Phòng và trị bệnh cho Rùa

Trong quá trình nuôi phải thực hiện nghiêm ngặt các khâu xây ao, tẩy ao nuôi, chọn giống, cho đẻ, quản lí chăm sóc. Đặc biệt là phòng trị một số bệnh sau:

1. Bệnh sưng cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.

Triệu chứng:

Cổ sưng to, bụng có các nốt mụn đỏ, mắt trắng đục khi bị nặng chải máu mũi, hai mắt sưng đỏ có khi bị mù.

Cách phòng trị:

– Đảm bảo nước ao nuôi sạch sẽ.

– Trộn thuốc Tetracycline hay Chlorocid hoặc Sulfamid.. vào thức ăn, cho ăn trong 3 ngày liền, lượng thuốc ngày đầu 0,2g/kg thức ăn, các ngày sau giảm đi một nửa.

2. Bệnh thủy mi

Do nấm thủy mi gây ra thường vào mùa xuân, nhiệt độ lạnh (18-20oC).

Triệu chứng:

Trên vùng da bị thương có các bông nấm trắng thường kí sinh ở cổ, chân, mai, bụng. Lúc mới phát bệnh rùa thường kém ăn, lờ đờ. Bệnh nặng lưng mềm và mỏng, hoạt động yếu ớt rồi chết.

Cách phòng trị:

Cho rùa bò lên cạn phơi nắng để diệt nấm, đảm bảo nước ao sạch sẽ. Ngâm rùa trong dung dịch xanh malachit 1,5-2g/m3 nước.

3. Bệnh loét da

Bệnh do nhiễm trùng vết thương gây ra, chất độc do các vi khuẩn tiết ra làm loét da chân, cổ, nách.. khi nặng còn lòi cả xương.

Cách phòng trị:

– Đảm bảo nước ao luôn sạch sẽ.
– Cách li con bệnh với con khỏe.
– Ngâm con bệnh vào dung dịch thuốc kháng sinh 10ppm Sulfamid trong 48 giờ.
– Hạn chế rùa cắn nhau dễ bị thương.

4. Bệnh nấm lông (Bệnh đốm trắng)

Là bệnh truyền nhiễm do nấm gây ra. Bốn chân và viền mép có đốm, lúc đầu xuất hiện ở viền áo sau đó lan rộng thành đóm trắng làm cho da bị thối rữa, rùa kém ăn, hoạt động không bình thường. Nếu bệnh phát sinh ở hầu làm rùa khó thở mà chết.
Bệnh xảy ra thường vào tháng 5- đến tháng 7.

Bệnh nấm lông ở rùa có thể gây ra hoại tử chi

Cách chữa:

Khi có bệnh dùng vôi tẩy ao, đảm bảo nước luôn sạch. Rùa bị bệnh dùng thuốc mỡ xanh methylen hay thuốc mỡ Tetracyline 1% bôi vào chỗ có nấm. Dùng Refamicine cộng với Chlorocide mỡ bôi lên vết loét, bôi trực tiếp vào vết loét khi bóp kén ra.

5. Bệnh lở cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn nấm gây ra, cho bị benẹh sinh vật bám như miếng bông. Cổ hoạt động khó khăn, kém ăn, có con không cử động, nếu không chữa, sau vài ngày là chết.

Cách chữa:

– Dùng nước muối 5% tắm cho rùa 1 giờ, hoặc dùng 5 phần vạn xanh methylen tắm trong 15 phút, hoặc dùng các loại thuốc mỡ Penicilin bôi vào chổ bệnh.

6. Bệnh cổ đỏ

Là loại bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh có thẻ là vi rút, cũng có thể là vi khuẩn đơn bào.

Bệnh hay phát sinh vào mùa mưa phùn. Con bị bệnh bụng có đốm đỏ, hầu và cổ sưng, đầu thò ra nhưng không rụt lại được, hoạt động chậm chạp, kém ăn. Bệnh nặng thì mồm và mũi chảy máu, ruột viêm tấy, toàn thân sưng đỏ, mắt đục trắng, bị mù, không bao lâu thì chết.

Cách chữa:

Khi phát hiện bệnh lập tức cách li con bệnh, dùng vôi tẩy ao và thay nước mới. Dùng các loại kháng sinh Biomyxine, Tetracyline, Penniciliene. Mỗi kilogam trọng lượng tiêm 15 vạn đơn vị (tiêm vào chân). Nếu thấy không giảm thì dùng tiếp một liều nữa hoặc thay kháng sinh khác. Hoặc trộn thuốc vào thức ăn. Mỗi kilôgam rùa cho ăn 0,2g Sulfamid, qua ngày thứ 2 giảm một nửa, cho ăn liên tục 6 ngày.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Rùa Thịt

Bể nuôi rùa giống

Cũng giống như nuôi rùa mới nở, nhưng nước sâu hơn 0,3-0,4m, tường bể có gờ nhô về phía trong để phòng rùa bò đi.

Bể nuôi rùa giống

Ao(bể) nuôi rùa thịt

Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.

Bể nuôi rùa thịt

Nuôi rùa giống, rùa thịt

Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.

Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ có thể 45con/m2.

Mỗi khi san ao phải phân loại rùa riêng để phòng chúng chèn ép, thậm chí ăn thịt lẫn nhau.

Thức ăn chủ yếu của rùa là động vật giàu đạm. Tỷ lệ thức ăn động vật và thực vật là 3:1. Có thể: động vật 80%, thực vật 16-18%, men tiêu hóa, 0,2%, vitamin 0,4%, nguyên tố vi lượng khác 2%. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần, mỗi lần số lượng thức ăn dọn sạch sàn ăn. Có điều chỉnh lượng thức ăn theo thời tiết để tránh lãng phí ảnh hưởng đến chất nước.

Rùa thích sống ỏ vùng nước sạch, nếu không có nước chảy phải thường xuyên thay nước. Ao giống nên đảm bảo nước xanh nhạt, độ trong 30cm. Nước trong nhìn thấy đáy làm cho rùa không an tâm sinh sống. Nước quá béo, màu xanh lục thẫm hay xanh nâu sinh vật phù du quá nhiều làm cho rùa không thấy đường tìm mối sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát dục, cần phải thay nước và thêm nước mới vào.

Về mùa đông rùa có thể tự đào hang trú đông, đáy ao nên có lớp bùn cát dày 20-30cm.

