Những mặt trái của việc sử dụng hormon sản xuất cá đơn tính

Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành công nghiệp có nhiều triển vọng phát triển trên toàn thế giới. Một trong những bước đầu tiên trong nuôi thủy sản đơn tính là sản xuất cá rô phi toàn đực; vì vậy, hormone được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực này.

Biểu đồ minh hoạ các khía cạnh khác nhau của Androgen trong nuôi trồng thuỷ sản (ví dụ cá rô phi) và môi trường.

Đã có một sự quan tâm ngày càng tăng trong cách các hormone tác động đến sinh học của cá. Nhiều nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đã khảo sát cách Androgen có thể tương tác với nhiều hệ thống của cơ thể; tuy nhiên, hiếm khi ai trong số họ cố gắng tìm cách cải thiện hormone hoặc tìm một phương án thay thế.

Nghiên cứu này tập trung vào những ảnh hưởng tiềm ẩn của hormone, đặc biệt là Androgens đối với hệ thống miễn dịch của cá, và các giải pháp.

Cách đây hàng thập niên, nhiều nhà nghiên cứu đã khảo sát vai trò của hormone trong việc điều chỉnh đáp ứng và chức năng các hệ thống khác nhau của cơ thể trong các động vật có xương sống. Rõ ràng là các hormone giới tính có tác động đến các hệ cơ quan khác nhau của cơ thể bao gồm cả hai nhóm hệ thống miễn dịch (bẩm sinh và thích nghi).

Trong giai đoạn đầu của sự phát triển cá con, các gen quyết định giới tính và nhiễm sắc thể giới tính thông qua steroidogene (Hình 1) đang hoàn thiện các tuyến sinh dục đối với đực và cái. Sản xuất hormone steroid có thể làm gián đoạn giai đoạn này, dẫn đến sự thay đổi giới tính mà không ảnh hưởng đến kiểu gen. Hầu hết các phương pháp sản xuất cá đơn tính đều nhắm tới sự hình thành steroid trong giai đoạn phát triển ban đầu.

Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính

Hình 1. Con đường steroidogenesis sản xuất cá đơn tính. Testosterone được chuyển thành 11-ketotestosterone (11-KT) thông qua các hoạt động của 11β-hydroxylase và 11β-hydroxysteroid dehydrogenase. 11β-hydroxysteroid dehydrogenase chuyển cortisol thành cortisone. Aromatase chuyển testosterone thành 17 β-oestradiol.

Hình 2. Các phương pháp khác nhau được sử dụng trong sản xuất cá đơn tính, trong đó kỹ thuật sử dụng các hormone là phổ biến nhất. (Các phương pháp sử dụng bên trái: cảm ứng xung điện, xử lý nhiệt, di truyền nhiễm sắc thể giới tính, lai tạo giống đặc biệt và chọn lọc tự nhiên; Bên phải: Sử dụng hormone sinh dục)

Kết quả

1. Tác động của Androgen đến tỷ lệ chết

Nhìn chung, nuôi ấu trùng cá và sản xuất thường bị cản trở bởi tỷ lệ tử vong cao. Mặt khác, bất kỳ sự gián đoạn nào trong khả năng miễn dịch của ấu trùng cá sẽ đe doạ sự sống sót của chúng. Steroid tổng hợp dùng trong sản xuất giống đơn tính gây ra tỷ lệ tử vong cao ở một số loài. Ở cá tạp, MT (Methyl-testosterol) đã ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống sót, và tỷ lệ tử vong trên 50% ở cá rô phi .

Gần đây, Abo-Al-Ela et al. đã chứng minh rằng MT tăng tỷ lệ tử vong của cá bột được xử lý; hơn nữa, tỷ lệ tử vong này tương quan với biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch trong suốt quá trình xử lý. Hơn nữa, tỷ lệ tử vong đã được hiển thị tăng khi tăng liều MT trong một số loài cá rô phi đã ghi nhận.

2. Ảnh hưởng của Androgens đối với môi trường

Androgens và Estrogen đã được phát hiện như là chất gây ô nhiễm trong môi trường, đặc biệt là trong các hệ thống nông nghiệp; Androgens có thể lan rộng sang các loài không phải là mục tiêu, bao gồm giai đoạn đầu của cá, gây ra độc tính tế bào, dị dạng phôi và sự chậm nở của trứng.

Rivero-Wendt et al. cho thấy nguy cơ ô nhiễm môi trường tiềm ẩn của MT ở nồng độ 0.004 mg/L đủ để gây ra sự thay đổi Vitellogenin (Vtg) như một chỉ thị về sự căng thẳng của cá hoặc ô nhiễm môi trường.

3. Tác động của Androgens lên miễn dịch

Về miễn dịch, các hormone steroid đóng một vai trò quan trọng trong điều hòa hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, có rất nhiều tranh luận liên quan đến ảnh hưởng của Androgens trong việc ngăn chặn hoặc kích thích mức độ miễn dịch. Nói cách khác, chúng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức khoẻ và sự phát triển của cá.

Trên mức androgen cho phép, các mạng lưới gen liên quan đến đáp ứng miễn dịch bẩm sinh bị ảnh hưởng bởi điều trị DHT và bằng MT ở cá Rô phi. MT là một chất phân giải nội tiết nghiêm trọng và có tác dụng độc tính trên lymphocyte của cơ thể; nó cũng làm tăng tần số trao đổi sắc tố và làm giảm động học chu trình tế bào.

Tại Ai Cập, các trang trại cá rô phi cá rô phi đã được báo cáo có mức độ RBCs và bạch huyết bào thấp. Ngoài ra, tác động phá hoại của MT đã được mở rộng đến hoạt động của enzyme chống oxy hoá và sao chép gen sau khi tiếp xúc hoặc ăn khẩu phần ăn có chứa MT. Các steroid khác, như 11-ketotestosterone (11-KT), đã được báo cáo để ức chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh và các đường hô hấp ở cá gai ba lá và cá chép.

Kết luận

Nuôi cá và sản xuất là một sự đầu tư quan trọng. Nuôi cá đơn tính, đặc biệt là cá đực, rất cần thiết; và hormone được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp này. Tuy nhiên, các hormone sẽ làm thay đổi các hệ thống cơ thể khác nhau, có thể ảnh hưởng đến sự nhạy cảm của cá với bệnh tật và nhiễm trùng cơ hội và chúng có thể gây ô nhiễm môi trường.

Do đó, cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để tìm ra những cách an toàn hơn để đảm bảo sản xuất thủy sản đơn tính, chẳng hạn như sử dụng di truyền như nhiễm sắc thể YY (cá thể đực) hoặc bổ sung các chất như vitamin C có thể điều chỉnh tác dụng của hormone.

