Phòng và trị bệnh cho Ốc hương

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, thì mới chỉ biết được có 2 loại bệnh trên ốc hương: bệnh sưng vòi lấy thức ăn (nguyên nhân có thể do tác hại của trùng lông ciliophora) và bệnh ốc hương bỏ vỏ.
Những bệnh này thường xuất hiện vào đầu tiên giữa mùa mưa (tháng 10 – 11 hàng năm) khi các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn, hàm lượng vật chất hữu cơ thay đổi. Đây là môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển.
Đến nay vẫn chưa xác định được tác nhân chính gây chết ốc hương cũng như chưa đưa ra các phương pháp điều trị bệnh hiệu quả. Do đó người nuôi ốc hương cần quan tâm đến khâu phòng bệnh.

Các Tác Nhân Gây Bệnh

Tác nhân gây bệnh chủ yếu ở ốc hương gồm năm nhóm sau đây:
Vi khuẩn:
Đây là nhóm nguy cơ cao với tần suất xảy ra thường xuyên.
Ốc hương (nhất là ở giai đoạn ấu trùng) rất nhạy cảm với thuốc kháng sinh, hầu hết chúng đều chết khi sử dụng liều lượng cao (>5ppm). Có thể dùng A30 (2-3 ppm) cho trực tiếp vào bể ương nuôi ấu trùng nhằm ngăn chặn tác hại của một số vi khuẩn.
Nấm:

Đây cũng là tác nhân gây bệnh chủ yếu cho ấu trùng ốc hương. Kết quả phân lập nấm trên trứng và ấu trùng Veliger đã xác định được 3 giống là Haliphthros, Fusarium, Legenidium. Nấm Fusarium thường được tìm thấy cùng với vi khuẩn V.alginolyticus ở các mẫu ốc bị bệnh.
Có thể dùng Nistatine 1 ppm cho trực tiếp vào bể nuôi để hạn chế tác hại của nấm. Sun-fat đồng dùng ở liều lượng nhỏ (0,1 – 0,2 ppm) cũng có tác dụng hạn chế sự phát triển của nấm.

Nguyên sinh động vật:
Trong số các nguyên sinh động vật, trùng loa kèn là tác nhân thường gặp nhất trên cả giai đoạn trứng và ấu trùng, đặc biệt trong trường hợp nuôi ấu trùng ở mật độ dày và ít thay nước. Trùng loa kèn thường ký sinh trên vỏ ốc, tiêm mao và chân ấu trùng. Ở mật độ thấp, trùng loa kèn gây khó khăn cho hoạt động của ấu trùng, còn ở mức độ nhiễm cao chúng có thể gây chết rải rác hoặc hàng loạt trong các trại sản xuất giống.
Hai giống Vorticella và Zoothamnium thường gặp trong các mẫu kiểm tra và thường xuất hiện nhiều hơn trong môi trường nước có độ mặn cao. Mật độ trùng loa kèn tăng theo thời gian nuôi liên quan đến mức độ nhiễm bẩn của nước. Bên cạnh trùng loa kèn còn xuất hiện một số tác nhân khác. Chúng có kích thước nhỏ, không có tiêm mao nhưng chuyển động rất nhanh, kí sinh bên trong ấu trùng với cường độ cảm nhiễm cao.
Theo dự đoán đây có thể là những loài thuộc vi bào tử Glugeo ngành Microsporia, bộ Glugeida, họ Glugeidae. Một loại ký sinh trùng khác thường gặp, nhất là vào mùa mưa là trùng lông. Trùng lông ký sinh ở mang, chân, ống hút và thường gặp ở giai đoạn con non và con trưởng thành. Loại này có hình dạng giống như cầu gai nhưng kích thước rất nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Tác nhân này đã được phát hiện với tần suất cao trong ốc nuôi ở thời điểm dịch bệnh gây chết hàng loạt.
Shrimp favour với nồng độ 0,5 – 1,5 ppm có tác dụng phòng bệnh tốt cho ấu trùng để ngăn chặn sự phát triển của trùng loa kèn trên ấu trùng ốc hương.

Ốc hương

Giun:
Gồm có giun đốt, giun tròn và giun đầu móc hình dấu phẩy. Chưa xác định được tên giống loài. Giun đốt có màu đỏ, kích thước chiều dài của con trưởng thành khoảng 1-1,5 cm. Loại giun này thường xuất hiện nhiều trong bể nuôi ấu trùng sử dụng các loài tảo tươi làm thức ăn. Tác hại của chúng chưa rõ ràng. Giun tròn có kích thước khác nhau từ 1 đến vài mm, bám ở trên vỏ ốc nhưng không gây ảnh hưởng nhiều. Giun móc hình dấu phẩy là bọn kí sinh nguy hiểm đối với ấu trùng và chuyển động nhất nhanh chọc khuấy các bộ phận cơ quan ốc làm cho ốc yếu dần và chết.
Sử dụng dung dịch CuSO4 nồng độ 0,05 và 0,1 ppm có thể loại bỏ hoàn toàn ba loài giun này.
Copepoda:
Thường xuất hiện trong các bể ương ấu trùng sử dụng nhiều thức ăn công nghiệp. Chúng thường cạnh tranh thức ăn, môi trường sống và dùng chủy tấn công vào các bộ phận cơ quan của ốc. Kết quả làm giảm tỉ lệ sống và sinh trưởng của ốc, có thể gây chết hàng loạt nếu mật độ copepoda cao. Chưa có biện pháp phòng trừ hiệu quả ngoại trừ việc chuyển bể để hạn chết số lượng copepoda.

Hiện Tượng Ốc Hương Chết Hàng Loạt

Chết hàng loạt là hiện tượng xảy ra phổ biến ở các trại sản xuất giống, ao và lồng nuôi thương phẩm ốc hương. Ốc bò lên bề mặt nền đáy bể hoặc lồng nuôi, bò ăn và chết rất nhanh sau 1 đến 2 ngày, đặc biệt với ốc giai đoạn ương giống.
Dấu hiệu kèm theo là vòi lấy thức ăn của ốc lòi ra, sưng tấy. Quan sát kỹ thấy ốc thường giẫy dụa rất nhiều trước khi chết. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng hợp các tác nhân gồm vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng phát triển trong điều kiện môi trường nước bị ô nhiễm là nguyên nhân chính gây chết trực tiếp đối với ốc hương.
Hiện nay vẫn chưa có biện pháp trị bệnh hiệu quả do chưa xác định rõ tác nhân chính. Do đó cần chú ý đến vấn đề phòng bệnh.

Để hạn chế bệnh này, cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Trước hết phải quan lý môi trường nuôi sạch sẽ.
Chú trọng đến nguồn giống và chất lượng giống nuôi. Tuyệt đối không nên khai thác giống tự nhiên và vận chuyển từ xa về nuôi vì không đảm bảo sức khỏe, dễ bị nhiễm khuẩn và chết do vận chuyển, làm lây lan và truyển bệnh.

Ngoài ra nên bổ sung một số loại vitamin như C, B1,…vào trong thức ăn để giúp ốc sinh trưởng nhanh, kháng bệnh tốt.