Miệng cống ao có lưới bịt kín, nếu bể ở trong nhà có thể sưởi ấm bằng cách gia nhiệt. Ao trú đông có thể thả mật độ dày gấp 3-4 lần ao bình thương. Trước khi trú đông cho rùa ăn thức ăn giàu dinh dưỡng để chúng tích lũy mỡ dùng trong mùa đông.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Hướng dẫn nhân giống Rùa Vàng

1. Ao nuôi rùa bố mẹ

Chọn nơi có điều kiện sinh thái gần giống với tự nhiên, ao hướng Bắc nam, tránh gió Bắc, hướng về phía mặt trời, đất tơi mềm, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận tiện, yên tĩnh, không bị nhiễm bẩn.

Diện tích ao nuôi: 20-100m2. Ao sâu: 1,5m, nước sâu 1,2m.

Xung quanh ao cách mép nước 1-2m có tường rào cao 0,5 m, tường trát nhẵn, trên tường có gờ nhô ra về phía ao độ 10 cm, chân tường sâu 60-70cm. Giữa ao cần có mô đất 3-5m2, độ dốc 25o, trên mô đất trống các loại cây làm dàn che mát, làm nơi rùa nghỉ và đẻ trứng.

Đáy ao nên bừa kĩ, lớp đất cát dưới đáy ao dày 20-30cm để rùa trú đông. Bờ ao có độ dốc nhất định cho một lớp đất cát pha để rùa đào hố đẻ trứng. Ngoài ra trồng ít cây bóng mát hoặc cho cây leo tạo thành nơi yên tĩnh.

2. Bể bơi rùa mới nở

Thường dùng gạch và xi măng xây trong nhà có thành trơn nhẵn, bể hình chữ nhật.

Bể bơi nuôi rùa mới nở

Diện tích mỗi bể 2-3 m2, cao 0,8m, nước sâu 0,2-0,3m. Đáy bể có độ dốc nhất định, một đầu bể có nước, đầu kia không ngập nước để rùa bò ra ăn uống nghỉ ngơi, nhà ấp cần thông thoáng, mát, mùa đông cần che chắn kín gió, trên bể che đậy bằng tấm nhựa.

3. Sự giao phối

Hàng năm tháng 8-9 là mùa giao phối và đẻ trứng, thường giao phối vào đêm sáng trời. Khi động hớn nổi lên mặt nước khuấy mạnh bò lên cạn rất nhanh. Con đực chủ động theo con cái hoặc quay tròn quanh con cái, con cái lại không cho bò đi… tiến hành giao phối. Đặc điểm cảu rùa là giao phối năm này sang năm sau tinh trùng vẫn có khả năng thụ tinh, trong điều kiện nuôi tỉ lệ là 1 đực 2 cái, hoặc 1 đực 3 cái.

4. Đẻ trứng

Mùa đẻ tháng 4-9, tập trung vào trung tuần tháng 6 đến thượng tuần tháng 7. Khi nhiệt độ không khí trên 20oC kéo dài 5-10 ngày con cái bắt đầu đẻ trứng. Đa số một năm một lứa, mỗi lứa khoảng 2 quả trứng, có một số con một năm đẻ hai lứa, cá biệt ba lứa.

Trước lúc đẻ bò khắp nơi tìm chỗ đất xốp, sườn dốc, kín để đào ổ dưới gốc cây hay bụi cỏ rậm.

Nơi đào ổ có hàm lượng nước 5-20%, trước khi đào thành hố, dùng chân sau và đuôi hất đất sang hai bên. Khoảng 2-3 giờ được một hố sâu 5-15cm, đường kính khoảng 8-12cm. Trời khô, hàm lượng nước trong đất 5% thì rùa đào vào buổi sáng chọn chỗ đất ẩm ướt, có con dùng nước tiểu của nó tưới lên cho đất mềm dễ đào. Nếu hàm lượng nước trên 30% khó đào.

Sau khi đào xong hố nó nghỉ một lát rồi đẻ trứng. Dùng chân sau xếp trứng đúng vào hố, trứng vừa đẻ vỏ mềm có tính đàn hổi, sau đó vỏ trứng cứng dần. Thời gian giữa trứng thứ nhất đến trứng thứ hai là 5-10 phút.

Trứng hình ô van cỡ 27-50mm, cỡ to 18,3g, nhỏ 12,5g, trung bình 15,25g, tỉ lệ thụ tinh 70-90%.

5. Ấp nở nhân tạo

Dụng cụ ấp gồm thùng ấp, lợi dụng nhà ấp gà, lò ấp trứng vịt để ấp. Tùy số lượng trứng và yếu tố kĩ thuật. Trứng vừa đẻ ra có màu trong chưa phân biệt được có thụ tinh hay không. Sau khi đẻ 48-72 giờ có thể phân biệt. Vỏ trứng thụ tinh sáng có vòng tròn màu trắng sữa. Đem trứng thụ tinh xếp vào thùng đặt phần có vòng tròn trắng lên trên, trứng cách trứng 3-5 cm, trên phủ cát dày 3-4cm, trên mỗi thùng có lỗ nhỏ để khi trứng nở thành rùa con có chỗ chui lên trên thúng ấp phủ lớp bông ướt, dùng nước phun ẩm. Độ ẩm không khí 70-85%, nhiệt độ 25-34oC là tốt nhất. Trong thùng cần cắm nhiệt kế và ẩm kế cho tiện theo dõi, tỉ lệ nở 75-80%.

Nếu thùng ấp dùng đất thít thì lớp đất dày 20cm, vùi trứng sâu 10-13cm, khi trứng sắp nở thì bớt lớp đất trên mỏng đi một ít, lượng nước trong đất là 12-16%, cách 3-5 ngày phun nước một lần. Nhiệt độ không khí 22-34oC, độ ẩm 75-80%, tỉ lệ nở đạt 94%.

6. Quản lí chăm sóc

Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thời gian nở. Trong tự nhiên thời gian nở 80-90 ngày có khi đến 100 ngày. Ấp nhân tạo khoảng 70 ngày. Khi nhiệt độ dưới 18oC và trên 37oC thì phôi không phát triển và chết.