Nguồn:  Ssciencedirect được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella

Việc chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng làm bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Ánh sáng xanh từ đèn LED bất hoạt vi khuẩn Edwardsiella giúp quản lý mầm bệnh trên cá nuôi.

Mặc dù việc sử dụng ánh sáng xanh (400 – 500 nm) để giảm các mầm bệnh do vi khuẩn ở các trang trại nuôi cá có nhiều lợi thế hơn việc sử dụng thuốc hoá học nhưng đã có rất ít nghiên cứu ứng dụng ánh sáng xanh trong quản lý bệnh trên thủy sinh vật.

Mục tiêu của các nhà khoa học Trung Quốc trong nghiên cứu này là để xác minh tác động diệt khuẩn của các điều kiện ánh sáng (quang phổ và cường độ ánh sáng) trên vi khuẩn Edwardsiella piscicida nhằm chứng minh hiệu quả của việc chiếu xạ ánh sáng xanh trong việc giảm bệnh Edwardsiellosis trong cá chép và phân tích các tác động có hại tiềm tàng của ánh sáng xanh trên cá chép.

Cá bị bệnh do Edwardsiella piscicida

Thí nghiệm

E. piscicida ở nồng độ 105 CFU/ml được phơi ra với ánh sáng 405 hoặc 465 nm trong thời gian phơi nhiễm ước tính sẽ làm mất 99% vi khuẩn.

Thử nghiệm hiệu quả tác dụng của các đèn LED phát sáng đã được thực hiện bằng cách sử dụng thử thách tiếp xúc trong thời nhất định, trong đó tỷ lệ nhiễm bệnh và số lượng E. piscicida trong nước nuôi được theo dõi.

Các tác động có hại tiềm tàng của điều kiện ánh sáng được điều tra bằng cách quan sát các thay đổi mô bệnh học trong mô mắt và biểu hiện gen protein 70 và corticosteroid 11-beta-dehydrogenase isozyme 2 trong mô thận.

Kết quả

Tỷ lệ vi khuẩn E. piscicida bị bất hoạt từ các cường độ khác nhau của bước sóng xanh LED đã chứng minh một mối tương quan mạnh mẽ giữa cường độ ánh sáng và thời gian chiếu xạ. Hơn nữa, bức xạ LED xanh giảm số lượng E. piscicida trong nước nuôi cũng như tỷ lệ cá bị nhiễm bệnh.

Xét nghiệm mô bệnh học cho thấy các hạt melanin và tế bào nhạy cảm tạm thời tăng lên ở võng mạc, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm đối chứng và nhóm chiếu xạ sau 28 ngày tiếp xúc.

Kết luận

Nghiên cứu này chứng tỏ rằng chiếu xạ ánh sáng xanh có khả năng khử bất hoạt vi khuẩn E. piscicida và làm giảm sự nhiễm bệnh của cá mà không gây ra những phản ứng phụ bất lợi cho cá.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Sáng kiến ứng phó với lũ dữ

Không để gia đình lâm vào tình cảnh trắng tay, nợ nần khi lũ dữ từ thượng nguồn ập về, nhiều nông dân ở Quảng Ngãi đã mày mò tìm ra nhiều phương cách bảo vệ sản xuất ngay giữa mùa mưa lũ…

Chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox do ông Trần Kim Sanh (Quảng Ngãi) sáng chế.

Sau đợt lũ lớn đầu tháng 12, chúng tôi trở lại thôn Phước Lộc Tây (xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh) – nơi được xem là rốn lũ ở Quảng Ngãi. Sông Trà Khúc hết lũ đã 4 ngày, nhưng đường làng, ngõ xóm vẫn ngập nước. Những người dân nuôi cá chình trên sông Trà cho biết, nhờ sáng kiến của ông Trần Kim Sanh, Trưởng Tổ hợp tác nuôi cá lồng bè sông Trà Khúc, mà kỳ này chống lũ đỡ cực. Bằng kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn, ông Sanh đã mày mò và sáng chế ra những chiếc lồng bè nuôi cá bằng inox.

Những năm về trước, lũ thượng nguồn sông Trà Khúc đổ về cũng là lúc mọi người trong thôn Phước Lộc Tây kéo nhau ra sông, bất chấp nguy hiểm lao mình ra dòng lũ dữ, dùng dây buộc chặt các lồng bè nuôi cá làm bằng gỗ, tre, lưới… lại với nhau, nhằm níu giữ những con cá nuôi trong lồng. Nhưng nước lũ ở mức báo động 2 thì chống đỡ được, chứ lũ tiếp tục dâng cao và kéo dài thì lồng bè nuôi cá đều bị dòng lũ đánh tan hoặc cuốn trôi.

Ông Trần Kim Sanh ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn (Sơn Tịnh) là một trong những người tiên phong nuôi cá lồng bè và cũng là người đầu tiên thay đổi chất liệu lồng nuôi cá. Ông Sanh cho biết, mùa mưa lũ mang lại nguồn thủy sản tự nhiên phong phú, tuy nhiên nỗi lo đối với nhiều hộ dân nuôi cá lồng bè là thường bị thiệt hại lớn về tài sản. Lý do là những chiếc lồng bè bằng tre dễ bị mục nát, làm thất thoát cá trong lồng.

Ông Sanh mày mò cải tiến từ lồng bè bằng khung tre, gỗ sang dùng khung inox với kích thước nhỏ hình chữ nhật, gọn, có thể tích 12m³ nước, mật độ thả 500 con cá/lồng. Thay vì dùng lưới, ông lắp ghép quanh khung lồng những tấm inox đã khoan sẵn nhiều lỗ nhỏ li ti để nước sông tràn vào bên trong lồng, tạo ôxy cho cá thở. Phía trên lồng cá, ông dùng tre, ván khép nối lại để phần bè nổi trên mặt nước và bỏ thức ăn cho cá.

Ngoài ra, ông Sanh còn dùng dây neo giữ lồng cá vào tận nhà, khi nước sông dâng đến đâu dây neo kéo giữ đến đó, lồng không bị trôi. Ông Sanh chi gần 25 triệu đồng/lồng bè, cao hơn lồng bè khung tre, gỗ khoảng 1,5 – 2 lần, nhưng lồng inox sử dụng bền lâu, không bị gỉ sét trong vòng hơn 10 năm. Hiện các hộ nuôi cá lồng ở thôn Phước Lộc Tây đều học cách làm lồng bè như ông Sanh và mọi người sắp thu hoạch vụ cá sau mùa bão lũ được mùa, giá cao.

