần càng nhiều du khách đến câu cá, tham quan bè cá. Thế là, ông mở ra cơ sở chế biến món đặc sản cá thác lác rút xương, cá thác lác muối sả, hoàn toàn thủ công và không sử dụng các chất bảo quản với tiêu chí thực phẩm sạch. Mỗi ngày có hàng trăm kg cá thành phẩm được tiêu thụ.

Hàng ngày, ông xuất bán 300 – 500kg cá tươi cho các đại lý, thương lái ở khắp nơi. Mỗi năm, ông Bảy Bon cho xuất bè hàng chục loại cá đặc sản như cá hô, cá chạch lấu, tôm càng xanh… Nhẩm tính, chỉ riêng lợi nhuận từ cá thác lác cườm cũng đem lại vài tỷ đồng/năm. Ông còn kết hợp với nhiều bà con ở Cồn Sơn làm du lịch sinh thái, dưới sông thì có bè cá, trên cồn có cây trái, du khách đến đây tha hồ thưởng thức cây nhà lá vườn của vùng đất Nam bộ như mắm kho, ếch, gà ta, sầu riêng, chuối…

Ông Bảy Bon thành công với với nhiều giống cá đặc sản kết hợp làm du lịch sinh thái miệt vườn

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vaccine trong nuôi trồng thủy sản

Vaccine chống lại một số bệnh nhiễm khuẩn quan trọng đã được báo cáo trên toàn thế giới và sử dụng thành công trong điều kiện thí nghiệm hoặc thực tế áp dụng ở cấp độ thực địa.

Vaccine đang được nghiên cứu và sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản. 

Vaccin cho vi khuẩn

Cá bệnh do vi khuẩn

Vaccine hiện đang có mặt trên thị trường chống lại bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn bao gồm vibrioosis ( Listonella anguillarum, Vibrio ordalii ), furunculosis bệnh nhọt (Aeromonas salmonicida subsp. salmonicida), bệnh vibrioosis ở vùng nước lạnh (Vibrio salmonicida), bệnh yersiniosis (Yersinia ruckeri), nhiễm trùng tiết niệu (Rennibacterium salmonaris), bệnh tụ huyết trùng (Photo bacterium damselae subsp. Piscicida), bệnh xuất huyết ( Edwardsiella ictaluri), bệnh trắng đuôi (Flavobacterium columnarae ), bệnh do Moritella viscosis, Streptococcus iniae, Lactococcus garviae. (Sommerset et al., 2005).

Và các vaccin được báo cáo thành công trong điều kiện thí nghiệm như vaccine chống lại Vibrio harveyi and Photo bacterium damselae subsp, và Tenacibaculum maritimum ở Cá Hồi cũng được báo cáo (Håstein et al., 2005).

Hầu hết các loại vaccin vi khuẩn thường được bào chế dạng vaccine sống, giảm độc lực hoặc vaccine bất hoạt.

Vaccine chống lại virus

Cá hồi nhiễm bệnh IPN

Rất nhiều nghiên cứu cũng đã được tiến hành để xây dựng vaccine chống lại virus gây ảnh hưởng đến nhiều loài cá. Vài loại vaccine đã được cấp phép sử dụng cho mục đích thương mại ở Chilê, Canada, Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, đây là những vùng địa lý chính để nuôi cá các loài cá có giá trị cao như cá hồi, cá ngừ, cá seabass, cá tráp, cá cam và cá da trơn. Hầu hết các vaccine thương mại có sẵn đều dựa trên các kháng nguyên bất hoạt hoặc các protein tái tổ hợp.

Một loại vaccine chống lại virus gây hoại tử cơ quan tạo máu ở Cá Hồi (IPN) đang được sử dụng trong nhiều năm. Vaccine cho rhabdovirus, vaccine cho virus gây bệnh xuất huyết trên cá (VHSV) và bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHNV) cũng có sẵn thương mại. Gần đây các nhà nghiên cứu Italia đã nghiên cứu thành công vaccine chống lại Betanodavirus – tác nhân gây bệnh hoại tử thần kinh trên cá.