Biện Pháp Phòng Bệnh Cho Ốc Hương

Phòng bệnh cho ốc hương

Thả giống đúng kích cỡ (theo khuyến cáo, kích cỡ giống tối thiểu đạt 8.000 – 10.000 con/kg; mật độ thả thích hợp 500 – 1.000 con/m2), không nên thả giống còn quá nhỏ chưa qua kiểm dịch của cơ quan thú y.

Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, độ mặn, oxy hòa tan để có biện pháp xử lý thích hợp, kịp thời nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ốc, đặc biệt chú ý yếu tố nhiệt độ và độ mặn.
Khi có biểu hiện ốc kém ăn và chết rải rác, cần nhặt hay sàn lọc số ốc này, không nên vứt bừa bãi ở khu vực vùng nuôi sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường nước trong khu vực. Di chuyển lồng khi nguồn nước có sự xáo trộn các chi tiêu lý hóa, biến động. Báo cáo bộ buôi trồng thủy sản ở địa phương khi xảy ra sự cố, ốc chết.
Thường xuyên kiểm tra vệ sinh lưới lồng, nền đáy trong suốt quá trình nuôi, sau mỗi đợt nuôi cần cải tạo suốt quá trình nuôi, sau mỗi đợt nuôi cần cải tạo kỹ nền đáy. Định kỳ sử dụng vôi bột với liều lượng 10 – 30 ppm để cải tạo nền đáy trong quá trình nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi ốc hương

Tùy từng điều kiện tự nhiên mà chọn loại hình nuôi ốc hương thương phẩm: nuôi đăng hoặc lồng, nuôi ao đất, nuôi bể xi-măng.

Nuôi trong đăng, lồng

Phải chọn vị trí đặt đăng, lồng ở vùng nước trong sạch, đáy cát hoặc san hô, độ mặn 25- 35, ổn định. Lồng, đăng được làm chắc chắn, có lưới bảo vệ. Độ sâu đặt lồng, cắm đăng từ 1,5m nước trở lên.

Thu hoạch ốc hương nuôi trong đăng

Thả giống: Cỡ giống tối thiểu đạt 8.000 – 10.000 con/kg trở lên. Mật độ thả: 500-1.000 con/m2.

Thời gian nuôi: Nuôi từ 5 – 6 tháng tùy theo điều kiện môi trường nuôi và quá trình quản lý chăm sóc.

Chăm sóc: Thức ăn cho ốc hương là cá, cua, ghẹ, don, dắt… đập vỏ, thái nhỏ. Lượng thức ăn mỗi ngày bằng 5 – 10% trọng lượng ốc hương, ngày cho ăn một lần vào chiều tối. Theo dõi lượng thức ăn thừa hằng ngày để điều chỉnh, vớt thức ăn thừa tránh ô nhiễm. Nếu lồng, đăng quá bẩn cần chuyển vị trí, làm vệ sinh lồng sạch sẽ.

Thu hoạch: Khi ốc nuôi đạt 90 – 150 con/kg tiến hành thu hoạch.

Nuôi trong ao

Ao nuôi phải gần biển, nước sạch, đáy cát, ít bùn. Độ mặn 25 – 35. Độ sâu ao từ 0,8 – 1,5m nước, độ pH 7,5 – 8,5. Ao tẩy sạch sẽ, diệt trừ dịch hại, dùng lưới ngăn cá dữ, cua ghẹ vào ăn ốc con.

Thả giống: Cỡ giống thả 5.000 – 6.000 con/kg. Mật độ thả: 50 – 100 con/m2.

Thời gian nuôi: Từ 5 – 6 tháng tùy điều kiện chăm sóc và môi trường ao nuôi.

Chăm sóc: Thức ăn gồm cá, trai nước ngọt, don, cua, ghẹ… băm nhỏ. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 5 – 10% trọng lượng ốc nuôi. Cho ăn mỗi ngày một lần vào chiều tối. Thức ăn được thả vào sàn hoặc vó, đặt đều khắp ao.

Nuôi ốc hương trong ao

Theo dõi lượng thức ăn thừa hằng ngày để điều chỉnh. Vớt thức ăn thừa khỏi ao để tránh ô nhiễm. Thay nước ao thường xuyên để ốc lớn nhanh. Cải tạo lại ao cũ trước khi nuôi lại.

Thu hoạch: Khi ốc nuôi đạt kích thước 90 – 150 con/kg có thể thu hoạch. Tháo cạn nước trong ao, nhặt bắt ốc bằng tay, hoặc dùng cào sắt để gom ốc. Ốc thu hoạch xong nhốt trong giai hoặc bể 1 – 2 ngày để làm sạch bùn đất và trắng vỏ.

Nuôi trong bể xi-măng

Bể xi-măng có che bớt ánh sáng bằng lưới chắn nắng. Nhiệt độ trong bể nuôi không quá 320C vào mùa hè. Đáy bể phủ cát mịn dày 2 – 3cm. Độ mặn 30 – 35, giữ độ mặn không giảm xuống dưới 20. Nuôi ở mức nước từ 0,5 – 1,2m.

Thả giống: Cỡ giống thả 10.000 – 12.000 con/kg trở lên.

Mật độ thả: 100 – 200 con/m2.

Thời gian nuôi: Từ 5 – 7 tháng tùy theo điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng.

Nuôi ốc hương trong bể xi măng

Chăm sóc: Thức ăn là cá, ghẹ,… băm, đập, giã nhỏ. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 5 – 10% trọng lượng ốc nuôi. Mỗi ngày cho ăn 1 – 2 lần. Rải thức ăn đều trên khắp mặt bể.Theo dõi lượng thức ăn thừa hằng ngày để điều chỉnh hệ số cho phù hợp. Vớt thức ăn thừa để không làm ô nhiễm nước bể.Thay nước từ 50 – 70% nước trong bể mỗi ngày. Định kỳ thay, rửa cát đáy, giữ môi trường bể nuôi luôn sạch để giúp ốc lớn nhanh. Vệ sinh, cải tạo bể khi nuôi lại.

Thu hoạch: Khi ốc nuôi đạt kích thước 90 – 150 con/kg có thể thu hoạch. Ốc sau thu hoạch nhốt trong giai hoặc trong bể 1 – 2 ngày để làm sạch bùn đất và làm trắng vỏ.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Hiệu quả từ nuôi sò

Những năm gần đây, nhiều hộ ở phường Cam Phúc Bắc (TP. Cam Ranh) mạnh dạn chuyển đổi vật nuôi thủy sản từ cá, tôm sang các loại sò: mồng, dương, mía, tu hài… Bước đầu, các vật nuôi này đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao cho hộ nuôi.

Thu nhập khá

Gia đình ông Đào Minh Tiến (phường Cam Phúc Bắc) được xem là hộ đầu tiên chuyển đổi từ nuôi cá lồng sang nuôi các loại sò. “Trong quá trình nuôi, tôi thấy các loại sò ở đây sinh trưởng rất tốt. Do đó, năm 2012, tôi quyết định chuyển sang nuôi một số loại sò như: mồng, dương, mía, tu hài. Đợt nuôi đầu tiên tôi thả khoảng 5.000 con giống, với tổng chi phí đầu tư khoảng 40 triệu đồng. Sau 10 tháng thả nuôi cho thu hoạch lời hơn 100 triệu đồng. Từ bước đệm này, tôi mạnh dạn đầu tư nuôi đại trà trên diện tích hơn 2ha. Bây giờ, tháng nào tôi cũng thả nuôi nên lúc nào cũng có sò thương phẩm để bán”, ông Tiến cho hay.