Đất dùng để ấp vừa đảm bảo giữ được nước vừa thông thoáng không khí, không sinh nấm mốc. Dùng cát vàng hay cát đen để ấp thì biên độ giao động nhiệt độ tương đối lớn, khi bị ánh nắng mặt trời chiều vào nhiệt độ lên cao, hơi nước bốc nhanh làm nhiệt độ ấp cũng tăng nhanh, phôi dễ chết, nếu phun thêm nước để duy trì độ ẩm lại dễ xuất hiện tích nước tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển. Thực tiễn dùng cát vàng, cát đen không tốt bằng đất thịt. dùng đất sâu cách mặt đất 60cm không có mùn bã hữu cơ, đất nhỏ cỡ 1cm, phơi thật khô để diệt khuẩn, phun nước để có độ ẩm 12-16% như vậy đất thông thoáng, giữ ẩm, giữ nhiệt tốt.

Quá trình phát triển của phôi, càng về giai đoạn cuối cùng càng nhạy cảm với điều kiện môi trường, trao đổi khí càng mạnh nên dễ chết. Trứng đã ấp 20 ngày không nên di động vì trứng rùa lòng trắng rất ít, nếu di động trứng rất dễ bị thương và phôi chết.

Khi ấp trứng rùa là dịp tốt để rắn, chuột, kiến mò đến ăn hại nên phải dọn sạch xung quanh không để cho chúng có nơi ẩn náu. Nếu ấp trong nhà phải có thuốc diệt chuột, kiến, rùa, lúa rùa con phá vỏ chui ra kiến thường đến ngay để đốt, cần làm ngay các rãnh nước ngăn kiến, phá các ổ trứng kiến nếu có.

Có thể làm động tách kích thích để trứng nở tập trung như: Khi thấy vài trứng đã nở thì lấy hết trứng đang ấp trong đất ra cho vào nước có nhiệt độ ấp hoặc để trên đât sau 10-12 phút rùa con sẽ dùng mồm phá vỡ vỏ trứng chui ra, nếu sau 25 phút không thấy trứng nở thì lại đưa vào thùng ấp như cũ.

7. Rùa mới nở

Thân còn yếu, chưa bắt mồi được, đưa rùa con vào khay gỗ cho rùa tự vận động khoảng 4-5 giờ, dùng nước muối có nồng độ 10% hoặc thuốc tím 1g/1m3 tắm cho rùa. Sau 2 ngày cho rùa ăn lòng đỏ trứng gà luộc chín, sau 1 tuần lễ đưa ra bể nuôi.

8. Nuôi rùa con (sau 1 tuần lễ)

Lúc này cơ thể nặng 10g, thả 50-100con/m2. Trước khi nuôi dùng vôi dọn sạch bể, để khô rồi mới lấy nước vào, nước sâu 0,2-0,3m. Khả năng tiêu hóa của rùa con rất yếu nên thức ăn phải đạt yêu cầu: tinh, nhỏ, mềm, , giá trị dinh dưỡng cao, thường cho ăn cá, tôm, thịt bò, thịt nạc, giun xay nhuyễn, tốt nhất trộn với lòng đỏ trứng thành hỗn hợp. Không nên cho ăn nhiều mỡ để phòng bệnh viêm ruột. Lượng thức ăn bằng 3-5% trọng lượng thân. Ngày cho ăn 2 lần; sáng và chiều tối. Lượng cho ăn phải điều chỉnh theo thời tiết, việc quản lí nước phải thật nghiêm khắc, vì rủa còn rất nhạy cảm với nhiệt độ nước, nhiệt độ thích hợp 25-30oC, lúc mới nỏ cũng là tháng có nhiệt độ cao, phải tăng thêm nước hoặc giảm mật độ nuôi. Khi phát hiện bệnh phải xử lí kịp thời.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Hướng dẫn nuôi Rùa cảnh nhanh lớn và sống lâu

Ý nghĩa phong thủy khi nuôi rùa cảnh

Theo phong thủy, rùa là loài vật mang may mắn và hút tài lộc cho người nuôi và gia đình vì thế rùa được xem là con vật linh thiêng, mang điềm lành và có sức mạnh siêu năng lực. Nhiều gia đình phong kiến thời xưa đều có ao rùa trong gia đình. Nuôi rùa cũng khá hợp lý, chi phí bỏ ra cũng không tốn kém lắm so với nhiều loài sinh vật cảnh khác như cá Rồng, cá La Hán,…

Rùa cảnh

Phân loại rùa cảnh

Rùa là một trong nhiều con vật dễ thương, dễ nuôi nhưng để có thể nuôi rùa cảnh nhanh lớn và sống lâu thì chắc hẳn không phải ai cũng có kinh nghiệm. Rùa cảnh có khá nhiều loại nhưng đơn giản nhất người ta chia ra thành rùa cảnh cạn và rùa cảnh nước. Chỉ nghe cái tên của nó thôi chắc bạn cũng đã thấy được môi trường sống của chúng khác nhau thế nào dẫn đến cách nuôi rùa cảnh nước và cách nuôi rùa cảnh cạn sẽ có những lưu ý riêng mà bạn phải thật sự chú ý để em rùa của mình có môi trường sống tốt nhất, được chăm sóc chu đáo và phù hợp nhất.

Rùa cảnh được nuôi trên cạn

Cách nuôi rùa cảnh

Trong hai loài rùa cạn và rùa nước thì cách nuôi rùa nước có phần phức tạp hơn vì phải xây dựng, tạo chỗ ở, còn rùa cạn thì không cần điều này. Bạn có thể mua một chiếc bể thủy tinh nhỏ phù hợp với kích cỡ của em rùa có giá từ 300-500 nghìn đồng và bổ sung thêm vài chi tiết như rong hay sỏi tạo ấn tượng cho bể.

Rùa nuôi trong nước

Nếu không bạn có thể làm một chiếc bể bằng xi măng, tạo thêm hòn non bộ trong đó để rùa nước có thêm không gian sinh hoạt, tắm nắng, bạn càng tạo giống không gian tự nhiên bao nhiêu rùa lại càng thích thú bấy nhiêu. Bạn cũng đừng quên vệ sinh bể của rùa định kì để làm sạch cũng như loại bỏ vi khuẩn xâm nhập môi trường sống, ảnh hưởng đến sức khỏe của rùa.