Nhờ linh hoạt trong việc thay đổi chất liệu lồng nuôi cá, trong mùa mưa bão năm nay, số lượng cá nuôi của ông Sanh ít hao hụt, 3 lồng bè nuôi cá chình và cá trắm cỏ vẫn giữ vững được năng suất. Ông Sanh cho biết, lượng cá xuất ra thị trường hằng năm khoảng 1-2 tạ, thu nhập khoảng 80 triệu đồng/năm.

Ông Nguyễn Thành Chín (cũng ở thôn Tây, xã Tịnh Sơn), có kinh nghiệm gần 10 năm nuôi cá lồng bè ở sông Trà Khúc, chia sẻ: “Từ khi chuyển sang lồng inox, tôi rất yên tâm. Lồng cá được bảo đảm, không sợ cá bị hao hụt. Mỗi năm gia đình tôi thu nhập trung bình khoảng 150 triệu đồng, nhờ đó kinh tế dần cải thiện”.

Phó Chủ tịch UBND xã Tịnh Sơn Nguyễn Thành Vy, cho biết: “Nghề nuôi cá trong lồng bè, đã giúp nhiều hộ dân trên địa bàn xã ổn định cuộc sống. Chính quyền địa phương đã khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ về nguồn vốn để các hộ dân đầu tư thay lồng tre bằng lồng inox. Việc người dân chuyển từ lồng bè bằng tre sang lồng bè bằng inox đã mang lại hiệu quả rõ rệt, giảm đáng kể thiệt hại trong mùa mưa lũ”.

Nguồn: Báo Quãng Ngãi được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Nhờ phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, hơn 10 năm qua, giá trị sản xuất của ngành thủy sản tỉnh Tuyên Quang liên tục tăng bình quân trên 20%/năm.

Nuôi cá lồng đặc sản theo VietGAP ở Tuyên Quang

Đặc biệt, 5 loài cá đặc sản quý hiếm (ngũ quý xứ Tuyên) được nuôi bằng lồng trên sông Lô, sông Gâm theo quy trình VietGAP đã chinh phục khách hàng khắp nơi.

Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch

Tháng 5/2016, tỉnh Tuyên Quang có 2 đơn vị là Công ty TNHH Lâm sản và Dịch vụ Long Giang và Trang trại Trương Thị Hoài Linh vinh dự nằm trong tốp 69 đơn vị dẫn đầu được Bộ NN-PTNT công bố, công nhận “Địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch”. Đây cũng là hai đơn vị nuôi trồng thủy sản nước ngọt tiên phong đầu tư tại Tuyên Quang. Các loại đặc sản gồm cá lăng, chiên, bỗng, dầm xanh và anh vũ.

Nuôi cá lồng theo quy trình VietGAP là đòi hỏi thiết yếu và mang lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi.

Bà Nguyễn Thị Vĩnh An, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Tuyên Quang cho biết, một mục tiêu quan trọng trong phát triển thủy sản tại Tuyên Quang là khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư phát triển nuôi cá lồng theo hướng VietGAP với các loại lồng nuôi có kích thước lớn (lồng kích thước 108m3) nhằm nâng cao năng suất, sản lượng cá lồng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.

Theo đó, Chi cục thường xuyên hướng dẫn người nuôi kiểm tra các yếu tố môi trường nước quan trọng như oxy hòa tan, pH, H2S, NH3… để có giải pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, hướng dẫn người nuôi cá theo dõi và chăm sóc cá nuôi hàng ngày để có biện pháp xử lý khi có hiện tượng bất thường xảy ra.

Khuyến cáo người nuôi không thả cá giống khi các yếu tố môi trường nước chưa đảm bảo, thực hiện nuôi theo đúng mật độ hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, khoảng cách giữa các cụm lồng/bè và mật độ lồng bè phải đảm bảo theo quy định.

Người dân không được cho cá ăn thức ăn hết hạn sử dụng, thức ăn không có trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, đối với thức ăn tươi sống phải cho ăn theo đúng khẩu phần ăn hàng ngày, không để thức ăn dư thừa làm ô nhiễm môi trường vùng nuôi…

Anh Nguyễn Trường Minh, Phó Giám đốc Công ty TNHH Lâm sản và dịch vụ Long Giang cho biết, công ty tổ chức nuôi trồng thủy sản trên hồ sinh thái Na Hang và hồ thủy điện Chiêm Hóa với số lượng 30 lồng nuôi cá đặc sản.

Theo anh Minh, giá cá giống rất đắt nên việc chọn nuôi theo quy trình VietGAP cũng là cách để hạn chế rủi ro. Theo đó, ngoài môi trường chăn nuôi sạch thì thức ăn chăn nuôi cũng phải đảm bảo an toàn. Hàng năm, công nhân công ty đều tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá. Công nhân thường xuyên kiểm tra thức ăn và lượng cá ăn hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp, vệ sinh lồng cá định kỳ tạo sự thông thoáng nước trong lồng để tăng hàm lượng oxy trong nước và chống ký sinh trùng trên cá, bổ sung khoáng chất, thuốc phòng ngừa dịch bệnh cho cá khi cần thiết.

Nhờ làm tốt quy trình, sau khi được Bộ NN-PTNT công nhận là “địa chỉ xanh cung cấp thực phẩm sạch” trên toàn quốc, tháng 3/2017, công ty đã được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận cơ sở nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn VietGAP. Sản lượng cá sản xuất ra không đủ cung cấp cho các đơn đặt hàng khắp nơi. Công ty đã lập kế hoạch tiếp tục mở rộng sản xuất, ngoài cung cấp thực phẩm tươi, sẽ mở thêm dịch vụ chế biến sẵn để tiêu thụ sản phẩm ở các chuỗi nhà hàng, siêu thị thực phẩm an toàn…

Bà Trương Thị Hoài Linh (chủ trang trại Trương Thị Hoài Linh) cho biết, trang trại của bà có quy mô chăn nuôi 40 lồng cá đặc sản tại huyện Na Hang. Làm VietGAP, ngoài nguồn nước thì việc chăm sóc là yếu tố quyết định hiệu quả chất lượng cá sạch. Hàng ngày, công nhân phải giặt lồng, giặt lưới để loại bỏ rong, rêu, loại bỏ các nguy cơ có thể gây bệnh cho cá; kiểm tra, phân loại cá để có cách chăm sóc phù hợp, bởi cá bé thì phải nghiền nhỏ thức ăn trước khi cho ăn.

Để đảm bảo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá, trang trại đã ký hợp đồng thu mua cá tạp với 30 hộ đánh bắt cá trên hồ thủy điện Na Hang. Đồng thời, đầu tư hệ thống kho lạnh với sức chứa 20 tấn, qua đó, nguồn thức ăn cho cá luôn đảm bảo yêu cầu. Từ nỗ lực thực hiện đúng quy trình chăn nuôi, sản phẩm cá sạch Na Hang của trang trại được khách hàng từ nhiều nơi đặt mua từ trước.