Vaccine chống ký sinh trùng

Cá bị nhiễm ký sinh trùng.

Bên cạnh các loại vaccine virus và vi khuẩn, sự phát triển của một loại vaccine chống ký sinh trùng là một lĩnh vực đang nổi lên vì ký sinh trùng gây ra khoảng 20% ​​vấn đề bệnh tật trong nuôi trồng thủy sản.

Xét mối tương tác giữa ký chủ và ký sinh trùng (ký sinh trùng endo- hoặc ecto), thách thức lớn nhất đối với vaccine là xác định giai đoạn ký sinh trùng chịu tác động của vaccine.

Vaccine được tạo ra bởi ký sinh trùng Amyloodinium ocellatum khi tiêm vào vùng bụng được báo cáo là gây ra phản ứng kháng thể đặc hiệu đối với ký sinh trùng. Nó cũng làm giảm sự lây nhiễm ký sinh trùng trong ống nghiệm. Một vaccine sống giảm độc lực của ký sinh trùng Cryptobia salmositica (ký sinh trùng gây bệnh của salmonids) cho thấy phản ứng miễn dịch bảo vệ lên đến hai năm.

Những nghiên cứu trên đây chứng minh rằng Vaccine ngày càng được nghiên cứu và sử dụng phổ biến trên động vật thủy sản. Và chúng đóng góp rất lớn trong ngăn ngừa, phòng trị bệnh cho nhiều loài thủy sản.

Nguồn: Aquaculturemag được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Trong nuôi tôm, độ kiềm là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất tôm nuôi. Kiểm tra độ kiềm hàng tuần là cần thiết trong quản lý ao nuôi tôm. Bài viết cung cấp kinh nghiệm đo độ kiềm trong ao nuôi tôm cá.

Kinh nghiệm đo độ kiềm (KH) trong ao nuôi tôm cá

Độ kiềm trong nước là gì?

Độ kiềm là thước đo khả năng trung hòa acid của nước. Trong nuôi trồng thủy sản độ kiềm chỉ hàm lượng các ion HCO3-, CO32-, OH- trong nước, đơn vị là mg CaCO3/L .

Tầm quan trọng độ kiềm trong nước

Độ kiềm trong nước ít có tác động trực tiếp đến đời sống của các loài thủy sản nhưng lại tác động lên các yếu tố có liên quan như sự phát triển của thủy thực vật (tảo), ảnh hưởng tới pH, ảnh hưởng đến mức độ độc hại của khí độc và kim loại nặng trong nước. Năng suất sơ cấp (tảo) của ao nuôi tỉ lệ thuận với độ kiềm, vì vậy ao nuôi có độ kiềm cao dễ gây tảo hơn.

Nhiều người nuôi tôm mặc định là khi trời mưa phải bón vôi nhưng chưa thật sự hiểu được ý nghĩa thật sự của nó. Nước mưa mang theo lượng lớn acid chúng làm trung hòa lượng bicarbonate làm độ kiềm giảm kéo theo pH giảm đột ngột. Kiềm và pH giảm cùng lúc ảnh hưởng xấu đến tôm nếu không có biện pháp ngăn ngừa kịp thời tôm nuôi sẽ gặp sự cố ngay.

Lưu ý khi đo độ kiềm

Vì độ kiềm đặc biệt quan trọng trong nuôi tôm do đó người nuôi tôm thường phải đo độ kiềm ít nhất 1 lần trong ngày. Để đo độ kiềm người ta thường sử dụng 3 cách:

– Phương pháp chuẩn độ: Dùng khi cần độ chính xác cao và trong phòng thí nghiệm.

– Sử dụng máy đo: Máy đo hiện tại vẫn chưa tiện dụng nên vẫn cần những thao tác phức tạp và chi phí khá cao.