Với bể kính hay bể xi măng thì bạn cũng nên vệ sinh bể từ 2-3 lần/tuần thủ công hoặc bằng máy. Đơn giản hơn rùa nước, cách nuôi rùa cạn không cần chuẩn bị nơi sống cho rùa mà bạn chỉ cần cho chúng bò tự do trong nhà hoặc một phòng nào đó, nhưng chúng ta phải cẩn thận nếu không sẽ giẫm phải chúng.

Thức ăn cho rùa cảnh

Cách nuôi rùa cảnh và chăm sóc chúng không quá phức tạp, thức ăn của rùa không cần cầu kì hay khó kiếm mà đơn giản chỉ là rau, cá nhỏ hay tép nhỏ,…Rùa là loài động vật không có răng nên thức ăn chúng thích nhất có lẽ là các hạt đậu hà lan, đậu bi, bắp cải.

Rùa có sở thích đặc biệt với trái cây như dâu tây, chuối

Ngoài ra chúng cũng có sở thích đặc biệt với trái cây như chuối, dâu tây. Bên cạnh đó bạn có thể bổ sung thêm khoáng chất khác cho rùa bằng các loại khoáng chất tổng hợp bán rộng rãi trên các cửa hiệu thức ăn cho rùa. Giống như mọi loài động vật, nước uống cũng không được thiếu dành cho rùa đặc biệt là rùa cạnh còn rùa nước thì đã có sẵn nguồn nước rồi. Nước uống cho rùa cạn cần đặt vào đĩa nông có chèn đá hay vật gì đó để không bị lật.

Rùa cạn còn có bản năng bắt muỗi và côn trùng nhỏ nhỏ vì thế chúng thường bò khắp nơi, trú ngụ ở ngầm giường, gầm ghế để tìm kiếm thức ăn cho chính mình. Nhiều khi chúng leo treo linh tinh có thể bị lật ngược vì thế bạn nên để mắt đến chúng để giúp đỡ.

Cách chăm sóc, phòng bệnh cho rùa cảnh

Một điều bạn cần quan tâm trong cách nuôi rùa cảnh nữa chính là bệnh mà rùa có thể mắc phải để phòng bệnh cũng như nhận biết để chữa trị. Cảm lạnh là bệnh phổ biến diễn ra ở rùa với những triệu chứng khó thở, chảy nước mắt, mũi. Vì thế tạo chúng môi trường sống ấm áp và lau rửa mắt, mũi thường xuyên. Theo dõi sự phát triển của bệnh và tìm hiểu thông tin chữa trị. Hiện nay, chưa có đội ngũ y bác sĩ dành riêng cho rùa nhưng bạn cũng có thể tìm đến bác sĩ thú y để thăm khám.

Bạn có cách nuôi rùa cảnh tốt, phù hợp thì chúng có thể sống vài chục năm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bí quyết nuôi Rùa Răng hiệu quả kinh tế cao

Nhờ kiên trì theo đuổi việc nuôi và cho sinh sản nhân tạo càng đước (rùa răng, trọng lượng 7-8kg), nông dân Võ Thành Ngay (52 tuổi, ấp Phú Bình, xã Phú Lộc, Tân Châu, An Giang) là một trong rất ít người bước đầu thành công với mô hình được cho là mạo hiểm, nhưng hiệu quả lại rất cao.

Kiểm tra trọng lượng càng đước (rùa răng)

Dù ông Ngay có đến 25 công ruộng, xây túi biogas nuôi trên 20 con heo, nhưng một thời gian dài, cuộc sống gia đình cứ tầm tầm không khá lên được, trong khi việc học hành của 2 con cứ thúc bách chuyện tiền nong. Được bạn bè chỉ dẫn, cuối năm 2008, ông Ngay đến xã Khánh An (An Phú) gom mua được 20 con càng đước, mỗi con từ 1 – 1,5kg (giá 400.000 đồng/kg), đem về quyết tâm nuôi và cho sinh sản loại động vật giá trị kinh tế cao này.

Sau 2 năm chăm sóc, mỗi con đều tăng trên 2,5kg, nhưng không con nào đẻ trứng, điều mà ông quan tâm và cần nhất. Ông lựa ra 16 con (620kg) đem qua chợ An Phú bán 450.000 đồng/kg, thu được gần 25 triệu đồng. Cú làm ăn này bước đầu đã tạo cho ông một động lực lớn, dù thu lợi còn khiêm tốn, nhưng lại rộng mở cơ hội để phát triển.

Ông Ngay tâm sự: “Càng đước là loại động vật rất ít bệnh, tuy dễ nuôi, nhưng nếu không theo dõi đặc tính để xử lý (thay nước mỗi ngày, cho ăn, kiểm tra) thì chúng chậm lớn, ít ăn, thậm chí chết đột ngột, nhất là cho sinh sản rất khó. Riêng việc hướng dẫn kỹ thuật nuôi, cho càng đước sinh sản thì rất ít người biết và không thấy phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Do đó, tôi phải tự mày mò học hỏi mỗi nơi một chút, đặc biệt bỏ công để theo dõi tập quán ăn, uống, sinh hoạt… để tự tích lũy kinh nghiệm cho mình. Bước đầu, tôi đã thành công trong việc cho chúng sinh sản dù chỉ ở mức 20 – 30%”.

Hiện nay, ông Võ Thành Ngay sở hữu đến 28 con càng đước, trong đó có 8 con mái, bình quân mỗi con nặng 5kg, cá biệt có con đến 7-8kg. Càng đước là loài động vật ăn tạp, chúng thích nhất là các loại xoài, mít chín, cua, óc, tép, cá, rau muống… Mỗi con càng đước thường đẻ 3-6 trứng, cá biệt đến 10 trứng, tập trung từ tháng 9 đến tháng 12. Sau 4,5 tháng ấp trứng sẽ đẻ ra con, nhưng gặp thời tiết lạnh thì kéo dài đến 6-7 tháng. Trứng của càng đước chỉ bằng trứng gà ác và khi vừa đẻ xong (1 hoặc 2 ngày), thương lái đến nơi mua đến 1 triệu đồng/con, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu.

Ông Ngay cho biết: “Từ sự cố ấp gần 100  trứng thất bại, tôi đã có một kinh nghiệm lớn, nên dần dà sau đó tỷ lệ thành công đã từng bước nâng lên. Dù bán với giá khoảng 600.000 đồng/kg (con đực), 800.000 đồng/kg (con cái), nhưng lợi nhất vẫn là bán càng đước con. Nếu tỷ lệ sinh sản đạt 50% thì nghề nuôi càng đước rất dễ khá lên, đặc biệt món khoái khẩu này hiện đang không đủ cung”.

Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Lộc Nguyễn Văn Chiến chia sẻ: “Dù là xã biên giới nghèo nhưng phong trào thi đua sản xuất – kinh doanh được nhiều nông dân tích cực tham gia và đạt kết quả khả quan. Ông Võ Thành Ngay (nông dân sản xuất – kinh doanh giỏi cấp tỉnh nhiều năm liền) là một điển hình. Hiện mô hình nuôi càng đước của ông đạt hiệu quả rất cao, thu hút 2 hộ khác nuôi và học hỏi kinh nghiệm. Ngoài ra, xã còn nhiều mô hình hiệu quả khác, như: Nuôi gà thả vườn, nuôi lươn, cá lóc…”.
Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi Rùa cho lãi 150 triệu đồng/năm

Đến ấp 4B, xã Bình Mỹ (huyện Củ Chi, TP.HCM) hỏi ông Huỳnh Văn Chính nuôi rùa không ai không biết, bởi ông có tiếng là người thành công và đi tiên phong nuôi rùa thịt tại địa phương.

Gia đình ông Chính là hộ tiên phong nuôi rùa đầu tiên tại địa phương

Điều đáng khâm phục là mô hình nuôi rùa của ông được thực hiện trên một diện tích nhỏ (khoảng 300m2 bao gồm đất xây dựng chuồng trại và diện tích ao) nhưng mỗi năm trừ chi phí ông bỏ túi trên 150 triệu đồng.

Ông Chính cho biết, trước đây ông trồng lúa, trồng rau, trồng cây ăn trái, chăn nuôi nhưng hiệu quả không cao. Đến năm 2010, nhờ người quen giới thiệu, ông biết đến mô hình nuôi rùa thịt và quyết định mua giống rùa về nuôi thử nghiệm. Ông bỏ tiền ra xây dựng chuồng trại, đồng thời cải tạo cái ao bỏ hoang phía sau nhà để nuôi rùa.

Ban đầu ông chỉ nuôi thử nghiệm một số ít vì giá rùa giống khá cao (hơn 1 triệu đồng/con). Nhờ chịu khó và tiếp thu những hướng dẫn về kỹ thuật nên chỉ sau một năm, ông Chính đã nắm được các kỹ thuật nuôi rùa, tạo điều kiện cho rùa phát triển. Thấy thị trường khá rộng mở, ông tự tin tăng thêm số lượng rùa trong trại và chọn làm hướng phát triển kinh tế của gia đình.

Chia sẻ kinh nghiệm nuôi rùa thịt, ông Chính cho biết phải thiết kế chuồng trại thông thoáng, đủ ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nhất là phải đảm bảo đủ rộng để có chỗ ăn, chỗ chơi và hệ thống thoát nước cho rùa phát triển tốt nhất. Bên ngoài chuồng trại phải đảm bảo chắc chắn, được xây dựng bằng tường gạch, có lưới sắt phủ bên trên. Về thức ăn cho rùa, ông Chính cho biết chủ yếu là rau muống, lục bình, ốc, phụ phẩm của thịt gà… nên rẻ và dễ tìm. Rùa là loài sinh trưởng nhanh, sau một năm rưỡi có thể xuất bán được.

Dù chỉ với diện tích 300m2 nhưng trại rùa của ông nuôi được khoảng 400 con rùa thương phẩm và 30 cặp rùa bố mẹ (được tách ra ở khu vực riêng để tiện chăm sóc). Đến đợt xuất bán, thương lái tự tìm đến nhà thu mua, với giá dao động từ 600.000 – 700.000 đồng/kg. Đặc biệt dịp cuối năm nhu cầu thị trường cao nên  rùa “cháy hàng”, không đủ cung cấp. Nói chung đầu ra sản phẩm rất ổn định.

Thấy nuôi rùa thịt có hiệu quả so với các cây trồng khác nên ông Chính dự định mở rộng diện tích chuồng trại, liên kết thêm các hộ nuôi rùa ở địa phương để cùng phát triển vật nuôi này.  Ngoài nuôi rùa, ông còn tận dụng diện tích mặt nước dưới ao để nuôi cá giúp tăng thu nhập. Nhờ vậy gia đình ông sống ổn định, con cái học hành đầy đủ.

Nguồn: danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Trào lưu: Nuôi Rùa làm thú cưng

Không giống các loài thủy sinh như cá hay tép cảnh, rùa là vật nuôi bạn có thể mang theo đi khắp nơi để ‘khoe’ với bạn bè. Đó là chưa kể việc chăm sóc một con rùa sẽ mang đến cho bạn rất nhiều điều thú vị.

Rùa cảnh

Nguyễn Tấn Anh, một trong những admin chính của Hội Những người yêu rùa kiểng trên Facebook cho biết: “Tôi mê rùa từ thời còn nhỏ nhưng đến khi lên Sài Gòn mới có cơ hội nuôi rùa. Hồi đó con rùa đầu tiên mà tôi nuôi là của người ta cho. Lúc đó có biết nuôi gì đâu, cũng không biết rùa ăn gì, chăm sóc ra sao. Nhớ lại, tôi mua thịt và rau cho rùa ăn, thấy rùa chỉ ăn rau tôi mới phát hiện ra chú rùa của mình là “dân ăn chay”.