Nuôi sò dương

Được biết, trung bình 1 năm, ông Tiến thả nuôi hơn 70 triệu con giống. Sau 10 tháng thả nuôi, sò đạt trọng lượng từ 25 đến 30 con/kg, bán với giá 100.000 đồng/kg, riêng tu hài 250.000 đồng/kg. Trừ các chi phí, mỗi năm, gia đình ông Tiến lời hơn 400 triệu đồng. Ông Tiến cho biết: “Nuôi sò chi phí đầu tư ít, trong quá trình nuôi không phải lo thức ăn. Sò có đặc tính di chuyển chậm nên cách nuôi rất đơn giản, dùng lưới mùng bao quanh rổ nhựa (cao 20 cm, đường kính 40 cm), bên trong thả con giống đem đặt dưới đáy vịnh có độ sâu từ 2 đến 3 m. Mỗi rổ thả khoảng 50 con giống, 1 tháng kiểm tra 1 lần để có sự điều tiết đối tượng nuôi cho phù hợp”.

Thấy hộ ông Tiến nuôi hiệu quả, hiện nay, đã có hàng chục hộ chuyển sang nuôi các loại sò. Ông Vi Thanh Đông cho biết, trước đây gia đình ông nuôi cá bớp, chi phí đầu tư cao, công chăm sóc nhiều, chỉ cần một lần bị dịch bệnh có thể thua lỗ hàng trăm triệu đồng. Chính vì thế, gia đình ông đã chuyển sang nuôi sò được hơn 4 năm nay. Thấy hiệu quả kinh tế cao, hiện nay, diện tích nuôi của gia đình ông Đông tăng lên đến 15 ô. Mỗi ô được khoanh với diện tích 100 m2, thả 10 triệu con giống, sau 10 tháng thả nuôi thu hoạch được 7 tấn sò thương phẩm. “Nuôi sò lợi nhuận không cao bằng nuôi các loại thủy sản khác, nhưng khi đã thả nuôi thì thắng chắc. Mấy năm qua, gia đình tôi chỉ đầu tư nuôi sò vì không tốn chi phí thức ăn, không xảy ra dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt không đáng kể. Nhờ vậy, kinh tế gia đình ngày càng khá hơn”, ông Đông chia sẻ.

Theo lãnh đạo UBND phường Cam Phúc Bắc, hiện nay trên địa bàn có khoảng 40 hộ chuyển sang đầu tư nuôi các loại sò. Phần lớn những hộ này trước đây nuôi các loại thủy sản lồng. Từ ngày chuyển qua nuôi sò, các hộ này có kinh tế ổn định hơn.

Gia đình ông Đào Minh Tiến thả nuôi các loại sò

Không còn phải lo con giống

Trước đây, điều trăn trở lớn nhất của người nuôi sò là con giống, bởi nguồn giống chủ yếu được khai thác trong tự nhiên nên rất bị động.

Bên cạnh đó, do quy mô và số lượng người nuôi tăng lên khiến cho con giống trong tự nhiên trở nên khan hiếm, tăng giá. Có lúc, con giống tự nhiên cỡ bằng ngón tay út có giá từ 1.200 đến 1.500 đồng/con. Mặt khác, tỷ lệ hao hụt cũng khá cao, khoảng 40%, do lúc bắt con giống, người dân không biết cách bảo quản, khi thay đổi môi trường đột ngột làm con giống bị chết.

Hiện nay, người nuôi sò không còn phải lo con giống vì hơn 2 năm nay, Công ty Phát triển Thủy sản Nam Đại Dương (phường Cam Phú, TP. Cam Ranh) đã nghiên cứu ươm tạo được các loại giống sò. Ông Đào Minh Tiến cho biết: “Hơn 2 năm nay, con giống đã có công ty cung cấp nên rất thuận lợi cho người nuôi. Giá thành con giống thấp chỉ 70 đồng/con, tỷ lệ hao hụt khoảng 20%. Bây giờ, chỉ cần gọi điện thoại là công ty đưa giống xuống tận nhà. Đồng thời, công ty còn cử cán bộ kỹ thuật xuống hướng dẫn tận tình nên việc nuôi sò của gia đình tôi cũng như các hộ ở đây gặp nhiều thuận lợi”.

Bà Nguyễn Thị Hương – cán bộ kỹ thuật Trạm Khuyến nông, Khuyến lâm, Khuyến ngư TP. Cam Ranh cho biết, hiện nay, trên địa bàn thành phố chỉ có người dân ở phường Cam Phúc Bắc là phát triển nuôi các loại sò với diện tích hơn 10ha. “Qua nhiều năm theo dõi, chúng tôi thấy đối tượng sò: mồng, dương, mía, tu hài phát triển khá tốt ở địa phương này và hầu như chưa xảy ra dịch bệnh. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, chúng tôi vẫn theo sát và hướng dẫn người dân để tránh sự chủ quan, dẫn đến phát sinh nguồn bệnh, gây thiệt hại cho người nuôi sò”, bà Hương cho hay.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cá bống tượng trong bồn

Thiết kế bồn nuôi

Nuôi cá trong bồn có nhiều thuận lợi hơn so với nuôi trong ao đất. Trên cùng một diện tích, nuôi cá trong bồn tuy đầu tư chi phí ban đầu có cao hơn nhiều nhưng năng suất cao hơn gấp nhiều lần so với nuôi trong ao đất.

Mặt khác, nuôi trong bồn còn có nhiều điểm thuận lợi khác như: Dễ quản lý bồn bể và cá nuôi, nhờ sự chủ động địa điểm và quy mô nuôi. Nhờ không phải phụ thuộc vào thời tiết nên chủ động mùa vụ thả nuôi.

Nuôi trong bồn nhờ mực nước cạn nên có thể dễ dàng quan sát được sự ăn mồi của cá mà tăng giảm lượng thức ăn cho phù hợp, hạn chế ô nhiễm nguồn nước cũng như tiết kiệm mồi. Dễ dàng phát hiện, ngăn chặn và xử lý khi cá có biểu hiện bệnh.

Nhờ nuôi cách biệt với nền đáy nên ngăn chặn được sự thẩm lậu của vật chất hữu cơ vào trong đất.  Sử dụng nguồn nước ít hơn do đó thải nước cũng ít hơn, nên hạn chế ô nhiễm môi trường. Cần ít công chăm sóc hơn so với nuôi trong ao, do đó chi phí lao động rẻ hơn.

Lựa chọn địa điểm nuôi cá bống tượng trong bồn là nơi có nguồn nước sạch, cung cấp nước thường xuyên, vị trí xây nơi yên tĩnh, chủ động việc cấp và thoát nước, thuận tiện giao thông. Tốt nhất là nơi có nguồn nước chảy tự nhiên như sông, suối. Đảm bảo đạt nhiệt độ của nước 25 – 270C, hàm lượng oxy hòa tan 5mg/l, độ pH 7,5 – 8,5.