Bà chủ trang trại cho hay, việc mở rộng sản xuất khi trang trại hoạt động hiệu quả là đương nhiên nhưng điều quan trọng và liên tục phải nỗ lực thực hiện là chủ động kỹ thuật chăn nuôi để duy trì, phát triển thương hiệu, khẳng định uy tín, giữ vững niềm tin của khách hàng.

Đổi đời nhờ cá lồng sạch

Tháng 8/2015, trong chuyến làm việc tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã đặc biệt ấn tượng với mô hình nuôi cá lồng tại xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên. Quan trọng nhất là sản phẩm có đến đâu đều được tiêu thụ hết đến đó với giá bán tại thời điểm đó đã lên đến 450 ngàn đồng/kg.

Đầu năm 2015, Hợp tác xã Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa được thành lập. Đây cũng là hợp tác xã nuôi cá lồng đặc sản theo quy trình VietGAP đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang. HTX hiện có 10 thành viên, với 57 lồng nuôi cá, trong đó có 11 lồng nuôi cá bỗng, còn lại đều nuôi cá chiên.

Theo các thành viên của HTX tính toán, 1 con cá chiên giống trọng lượng 200 gram khi mua có giá 150 nghìn đồng, chỉ sau hơn 1 năm nuôi cá có trọng lượng từ 2,5 – 3 kg, giá mỗi kg cá chiên thương phẩm là 450 nghìn đồng/kg. Như vậy, chỉ sau 1 năm nuôi, 1 con cá chiên trừ chi phí lãi gần 1 triệu đồng. Mỗi lồng nuôi cá sẽ cho lãi gần 50 triệu đồng.

Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc HTX Sản xuất – kinh doanh cá đặc sản Thái Hòa cho biết, nghề nuôi cá lồng xuất hiện ở Thái Hòa cách đây khoảng 10 năm. Từ một vài hộ đầu tiên, giờ Thái Hòa đã có gần 40 hộ nuôi trên 100 lồng cá chiên, cá bỗng. Nhờ nuôi cá lồng, các hộ có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên. Chắc chắn, nghề nuôi cá lồng sẽ ổn định và phát triển mạnh hơn nữa khi con giống được đảm bảo ổn định về chất lượng và sự thích nghi.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giải bài toán giống cá tra

Dù giá trị XK đã đạt gần 2 tỷ USD, đứng thứ 2 trong số các sản phẩm thủy sản XK chủ lực của Việt Nam, nhưng ngành hàng cá tra vẫn luôn ở trong tình trạng khi thiếu, lúc thừa cá tra nguyên liệu, gây khó khăn lớn cho hoạt động XK.

Để giải quyết vấn đề này, ổn định sản xuất cá tra nguyên liệu đang là vấn đề cấp thiết, nhất là giải quyết bài toán giống.

Nuôi cá tra ở ĐBSCL

Giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL hiện vẫn đang ở mức rất cao. Tuy nhiên, không mấy người nuôi cá tra được hưởng lợi từ mức giá này, bởi không còn cá mà bán.

Theo ông Nguyễn Văn Đời, một chủ trại cá tra lớn, với diện tích 10ha ở cù lao Tân Phong (Tiền Giang), phần lớn các ao nuôi cá tra ở cù lao này đã thu hoạch và bán hết khi cá tra nguyên liệu ở mức giá 24.000 – 25.000 đ/kg. Hiện dưới ao chỉ có cá mới thả nuôi chưa lâu. Ông Nguyễn Hữu Nguyên, GĐ HTX Thủy sản Châu Phú (An Giang), cho biết, hầu hết các ao nuôi ở đây cũng không còn cá để thu hoạch.

Điều đáng nói là tình trạng thiếu hụt nguồn cung cá tra nguyên liệu trong năm 2017 đã được nhiều DN cảnh báo từ năm ngoái, nhưng vẫn cứ xảy ra. Nguyên nhân trước hết là do trong 3 năm từ 2014 – 2016, giá cá tra nguyên liệu thường ở mức thấp, khiến nhiều người nuôi bị thua lỗ, phải treo ao hay chuyển nghề nuôi khác. Bên cạnh đó, là việc mất mùa cá tra giống cuối năm 2016 cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thả nuôi cá tra của nhiều trang trại trong năm nay.

Mặt khác, chất lượng cá tra giống cũng đang khiến cho nhiều DN, trang trại không yên tâm thả nuôi. Theo báo cáo của TS Dương Nhựt Long (Khoa Thủy sản, ĐH Cần Thơ), tại Lễ tổng kết Dự án xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam, tỷ lệ sống của cá tra trong quá trình ương giống rất thấp, hiện chỉ từ 6 – 10%. Sau khi thả giống, tỷ lệ cá chết khá cao, từ 10 – 30%, tỷ lệ sống của cá tra nuôi thịt hiện mới chỉ đạt 69 – 80%.

Chính vì vậy, để ổn định nghề nuôi cá tra, việc nâng cao chất lượng con giống đang được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Một thông tin đáng chú ý là mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận Đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL tại An Giang”.

Cụ thể: cấp 1 gồm các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, trường ĐH và DN có đủ điều kiện cung cấp đàn cá tra bố mẹ tuyển chọn các tính trạng tốt để chuyển giao cho đơn vị cấp 2; cấp 2 gồm Trung tâm giống thủy sản An Giang, trung tâm giống thủy sản cấp 1 của các tỉnh, các DN có cơ sở sản xuất giống, các trại giống liên kết sản xuất, cung cấp cá tra bột; cấp 3 là các cơ sở ương dưỡng từ cá bột lên cá hương giống. Mục tiêu là đến năm 2020, diện tích tham gia chuỗi liên kết đạt 1.000ha, chiếm 50% diện tích ương giống cá tra khu vực ĐBSCL; cung cấp cho toàn vùng khoảng 50% con giống (tương đương 1,75 tỉ con giống); đến năm 2025 cung cấp 70% con giống (tương đương khoảng 2,8 tỉ con giống).

Điều đáng chú ý của Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp là đã thu hút được sự tham gia của các DN. Chẳng hạn, Tập đoàn Việt – Úc đã quyết định đầu tư vùng sản xuất cá tra giống chất lượng cao với diện tích 100ha ở thị xã Tân Châu (An Giang).