Hiện nay rùa núi vàng là loài rùa cảnh đang được nhiều người ưa chuộng vì giá khá mềm lại dễ nuôi, màu sắc đẹp, chúng lại hiền lành, thuận tiện khi nuôi trên cạn. Rùa núi vàng được đánh giá là đẹp khi mai của nó vàng óng ả không có một chút chấm đốm đen.
“Thức ăn chủ yếu của rùa núi vàng là xà lách, rau lang, rau muống, cà chua, dưa leo. Nhưng thứ mà rùa núi vàng thích nhất là cà chua”, bạn Hoài Anh, nhà tại quận 10, TP.HCM cho biết.
Theo bạn Hoài Anh, rùa núi vàng thường sống trên cạn nên chuồng cần khô ráo và phải được vệ sinh thường xuyên: “Không nên để rùa ở nơi quá cao vì nếu rùa xổng ra được thì nó dễ bị chấn thương khi va chạm với sàn nhà. Nếu sống ở những vùng có không khí lạnh thì nên dùng đèn sưởi cho các “bé” rùa để “bé” được khỏe mạnh. Để rùa lạnh thì rùa rất dễ bị sổ mũi, còn lâu dài rùa có thể bị bệnh mà chết”.
Rùa cảnh nhỏ nhắn trông rất đáng yêu
Chia sẻ thêm về thức ăn dành cho rùa cảnh, bạn Tấn Anh nói: “Khi giao lưu với các thành viên trong Hội Những người yêu rùa kiểng, tôi vẫn có quan điểm rằng thay vì mua rau quả ngoài chợ thì nên cho rùa ăn cỏ. Bạn có thể tìm được cỏ ở khắp nơi trong thành phố. Cỏ không chứa nhiều chất tăng trưởng có thể làm hại cho rùa”.
Tấn Anh bật mí thêm: “Rùa núi vàng thuộc hạng quý nên mua bán trên mạng phải có giấy phép. Giá một con rùa núi vàng từ vài trăm đến vài triệu đồng tùy thuộc vào kích thước và độ đẹp của mai”.
Ngoài rùa núi vàng, một số loài rùa cảnh đang được nhiều người ưa chuộng gồm rùa sao Ấn Độ, rùa lá mata mata… “Đặc biệt, nhiều người rất thích rùa sao Ấn Độ bởi hoa văn trên mai rùa rất đẹp, màu sắc ấn tượng. Có lẽ vì thế mà loại rùa này được giới sinh vật cảnh quốc tế đánh giá là một trong những loài rùa cảnh đẹp nhất thế giới. Giống như rùa núi vàng, thức ăn của loại rùa này chủ yếu là rau xanh, các loại cỏ và một số rau quả. “Không nên cho rùa ăn một loại thức ăn cố định để tránh sự nhàm chán và bổ sung đầy đủ vitamin cho rùa thêm khỏe mạnh”, bạn Hoài Anh khuyên.
Bên cạnh những người thích nuôi rùa trên cạn, bạn Tấn Anh cho biết có nhiều người thích nuôi rùa nước. Nuôi rùa nước tốn nhiều công sức hơn. Rùa nước không chỉ “ăn chay” mà còn ăn thịt nên việc chuẩn bị thức ăn cho rùa sẽ tốn nhiều công hơn. Chuồng rùa cũng phải được thiết kế để rùa vừa bơi được trong nước vừa có thể bò lên trên cạn. Nên thay nước 3 lần một tuần, khi sử dụng nước máy thì nên để nước ra ngoài một thời gian, để chất chlorine bốc hơi hết.
Tấn Anh lưu ý thêm: “Tùy vào kích thước của rùa mà thiết kế chuồng với diện tích phù hợp. Nếu bạn xác định gắn bó với rùa trong một thời gian dài thì khi làm chuồng phải tính đến trường hợp những chú rùa lớn lên tăng kích thước của mai. Thêm vào đó, rùa còn là loại thích rong chơi nên không gian của chúng càng rộng càng tốt. Một cái chuồng đạt chuẩn ít nhất phải thỏa mãn những điều kiện như: thành lồng làm bằng gỗ, phải có nơi ẩn náu, phải có hệ thống sưởi ấm…”.
Rùa cảnh phải luôn được chăm sóc tốt để phòng tránh bệnh tái phát
Hỏi về cách chữa bệnh cho rùa nếu lỡ không may rùa bị bệnh, một thành viên trong Hội Những người yêu rùa kiểng chia sẻ: “Không giống như ở nước ngoài có những bệnh viện dành cho thú ý có thể chẩn đoán bệnh cho cả các loài như rùa, ở VN chỉ là truyền tai nhau hoặc tự lên mạng tìm hiểu về cách chữa bệnh… Để tránh rùa bị bệnh, điều quan trọng là cần đảm bảo đủ ấm cho chúng vào ban đêm. Khi rùa ngủ thì nhớ tắt đèn. Sau cùng là cung cấp cho chúng thức ăn và nguồn nước sạch cùng một môi trường sống sạch, thoáng và thường xuyên tắm cho chúng”.
Nhiều người khi bắt đầu mê chơi rùa cảnh thường lăn tăn chuyện không biết có luật cấm nuôi rùa hay không, vì có một số loài rùa đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Bạn Tấn Anh cho biết: “Chúng tôi chỉ nuôi hoặc trao đổi với nhau về những giống rùa không có trong sách đỏ. Hầu như những chú rùa được giao lưu trong hội đều có giấy tờ và nguồn gốc rõ ràng. Nói thật, yêu rùa thì mới nuôi mà khi đã nuôi thì đâu có ai muốn làm rùa của mình chết hay bệnh tật. Đó là còn chưa nói đến chuyện gắn bó với một con thú cưng lâu ngày thì mình sẽ có tình cảm với nó và xem nó như người trong gia đình”.
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tốc độ sinh trưởng của Cá Bơn được cải thiện nhờ quá trình sinh sản chọn lọc

Nhà nghiên cứu Robbert Blonk đã tìm ra cách cải thiện đáng kể tốc độ sinh trưởng của loài cá bơn biển bắc.

Điều này khiến việc nuôi cá bơn thu được nhiều lợi nhuận. Tám năm trước đây, loài cá bơn gần như biến mất khỏi khu vực Biển Bắc.Đây là loài cá rất khó nuôi và việc thụ tinh nhân tạo không mang lại hiệu quả.

Người ta phải cho cá sinh sản trong môi trường tự nhiên với cá bố cá mẹ bắt tại biển. Phương pháp này mất trung bình 2 năm để một con cá bơn có thể đạt trọng lượng là 200 g. Đây là một khoảng thời gian quá dài và tốn nhiều chi phí.

Nhà nghiên cứu Robbert Blonk mong muốn đẩy nhanh tốc độ sinh trưởng này bằng việc lựa chọn các con cá bơn sinh sản nhanh.

Bản phân tích DNA cho thấy hơn một nửa số cá bơn con chỉ do 6 cặp cá bố mẹ sinh ra. Blonk đã tiến hành lựa chọn các con cá bố mẹ có tốc độ tăng trưởng khá. Trong hai năm, các con cá bố mẹ này đã sản sinh ra các con cá bơn có trọng lượng trung bình lớn hơn 20% so với các con khác. Tức là, phương pháp này của Blonk giúp các con cá bơn đạt được mức trọng lượng yêu cầu chỉ trong 1,5 năm thay vì 2 năm. Loài cá bơn có khả năng sinh sản khi được 4 năm tuổi.