Thiết kế bể/bồn nuôi có diện tích tốt nhất từ 100m2 trở lên, hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tròn được xây bằng gạch, bên trong láng nhẵn. Độ sâu của bể/bồn 1,5 m, bên trong láng xi măng nhẵn, trên thành bể/bồn xây gờ ngang 10 cm để cho cá khỏi đi.

Có hệ thống cống cấp thoát nước riêng biệt. Ống cấp nước cách mặt bể/bồn 50 cm, tốt nhất nên thiết kế bể nuôi có nước chảy ra vào thường xuyên, trang bị máy bơm nước tự động tắt mở khi nước đầy. Nước bể/bồn nuôi ở dạng nên lắp thêm giàn phun mưa để tạo thêm oxy mỗi buổi sáng.

Để tránh tạp chất gây ô nhiễm, cho nước qua một bể lọc (có cát, than, sỏi…) chiếm 20 – 30% diện tích bể. Trên bể/bồn có mái che, lưới để giảm ánh nắng rọi vào nhiều. Đối với bể/bồn mới xây, ngâm phèn chua 100 g/m2, ngâm 2 lần, 2 ngày/lần, sau đó chà bằng bẹ chuối, phơi nắng 30 ngày, cấp và xả nước 3 – 4 lần.

Giống thả nuôi

Cá bống tượng giống

Nguồn gốc: Hiện nay giống bống tượng cung cấp cho nuôi cá thịt có thể mua từ 2 nguồn: thu từ tự nhiên và từ  các cơ sở sản xuất giống.

Giống thu gom tự nhiên thì cá gái rẻ hơn giống sinh sản nhân tạo, nhưng có nhiều nhược điểm: Cá có kích cỡ không đồng đều, khi nuôi dễ bị phân dàn, cá dễ bị sây sát do quá trình đánh bắt, thu gom, vận chuyển. Mặt khác do thu gom nên số lượng không kịp thời đủ cho thả nuôi.

Giống sản xuất nhân tạo do ương nuôi trong thời gian kéo dài nên giá thành cao, cỡ cá nhỏ hơn cá thu gom tự  nhiên (15-30g), trong khi cá tự  nhiên dễ lựa cỡ cá khoẻ mạnh, không bị sây sát do đánh bắt và kiểm soát được bệnh tật. Ngoài ra có thể cung cấp đủ số lượng lớn cho nhu cầu nuôi.

Kích cỡ cá thả:Cá thu gom tự nhiên: 80-100g/con. Cá ương nuôi nhan tạo: 15-30g/con

Mùa vụ thả: Có thể nuôi quanh năm, tuỳ thuộc vào nguốn giống và điều kiện kinh tế  nông hộ.

Mật độ thả:  Cá cỡ lớn (80-100g/con) thả với mật độ từ 5-7 con/m2. Cá cỡ nhỏ (15-30g/con) thả với mật đọ từ 8-10 con/m2. Trước khi thả, phải tắm nước muối 25% trong 10 phút.

Thức ăn và quản lý chăm sóc

Các loại thức ăn: Chủ yếu là tép rong, cá nhỏ, cua, ốc,… Cá phải được làm sạch, cắt nho nhỏ cho vừa cỡ miệng cá, cua đập dập, ốc cũng đập dập vỏ. Thức ăn rải đều thức ăn 7-10% trọng lượng cá trong ao. Nên theo dõi chặt chẽ mức độ ăn của cá để điều chỉnh tăng giảm. Lượng thức ăn cho hợp lý. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần(sáng sớm và chiều tối).

Cá bống tượng

Thức ăn có thể được trộn thêm premix khoáng premix vitamin (1-2% trọng lượng thức ăn). Không nên trộn bất ký loại kháng sinh nào vào thức ăn khi cá bình thường.

Quản lý chăm sóc: Cho cá ăn đầy đủ, đúng số lượng và chất lượng, giữ cho thức ăn luôn sạch và không bị hư thối. Vệ  sinh sàn ăn trước khi cho thức ăn mới vào.

Hàng ngày phải thường xuyên theo dõi hoạt động và mức ăn của cá. Kinh nghiệm của nhiều hộ nuôi cá Bống tượng cho biết, phải kịp thời nhận biết những biểu hiện bất thường và kiểm tra lại các khâu để xác định nguyên nhân và có biện pháp  xử lý ngay.

Các biểu hiện bất thường gồm có: một vài cá nổi đầu, ăn mồi chậm và giảm lượng ăn hoặc bỏ ăn đột ngột. Những biểu hiện trên là cá đang nhiễm bệnh. Ở mức độ nhẹ và ít thì việc xử lý kịp thời sẽ có hiệu quả. Khi cá đã nhiễm bệnh nặng thì rất khó xử lý và chữa trị, vì bệnh trên cá bống tượng rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy biện pháp phòng bệnh cho cá là tốt nhất, đó là đủ ăn, thức ăn tươi và môi trường nước sạch.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Khánh Hòa: 100 ao nuôi tôm 90 ao trúng đậm, nhiều hộ lãi tiền tỷ

Năm nay thời tiết thuận lợi, tôm thẻ chân trắng thả nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ít xảy ra dịch bệnh, vì thế nhiều nơi bà con thu hoạch có lãi khá. Đặc biệt là do bà con có nhiều năm kinh nghiệm nuôi tôm nên tỷ lệ ao tôm trúng đậm rất cao.
Chúng tôi có mặt tại các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Ninh Phú và phường Ninh Giang (TX Ninh Hòa) khi người nuôi đang thu hoạch vụ thứ 2. Niềm vui thể hiện rõ trên khuôn mặt rám nắng của họ khi 2 vụ liên tiếp có lãi.

Ông Nguyễn Phú, một người nuôi tôm ở khu vực thôn Tiên Du 1, xã Ninh Phú phấn khởi chia sẻ, năm nay hầu hết người nuôi tôm ở đây đều có lãi, trong vụ 1 nuôi 100 ao thì có trên 90 ao bội thu. Tuy nhiên mức lãi nuôi tôm trong ao đất không cao. Người lãi nhiều trên trăm triệu đồng, lãi ít vài chục triệu. Nguyên nhân do người nuôi không dám thả dày kết hợp nuôi cua.

Vụ tôm 2017, nhiều người nuôi ở Khánh Hòa có lãi.

“Với diện tích gần 1ha, tôi chỉ thả khoảng 10 vạn giống/2 vụ, với giá đầu tư 920.000 đồng/vạn con giống, sau khi thu hoạch trừ chi phí còn lãi hơn 50 triệu đồng”, ông Phú chia sẻ.

Ông Nguyễn Phú cho biết qua 2 vụ nuôi tôm hầu hết người nuôi có lãi

Nuôi tôm trong ao đất có mức lãi khiêm tốn, nhưng nuôi ao trải bạt năm nay cho lãi hàng tỷ đồng. Tiêu biểu là hộ anh Lê Minh Chính áp dụng nuôi tôm theo công nghệ biofloc ở khu vực thôn Hang Dơi. Gặp chúng tôi, anh Chính cho biết, vụ 1 gia đình thả 1 triệu giống trong 6.600m2, sau hơn 2 tháng nuôi thu 19 tấn, với kích cỡ tôm đạt từ 40 – 60 con/kg, bán với giá 140.000 đ/kg.

Anh Chính áp dụng nuôi theo công nghệ biofloc.