Bộ NN-PTNT cũng đánh giá cao vai trò quan trọng của DN trong hệ thống sản xuất giống cá tra, nhất là những DN đã khẳng định được năng lực trong nghiên cứu, chọn tạo giống thủy sản. Mới đây, tại Lễ công bố Chương trình tôm giống bố mẹ của tập đoàn Việt – Úc, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám, sau khi biểu dương những thành công của Tập đoàn Việt – Úc trong việc chọn tạo tôm giống bố mẹ, đã đề nghị tập đoàn này tận dụng kinh nghiệm sẵn có, phát triển nghiên cứu chọn giống sang các đối tượng nuôi quan trọng, trong đó có cá tra.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP, trong 10 tháng đầu năm nay, XK cá tra đạt gần 1,48 tỷ USD. Trong mấy tháng cuối năm đã ghi nhận tín hiệu tích cực từ một số thị trường nhập khẩu quan trọng như Trung Quốc, Mỹ, ASEAN… Tuy nhiên, do cá tra nguyên liệu bị thiếu hụt nặng nề, kế hoạch XK cuối năm của nhiều DN sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi giữ cá qua mùa đông

Tầm quan trọng

Đối với người nuôi cá, cá giống là yếu tố quan trọng trong sản xuất, nhất là tại các tỉnh miền Bắc bị ảnh hưởng bởi không khí lạnh và mùa đông kéo dài. Mùa đông đến, nhiệt độ xuống thấp, thậm chí một số tỉnh vùng núi phía Bắc nhiệt độ xuống 0°C gây khó khăn cho việc lưu giữ cá giống cho vụ nuôi năm sau.

Nhiệt độ thấp cũng ảnh hưởng đến khả năng thành thục và sinh sản của cá bố mẹ. Vì vậy, miền Bắc thường sản xuất giống muộn, ảnh hưởng không nhỏ đến thời vụ nuôi. Do vậy, việc lưu giữ được cá giống cho vụ sau là điều rất cần thiết.

Ngoài ra, sử dụng cá giống lưu qua đông sẽ tăng được thời gian nuôi cá, thu hoạch sớm hơn và cá bán được giá tốt hơn.

Những kỹ thuật cần lưu ý 

Chuẩn bị ao nuôi

Đối với ao cá giống và cá thương phẩm thì cần tránh dùng những ao bị ảnh hưởng trực tiếp hướng gió đông bắc.

Ao có bờ chắc chắn, không rò rỉ. Độ sâu mực nước 1,5 – 2 m, nguồn nước cấp vào ao phải sạch, không bị ô nhiễm.

Cải tạo ao: Trước mùa đông thường thu hoạch hết cá giống, cá thịt phân loại để lưu giữ và nuôi qua đông. Sau khi thu hoạch cần tát cạn nước ao, vét bớt bùn đáy, chỉ để lại một lớp bùn sâu 15 – 20 cm. Tu sửa bờ ao, cống. Xử lý ao bằng vôi bột, liều lượng 8 – 10 kg /100 m² ao. Sau đó, cấp nước vào ao từ 1,8 – 2,2 m.

Thả cá: Sau khi cải tạo ao xong, gây màu tạo nguồn thức ăn là động thực vật phù du đối với ao nuôi cá giống. Trước khi thả cá giống cần phân loại, đong đếm để tiện cho việc chăm sóc và quản lý sau này.

Với cá nuôi thương phẩm cũng phân loại kích cỡ, số lượng để tiện chăm sóc. Thả cá vào những ngày thời tiết nắng ấm.

Chăm sóc quản lý

Thời điểm trước khi đưa cá vào lưu giữ cần tăng cường dinh dưỡng cho cá để cá béo khỏe, có sức đề kháng với bệnh tật và có khả năng chịu đựng được thời tiết lạnh giá. Cho cá ăn đầy đủ thức ăn đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Đối với cá giống và cá thương phẩm trong thời gian lưu giữ, vẫn cho cá ăn vào lúc thời tiết ấm, 9 – 10h sáng hoặc 14h chiều.

Tăng cường kiểm tra, bổ sung dinh dưỡng cho cá để cá béo khỏe, có sức đề kháng với bệnh tật 

Lượng thức ăn bằng 1 – 1,5% trọng lượng cá trong ao. Thức ăn cần đảm bảo có hàm lượng đạm 18 – 22%. Có thể cho ăn bằng thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự phối chế với thành phần: bột cá 10% + bột đậu tương 20% + bột cám gạo 70%. Đối với cá trắm cỏ cho ăn thêm thức ăn xanh với lượng 20 – 25 kg/100 kg cá/ngày.

Khi cho ăn cần đảm bảo nghiêm túc yêu cầu 4 định: định chất lượng, số lượng, thời gian, địa điểm. Bổ sung thuốc, chất dinh dưỡng vào thức ăn để phòng các bệnh và tăng khả năng chống rét cho cá như tỏi, Vitamin C.

Khi nhiệt độ nước thấp, cá dễ bị mắc bệnh nấm thủy mi. Vì vậy, khi nuôi cá trong ao nên hạn chế đánh bắt, giữ mực nước ổn định 1,5 – 2 m.

Chú ý: Không dùng phân hữu cơ bón trực tiếp xuống ao để tránh các mầm bệnh phát triển gây bệnh cho cá nuôi. Định kỳ, hàng tháng xử lý môi trường ao nuôi khoảng 2 lần, bằng vôi bột hòa nước té đều khắp ao với lượng 2 – 3 kg/100 m³ nước. Hằng ngày kiểm tra hoạt động của cá, khả năng sử dụng thức ăn, môi trường ao nuôi và tình hình dịch bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời.

Kỹ thuật chống rét

Đối với cá giống: Khi thời tiết lạnh giá kéo dài nhiệt độ nước xuống dưới 8 -14ºC nên dừng cho cá ăn, chủ động nâng cao mực nước từ 1,5 – 2 m. Có thể thả bèo tây, rau muống phủ kín 1/3 (hoặc 2/3) diện tích mặt ao. Dùng rơm, rạ cuộn thành từng bó cho xuống các góc ao để cá trú rét. Với ao nhỏ có thể dùng nylon phủ trên ao, tạo thành ngôi nhà chống rét cho cá giống.

Vào thời điểm nhiệt độ trên 18ºC, tập trung cho cá ăn thức ăn tinh giàu đạm để tăng cường khả năng chịu rét cho cá. Trong suốt thời gian trú đông không được dùng lưới kéo cá để kiểm tra, đánh bắt tránh cá bị xây xát dẫn đến nhiễm bệnh và chết. Sau khi hết rét, cần cho cá ăn tích cực đảm bảo đủ chất lượng, số lượng để cá sinh trưởng và phát triển tốt.

Đối với cá thịt: Sau khi tiến hành thu hoạch, cần tuyển chọn lại cá (cá chim trắng, rô phi, trắm cỏ…) chưa đủ cỡ thu hoạch để tiến hành chống rét và nuôi lớn tiếp để bán vào thời điểm sau tết âm lịch hoặc đầu năm.

Cần chọn ao có diện tích khoảng 300 – 1.000 m², độ sâu 1,2 – 1,5 m, kín gió. Sau khi thả cá vào, tiếp tục cho ăn bằng thức ăn công nghiệp, thức ăn tinh vào những ngày ấm để cá tăng khả năng chịu rét. Dùng sọt đựng rơm thả xuống đáy ao để cá chui vào trú đông. Trên mặt ao thả bèo kín 1/2 ao về phía bắc, nếu có điều kiện có thể dùng nilon phủ kín mặt ao.

Tăng cường bổ sung dinh dưỡng, thức ăn có độ đạm cao để giúp cá chống rét tốt hơn.

Phòng và trị một số loại bệnh

Bệnh ngoại kí sinh: Cá bị bệnh, màu sắc cá trở nên nhạt, cá thích tập trung ở nơi có đường nước chảy vào. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi dầy, điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài thời tiết lạnh.

Phòng, trị bệnh: Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm, dùng formol tạt đều khắp ao với nồng độ 20 – 25 ml/m³.

Bệnh đốm đỏ: Thân và vùng bụng bị xuất huyết, vảy dựng lên, các gốc vây xuất huyết và ứ nước vàng. Bụng cá trương to chứa dịch và đỏ bầm, cá bơi lội lờ đờ chậm chạp, ít ăn hoặc bỏ ăn.

Phòng bệnh: Không nuôi mật độ quá dày, cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng, môi trường ao nuôi luôn giữ ổn định và sạch sẽ. Định kỳ 15 ngày tạt vôi bột CaCO3 với lượng 3 kg/1.000 m³ (vôi hoà tan trong nước tạt đều khắp ao).

Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh Neomycine 4g/100 kg cá bệnh và Vitamin C, liều lượng 3g/100 kg cá bệnh, thuốc được trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục 5 – 7 ngày.

Bệnh nấm thủy mi: Khi nấm mới ký sinh, mắt thường khó nhìn thấy, phần cuối của sợi nấm đâm sâu vào thịt cá, phần đầu của sợi nấm lơ lửng trong nước. Khi bệnh phát triển nhiều xuất hiện những đám bông màu trắng, gây cho cá ngứa ngáy, cá thường tập trung ở những nơi có nước chảy.

Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường sống thuận lợi cho cá, nhất là vào những lúc trời lạnh, không để cá suy dinh dưỡng (thiếu ăn), không nuôi mật độ quá dày hoặc làm cá xây xát.

Trị bệnh: Dùng thuốc tím (KMnO4) tạt đều xuống ao liều 3 – 5 g/m³ nước, hoặc dùng muối ăn tắm cho cá trong 15 phút.

Chú ý: Đối với một số vật nuôi khác như lươn, ếch cũng cần phải có biện pháp chống rét: Che kín bể nuôi bằng bạt nilon, lá dừa… Mặt ao, bể nuôi thả bèo tây chiếm 2/3 diện tích về phía hướng gió. Dùng lá dừa khô tạo thành những ụ ở những chỗ ếch thường nằm để ếch vào tránh rét. Lươn, ếch phải được chăm sóc kỹ, cho ăn bình thường, bổ sung thêm Vitamin C vào khẩu phần ăn giúp ếch tăng sức đề kháng. Vào những ngày nắng ấm hoặc buổi trưa trời nắng cần cho vật nuôi ăn đầy đủ. Lượng cho ăn phải tùy thuộc vào sức ăn mà tăng hoặc giảm để lươn, ếch khỏe mạnh, có khả năng chống rét.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Lá chuối và lá ngô giúp bảo vệ da cá

Việc bổ sung thêm chất bổ sung lá chuối và ngô không có tác dụng làm tăng hiệu quả tăng trưởng của cá nhưng lại có tác dụng bảo vệ biểu bì của da cá chống lại tác nhân gây bệnh Aeromonas hydrophila.

Bổ sung lá chuối (Musa nana) và lá ngô (Zea mays) vào thức ăn giúp bảo vệ da cá
Cơ sở khoa học

Hiện nay, các chủng vi khuẩn Aeromonas hydrophila đang gây bệnh trên khắp mọi nơi có liên quan đến ở viêm loét da cá, đặc biệt trong điều kiện căng thẳng. Nó có thể gây tổn thất nghiêm trọng đối với nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và đặc biệt phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Lá tươi từ ngô và chuối đã được các nông dân nuôi cá ở Việt Nam sử dụng làm thức ăn bổ sung và người ta đã báo cáo rằng họ có thể có lợi ích phòng bệnh từ nguồn gốc thực vật.

Trong nghiên cứu này, một thử nghiệm cho ăn được tiến hành để đánh giá các lợi ích của việc cung cấp ngô và lá chuối như là thức ăn bổ sung: để xác định xem chúng đã tác động như thế nào đối với hệ thống miễn dịch và tiêu hóa bởi cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella), nếu sự hấp thu này dẫn đến hiệu suất tăng trưởng tốt hơn, và nếu bổ sung lá có thể bảo vệ cá khi gây nhiễm thực nghiệm với vi khuẩn A. hydrophila bằng phương pháp tiêm thì đây là một nguyên liệu hết sức gần gũi với người nông dân.

Kết quả

Kết quả tất cả cá đều được cho ăn một tỷ lệ giống nhau về thức ăn viên thương phẩm có liên quan đến sinh khối. Tuy nhiên, 12/18 bể cá có khẩu phần này được bổ sung bằng lá chuối tươi hoặc lá ngô tươi cho thấy việc bổ sung lá làm tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tổng thể (FCR).

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm cá không có ý nghĩa thống kê (P<0,005). Những thay đổi đối với thành phần đồng vị của cá thể hiện sự hấp thu dinh dưỡng của lá. Tác dụng bảo vệ cá bằng việc cho ăn lá chuối hoặc lá ngô được phát hiện chống lại nhiễm trùng với A. hydrophila nhưng cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng, và khẩu phần ăn không làm thay đổi hematocrit cá.

Tuy nhiên, việc bổ sung lá ngô làm giảm đáng kể mức độ tổn thương của da ở cá, dấu hiệu lỡ loét cũng được quan sát có dấu hiệu giảm rõ rệt, có thể cải thiện giá trị thương phẩm thị trường của cá.

Kết luận

Việc bổ sung thêm chất bổ sung lá chuối và ngô không có tác dụng làm tăng hiệu quả tăng trưởng của cá nhưng lại có tác dụng bảo vệ biểu bì của da cá chống lại tác nhân gây bệnh Aeromonas hydrophila.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm, cá, kết hợp trồng rau màu

Ðể tăng thu nhập kinh tế hộ gia đình, từ năm 2012 đến nay, nhiều hộ nông dân Tân Thành đã mạnh dạn đầu tư xây dựng mô hình liên kết sản xuất nuôi tôm, cá, kết hợp trồng màu và du lịch sinh thái cho lợi nhuận mỗi năm từ 300 triệu đến 500 triệu đồng.

Trồng rau màu trên bờ liếp nuôi tôm được nhiều bà con nông dân lựa chọn nhằm tăng năng suất và tận dụng diện tích canh tác.

Ðiển hình như lão nông Nguyễn Hữu Ánh nuôi cá chình – bống tượng kết hợp trồng cây ăn trái, cây kiểng; nông dân Phạm Văn Hiệp nuôi cá kết hợp với trồng rau màu trên bờ ao; nhà nông trẻ Phạm Ngọc Tuấn nuôi cá sấu, cá bống tượng, tôm công nghiệp; hay nông dân Cao Văn Hiệu nuôi cá, trồng cây ăn trái kết hợp với du lịch – dịch vụ,…

Nổi bật là mô hình đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, lấy ngắn nuôi dài nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế trên cùng diện tích của gia đình nông dân Cao Văn Dũng, chỉ trong một thời gian ngắn từ năm 2012 đến 2016 đã cho lợi nhuận gần bốn tỷ đồng.

Anh Dũng cho biết, năm 2012, gia đình anh đã tận dụng đất trống trên bờ ao trồng các loại rau đắng, ổi, cốc, sa bô, vú sữa, xoài dưới ao thì thả nuôi các loại cá bống tượng, cá chình, trừ chi phí còn lợi nhuận gần 670 triệu đồng/năm.

Năm nay, anh Dũng vận động bốn hộ nông dân có cùng ngành nghề, sở thích xây dựng khu du lịch miệt vườn rộng gần 5 ha phục vụ khách tham quan, giải trí, với tổng kinh phí khoảng 300 triệu đồng. Tại đây du khách được câu cá, mua trái cây do tự tay mình hái, vừa có thể thưởng thức hương vị tươi ngon tại chỗ, vừa có thể mua về làm quà cho người thân. Dự kiến công trình sẽ hoàn thành, đưa vào khai thác nhân dịp Tết Mậu Tuất 2018.

Anh Dũng và những cộng sự hy vọng, với những mô hình tôm, cá, kết hợp trồng cây màu và du lịch sinh thái, trong tương lai không xa, Tân Thành sẽ trở thành địa chỉ tham quan du lịch hấp dẫn cho du khách khi đến Cà Mau nói chung và phường Tân Thành nói riêng, đem lại nguồn thu đáng kể cho người dân vùng đất mũi.

Nguồn: Báo Nhân dân được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Quan tâm hơn đến giống thủy sản truyền thống

Các loại thủy sản truyền thống như mè, trôi, trắm, chép… được xác định là những loài nuôi nhiều ở nước ta và được sản xuất giống nhân tạo. Sản lượng đáp ứng đủ nhu cầu, song vẫn chưa mở rộng phạm vi, quy mô sản xuất các loài có giá trị. Do đó, đã đến lúc chạy nước rút để tăng tốc.

Nhiều địa phương đẩy mạnh nuôi các đối tượng thủy sản truyền thống

Có thể sản xuất theo nhu cầu

Tính đến năm 2010, cả nước 416 trại sản xuất giống thủy sản truyền thống, với năng lực sản xuất trên 15 tỷ cá giống mỗi năm. Hầu hết, các trại sản xuất giống thủy sản truyền thống, các cơ sở ương nuôi giống nằm ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL, cơ bản đã đáp ứng nhu cầu cá giống cho các vùng nuôi trong cả nước.

Những thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất giống bằng phương pháp nhân tạo đã là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất giống phát triển. Việc ứng dụng các công nghệ mới, quy trình sản xuất giống ngày càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện nông hộ, hoặc cơ sở sản xuất để đưa năng suất cá bột ngày càng cao, giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho người sản xuất.

Ngoài ra, việc cải tiến, nâng cao chất lượng thức ăn phù hợp cho cá ương nuôi ở từng giai đoạn, cải tiến quản lý môi trường ao ương nuôi, ứng dụng và cải tiến công nghệ trong vận chuyển cá bột, cá giống cũng là yếu tố nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất giống. Hiện nay, về cơ bản các đối tượng thủy sản truyền thống đã có công nghệ sản xuất giống ổn định. Các cơ sở sản xuất giống đều nắm chắc kỹ thuật và dễ dàng sản xuất theo nhu cầu.

Vẫn còn nhiều bất cập

Với mục tiêu đẩy mạnh ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa một cách hiệu quả và bền vững, những năm qua Bộ NN&PTNT tập trung chỉ đạo hoạt động sản xuất, cung ứng giống thủy sản truyền thống phải đảm bảo chất lượng, đúng mùa vụ, giá hợp lý… và bước đầu gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên hoạt động này vẫn tồn tại nhiều bất cập. Công tác quản lý chất lượng giống thủy sản truyền thống còn chưa được chú trọng. Đàn thủy sản bố mẹ nhiều nơi chưa đảm bảo chất lượng, cận huyết; Cá bố mẹ ngày càng nhỏ, phát dục sớm, nhất là những đối tượng nhập nuôi từ lâu như cá chép, mè trắng, trắm cỏ… Tình trạng cung vượt cầu trong khâu sản xuất cá bột ở các tỉnh đồng bằng gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các trại cá, dẫn đến tình trạng để giảm giá bán đã dùng cá bố mẹ không đủ trọng lượng, thúc cá đẻ sớm, cho cá đẻ tái phát dục nhiều lần trong năm… làm chất lượng giống giảm trầm trọng.

Cơ cấu giống nghèo nàn, chậm được bổ sung, có nhập nội một số đối tượng mới nhưng hiệu quả thấp. Trong nhiều năm nay đối tượng sản xuất giống vẫn chỉ là mè, trôi trắm, chép… mà chưa mở rộng được phạm vi, quy mô sản xuất các loài cá có giá trị như cá vền, nheo, lăng, chiên, bỗng, rầm xanh, anh vũ… ở miền Bắc; Cá duồng, lăng, dảnh, chạch lấu… ở miền Nam. Giá cá giống, nhất là các loại đặc sản còn cao, chưa đảm bảo chất lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, việc lưu thông phân phối cá bột cá giống hiện nay chủ yếu là hoạt động tư nhân do thị trường quyết định nên công tác quản lý lưu thông giống còn gặp nhiều khó khăn. Tình trạng giống vận chuyển không rõ nguồn gốc, không nhãn mác, không kiểm dịch vẫn còn phổ biến.

Đẩy mạnh giống giá trị cao

Phát triển nuôi các đối tượng thủy sản truyền thống đang trở thành hướng phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản ở nhiều tỉnh, thành, giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo và làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Tuy nhiên, các đối tượng nuôi truyền thống như cá chép, trê, lóc, trắm cỏ, mè… hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. Trong khi nhu cầu, đời sống ngày càng cao, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu. Điều đó thôi thúc ngành thủy sản từng bước phải nghiên cứu, sản xuất thí điểm thành công nhiều loại cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao.
Con giống đóng vai trò quan trọng, vì thế nâng cao hiệu quả của việc sản xuất giống là điều cần thiết. Phải tăng cường nghiên cứu khoa học, trước hết tập trung vào khâu sản xuất giống. Nhập công nghệ sản xuất giống mới, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản, ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào sản xuất con giống…

Ngoài ra, cũng cần tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất giống trong nước, cơ sở hạ tầng, hệ thống cấp, thoát nước, xử lý nước thải phải bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Bảo đảm điều kiện sản xuất, kinh doanh, có hồ sơ theo dõi quá trình nuôi theo đúng kỹ thuật. Sản xuất con giống phải có nguồn gốc xuất xứ. Nếu phát hiện cơ sở nào không bảo đảm chất lượng, nhắc nhở nhưng không khắc phục cần có những biện pháp xử lý mạnh tay.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá rô phi theo tiêu chuẩn VietGap

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT Thái Bình tổ chức hội thảo “Sơ kết dự án xây dựng mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm năm 2016 – 2017”.

Hiệu quả kinh tế tăng 15% so với ngoài mô hình

Phát biểu tại buổi hội thảo, ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết: “Năm 2017, mô hình nuôi cá rô phi theo VietGAP được triển khai tại 7 tỉnh, thành phố trên diện tích 21ha với 24 hộ dân tham gia. Đáng mừng là không có hộ nào nuôi cá bị dịch bệnh”.

Thực tế cho thấy dự án phát triển nuôi cá rô phi theo VietGAP bước đầu tạo cho người nuôi thay đổi tư duy về nuôi trồng thủy sản bền vững, nhận thức được những lợi ích thực sự thiết thực, đó là giảm chi phí thức ăn, hóa chất và công lao động; giảm dịch bệnh, hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng tỷ lệ sống của cá; thời gian nuôi ngắn hơn và chất lượng sản phẩm cao hơn, dễ tiêu thụ hơn.

Phát triển nuôi cá rô phi theo chuẩn VietGap

“Năm 2015 diện tích nuôi rô phi cả nước đạt 21.000ha; sản lượng 150.000 tấn, trong đó đã xuất khẩu đi 60 nước, kim ngạch xuất khẩu trên 36 triệu USD. Theo Hiệp hội Chế biến và XK thủy sản VN (VASEP), dự kiến năm 2017 sẽ xuất khẩu được 45 triệu USD sang 68 thị trường (chủ yếu EU và Mỹ), tăng 32% so với năm 2016 và sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những thời gian tới”, ông Tiêu nhấn mạnh.

Ông Tiêu cho biết thêm, năm 2016 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia thực hiện mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm tại 5 tỉnh, thành: Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An.

Qua đánh giá cho thấy mô hình đã vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra như tỷ lệ sống 79,8/70%; năng suất đạt 17,2 tấn/ha (tăng 15,7%); kích cỡ thu hoạch đạt trung bình 720gr/con (đề ra là 650gr/con, vượt 10,3%). Hiệu quả kinh tế tăng ít nhất 15% so với ngoài mô hình. Sau khoảng gần 6 tháng nuôi cho thấy, mô hình đạt sản lượng 256 tấn; năng suất 17,2 tấn/ha, sau khi trừ toàn bộ chi phí mô hình cho thu lãi hơn 1,4 tỷ đồng, bình quân lãi 94,8 triệu đồng/ha.

Ông Bùi Văn Trụ, Phó phòng Chăn nuôi thủy sản (Trung tâm Khuyến nông Thái Bình) cho hay, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm tại Thái Bình đã mở ra một hướng đi mới cho sự phát triển về nuôi cá rô phi trong khu vực nuôi thủy sản nước ngọt, giúp ổn định khâu tiêu thụ sản phẩm, tạo sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Ngoài ra, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm thành công, giúp người nuôi phát triển bền vững như có thị trường tiêu thụ ổn định, hạn chế dịch bệnh, tạo sản phẩm sạch, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy, khả năng mở rộng thị trường là rất lớn. Dự kiến khoảng 20ha.

Cũng theo ông Trụ, mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm đã hạn chế được dịch bệnh, tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Cá rô phi theo VietGAP an toàn vệ sinh thực phẩm

Sau 6 tháng nuôi, mô hình đã đạt được một số chỉ tiêu kỹ thuật như trọng lượng trung bình trong suốt quá trình nuôi các chủ hộ đã tuân thủ quy trình kỹ thuật theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, cán bộ chuyên môn.

“Đề nghị Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tiếp tục cho thực hiện mô hình ở tiểu vùng sinh thái khác trong giai đoạn 2018 – 2020 để khẳng định khả năng và hiệu quả của mô hình”, ông Trụ đề nghị.

Chia sẻ tại buổi hội thảo, ông Ngô Duy Tuấn (xã Thái Thủy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) cho biết, tham gia mô hình nuôi cá rô phi theo VietGAP, gia đình ông luôn được sự giúp đỡ của cán bộ Trạm Khuyến nông huyện, Trung tâm Khuyến nông tỉnh. Sau một thời gian nuôi, lợi ích rất rõ ràng, nhất là hiệu quả kinh tế cao hơn, tiêu thụ sản phẩm được liên kết với doanh nghiệp bao tiêu…

Theo Quyết định số 1639/QĐ-BNN-TCTS ngày 5/6/2016 của Bộ NN-PTNT về việc phê duyệt quy hoạch phát triển cá rô phi đến năm 2020, diện tích nuôi cá rô phi của cả nước ta đạt 33.000ha; cá lồng đạt 1,5 triệu m3, sản lượng nuôi đạt 300.000 tấn, trong đó 50 – 60% được xuất khẩu. Đến năm 2030 diện tích nuôi cá rô phi của cả nước ta đạt 400.000ha; cá lồng đạt 1,8 triệu m3, sản lượng nuôi đạt 400.000 tấn, trong đó 50% được xuất khẩu.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.