– Sử dụng bộ test kít: Đây là phương pháp được nhiều sự lựa chọn bởi thao tác thực hiện đơn giản, giá rẻ có thể áp dụng nhanh trong nuôi trồng thủy sản hiện nay.

Một số lưu ý giúp bạn đo độ kiềm ao nuôi chính xác hơn:

– Lựa chọn loại Test kít uy tín dựa trên độ chính xác và độ đơn giản thao tác: Bộ Test kH được sử dụng nhiều hiện nay là bộ test kH của Sera (Đức) với ưu điểm kiểm tra nhanh, thao tác dễ dàng và độ tin cậy cao (Bạn có thể tham khảo tại đây).

– Đọc kỹ hướng dẫn thao tác kèm theo bộ Test và thao tác đúng quy trình đó để có kết quả tốt nhất.

– Luôn bảo quản thuốc thử nơi khô ráo thoáng mát và theo yêu cầu bảo quản của nhà sản xuất. Nghi ngờ thuốc thử hỏng phải dùng mẫu mới kiểm tra đối chiếu.

– Khui nắp: Nếu nắp đậy lọ thuốc thử có đầu kim thì dùng đầu kim này để chích vào nắp nhỏ giọt. Nếu không thì dùng dao cắt lỗ nhỏ sao cho thuốc thử không tự chảy ra khi úp ngược lọ mẫu.

– Ống nghiệm luôn phải được vệ sinh bằng nước sạch trước và sau khi sử dụng.

– Lắc kỹ thuốc thử trước khi kiểm tra.

– Tuân thủ nguyên tắc lấy mẫu như: mẫu mang tính đại diện vị trí lấy mẫu phải lấy ở tầng giữa cách mặt nước 50cm, dụng cụ thu mẫu, bảo quản và vẫn chuyển mẫu phải đảm bảo sạch.

– Không thu mẫu ngay sau khi xử lý hóa chất xuống ao.

– Mẫu nước đưa lên phải được đo ngay khi có thể hoặc mẫu phải được chuyển ngay đến phòng thí nghiệm. Việc đo các thông số của mẫu nước sẽ ít sai số hơn khi thực hiện đo nhanh trong vòng 30 phút kể từ khi lấy mẫu nước.

Độ kiềm phù hợp trong ao nuôi trồng thủy sản 75mg/l – 200mg/l với tôm thẻ chân trắng độ kiềm thích hợp là 120 – 150 mg CaCO3/l, với tôm sú độ kiềm thích hợp là 80 – 120 mg CaCO3/L.

Độ kiềm trong ao nuôi tôm thấp thường do: độ mặn thấp, ao bị phèn, thực vật phù du (tảo) phát triển mạnh, 2 mảnh vỏ ốc quá nhiều. Để tăng kiềm tốt nhất kết hợp loại bỏ các tác nhân này kết hợp bón vôi CaCO3 hoặc sử dụng Sodium bicarbonate (soda), liều soda 1,68mg/l để phục hồi 1mg/L kiềm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Khánh Hòa: Đại lý thức ăn cũng “lao đao” sau bão

Sau cơn bão số 12, các hộ nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng, kéo theo các đại lý thức ăn thủy sản cũng lâm vào cảnh khó khăn do không thu hồi được số tiền bán thức ăn nuôi thủy sản.