Còn vụ thứ 2, anh thả 1,5 triệu giống trong 9.600m2, sau 2 tháng nuôi, tôm đạt 70 – 80 con/kg, sản lượng trên 25 tấn, bán với giá 112.000 đ/kg.

Ông Phan Thanh Sinh, Phó Chủ tịch xã Ninh Phú cho biết, toàn xã có khoảng 170ha nuôi tôm, trong đó 4ha nuôi trải bạt. Năm nay ở 2 vụ nuôi bà con đều thả 100% diện tích. Vụ đầu tiên hầu hết người nuôi có lãi, còn vụ thứ 2 đã thu hoạch hơn 50%, trong đó khoảng 15% diện tích có lãi, số còn lại huề vốn.

Tại vùng nuôi tôm ở phường Ninh Giang, người nuôi đã thu hoạch gần kết thúc. Ông Huỳnh Chiếm Đạt, Phó Chủ tịch phường cho hay, toàn phường có 81ha nuôi tôm, qua 2 vụ chỉ có 7,1ha bị dịch bệnh, giảm nhiều so với mọi năm. Số diện tích còn lại bà con thu hoạch đạt 1,5 tấn/ha. Sản lượng cả 2 vụ ước đạt 110 tấn.

“Đây là vụ tôm được mùa hơn mọi năm trước. Việc người nuôi có lãi có thể do thời tiết thuận lợi và tuân thủ thả giống có nguồn gốc, nuôi mật độ thưa. Thêm vào đó, địa phương cũng phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức nhiều lớp tập huấn nuôi tôm an toàn”, ông Đạt chia sẻ.

Tại vùng nuôi tôm trên bạt ở xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh, người nuôi tôm cũng vui mừng không kém vì thu hoạch trúng đậm. Ông Ngô Chín, một người nuôi tôm ở đây cho biết, 2 vụ thả nuôi diễn ra suôn sẻ, rất nhiều hộ lãi tiền tỷ. Gia đình ông có ao nuôi 3.000m2, mỗi vụ thả từ 60 – 80 vạn tôm giống. Sau khi thu hoạch bán sản phẩm, trừ chi phí còn lãi hơn 1 tỷ đồng.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

 

 

Nuôi cá công nghiệp trên vùng biển Phú Quốc

Nuôi cá trên biển theo hướng công nghiệp được Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Trấn Phú (Công ty Trấn Phú) triển khai trên vùng biển xã Gành Dầu, huyện Phú Quốc, Kiên Giang. Mô hình này bước đầu đạt được những thành công nhất định, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi cá biển ở huyện đảo này.

Nuôi cá lồng bè ở Phú Quốc

Để khai thác tiềm năng kinh tế biển, cuối năm 2016, sau khi UBND tỉnh Kiên Giang cho chủ trương, Công ty Trấn Phú quyết định đầu tư thực hiện mô hình nuôi cá biển theo quy mô công nghiệp trên vùng biển xã Gành Dầu, huyện Phú Quốc. Giai đoạn I, Công ty Trấn Phú triển khai đầu tư quy mô 3ha mặt biển với 4 lồng tròn nuôi cá thương phẩm theo công nghệ Na Uy. Kinh phí đầu tư cho mỗi lồng nuôi là gần 650 triệu đồng. Toàn bộ quy trình nuôi, chăm sóc và kiểm soát dịch bệnh do Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 chuyển giao.

Trong giai đoạn I, Công ty Trấn Phú thả nuôi 163.000 con cá chim trắng và cá hồng mỹ. Đến nay, sau thời gian nuôi hơn 7 tháng thử nghiệm trên vùng biển cách xa đất liền, cá có khả năng chống chịu tốt với môi trường, nên tỷ lệ cá sống đạt gần 90%. Theo ông Thái Bảo Trấn, Giám đốc Công ty Trấn Phú, đầu tư lồng bè tròn theo công nghệ Na Uy tuy kinh phí cao, nhưng độ bền và chắc chắn, có thể chịu sóng lớn cấp 10, an toàn hơn so với cách nuôi bè truyền thống; đồng thời vừa hạn chế ô nhiễm môi trường trên biển, vừa tạo ra những tấn cá sạch cung cấp thị trường trong và ngoài nước.

Kiên Giang là tỉnh có diện tích ngư trường khá lớn, trên 63.000km2, với gần 200km bờ biển – thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tính đến nay, toàn tỉnh có 2.737 lồng bè nuôi cá trên biển, thu hoạch đạt sản lượng trên 1.300 tấn, chủ yếu thả nuôi các loại cá mú và cá bớp, tập trung chủ yếu ở vùng biển Phú Quốc, Kiên Hải, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên. Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng bè thương phẩm hiện nay tại Kiên Giang vẫn còn quy mô nhỏ lẻ. Bè nuôi có kết cấu thô sơ, chủ yếu tự chế bằng gỗ, luôn phải di dời tránh gió bão theo mùa.

Nuôi cá lồng bè ở Phú Quốc

Để nghề nuôi cá lồng bè bền vững tại Kiên Giang, ngoài điều kiện tự nhiên, nguồn thức ăn và cá giống thả nuôi phải đa dạng, thì việc phát triển nghề nuôi này cần tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết từ lồng nuôi đến thị trường tiêu thụ. Nuôi cá biển công nghiệp theo công nghệ lồng bè tiên tiến lại thả nuôi xa bờ giúp tránh ô nhiễm nguồn nước so với nuôi lồng bè thô sơ, năng suất lại đạt cao hơn. Tuy nhiên, để mô hình nuôi cá lồng bè trên biển theo hướng công nghiệp phát triển bền vững mở ra hướng đi mới cho ngư dân, vấn đề đặt ra là Kiên Giang cần phải tính đến quy hoạch vùng nuôi ổn định để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, giúp người dân Kiên Giang làm giàu từ biển mà vẫn không làm ảnh hưởng đến môi trường và hoạt động du lịch.

Ông Huỳnh Quang Hưng, Phó Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc, cho biết: Hiện nay, cùng với đầu tư phát triển du lịch, Phú Quốc xác định khai thác đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là một trong những lĩnh vực quan trọng, vừa đa dạng các sản phẩm đặc trưng phục vụ du khách, vừa tăng thu nhập cho cư dân trên đảo. Huyện Phú Quốc cũng khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân đầu tư nâng cấp tàu thuyền, ngư cụ, trang thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ, nâng cao chất lượng thủy – hải sản. Đặc biệt, chú trọng phát triển loại hình câu, thẻ kết hợp với nuôi trồng thủy sản ven bờ, nuôi cá lồng bè trên biển để cung cấp nguồn thủy – hải sản tươi sống có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu ẩm thực của người dân và du khách.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên

Để phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững thì phải có quy hoạch chi tiết và quản lý quy hoạch này; không để xảy ra việc nuôi tự phát của người dân.

Trước tình trạng vùng nuôi tôm hùm liên tục bị thiệt hại thời gian qua do ô nhiễm, ngày 16.8, tại TP.Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên phối hợp Bộ NN-PTNT tổ chức hội thảo bàn giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở địa phương.