Nghiên cứu của Blonk được tài trợ bởi Tổ chức Nghiên cứu NWO của Hà Lan.

Nguồn: Physorg được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi Cá Bơn công nghệ cao hướng làm giàu trên vùng đất cát ven biển Hà Tĩnh

Dồn sức kịp tiến độ

Dự án nuôi cá mú, cá bơn chính thức được khởi động sau khi UBND tỉnh ra Thông báo số 384, ngày 29/9/2014 về “Chiến lược phát triển mô hình nuôi cá trên cát có giá trị kinh tế cao”. Kể từ đó, Sở NN&PTNT, với vai trò chủ công, đã phối hợp với đối tác là Công ty Fineton (Hồng Kông) khảo sát thiết kế dự án và cùng chính quyền các địa phương lựa chọn nhà đầu tư.

HTX Nuôi trồng thủy sản và kinh doanh thương mại Việt Hải tranh thủ làm ngày làm đêm để hoàn thành ao nuôi cá mú kịp ngày thả giống cuối tháng 2 năm 2015.

3 vùng đất cát ven biển: Xuân Liên (Nghi Xuân); Thạch Trị, Thạch Lạc (Thạch Hà); Cẩm Dương (Cẩm Xuyên) với diện tích gần 20 ha được chọn làm các mô hình thí điểm. Đồng thời, các nhà đầu tư có kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản cũng như nguồn lực kinh tế dồi dào được “chọn mặt gửi vàng”, giao trách nhiệm thực hiện dự án, gồm: Công ty Hoàng Dương, Công ty TNHH Như Nam, HTX Nuôi trồng thủy sản và Kinh doanh tổng hợp Việt Hải.

Mục tiêu ấn định cho ngày thả giống cá mú chậm nhất là cuối tháng 2/2015. Bởi vậy, “sức ép” tiến độ có tác động lớn đến các ngành chức năng, chính quyền địa phương và cả nhà đầu tư. Theo ông Nguyễn Công Hoàng – Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh: Nếu cuối tháng 2 không thả giống sẽ mất cơ hội và dự án sẽ bị chậm lại đến năm 2016. Do vậy, quá trình từ thiết kế, thẩm định đến xem xét lựa chọn vùng đất và nhà đầu tư đều được các ngành linh hoạt lồng ghép nhằm đạt hiệu quả cao nhất.

Bắt tay vào cuộc “chạy đua”, các huyện, xã cũng gặp không ít khó khăn bởi công tác GPMB liên quan đến hàng chục hộ dân. Đặc biệt là tại Xuân Liên phải lập lại dự án đầu tư vì diện tích nuôi cá bơn, cá mú chồng chéo với phần diện tích đã được UBND tỉnh phê duyệt nuôi tôm trên cát. Tuy nhiên, đến nay, mọi việc đang “thuận buồm xuôi gió”. Công tác GPMB cơ bản hoàn tất, cả 3 nhà đầu tư đang tích cực tiến hành san lấp và xây dựng các trại. Hiện tại, các nhà đầu tư đã chuyển hơn 137.000 USD để mua giống và trong những ngày tới sẽ chuyển đủ 90% tiền giống, tương đương hơn 273.000 USD.

Hứa hẹn hiệu quả cao

Dự án nuôi cá mú, cá bơn trên cát công nghệ cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả khai thác những vùng cát trắng; đồng thời, ngăn chặn tình trạng sa mạc hóa. Bởi vậy, quá trình thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ những cơ chế, chính sách của tỉnh. Hiện tại, 3 nhà đầu tư đều bỏ ra nguồn vốn 5-6 tỷ đồng/mô hình.

Công ty Hoàng Dương đẩy nhanh tiến độ thi công ao nuôi tại Xuân Liên (Nghi Xuân) để nuôi cá mú.

Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Nuôi trồng thủy sản và Kinh doanh tổng hợp Việt Hải – Tôn Đức Việt, đơn vị từng nuôi cá mú hơn 15 năm, tự tin: “Dự án sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao”.

Theo tính toán, kinh phí trọn gói cho mô hình nuôi cá mú hơn 3 tỷ đồng; sau khoảng 3 năm sẽ hoàn vốn. Trong khi đó, chi phí cho mỗi ha nuôi cá bơn hơn 10 tỷ đồng; thời gian hoàn vốn 6 năm. Đặc biệt, đây là những mô hình nuôi hợp tác nên ngoài hỗ trợ của tỉnh, các nhà đầu tư còn được cung cấp giống, kỹ thuật và bao tiêu toàn bộ sản phẩm (lợi nhuận được chia theo tỷ lệ: nhà đầu tư 70%, công ty Fineton 30%). Ông Nguyễn Công Hoàng cho biết: “Nếu so với nuôi tôm, lợi nhuận của 2 loại cá không bằng, tuy nhiên, lợi thế của nuôi cá là ít xảy ra dịch bệnh và rủi ro không lớn”.

Dự án nuôi cá bơn, cá mú công nghệ cao sẽ mở ra hướng làm giàu đối với các địa phương ven biển. Khi các mô hình đi vào hoạt động, sẽ tạo hàng trăm việc làm cho lao động địa phương.

Nguồn: Báo Hà Tĩnh được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nhận biết và phòng trị một số bệnh thường gặp khi ương nuôi Cá Bơn Vỉ

Cá bơn vỉ có thân cá to, thịt thơm ngon, hàm lượng đạm cao. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh, sức sinh sản mạnh.

1. Bệnh nấm

Bệnh thường phát sinh khi cá được 25 ngày tuổi, chiều dài cơ thể 9mm.

Cá nhiễm bệnh da bị phồng rộp lên dẫn đến các tế bào biểu bì của cá bị hoại tử.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá xuất hiện các đốm trắng thường ở phía trước vây lưng, đó là các quần thể nấm có kích cỡ thường 1×100 µm, vi khuẩn nấm hình sợi.

– Phòng bệnh: Trước và trong quá trình ương nuôi, công trình nuôi, dụng cụ phải vệ sinh, nguồn nước ương nuôi cá phải sạch.

Đây là phương pháp tốt nhất để ngừa bệnh.

– Trị bệnh: phun hoá chất pronopol xuống bể ương nuôi với nồng độ 3-5 ppm.

2. Bệnh truyền nhiễm về đường ruột

Bệnh thường phát sinh ở cá được 30 ngày tuổi, giai đoạn cá chuyển xuống sống đáy.

Nuôi trong điều kiện nhiệt độ nước 18-200C thì tỷ lệ cá mắc bệnh giảm.

Khi cá nhiễm bệnh sẽ chết rất nhanh, thường 3-5 ngày cá có thể chết.

Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio sp.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, bụng trướng to, đường tiêu hóa thức ăn không tiêu, cá hoạt động kém, bơi chậm chạp, màu sắc cá biến sang màu xám đen, ống tiêu hóa co rút và khi cá chết giải phẫu phát hiện ống tiêu hóa có rất nhiều khuẩn hình que.

– Biện pháp phòng bệnh: Nguồn gây bệnh thường do nguồn thức ăn là luân trùng và artemia.

Do đó, nuôi luân trùng và ương artemia nên sử dụng tiểu cầu tảo (Chorella sp), không nên nuôi trong điều kiện nhiệt độ quá cao và mật độ ương dày.

Môi trường nước ương phải sạch, không ô nhiễm.

Đây là cách phòng ngừa bệnh có hiệu quả.

– Trị bệnh: Trộn vào thức ăn cá thuốc kháng sinh oxytetracyline với nồng độ 1-2 g/1kg cá/ngày.

Cho ăn liên tục 3-5 ngày, kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

3. Bệnh do vi khuẩn vibrio anguillarium

Bệnh này thường xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn cá giống, tỷ lệ chết có thể lên tới 50%, thường gặp ở cá có chiều dài thân 5-20 cm.

Bệnh thường phát sinh quanh năm, đặc biệt phát sinh cao ở thời kỳ từ tháng 4-7.

Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio anguillariu.

– Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, vảy bị bong ra, vây bị hoại tử phần tia vây ngoài, vây bị xuất huyết thối rữa.

– Biện pháp phòng bệnh: Vi khuẩn vibrio anguillariu tồn tại ở trong nước biển, do vậy muốn phòng bệnh này nguồn nước phải đảm bảo sạch, phải thường xuyên sát trùng đáy bể ương nuôi.

Dung thuốc phun trực tiếp vào bể nuôi để nước bể có nồng độ thuốc formaline nồng độ 10-15ppm.

– Trị bệnh: dùng một trong các loại thuốc kháng sinh (oxytetracyline, rifammycine…) trộn với thức ăn cho cá ăn trong 7 ngày liên tục với lượng như sau: ngày đầu tiên từ 100mg thuốc/kg cá /ngày, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 lượng thuốc mỗi ngày bằng một nửa ngày đầu.

Kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

4. Bệnh do vi khuẩn (liên cầu khuẩn)

Bệnh phát sinh từ tháng 4 đến tháng 12, tập trung vào thời điểm nhiệt độ nước khoảng 250C (nhất là tháng 7-10), cá nuôi mật độ cao, tỷ lệ nước thay ít.

Cá bị bệnh có tỷ lệ chết hàng ngày 0,1-2%, có lúc đạt 10%.

Khi nhiệt độ hạ thấp, bệnh hạn chế phát sinh.

Tác nhân gây bệnh do liên cầu khuẩn Streptoccous sp

– Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, nhãn cầu trắng đục, xuất huyết, bộ phận đầu và hàm trên hàm dưới cá màu đỏ.

Mang cá có màu đỏ do xuất huyết hoặc tái xám do chuyển sang giai đoạn hoại tử.

Khi giải phẫu nội tạng thấy ruột có màu đỏ.

– Biện pháp phòng bệnh: Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ nước lên cao, thức ăn chất lượng kém.

Do đó, khi phát hiện cá bị bệnh phải tách cá bệnh ra riêng.

Cho cá ăn thức ăn tươi sống, chất lượng tốt, ngừng cho ăn hoặc cho ăn ít hơn khi phát hiện cá nhiễm bệnh.

Tăng chất dinh dưỡng cho cá, giảm mật độ ương nuôi, tăng cường thay nước, hạn chế thức ăn dư thừa.

– Trị bệnh: trộn vào thức ăn và thuốc kháng sinh Tetracyline hoặc Erythromycine với nồng độ 50mg/1 kg cá/ngày.

Cho ăn liên tục 3-5 ngày, kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

5. Bênh do ký sinh trùng Benedenia epinepheli:

Gây ra do ký sinh trùng Benedenia epinepheli ký sinh ở phần vây và da cá.

– Dấu hiệu bệnh cá: ký sinh trùng có kích thước nhỏ, màu sắc trong suốt nên khó nhìn thấy bằng mắt thường.

Khi ký sinh trùng ký sinh tập trung với số lượng nhiều mới nhìn thất hiện tượng cá xuất hiện cá đốm loét nhỏ trên vây và da.

– Phòng bệnh: nuôi cá ở mật độ vừa phải, tăng cường thay nước, tăng cường vệ sinh ở đáy bể khi ương nuôi cá.

Bảo đảm điều kiện nuôi sạch, tránh ô nhiễm.

– Trị bệnh: tắm cho cá bằng nước ngọt, sau 24 giờ tắm lặp lại lần 2.

6. Bệnh do ký sinh trùng Endamoeba ở mang cá

Bệnh thường xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 3, khi nhiệt độ nước 13-140C, cá ở giai đoạn từ 5-14g/con.

Tỷ lệ chết hàng ngày khi cá nhiễm bệnh từ 0,05-0,2%.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá bị nhiễm bệnh hoạt động chậm chạp, bắt mồi kém, mang và đầu cá biến màu đỏ.

Ký sinh trùng thường bám vào mang cá.

– Phòng bệnh: nuôi cá ở mật độ vừa phải, tăng cường thay nước, tăng cường vệ sinh ở đáy bể khi ương nuôi cá.

Bảo đảm điều kiện nuôi sạch, tránh ô nhiễm.

– Trị bệnh: tắm cho cá bằng nước ngọt, sau 24 giờ tắm lặp lại lần 2.

Nguồn: Trung Tâm Nghiên Cứu khoa Học Nông Vận, Hội Nông Dân Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.