Nhiều hộ nợ tiền thức ăn nuôi thủy sản

Mua nợ gối đầu

Ông Nguyễn Đình Huân – chủ đại lý thức ăn thủy sản Đình Huân ở tổ dân phố Hội Phước (phường Ninh Hà, thị xã Ninh Hòa) đang lo lắng khi những ngày qua, nhân viên kinh doanh của Công ty Tongwei Việt Nam liên tục nhắc nợ khoản tiền thuốc thú y, thức ăn thủy sản mà đại lý còn thiếu. “Những năm qua, người nuôi tôm ở phường Ninh Hà đều khá uy tín. Trong vụ, họ đều lấy chịu thức ăn từ đại lý chúng tôi, đến cuối vụ xuất bán tôm xong là thanh toán toàn bộ số tiền nợ. Tuy nhiên, vụ tôm cuối năm 2017, toàn bộ tôm bị cuốn phăng theo bão, người nuôi không còn gì để trả nợ tiền mua thức ăn. Trong khi đó, công ty không cho nợ nên gia đình tôi đang phải lo tiền trả cho công ty”. Lật cuốn sổ ghi nợ cho chúng tôi xem, trong số người nuôi mua nợ thức ăn cho tôm từ đại lý của gia đình ông, người ít thì 20 – 30 triệu đồng, người nhiều 50 – 60 triệu đồng, tính ra số nợ lên đến cả tỷ đồng. Ngoài đại lý Đình Huân, 3 đại lý bán thức ăn, thuốc thú y thủy sản tại phường Ninh Hà và các địa phương khác ở thị xã Ninh Hòa đều rơi vào cảnh tương tự, có đại lý số nợ lên đến 2 – 3 tỷ đồng.

Ông Trần Văn Âu – người nuôi tôm ở khu vực Hà Liên cho biết: “Vụ nuôi cuối năm, gia đình tôi thả nuôi 20 vạn con tôm thẻ chân trắng. Sau 50 ngày nuôi, tôm đã đạt kích cỡ 150 con/kg, chưa kịp xuất bán thì bão ập vào, gia đình tôi mất trắng toàn bộ. Hiện nay, tôi đang nợ 60 bao thức ăn từ đại lý với số tiền 18 triệu đồng”. Qua câu chuyện với chủ đại lý thức ăn, ông Âu đề nghị khoanh lại số nợ này, đồng thời mong muốn đại lý tiếp tục bán chịu cho ông chờ vụ nuôi tới sẽ trả.

Các nậu vựa chuyên bán thức ăn tươi phục vụ nuôi thủy sản lồng bè cũng rơi vào cảnh tương tự. Qua tìm hiểu thực tế tại các vùng nuôi lồng bè lớn ở thị trấn Vạn Giã và xã Vạn Thạnh (huyện Vạn Ninh), được biết, các chủ nậu vựa không để nông dân nợ lâu tiền thức ăn mà chỉ gối đầu trong 1 tháng. Tuy nhiên, các hộ nuôi lồng bè thường nuôi với số lượng lớn, chi phí thức ăn nhiều nên số nợ trong 1 tháng của hộ nuôi ít cũng đến 60 – 70 triệu đồng, hộ nhiều 400 – 500 triệu đồng. Một chủ vựa kinh doanh thức ăn ở đường Trần Hưng Đạo (thị trấn Vạn Giã) cho biết: “Sau cơn bão số 12, số tiền các hộ nuôi tôm lồng bè nợ gia đình tôi hơn 10 tỷ đồng. Chúng tôi muốn thu hồi nợ, người nuôi cũng không có để trả nên đành phải khoanh lại số nợ này, đợi người nuôi phục hồi sản xuất, năm sau thu hồi”.

Mong sự chia sẻ

Được biết, để có vốn kinh doanh, hầu hết các nậu vựa đều vay ngân hàng, trong khi thức ăn đã bung ra, nợ chưa thu hồi được nên rất khó khăn. Các chủ nậu vựa kiến nghị ngân hàng xem xét khoanh nợ, miễn, giảm lãi cho các đại lý kinh doanh thức ăn bị ảnh hưởng do bão.

Theo ông Nguyễn Thược – hộ nuôi tôm hùm lồng ở thị trấn Vạn Giã, sau bão, toàn bộ số tôm của gia đình ông mất sạch, ông đang nợ 60 triệu đồng tiền thức ăn từ nậu vựa. Trước mắt, gia đình ông đang xoay xở để làm lại lồng bè, mua giống để thả nuôi tôm lại, từ đó mới có thể có tiền trả nợ. Gia đình ông Trương Thái Hùng – hộ nuôi tôm hùm ở Vạn Thạnh cũng đang nợ 3 tháng tiền mua thức ăn, với số tiền hơn 300 triệu đồng. Ông cho biết, qua trao đổi, các chủ nậu vựa chuyên cung cấp thức ăn thủy sản cho bè nuôi của gia đình đồng ý khoanh lại số nợ nhưng người nuôi phải chịu lãi suất ngân hàng. Riêng đối với số thức ăn mua mới, phải có tiền mua thì họ mới bán.