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên phát triển từ những năm 1990, từ năm 2000 tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng này và TX.Sông Cầu được xem là vùng nuôi tôm hùm trọng điểm. Ông Lương Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND TX.Sông Cầu, cho biết hiện ở địa phương có hơn 2.142 hộ nuôi tôm hùm với khoảng 16.000 lồng nuôi tôm thương phẩm, sản lượng hơn 600 tấn/năm với doanh thu khoảng 500 – 600 tỉ đồng. Nghề nuôi này đã đóng góp đáng kể vào nền kinh tế – xã hội của địa phương.

Nuôi tôm hùm ở Sông Cầu, Phú Yên

Quản lý lỏng lẻo

Tuy nhiên, vùng nuôi tôm hùm ở xã Xuân Phương và Xuân Yên (TX.Sông Cầu) liên tiếp 2 năm liền bị chết, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm. Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, mật độ nuôi ở đây gấp 4 lần so với quy định. “Đó là do chúng ta không quản lý, thả lỏng việc nuôi tôm hùm ở vùng này”, ông Phương nói và thừa nhận về quản lý chỉ mới khoanh vùng, chứ chưa giao mặt nước cho người dân. Trong khi đó, những tồn tại hiện nay của nghề nuôi tôm hùm tại Phú Yên là nguồn giống vẫn khai thác tự nhiên nên không đủ cung cấp, phải nhập tôm hùm giống nước ngoài nhưng kiểm soát không tốt; thức ăn chính từ nguồn khai thác cá tạp tươi, ốc, sò, cua ghẹ… góp phần gây ra ô nhiễm môi trường; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Trung Quốc.

Ông Trần Minh Phương ở xã Xuân Cảnh (TX.Sông Cầu) khẳng định nghề nuôi tôm hùm đã tạo ra nguồn thu lớn, thay đổi đời sống nhưng rủi ro nghề này càng ngày càng tăng cao vì phụ thuộc vào thị trường và tôm chết bất ngờ. Hơn nữa, người dân phát triển lồng nuôi tôm hùm rất nhanh, dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường. Vì vậy, đề nghị chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ.

Ô nhiễm từ cách nuôi

Ông Võ Minh Khôi, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), cho biết khi đi khảo sát vùng tôm chết tại P.Xuân Yên và xã Xuân Phương (TX.Sông Cầu) thì thấy nghịch lý là tôm đang chết nhưng người dân vẫn đưa lồng ra vịnh Xuân Đài để thả mới. “Đây là vấn đề nan giải”, ông Khôi lo lắng.

Về nguyên nhân gây ra tôm hùm chết trong tháng 6 vừa qua, theo ông Phan Hữu Đức, Phó giám đốc thú y Vùng 4, Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), là do ô nhiễm chất hữu cơ, dẫn đến làm giảm hàm lượng ô xy hòa tan ở cả tầng mặt nước và tầng đáy khu vực nuôi. Cũng do ô nhiễm chất hữu cơ đã tạo thuận lợi cho vi khuẩn, sinh vật phù du phát triển mạnh. “Số lượng lồng nuôi quá nhiều so với quy hoạch do người dân tự phát. Mật độ nuôi dày, lượng thức ăn tươi sống mỗi ngày đổ xuống vịnh từ 15 – 20 xe container (tương đương 400 tấn thức ăn tươi sống là cá giã cào, ốc, cua, ghẹ…) liên tục trong thời gian dài dẫn đến môi trường ô nhiễm nặng, nhiều chỉ tiêu thủy hóa vượt ngưỡng cho phép”, ông Đức nói, đồng thời chỉ ra việc quy hoạch chưa sát với thực tế nên vị trí quy hoạch làm vùng nuôi thì người dân không nuôi vì cho rằng không thích hợp với dòng chảy, vị trí không quy hoạch thì người dân lại đem lồng đến nuôi.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết đã tiến hành khảo sát vùng nuôi tôm hùm vịnh Xuân Đài (vùng nuôi tôm bị ô nhiễm nặng vừa qua) thì phát hiện nước thải từ các hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi ốc hương, rác thải sinh hoạt của người dân đều đưa xuống vịnh Xuân Đài. Về lượng thức ăn cung cấp, nếu 8 kg thức ăn cho 1 lồng/ngày thì riêng ở xã Xuân Phương là 49 tấn/ngày, còn P.Xuân Yên khoảng 50 tấn/ngày… Thức ăn thừa trong lồng đều đổ xuống vịnh Xuân Đài. “Như vậy, vịnh Xuân Đài đã oằn mình gánh một lượng chất thải kinh khủng mỗi ngày”, bà Hòa nói.

Tôm hùm chết hàng loạt

Cần kiểm soát toàn diện

Ông Võ Minh Khôi cho biết nghề nuôi tôm hùm phát triển chủ yếu ở Khánh Hòa, Phú Yên. Số lượng lồng tăng 1,5 lần, nhưng nghịch lý là sản lượng giảm. Hiện nay có 4 loại tôm hùm, nhưng người dân nuôi chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Ông Khôi xác định việc phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm có nhiều yếu tố, đó là con giống, môi trường vùng nuôi, thị trường.

Vẫn theo ông Khôi, hiện nhu cầu tôm hùm giống hằng năm ở VN khoảng 24 triệu con, nguồn tôm tại địa phương chỉ đáp ứng khoảng 9 triệu con nên phải nhập tôm hùm giống nước ngoài về qua đường tiểu ngạch. “Qua tìm hiểu, chưa có cơ sở nào đăng ký nguồn tôm hùm giống. Nếu quản lý tốt sẽ tránh trường hợp tôm hùm giống trôi nổi. Nếu không kiểm soát được thì nguy cơ dịch bệnh rất cao, chất lượng tôm sẽ ảnh hưởng”, ông Khôi nói. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm hùm tương đối bấp bênh. Khi thị trường Trung Quốc “ăn” thì giá cao, ngược lại là giá rớt thê thảm. Giá trị xuất khẩu từ tôm hùm khoảng 40 triệu USD/năm. Quy hoạch đã có nhưng chưa đầy đủ, giám sát chưa sâu sát nên gây ra yếu tố ô nhiễm cục bộ, khiến tôm hùm chết.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa cho biết muốn vùng nuôi tôm hùm không bị ô nhiễm thì thức ăn thừa trong lồng, bè phải thu gom, đem vào bờ xử lý. “Nếu người dân đưa toàn bộ thức ăn thừa vào thì chứa ở đâu. Đây là chuyện địa phương phải tính đến”, bà Hòa nói. Bà Hòa cũng khuyến cáo không nên nuôi vẹm xanh ở khu vực nuôi tôm hùm vì như thế sẽ dẫn đến cạnh tranh về ô xy, khiến tôm hùm thiếu ô xy, đặc biệt là vào ban đêm hay thời tiết bất thường theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, tôm thẻ chân trắng cũng là nguy cơ lây nhiễm bệnh cần lưu ý. “Nếu tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh thì phải xử lý triệt để trong hồ không được xả ra bên ngoài”, bà Hòa nói.

Quy hoạch nuôi tôm gắn với du lịch

Ông Lương Minh Sơn, Phó bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, cho biết những vùng biển ở các huyện ven biển Phú Yên có nhà cao tầng, đó là nhờ nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, trong đó có nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hiện các vùng nuôi này ô nhiễm nên đề nghị các ngành chức năng đề xuất giải pháp làm sao giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên, quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển du lịch, vì những vùng nuôi này đều là danh lam, thắng cảnh quốc gia. Làm sao có cơ chế quản lý, có quy hoạch chi tiết cho ngành nuôi tôm hùm ở Phú Yên.