Qua trao đổi với đại diện Phòng Kinh tế huyện Vạn Ninh, thị xã Ninh Hòa, các địa phương đều xác nhận thực trạng những hộ nuôi trồng thủy sản ao đìa, lồng bè đang nợ tiền mua thức ăn từ các đại lý, nậu vựa. Ước tính thiệt hại về nuôi trồng thủy sản tại vịnh Vân Phong lên đến 16.530 ô lồng, đầm Nha Phu 2.310 ô lồng; thị xã Ninh Hòa 1.025ha ao đìa, huyện Vạn Ninh 640ha ao đìa thì số nợ tiền thức ăn là rất lớn.

Hiện nay, người dân mong muốn bên cạnh việc xem xét khoanh nợ, giãn nợ, miễn giảm lãi suất, các ngân hàng cần xem xét cho người dân vay mới để tái đầu tư; các chính sách hỗ trợ nuôi trồng thủy sản thiệt hại do bão sớm được ban hành, triển khai. Từ đó mới có thể khắc phục được hậu quả, trả các khoản vay, khoản nợ do bão gây ra.

Nguồn: Báo Khánh Hòa được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá rô đầu nhím mở ra hướng đi mới cho vùng đất nhiễm phèn

Mô hình nuôi cá rô đầu nhím tại Trạm Nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) Đồng Tháp Mười, xã Thạnh Hưng, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An góp phần đa dạng hóa vật nuôi, tăng giá trị sử dụng đất, ứng dụng các tiến bộ KH&CN vào sản xuất nông nghiệp, tạo sản phẩm thủy sản có chất lượng phục vụ người tiêu dùng, khống chế, xử lý phèn trong ao nuôi thủy sản mới khai hoang bị nhiễm phèn.

Phân loại cá theo kích cỡ 

Trạm Nghiên cứu ứng dụng KH&CN Đồng Tháp Mười có diện tích hơn 80ha. Trong đó, khu nuôi trồng thủy sản được thiết kế gồm 1 ao lắng và 24 ao nuôi với diện tích 3.000m2/ao, 6 ao nuôi với diện tích 1.000m2/ao. Các ao nuôi thủy sản thường nhiễm phèn nên tôm, cá không sống được và khó phát triển. Muốn kiểm soát độ pH của nước tại ao nuôi để các loại thủy sản phát triển tốt, ngoài kiểm soát 2 nguồn phát sinh phèn, cần chọn đối tượng nuôi thích hợp với điều kiện, môi trường đất và nước tại trạm. Cá rô đầu nhím là con lai, thừa hưởng những ưu điểm giữa cá rô đồng và cá rô đầu vuông, có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cá rô đồng nhưng chất lượng thịt thơm, ngon hơn cá rô đầu vuông. Đặc biệt, loài cá này có khả năng thích nghi với môi trường khắc nghiệt rất tốt. Vì vậy, Sở KH&CN giao Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi cá rô đầu nhím trong vùng đất nhiễm phèn mới khai hoang.

Ao nuôi có diện tích 900m2 được tát cạn nước, bắt hết cá tạp, vét bùn đáy ao, chừa lại lớp bùn khoảng 20cm, rửa phèn đáy ao khoảng 3-4 lần. Sau đó, sử dụng bạt phủ trên mặt bờ ao và lót xung quanh bờ ao nhằm hạn chế phèn từ trên bờ rửa trôi xuống do mưa, ngăn phèn rỉ từ trong bờ ao; đồng thời, bón vôi liều lượng 200kg để tăng pH của nước. Đáy ao được bón 300kg phân chuồng tạo hệ đệm nền đáy, ngăn phèn từ nền đáy xì lên và giúp tảo phát triển mạnh, quá trình quang hợp của tảo sẽ làm tăng pH. Cấp nước vào ao từ 1,5-2m, kiểm tra chất lượng nước đạt tiêu chuẩn trước khi tiến hành thả cá.

Cá rô đầu nhím đạt trọng lượng 130-170g/con, 5-7 con/kg

Cá giống được chọn những con khỏe mạnh, đồng đều, không xây xát, dị tật, kích cỡ từ 150-200 con/kg. Mật độ nuôi 20 con/m2. Cá được nuôi bằng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 30%, kích cỡ viên thức ăn thay đổi tùy theo kích cỡ miệng của cá, dao động từ 2-4 mm. Trong quá trình nuôi, định kỳ bón vôi phòng bệnh cho cá, lượng vôi bón 2-3kg/100m2; trộn men tiêu hóa và vitamin C vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá. Thường xuyên thay nước, theo dõi hoạt động của cá.

Sau 3 tháng, trung bình, trọng lượng cá từ 130-170g/con, 5-7 con/kg. Tổng sản lượng cá thu hoạch trên 1.300kg, tỷ lệ sống đạt 70%. Với kết quả này, mô hình nuôi cá rô đầu nhím trong ao phèn mới khai hoang mở ra hướng mới trong việc lựa chọn thủy sản phù hợp vùng đất phèn Đồng Tháp Mười của tỉnh, đồng thời giúp nông dân có biện pháp cải tạo nước ao, nâng pH đến 6,5-8 để phù hợp với nuôi thủy sản.

Nguồn: Trung tâm Ứng dụng TBKHCN được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tăng sức cạnh tranh nhờ truy xuất nguồn gốc

Theo xu hướng hiện nay, các nhà nhập khẩu tôm trên thế giới luôn quan tâm đến nguồn gốc sản phẩm. Vì vậy, truy xuất nguồn gốc hết sức thực tế, đồng thời tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mỗi nước.

Sự minh bạch thiết yếu

Băn khoăn của người tiêu dùng về xuất xứ, chất lượng thực phẩm sẽ dễ dàng được giải tỏa khi phương pháp “truy xuất nguồn gốc điện tử” của thực phẩm được áp dụng. Bà Võ Ngân Giang – Đại diện Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO) cho biết: “Trên mỗi sản phẩm được bán ra có mã truy xuất được in trên bao bì, khi người tiêu dùng muốn biết đầy đủ thông tin về món hàng đã mua, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối thì có thể dùng mã đó để kiểm tra. Họ có thể gõ mã truy xuất trên trang web của sản phẩm để tìm thông tin; hoặc dùng điện thoại thông minh có cài đặt phần mềm truy xuất để quét lên mã truy xuất được in trên bao bì của sản phẩm”.

Theo các chuyên gia, xu hướng hiện nay, các nhà nhập khẩu trên thế giới luôn muốn biết sản phẩm được sản xuất từ đâu, đi qua những chỗ nào. Vì vậy, truy xuất nguồn gốc hết sức thực tế, đòi hỏi hết sức gay gắt.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, việc ứng dụng thành công giải pháp truy xuất nguồn gốc điện tử cho sản phẩm góp phần làm tăng giá trị nông, thủy sản, tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt. Bởi lẽ, thị trường thế giới đòi hỏi rất cao và khắt khe về chất lượng cũng như nguồn gốc của thực phẩm nên phương pháp này cũng góp phần tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam khi đi ra thế giới.

Truy xuất nguồn gốc

Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình đã phối hợp với Công ty CP Thanh Hương xây dựng mô hình nuôi TTCT theo VietGAP. Mô hình gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, cung cấp cho thị trường sản phẩm nông nghiệp có truy xuất nguồn gốc điện tử. Mô hình thực hiện trên 2 ao nuôi tôm có tổng diện tích 6.000 m2 với mục tiêu chuyển giao quy trình nuôi TTCT theo VietGAP cho người nuôi, đồng thời bảo đảm sản phẩm tôm nuôi đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và có truy xuất nguồn gốc điện tử. Kết quả của mô hình nuôi TTCT theo VietGAP tại Công ty CP Thanh Hương cho thấy, quy trình VietGAP giúp người nuôi tôm kiểm soát tốt được chất lượng nguồn nước, dịch bệnh, hạn chế rủi ro và tiết kiệm được chi phí sản xuất.

Ưu điểm lớn nhất của mô hình là phát triển nghề nuôi tôm một cách bền vững, thân thiện với môi trường nhờ giảm lượng thuốc, hóa chất do sức khỏe tôm tốt, môi trường ổn định hơn; kiểm soát thức ăn tốt, không để dư thừa. Sản phẩm tôm nuôi theo VietGAP bảo đảm đủ các tiêu chí: an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường và an sinh xã hội.
Ông Nguyễn Văn Hùng, cán bộ Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quảng Bình cho biết, năm 2017, Trung tâm phối hợp với Công ty CP Thanh Hương triển khai mô hình nuôi TTCT theo VietGAP để tạo ra sản phẩm có thị trường tiêu thụ ổn định, bảo đảm an toàn thực phẩm. Qua đó, sản phẩm tạo niềm tin cho người tiêu dùng thông qua việc quét mã vạch bằng cách ứng dụng điện thoại thông minh truy xuất nguồn gốc trên bao bì sản phẩm, tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường. Đây chính là cơ sở để nhân rộng mô hình theo chuỗi liên kết, hướng tới nuôi trồng thủy sản bền vững.

Vẫn nhiều khó khăn

Phương pháp “truy xuất nguồn gốc” sản phẩm đang dần trở thành yêu cầu bắt buộc ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canada… Trong khi đó, tại Việt Nam, việc truy xuất nguồn gốc thực phẩm còn lỏng lẻo.

Trong bối cảnh người nuôi tôm chịu nhiều rủi ro do tôm bị dịch bệnh, thị trường xuất khẩu có tiêu chuẩn ngày càng khắt khe, việc tuân thủ quy trình sản xuất tôm an toàn theo VietGAP là yêu cầu cấp bách đặt ra cho người nuôi tôm hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng bộ tiêu chuẩn VietGAP gặp nhiều khó khăn, do nhiều hộ nuôi chưa quen ghi chép sổ sách, hạ tầng vùng nuôi còn yếu kém, diện tích nhỏ lẻ và chưa có sự rạch ròi giữa sản phẩm tôm VietGAP và tôm thông thường, giá bán không cao. Nhiều hộ dân nuôi nhỏ lẻ không muốn áp dụng VietGAP vì cho rằng các tiêu chí còn rườm rà và nhiều tiêu chí cần phải có kinh phí đầu tư.

Thực tế, chỉ một số ít các doanh nghiệp sản xuất được theo phương pháp này, một số đang theo đuổi nhưng chưa thực hiện được trọn vẹn phương pháp. Bà Võ Ngân Giang chia sẻ: Với tình hình hiện nay ở Việt Nam nên bắt đầu từ những siêu thị, nơi mà đòi hỏi thực phẩm có nguồn gốc, nơi sản xuất, thực hiện mua bán qua hợp đồng, thực hiện phương pháp “truy xuất nguồn gốc” từ đó dần rồi mở rộng phạm vi.

Điều này cũng cần có sự vào cuộc của rất nhiều bên, vì mỗi thực phẩm để đến tay người tiêu dùng phải trải qua rất nhiều khâu, muốn truy xuất ngược lại thì cần sự hợp tác của tất cả các khâu đó, đòi hỏi trách nhiệm và sự trung thực tuyệt đối của mỗi bộ phận thì hệ thống mới có thể duy trì.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.