Đảo Bình Ba, Khánh Hòa là nơi từng thực hiện thành công mô hình nuôi tôm hùm kết hợp du lịch

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nâng cao năng suất tôm hùm nuôi thương phẩm

Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi. Sau đây là một số lưu ý nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm thương phẩm…

Lồng nuôi: 

Để tận dụng tối đa diện tích thì lồng nên có dạng hình khối hộp vuông, vì hình vuông có diện tích lớn nhất, đồng thời lưu thông nước ở từng vị trí đặt lồng nuôi không theo hướng dẫn nhất định. Tùy theo quy mô nuôi, điều kiện chăm sóc quản lý và nguyên vật liệu làm lồng mà sử dụng kích thước lồng khác nhau.

Tuy nhiên, lồng càng lớn khả năng lưu thông nước bên trong và ngoài lồng càng giảm, đồng thời năng suất tôm hùm nuôi lồng tỉ lệ nghịch với độ lớn của lồng. Người nuôi nên dùng loại lồng 16-20m2 là phù hợp với quy mô hộ gia đình và năng suất tôm hùm nuôi.

Làm lồng nuôi tôm hùm

Vị trí đặt lồng:

Nên đặt lồng nuôi ra vùng xa bờ để trao đổi nước tốt hơn. Độ sâu mức nước nơi đặt lồng tối thiểu khi triều thấp là 4m (đối với nuôi lồng găm), từ 4–8m (đối với nuôi lồng sắt) và hơn 8m (đối với lồng nổi). Đáy lồng cách đáy biển hơn 0,5m là tốt nhất. Nơi đặt lồng nuôi phải đảm bảo cách bờ hơn 1.000m. Nền đáy là cát hoặc cát pha bùn có lẫn san hô gạc nai và không bị ô nhiễm.

Môi trường nước vùng nuôi tôm hùm phải đảm bảo các chỉ tiêu: nhiệt độ từ 24-31 độ C; pH: 7,5–8,5; độ muối từ 30–35‰; ôxy hòa tan: 6,2–7,2mg/l.

Mật độ thả: 

Mật độ ương nuôi tôm hùm tùy thuộc vào kích cỡ của tôm giống. Cỡ giống tôm trắng: 30-40 con/m2 lồng; Cỡ giống 1,5-4,0g/con thả 25-30 con/m2 lồng; Cỡ giống 4-10g/con thả 15-20 con/m2 lồng; Cỡ giống 10-50g/con thả 10-15 con/m2 lồng; Cỡ giống 50-200g/con thả 7-10 con/m2 lồng; Cỡ giống hơn 200g/con trở lên thả 3–5 con/m2 lồng.

Khoảng cách giữa các lồng nuôi:

 Khoảng cách giữa các lồng nuôi cần bố trí phù hợp để đảm bảo sự lưu thông nước tốt. Đối với các vùng nuôi nhiều nên duy trì 30–60 lồng/ha mặt nước.

Thức ăn cho tôm: 

Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống bao gồm các loại động vật giáp xác (tôm, cua, ghẹ…), động vật thân mềm (sò lông, sò đá, ốc bươu vàng…), các loài cá tạp (cá sơn, cá liệt, cá mối, cá chuồn…). Trong đó, thức ăn là giáp xác đóng vai trò quyết định trong thành phần dinh dưỡng của tôm hùm nuôi vì loại thức ăn này có hàm lượng axit béo không no phức hợp và axit béo không no cao phân tử (chiếm 6,1%) cao vượt trội hơn so với thức ăn là cá và thân mềm. Tuy nhiên, nếu kết hợp ba loại thức ăn tươi là cá, giáp xác và thân mềm theo một tỉ lệ nhất định ở từng thời kỳ phát triển của tôm nuôi là một giải pháp tối ưu về giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế trong tôm hùm nuôi lồng. Công thức cho ăn: 1 phần giáp xác + 1 phần thân mềm + 2 phần cá, tôm sẽ có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp. Đây là thức ăn kết hợp có hiệu quả cao nhất và tiết kiệm được chi phí thức ăn so với việc sử dụng các loại thức ăn khác.

Tôm hùm nuôi lồng

Quản lý và chăm sóc tôm:

 Đối với tôm cỡ ≥ 200g/con, cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng cho ăn vào chiều tối chiếm 70% lượng thức ăn trong ngày. Thức ăn cho tôm có thể để nguyên con hoặc cắt nhỏ. Tùy loại thức ăn mà xác định lượng cho ăn hợp lý, khẩu phần ăn hàng ngày bằng khoảng 15-17% khối lượng tôm thả. Hàng ngày nên kiểm tra, theo dõi tình trạng sức khỏe, hoạt động của tôm và mức độ sử dụng thức ăn để có điều chỉnh hợp lý. Loại bỏ thức ăn thừa, vỏ lột xác; định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bít lỗ lưới. Đối với các lồng nuôi tôm hùm con, do có mắt lưới nhỏ nên thường bị sun, hà bám vì vậy cần vệ sinh định kỳ để tạo sự lưu thông nước tốt, hạn chế ô nhiễm. Khi tôm đạt cỡ 500-600g/con nên san thưa tôm với mật độ 4-5 con/m2 lồng. Sau 20-24 tháng nuôi có thể thu hoạch tôm hùm thương phẩm.

Trong quá trình nuôi nếu thấy chất đáy có màu nâu và sinh vật đáy chủ yếu là nhuyễn thể thì đó là dấu hiệu tốt. Nếu chất đáy có màu đen đậm, mùi khó chịu và sinh vật đáy chủ yếu là giun nhiều tơ thì đó là những dấu hiệu không tốt, không nên tiến hành vụ nuôi. 

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm

Ngày 21-7, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, Trưởng bộ môn nuôi thủy sản nước mặn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) cho biết, ông và các cộng sự đã sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Đó là kết quả của dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (Panulirus homarus)”. Dự án thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011 – 2015, do Trường Đại học Nha Trang chủ trì và Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng làm chủ nhiệm.

Tôm hùm bông sử dụng thức ăn công nghiệp.

Theo Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, thức ăn dự án sản xuất có hàm lượng protein chiếm 55-56%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn (FCR) 4,5-4,6 đối với tôm hùm bông giai đoạn giống và thương phẩm; protein 52-53%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn là 4,3-4,4 đối với tôm hùm xanh giống và thương phẩm. Qua quá trình nuôi thử nghiệm tôm hùm bằng thức ăn công nghiệp cho thấy tôm hùm sử dụng thức ăn tốt, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp, tỷ lệ sống cao; các chỉ số đều tốt hơn so với thức ăn truyền thống (cá tạp) đang được sử dụng hiện nay. Thức ăn công nghiệp đã được các hộ nuôi tôm hùm Khánh Hòa cũng như một số tỉnh Nam Trung Bộ sử dụng và đánh giá cao.

Việc sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm của dự án sẽ mở ra triển vọng sử dụng thức ăn công nghiệp cho tôm hùm thay thế nguồn thức ăn cá tạp, từ đó, góp phần phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững tại Việt Nam.

Quá trình sản xuất thức ăn viên cho tôm hùm

Dự án trên kế thừa kết quả đã đạt được từ đề tài “Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng, công thức và công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông và tôm hùm xanh” được thực hiện trước đó.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật khai thác và vận chuyển tôm hùm giống.

Tôm hùm hiện chưa thể sản xuất giống nhân tạo nên việc cung cấp con giống phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt tự nhiên. Để khai thác và vận chuyển tôm có hiệu quả, cần thực hiện đúng kỹ thuật.

Kỹ thuật khai thác và vận chuyển tôm hùm giống

Khai thác bằng lưới:

Ngư cụ khai thác là lưới trủ: Mắt lưới có kích cỡ 5mm (2a =5mm). Kích thước lưới phụ thuộc vào quy mô khai thác. Ðộ dài lưới dao động khoảng 100 – 150m, độ cao 4 – 6m.

Các hoạt động khai thác được tiến hành vào ban đêm .Sử dụng ánh sáng đèn neon có cường độ khoảng 1000 – 2000W.

Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 – 5 tiếng (vào khoảng 12 – giờ khuya) lưới được kéo lên thuyền lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống dính lưới. Ngay sau đó, lưới được giăng tiếp xuống biển, vào khoảng 4 giờ sáng lưới được kéo lên lần 2. Một đêm khai thác thường kết thúc vào khoảng 5 giờ sáng của ngày hôm sau.

Những tôm hùm giống mắc lưới được gỡ ra rất nhanh và được lưu giữ trong các thùng nhựa tròn có thể tích 4 lít, khoảng 100-150 con/thùng và máy sục khí. Kích cỡ tôm giống thu được khá đồng đều, chúng trong suốt và chiều dài giáp đầu ngực chỉ dao động từ 7 – 8mm/con và trọng lượng từ 0,25 – 0,35 g/con.

Khi thuyền cập bến, tôm hùm giống được chuyển sang các thùng xốp với nước biển sạch. Kích thước của thùng là 30 x 50 x 25 cm, dưới đáy rải một lớp cát mỏng 5 -7mm. Mật độ lưu giữ khoảng 200 – 300 con/thùng và có sục khí liên tục. 

Tôm hùm giống mới nở

Khai thác bằng bẫy:

Loại bẫy được làm bằng lưới thường có chiều dài 60cm và đừơng kính khoảng 40cm. Riêng san hô được sử dụng làm bẫy có nhiều kích cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại san hô. Ða số san hô tảng được chọn là những khối có trọng lượng khoảng 2-5kg, các lỗ trên bền mặt được khoan cách nhau khoảng 10 – 15cm, kích thước mỗi lỗ từ 2 – 2,5cm. Ðối với bẫy được làm bằng những gỗ cây cũng được khoan lỗ tương tự như đối với san hô.

Các loại bẫy được thả xuống nước ở độ sâu khoảng 4-5 m vào tháng 11 hàng năm, nghĩa là vào thời gian xuất hiện tôm hùm giống. Sau khoảng 3-5 ngày, khi bẫy đã ổn định ngư dân sẽ thu bắt tôm hùm hàng ngày vào các buổi sáng bằng cách giũ bẫy vào trong vợt lưới hoặc bắt chúng ra bằng tay từ các lỗ đã khoan. Kích cỡ con giống thu được khoảng 7,5 – 10 mm CL/con và trọng lượng xấp xỉ  0,3 – 1 g/con. Vào cuối tháng 5 bẫy cũng được thu lên bờ và cất giữ ở nơi thoáng mát để sử dụng cho mùa khai thác năm sau.

Với cách khai thác này, trong một diện tích thả bẫy khoảng 50 x 100m có thể thu gom được khoảng 50 – 200 con/ngày vào những tháng đỉnh cao như tháng 1 hoặc tháng 2 trong năm. Và tôm giống cũng được giữ trong các thùng xốp hoặc xô nhựa với nước biển có sục khí.

 Khai thác bằng lặn bắt:

Ðây là loại hình khai thác truyền thống của ngư dân miền Trung. Năm 1998 trở về trước, tôm hùm giống được khai thác chỉ bằng lặn bắt. Hình thức này đảm bảo con giống khỏe, với kích cỡ lớn từ 12 – 15 mm CL/con và trọng lượng 7 – 9 g/con. Song số lượng con giống được khai thác mỗi ngày tối đa chỉ được 100 – 150 con/thuyền/10 ngày/5 người vào mùa khai thác chính trong năm. Vào các tháng sau số lượng khai thác chỉ đạt 3 – 10% so với vụ chính.

Ngư dân khai thác và bán tôm hùm giống

Kỹ thuật vận chuyển tôm hùm giống:

Tôm hùm giống đã được vận chuyển bằng nhiều phương pháp khác nhau từ các vùng khai thác đến các vùng nuôi dọc ven biển miền Trung. Từ những số liệu điều tra cho thấy các hình thức vận chuyển đều đảm bảo tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt khoảng trên 80%

Phương pháp vận chuyển khô:

Thường được sử dụng để vận chuyển con giống lớn khoảng 30 – 100 g/con. Dụng cụ vận chuyển là các thàng xốp có kích thước 30 x 40 x 25 cm; hoặc 60 x 70 x 45 cm tùy thuộc vào số lượng giống cần vận chuyển. Mật độ tôm vận chuyển khoảng 150 – 300 con/thùng xốp. Thời gian vận chuyển khoảng 3 – 7 giờ với nhiệt độ được duy trì 21 – 22 0C bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi ni-lon kín. Tôm được giữ độ ẩm của nước biển bằng rong hoặc bằng khăn vải dày và chuyên chở bằng xe máy hoặc xe ôtô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển đạt 90 – 95%.

Phương pháp vận chuyển nước

Ðược sử dụng để vận chuyển con giống nhỏ, từ post-puerulus (tôm trắng) đến juveniles (tôm bò cạp). Trọng lượng của cỡ giống này chỉ xấp xỉ 0,25 – 1 g/con, và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của môi trường sống.

Dụng cụ vận chuyển cũng là các thùng xốp có kích cỡ 30 x 50 x 25 cm hoặc 45 x 60 x 35 cm. Dưới đáy thùng được phủ một lớp rong câu tươi hoặc một lớp cát dày 0,5 – 1cm. Ðổ nước biển sạch vào thùng xốp cao ngập cát hoặc rong khoảng 5 -7cm và sục khí trong suốt thời gian vận chuyển. Nhiệt độ nước được duy trì 21 – 220C với thời gian vận chuyển từ 5 – 15 giờ; và khoảng 23 – 25 0C với thời gian vận chuyển 3 – 5 giờ bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi ni – lon kín.

Tôm giống được đưa vào thùng xốp với mật độ 300 – 400 con/thùng nhỏ hoặc 700-1000 con/thùng lớn. Song hầu hết các phương tiện vận chuyển bằng xe máy thường sử dụng các thùng nhỏ vì tính gọn, nhẹ và dễ dàng xử lý trên đường vận chuyển. Thùng lớn được sử dụng khi chuyển giống với số lượng lớn bằng xe ô tô. Tỷ lệ sống trong vận chuyển thường đạt 95 – 97%.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam