Thời của nuôi trồng hiện đại

Thời gian qua, việc áp dụng những hình thức mới vào nuôi trồng thủy sản đã cho kết quả tích cực về năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Hãy cùng Thủy sản Việt Nam “điểm danh” lại những mô hình này.

Tôm giống chất lượng cao

Nuôi tôm hai giai đoạn

Với quy trình này, trong giai đoạn đầu, tôm được nuôi trong nhà lưới 20 – 30 ngày nhằm tránh tác động của thời tiết và các yếu tố khác từ bên ngoài. Thời điểm này, người nuôi cần kiểm soát chặt chẽ tôm giống, thức ăn, chế phẩm sinh học để ngăn ngừa hội chứng chết sớm (thường xảy ra trong 20 ngày đầu của quá trình nuôi). Tôm giống được thả với mật độ 1.000 – 3.000 con/m2. Khi tôm có trọng lượng 1,5 – 2 g/con sẽ được chuyển sang nuôi giai đoạn 2 ở ao liền kề, mật độ 200 – 300 con/m2, cho đến khi đạt cỡ 40 – 60 con/kg. Tổng thời gian nuôi là 80 – 100 ngày. Quá trình nuôi không sử dụng hóa chất, chỉ sử dụng chế phẩm sinh học; không phải thay nước hoặc thay rất ít; sử dụng các thiết bị hiện đại như: máy cho ăn tự động, máy sục ôxy đáy, quạt nhím. Quy trình này tái sử dụng chất thải của tôm thành hạt biofloc làm thức ăn cho tôm. Hệ số chuyển đổi thức ăn thấp, thời gian nuôi ngắn nên giảm 10 – 20% chi phí so các mô hình nuôi tôm khác.

Nuôi tôm bằng công nghệ vi sinh

Giai đoạn một, thực hiện cải tạo ao như thông thường. Cấp nước và diệt khuẩn với các sản phẩm không độc cho tôm như Iodine, chỉ diệt khuẩn bằng Chlorine khi cần thiết với những ao nuôi mà vụ trước bị bệnh hoặc ao nuôi nằm trong vùng có dịch bệnh. Đối với những ao nuôi khó gây màu nước có thể sử dụng chế phẩm vi sinh và gia tăng hàm lượng vi sinh có lợi trong ao nuôi. Kiểm tra thành phần vi sinh trong ao khi đạt yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Giai đoạn hai, dùng chế phẩm vi sinh xử lý môi trường định kỳ trong suốt vụ nuôi nhằm ổn định một số vi khuẩn có lợi trong ao. Trộn chế phẩm vi sinh vào thức ăn giúp phòng trị các bệnh về đường ruột của tôm.

Giai đoạn ba, sau khi thu hoạch sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường.

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại chế phẩm vi sinh với nhiều thương hiệu khác nhau; tuy nhiên, chế phẩm vi sinh được dùng phổ biến nhất và có hiệu quả cao là chế phẩm EM. Cạnh đó, người nuôi có thể tự sản xuất bằng sử dụng 1 gói vi sinh EM gốc kết hợp 5 kg mật đường cùng với 500 ml nước, tiến hành ủ ít nhất 4 – 10 giờ, sau đó có thể sử dụng tạt xuống ao.

Nuôi tôm theo CPF-Combine Program

Nhằm giúp người nuôi tôm vượt qua khó khăn, Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã triển khai mô hình CPF-Combine Program bao gồm: CPF-Green House, CPF-Turbo Program và chương trình 3C. CPF-Green House là mô hình nuôi tôm trong nhà ương (25 – 30 ngày), sau đó tôm được đưa ra các ao nuôi thương phẩm nhằm mục đích hạn chế được các dịch bệnh, tăng sức đề kháng cho tôm, giảm chi phí, tăng vụ nuôi. Ao CPF-Green House diện tích từ 500 m2 trở lại. Đây là hệ thống ao nuôi an toàn sinh học có đầy đủ lưới lan, ao có lót bạt, có hố xi phông… và quản lý môi trường ao nuôi bằng chế phẩm sinh học. Ao CPF-Turbo Program diện tích không quá 2.000 m2, thuận lợi cho việc quản lý, đồng thời phải có thêm hệ thống ao lắng, ao xử lý, ao sẵn sàng. Còn chương trình ba sạch là: Tôm giống sạch bệnh, nước sạch và đáy ao sạch. Khi thực hiện mô hình CPF-Turbo Program, người nuôi phải làm hệ thống an toàn sinh học; các trang trại phải dành 30% diện tích làm ao xử lý nước, có hệ thống lưới ngăn chim và các động vật khác xâm nhập. Hiện, mô hình này được C.P triển khai rất hiệu quả ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Như theo chị Trần Thị Bàng, hộ nuôi tôm thẻ chân trắng (xã Tam Thôn Hiệp, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh), áp dụng mô hình này chi phí đầu tư khoảng 2 tỷ đồng/ha, tỷ lệ thành công lên đến 90%, năng suất tôm trên 30 tấn/ha, mỗi năm sản xuất 4 vụ.

Nuôi cá “sông trong ao” (IPA)

Do ông Jess Chappell (Mỹ) sáng tạo là một công nghệ nuôi trồng thủy sản mới cho hiệu quả cao, giảm tiêu hao năng lượng và bảo vệ tốt cho môi trường nuôi, tránh dịch bệnh. Hiện nay, một số tỉnh như Nghệ An, Hưng Yên, Hải Dương… đã áp dụng và cho kết quả tốt, có thể nhân rộng. Hệ thống IPA tạo môi trường sông trong ao, chủ động nguồn nước, nước trong ao không cần thay mà có thể tuần hoàn, tránh lây lan mầm bệnh sang các trang trại khác và ra môi trường xung quanh. Công nghệ IPA đã giải quyết được các khó khăn của người nuôi là giảm tỷ lệ cá chết do ô nhiễm nguồn nước, nâng cao chất lượng thịt; đặc biệt cá được nuôi thả liên tục, thường xuyên chứ không cần phải chờ xử lý ao. Trong mô hình này, cá tập trung ở một phạm vi nhỏ (hệ thống IPA chỉ chiếm 1,5 – 2% diện tích ao) nên giảm đáng kể công lao động (cho ăn và thu hoạch) so với các hệ thống nuôi trong ao khác. Công nghệ IPA có điểm tối ưu là hệ thống máy nén đưa không khí nén qua máng độn dưới đáy ao, sau đó đẩy từ dưới lên mặt nước, giúp tạo ra dòng chảy và đẩy các khí độc khỏi đáy ao.

Công nghệ Na Uy nuôi cá lồng

So với lồng nuôi bằng gỗ truyền thống, hệ thống lồng bè bằng ống nhựa HDPE (công nghệ Na Uy) có nhiều tính năng vượt trội, được xem là mô hình phù hợp với biến đổi khí hậu. Thể tích mỗi lồng nuôi 1.200 – 2.400 m3, kết nối với nhau và với neo giàn, mỗi neo nặng 3 – 4 tấn, chịu được bão gió cấp 12. Hệ thống cho phép nuôi ở những vùng biển xa bờ nơi mà môi trường nước trong sạch, giúp hạn chế nguy cơ ô nhiễm và dịch bệnh; kiểm soát được chất lượng ATTP; tránh xung đột với các lợi ích khác như giao thông vận tải, du lịch ở những vùng vịnh kín sóng gió (Nguyễn Quang Huy, 2016). Ngoài ra, loại lồng này còn chịu được thời tiết khắc nghiệt trên biển, khung lồng bằng ống nhựa có tuổi thọ trên 35 năm, độ an toàn nuôi trên 20 năm.

Việc ứng dụng công nghệ Na Uy cho kết quả khả quan qua mô hình của Viện Nghiên cứu NTTS I thực hiện tại vịnh Vân Phong, Khánh Hòa. Mô hình có thể sản xuất được 100 – 200 tấn cá/năm (cá chim, cá giò, cá vược…) với năng suất nuôi 8 – 12 kg/m3. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí đầu tư cao hơn so mô hình nuôi nhỏ lẻ.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào Úc

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường Australia là nội dung quan trọng trong buổi làm việc giữa Đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Tài Nguyên Australia với UBND tỉnh Bạc Liêu.

Tôm nguyên con của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào Úc

Đại diện đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Tài Nguyên Australia đánh giá rất cao về những bước tiến mới của ngành thủy sản Việt Nam nói chung và ngành tôm nói riêng. Đặc biệt, tại Bạc Liêu – thủ phủ tôm cả nước, có rất nhiều trang trại tôm công nghệ cao với các quy trình, thiết bị hiện đại bậc nhất thế giới để nuôi tôm sạch, đảm bảo các vấn đề về môi trường, an sinh xã hội.

Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam có thể xuất khẩu tôm nguyên con vào thị trường Australia. Vì yếu tố an toàn dịch bệnh, đến nay, thị trường này chưa cho phép nhập khẩu tôm nguyên con từ các nước. Dự kiến, sau chuyến khảo sát này, cơ quan nông nghiệp hai nước sẽ có buổi làm việc nhằm thúc đẩy hoạt động xuất – nhập khẩu mặt hàng tôm trong thời gian tới.

Nguồn: VTV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thiếu hụt trầm trọng giống cá Tra

Cuốn theo cá tra xuất khẩu đang hút hàng ở ĐBSCL, từ sau tết đến nay cá giống tăng giá mạnh. Người nuôi gọi tìm mua cá giống khắp nơi.

Tìm mua cá giống

Ông Chương Văn Khanh (Út Anh), theo đuổi nghề nuôi cá tra 18 năm qua, với 5ha ao nuôi ở cù lao Tân Lộc, phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, cho hay: Do mấy tháng cuối năm vừa qua thị trường xuất khẩu tốt nên các doanh nghiệp tiêu thụ cá được giá cho người nuôi. Phần tôi nuôi cá cung ứng theo hợp đồng liên kết với Cty Sao Mai-IDI nuôi gia công lấy công làm lời. Nhưng đối với một số ít người nuôi cá tra riêng lẻ, nếu hộ nào có cá xuất ao lúc này có bao nhiêu doanh nghiệp mua hết bấy nhiêu. Cá tra đang có giá cao kỷ lục 29.000 đ/kg, người nuôi có lãi từ mức 6.000 đ/kg trở lên.

Được mệnh danh “cù lao cá”, dân nuôi cá tra ở Tân Lộc từng chịu nhiều cảnh thăng trầm, nhất là mấy năm qua cá tra dội chợ, xuống dốc. Cú sốc lỗ lã khiến nhiều người nợ nần bỏ ao chuyển sang nghề khác. Số còn trụ lại chiếm phần nhiều là các hộ tính đường “cầm chắc” theo hợp đồng gia công với doanh nghiệp. Bây giờ thị trường cá tra sống dậy, người nuôi thấy ham nhưng ít có mấy người dám phiêu lưu, vì ngại vốn đầu tư lớn, rủi ro cao. Hơn nữa lúc này tìm mua được cá giống đạt chất lượng thật chẳng dễ.

Một chủ hộ nuôi cá tra ở phường Thới An, quận Ô Môn cho biết, trước tết một số hộ nuôi cá dọc theo bờ sông Hậu thu hoạch xong, vệ sinh ao chờ qua mùng ba tết gọi điện các trại giống thân quen, tìm tới cơ sở ương nuôi cá tra đặt mua. Nơi nào cũng nhẹ nhàng từ chối vì không đủ số lượng cung cấp. Thậm chí một số ao nuôi trong vùng “tự chủ” nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu còn cho người chạy ra ngoài tìm cá giống mua thêm. Vậy mà họ không tìm mua đủ cá giống nên vẫn còn ao để không. Trước tết giá cá giống 50.000 đ/kg (cỡ cá 30 con/kg) đến nay tăng vọt lên 70.000 đ/kg.

Chuyển biến chậm

Từ nhiều năm trước, hầu hết các hộ nuôi cá tra trong vùng mua cá giống chủ yếu từ các cơ sở ương nuôi cá ở 2 tỉnh đầu nguồn Đồng Tháp và An Giang. Trải qua những năm tháng khi đắt hàng lúc dội chợ, vì khó đoán để bắt nhịp nguồn cung nên thường xảy ra tình trạng cá giống mất cân đối cung – cầu. Có lúc cá tra giống dư thừa, từ cá bột ương nuôi tới lớn 2 – 3 phân mà không có người mua. Mặt khác về yếu tố chất lượng con giống phụ thuộc rất lớn vào đàn cá bố mẹ. Vì vậy đã có một số người giỏi nghề có xu hướng tản mát về một số tỉnh vùng hạ lưu như Vĩnh Long, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang tìm thuê ao nuôi mới để lấy nguồn nước ít ô nhiễm, nâng cao tỉ lệ ương nuôi con giống có chất lượng.

Ông Út Anh nuôi cá tra ở cù lao Tân Lộc, Thốt Nốt (Cần Thơ)

Ông Trần Ngọc Hải, người nuôi cá tra có nghề ở phường Thới An, quận Ô Môn hiện nay cùng nhóm bạn thân hữu thuê đất 20ha ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ lập trại sản xuất giống cá tra, chạch bùn, trê vàng… Qua mấy mùa sản xuất ổn định với mức bình quân xuất 100 tấn cá tra giống/năm (5 – 10 tấn/tháng).

Ông Hải nhìn nhận: Cá tra giống vào thời điểm nào cũng có xuất bán, còn hiện nay giá tăng cao và không đủ bán là do nguồn cung ít. Nhu cầu tái thả cá sau khi thu hoạch ở một số địa phương đang tăng lên. Ngoài ra thêm một nguyên nhân khác nữa, tỉ lệ ương nuôi cá bột lên cá giống hiện đạt rất thấp, khoảng 5 – 7% và có đạt lắm cũng chỉ từ 10% trở xuống. Thông thường vào mùa khô tỉ lệ cá ương nuôi đạt cao hơn vào những tháng mùa mưa.

Ai cũng hiểu rằng nuôi cá tra điều kiện đầu tiên phải có giống tốt. Trong khi người nuôi cá thương phẩm vẫn còn than vãn tình trạng chất lượng cá tra giống kém dẫn tới hao hụt tỷ lệ cao tới 30 – 50% càng đặt ra vấn đề sớm hình thành những trung tâm sản xuất, tạo nguồn cung cá giống chất lượng cao. Các nhà chuyên môn lĩnh vực thủy sản nước ngọt phân tích, muốn đảm bảo chất lượng con giống tốt cần có nhiều yếu tố. Trước tiên là thị trường tiêu thụ cá tra giống tương đối ổn định theo quy hoạch, kế hoạch sản xuất từ vùng nuôi. Từ đó có thể dự đoán, cân đối nguồn cung. Bên cạnh đó cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan chuyên ngành nghiên cứu thủy sản để cung cấp nguồn con giống bố mẹ khỏe và thiết kế vùng ao nuôi, ương cá có nguồn nước ao tốt, sạch…

Trong thời gian qua ở một số địa phương trong vùng đã tính toán, quy hoạch vùng sản xuất cá tra bắt nhịp đồng điệu từ trung tâm giống – mạng lưới cơ sở nhân giống – nuôi cá thương phẩm. Thế nhưng chuyển biến còn rất chậm.

Ông Trần Thái Nghiêm, Phó giám đốc Trung tâm giống cây trồng vật nuôi, thủy sản TP Cần Thơ: Hiện nay Trung tâm có vùng SX giống 20ha, vừa nhập giống cá tra bố mẹ từ Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II về cho sinh sản, ương nuôi. Dự kiến từ tháng 5 đến tháng 6/2018 sẽ cung ứng giống ra thị trường. Năng lực sản xuất ước khoảng 8 triệu con giống/năm.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), dự kiến năm 2018 xuất khẩu cá tra đạt kim ngạch khoảng 1,85 tỷ USD. Năm 2017 xuất khẩu cá tra đạt 1,78 tỷ USD, tăng 4,3% so năm 2016.

Nguồn: Nông Nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đầu tư 226 tỷ đồng cho vùng nuôi tôm công nghệ cao Đồng Nai

UBND tỉnh Đồng Nai vừa có quyết định phê duyệt dự án Quy hoạch chi tiết khu nuôi thuỷ sản tập trung tại huyện Nhơn Trạch với tổng diện tích hơn 700 ha giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030.

Tổng chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu nuôi thuỷ sản tập trung là hơn 226 tỷ đồng; trong đó, nguồn vốn ngân sách Nhà nước là gần 1,1 tỷ đồng, còn lại sẽ sử dụng vốn của các thành phần kinh tế khác.

Theo đó, khu nuôi thuỷ sản tập trung được xây dựng tại huyện Nhơn Trạch với tổng diện tích hơn 700 ha; trong đó, khu nuôi tôm nước lợ tập trung 682 ha và khu nuôi hàu tập trung sẽ là 21 ha.

Theo UBND tỉnh Đồng Nai, dự án này được xây dựng nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản của huyện Nhơn Trạch phát triển theo hướng an toàn, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, góp phần tích cực trong việc nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.

Riêng đối với khu nuôi tôm nước lợ, mục tiêu của vùng quy hoạch là phấn đấu đưa sản lượng tôm đạt hơn 16.000 tấn vào năm 2030 sẽ đạt sản lượng hơn 30.000 tấn.

Đặc biệt, với việc quy hoạch mỗi tiểu vùng nuôi tôm có diện tích tối thiểu từ 50 ha trở lên, khu nuôi tôm tập trung cũng sẽ tạo điều kiện để hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn.

Từ đó, áp dụng các ứng dụng khoa học kỹ thuật như tổ chức nuôi tôm siêu thâm canh, nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất…

Đối với dự án này, UBND tỉnh Đồng Nai cho biết sẽ đầu tư theo hình thức Nhà nước sẽ lập quy hoạch chi tiết khu nuôi thuỷ sản.

Đồng thời, giao UBND huyện Nhơn Trạch là đơn vị đầu mối để khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư bằng hình thức thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tâng kinh doanh khai thác.

Những đối tượng được tham gia đầu tư bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đều được phép đầu tư vào khu nuôi theo đúng quy hoạch được duyệt và được hưởng các chế độ theo quy định hiện hành.

Theo UBND tỉnh Đồng Nai, dự án sẽ ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, các tiêu chuẩn mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất, sản lượng, tạo sản phẩm hàng hoá có chất lượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm từ ao nuôi đến bàn ăn; tổ chức lại sản xuất và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, chú trọng công tác bảo vệ môi trường, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Từ bỏ đánh bắt tận diệt, chuyển sang nuôi Ghẹ lột cho thu nhập cao

Từ nhiều năm nay, anh Trần Sáu (xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế) không còn lặn lội mưa gió đi đánh bắt cá tôm trên Phá Tam Giang nữa mà đã chuyển sang nuôi ghẹ lột, mô hình này không chỉ mang lại cho gia đình anh nguồn thu nhập ổn định mà còn góp phần làm đa dạng đối tượng nuôi trồng để phát triển sản xuất bền vững.

Ghẹ lột

Trò chuyện với chúng tôi, anh Sáu cho biết “Trước khi chuyển sang nuôi ghẹ lột, thu nhập của gia đình tôi chủ yếu dựa vào việc đánh bắt tôm cá, kiểu khai thác của tôi bị chính quyền cấm vì gây ảnh hưởng đến các loại thủy sản. Sau khi UBND huyện Phú Vang có chủ trương sắp xếp lại nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai trong đó có địa bàn xã Phú Diên tôi quyết định chuyển đổi nghề đánh bắt sang nuôi ghẹ lột thưởng phẩm”.

Trải qua thời gian dài học hỏi, nghiên cứu cách nuôi ghẹ lột, anh Sáu bắt tay thực hiện. Từ chổ nuôi thử nghiệm vài lồng, đên nay mô hình của anh đã mở rộng lên thành 20 lồng. Vào mùa thu hoạch, số lồng nuôi này có thể xuất hơn 50 kg ghẹ lột thương phẩm/ngày, với giá dao động từ 180.000 đồng/kg. Bình quân thu hoach cho lãi gần 80 triệu đồng mùa.

Anh Sáu cho biết thêm, tháng 2/2017, phòng Nông nghiệp huyện Phú Vang đã hỗ trợ 50 triệu để nhân rộng mô hình. Tuy nhiên, lo ngại nhất hiện nay là việc nguồn nước bị ngọt hóa đột ngột. Ghẹ sẽ chết sạch trong vòng 24 giờ vì không chịu được nước ngọt. Ngoài lo sợ đó ra thì điều kiện tự nhiên vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai rất thích hợp để nuôi ghẹ lột, không có đường lỗ nếu như nguồn nước đảm bảo.

“Những năm gần đây thị trường tiêu thụ ghẹ lột ngày càng mở rộng, con ghẹ lột có thịt chắc và ngọt nên người tiêu dùng rất thích. Mỗi lần xuất bán đều có 2-3 công ty về tận đầm thu mua, đầu ra khá ổn định. Từ khi nuôi con này kinh tế gia đình cải thiện rõ rệt, tôi không còn đi bắt tôm cá kiểu như trước nữa.”, Anh Sáu phấn khởi.

Theo đánh giá của Ông Hoàng Trọng Đoài – Phó Chủ tịch UBND xã Phú Diên “sự thành công của mô hình không chỉ mang lại kinh tế trực tiếp cho người nuôi, hạn chế ô nhiễm môi trường, ổn định đời sống của người dân mà còn hướng tới việc phát triển đa dạng đối tượng nuôi nhằm ổn định, phát triển sản xuất bền vững. Xã cũng tạo điều kiện cho hộ nuôi tổ chức các khâu sản xuất phù hợp, khắc phục những nhược điểm tồn tại, tăng hiệu quả sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm”.

Nguồn: moitruong.net.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Liên kết nuôi cá Vược VietGAP, cung ứng ra thị trường khoảng 2.000 tấn/năm

HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng có 65 hội viên SX tổng diện tích mặt nước 210ha. Bình quân mỗi năm HTX cung ứng ra thị trường khoảng 2.000 tấn cá vược…

Xuất phát từ các hộ nhỏ lẻ, những người làm nghề nuôi trồng thủy sản, tiên phong là anh Nguyễn Đức Văn tại xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng liên kết với nhau thành lập HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng nhằm xây dựng thương hiệu cá vược, nhờ đó mang lại hiệu quả cao.

Công nhân HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng cho cá vược ăn

HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng có 65 hội viên SX tổng diện tích mặt nước 210ha. Bình quân mỗi năm HTX cung ứng ra thị trường khoảng 2.000 tấn cá vược nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP.

Giám đốc HTX Nuôi trồng thủy sản Mắt Rồng Nguyễn Đức Văn cho biết, trước việc sản phẩm cá vược tồn đọng nhiều, khó khăn trong tiêu thụ, nhiều hộ băn khoăn có nên tiếp tục phát triển SX hay không? Được sự động viên hỗ trợ của các cơ quan, ban ngành trên địa bàn Hải Phòng, những hộ nuôi cá vược tại Lập Lễ quyết tâm ngồi lại với nhau để tìm tiếng nói chung.

Anh Nguyễn Đức Văn tâm sự, cái khó nhất khi thành lập HTX là tạo được lòng tin, sự đoàn kết giữa các xã viên với nhau. Do đó, bản thân anh Văn và một số hộ khác tiên phong xây dựng một phương án đầu vào, đầu ra chi tiết, bài bản, trên tinh thần tự nguyên, dân chủ và các bên đều có lợi, sau đó trình bày trước tất cả mọi người. Nhờ đó, từ khi thành lập đến nay không có bất cứ xã viên nào xin tham gia mà mỗi năm HTX lại kết nạp thêm thành viên mới.

Nhờ được ngành nông nghiệp địa phương tạo điều kiện tập huấn, chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật, nên kỹ năng trình độ nuôi trồng thủy sản sạch của người dân được nâng lên theo từng năm. Hiện các thành viên HTX đều thực hiện quy trình chăn nuôi an toàn theo VietGAP, với nguồn thức ăn hoàn toàn bằng cá tươi khai thác từ biển. Việc thu gom cá mồi của HTX có nhiều thuận lợi, kể cả trong những ngày biển động. Cá mồi được bảo quản đúng tiêu chuẩn kỹ thuật là điều kiện để con cá vược phát triển hiệu quả.

“Nguồn thức ăn nuôi cá, nguồn nước sản xuất của HTX thường xuyên được Chi cục Thú y, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản (Sở NN-PTNT Hải Phòng) kiểm tra, lấy mẫu thường xuyên và có hướng dẫn xử lý kịp thời để bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật, phù hợp với tiêu chuẩn VietGAP”, anh Văn cho biết.

Được biết, mục tiêu ban đầu khi thành lập HTX, các xã viên chỉ mong đạt sản lượng trên 10 tấn/ha, nhưng nay bình quân đã đạt 20 tấn/ha. Do đó, kế hoạch của HTX trong thời gian tới đưa sản lượng cá ở Lập Lễ lên 30 tấn/ha. HTX sẽ tích cực mở rộng ngành nghề kinh doanh, liên doanh, liên kết với các đơn vị tiêu thụ sản phẩm, xây dựng một chuỗi các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, kỹ thuật chế biến cá vược ở một số điểm du lịch của Hải Phòng, nhà hàng Hà Nội, các trung tâm thương mại nhằm quảng bá thương hiệu…

Không chỉ nuôi trồng cá vược an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, HTX còn được biết tới là nơi có “bí kíp” tránh rét cho cá rất độc đáo. Anh Nguyễn Đức Văn chi sẻ, ngoài việc cứng hóa hệ thống dẫn nước, kè gạch bờ bao xung quanh, hướng nạo vét đáy là yếu tố giúp cá vượt qua thời tiết khắc nghiệt của mùa đông.

Khi nạo vét đáy, phần mạn đáy được thiết kế đào sâu hơn về hướng đông bắc. Ở trên bờ, nhà và lều bạt cũng phải xây dựng quay về phía đông bắc nhằm chắn gió. Khi gió mùa tràn về, phía bờ đông bắc sâu hơn, được chắn gió nên nước sẽ ấm. Lúc này đàn cá vược sẽ tự động đổ dồn về hướng này để tránh rét. Ngoài ra, nếu nhiệt độ ngoài trời dưới 15 độ C, người nuôi cá phải cho dừng hoạt động của toàn bộ hệ thống quạt nước để cá không bị ngạt và chết.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cá Vược thương phẩm trong ao nước ngọt

Lates calcarifer (Block 1790) thường được gọi là cá vược hay cá chẽm, là một loài cá có giá trị kinh tế quan trọng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc châu Á và Thái Bình Dương.

Cá được nuôi thương phẩm nhiều ở Úc, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Philipin và Hàn Quốc trong các ao nước lợ và ngọt. Do có giá trị thương phẩm khá cao nên cá vược trở thành đối tượng nuôi hấp dẫn cho các cơ sở nuôi thủy sản cả quy mô nhỏ và quy mô lớn.

Năm 2007, phòng NN-PTNT huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình triển khai thực hiện mô hình nuôi cá vược thương phẩm ở 2 ao: Hộ ông Trần Văn Nghĩa diện tích 2.200 m2 và bà Phạm Thị Liên diện tích 2.800 m2, thuộc xã Đông Giang.

1. Chuẩn bị ao nuôi

Cuối tháng 4 các hộ nuôi tiến hành tháo cạn ao, bắt hết cá trong ao. Dọn sạch cỏ bờ ao, lấp hết hang hốc, chỗ rò rỉ, tu sửa lại bờ ao. Vét bùn lỏng dưới đáy ao chỉ để lại lớp bùn đáy khoảng 15-20 cm.

Dùng 500 kg vôi bột rải khắp đáy ao và bờ ao để ổn định pH, tăng hệ đệm của môi trường. Phơi nắng đáy ao trong 3 ngày, lọc mức vào ao đạt 1,2m tiến hành thả ương bột cá mè để làm thức ăn ban đầu cho cá vược giống. Kiểm tra các yếu tố môi trường đảm bảo trước khi thả giống vược.

2. Thả giống

Thời gian thả giống 25/5/2007, cỡ giống cá thả: 6-8 cm, số cá thả trong 2 ao là: 6.000 con, mật độ 1,2 con/m2. Cá giống được lấy từ Cty Giống thủy sản Cầu Nguyệt, Kiến An – Hải Phòng. Cá khỏe mạnh, không mất nhớt, bơi lội nhanh nhẹn, không bị bệnh.

3. Chăm sóc quản lý

a. Thức ăn:

Tháng đầu thức ăn của cá vược là cá mè hương, giống có sẵn trong ao. Tháng tiếp theo luyện cho cá vược ăn cá tạp, cá rô phi băm nhỏ. Trong hai tháng đầu mỗi ngày cho cá ăn 10% trọng lượng thân cá, các tháng tiếp theo cho ăn từ 3-5% trọng lượng thân cá. Cho ăn ngày 2 lần, vào 8 giờ và 16 giờ. Cá vược không ăn thức ăn chìm, vì vậy khi ném thức ăn xuống ao phải từ từ, quan sát thấy hiện tượng cá phân tán lúc đó cá đã no thì ngừng cho ăn.

b. Quản lý môi trường ao nuôi

Mực nước ao luôn duy trì >1,2m. Hai tháng đầu thay nước 1 lần/tháng, khoảng 50% lượng nước trong ao. Ngoài ra, tùy chất lượng nước, có thể tiến hành thay nước nhiều lần/tháng.

Định kỳ 15 ngày khử trùng nước ao 1 lần bằng vôi bột với lượng 1,5-3,0 kg/100 m3 nước ao, hòa loãng té đều khắp ao để đảm bảo tốt môi trường nước nuôi.

c. Theo dõi bệnh cá và biện pháp phòng trị bệnh

Sau 20 ngày thả giống kiểm tra cá phát hiện thấy ở cả hai ao nuôi cá vược đều bị bệnh trùng mỏ neo, tiến hành xử lý dùng vôi bột 2 kg/100 m3 hòa nước tét đều mặt ao, lá xoan bó thành từng bó ngâm xuống ao với lượng 0,3 kg/m3 nước, 4 ngày sau thay nước và kiểm tra lại thấy trùng mỏ neo bám trên cá còn ít, cho tiếp lá xoan xuống ao ngâm lần hai, sau vài hôm kiểm tra lại không còn thấy trùng mỏ neo trên thân cá nữa.

4. Kết quả mô hình

Qua kiểm tra cho thấy: Hộ ông Nghĩa cá có trọng lượng lớn hơn so với hộ bà Liên, sự phân đàn không lớn, trọng lượng đạt từ 600-1.000g: cỡ cá 1.000g chiếm tỷ lệ khoảng 10%, từ 700- <1.000g chiếm 70-80%, còn lại là dưới 700g, hệ số thức ăn 6,5 kg, sản lượng đạt 1.478 kg. Hộ bà Liên trọng lượng cá đạt từ 550- <800g, loại 700- <800g chiếm 70%, trên 800g chiếm 10%, còn lại là cá có trọng lượng từ 550- <700g, hệ số thức ăn 7,0 kg, sản lượng đạt 1.646 kg.

Hiệu quả mô hình: Lãi ròng = tổng thu – tổng chi phí.

Hộ ông Nghĩa: 81.290.000 – 72.637.000 = 8.653.000 đ/2.200 m2.

Hộ bà Liên: 90.530.000 – 84.429.000 = 6.101.000 đ/2.800 m2.

5. Một số kinh nghiệm rút ra từ mô hình

Cá vược là đối tượng rộng muối, sinh trưởng và phát triển được ở ao hồ nội đồng. Quy mô diện tích ao nuôi từ vài trăm m2 đến vài nghìn m2, độ sâu 1,0-1,2m, thuận tiện cấp, tiêu nước và chăm sóc quản lý.

Chọn giống nuôi đảm bảo chất lượng tốt, có nguồn gốc rõ ràng. Cá được thuần dưỡng hạ độ mặn xuống 5‰ trước khi vận chuyển từ cơ sở dịch vụ con giống về ao nuôi.

Mật độ nuôi trong các ao nội đồng từ 1,0-1,5 con/m2.

Thức ăn cho cá vược chủ yếu là các loại cá tạp, có thể ương bột, hương cá mè làm thức ăn cho cá vược ở giai đoạn cá còn nhỏ để cá bắt mồi chủ động, sau đó cho cá tập ăn quen dần với thức ăn tôm, cá tạp đã chết. Do thức ăn sử dụng chủ yếu là cá tạp nên môi trường ao nuôi dễ bị ô nhiễm, vì vậy trong quá trình nuôi cần được thay nước kết hợp với việc bón vôi định kỳ 15 ngày/lần, liều lượngt ừ 1,5-3,0 kg/100 m3.

Cá vược dễ nhiễm bệnh trùng mỏ neo do đó sau khi thả cá giống xuống ao khoảng 15-20 ngày tiến hành kiểm tra. Nếu có trùng thì dùng lá xoan ngâm xuống ao với liều lượng từ 0,3-0,4 kg/m3.

Chi phí đầu tư cho cá vược lớn hơn so với các đối tượng nuôi truyền thống khác vì vậy những hộ nông dân khi phát triển nuôi cần có vốn và đảm bảo ao nuôi đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi Ghẹ xanh trên biển

Xã Nhơn Hải (TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) đang thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng hải sản: tôm hùm thương phẩm, tôm hùm giống, ốc hương…

Năm 2014, phát triển một mô hình nuôi trồng hải sản mới: nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển.

Giá trị lớn

Ghẹ xanh (Portunus pelagicus), còn gọi là ghẹ hoa, có vỏ màu xanh và các chấm trắng trên lưng. Ghẹ xanh được khai thác quanh năm, có sản lượng khá nhiều ở Bình Định nói riêng và khắp vùng biển từ Bắc vào Nam nói chung. Với sản lượng khai thác tự nhiên như hiện nay, một số hộ ngư dân đã nuôi ghẹ xanh thương phẩm trong ao, hồ, đầm, vịnh, đìa; thả đăng, thả lồng nuôi trên biển… để xuất bán; ngoài ra còn nuôi ghẹ lột vỏ.

Ghẹ xanh có giá trị dinh dưỡng cao

Mùa vụ thả nuôi ghẹ xanh từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch hằng năm. Thức ăn của ghẹ xanh là cá, mực nhuyễn thể… Nguồn ghẹ cỡ nhỏ dồi dào có trong tự nhiên lâu nay được ngư dân đánh bắt và bán cho thương lái, bán ở các chợ, với giá 40.000 – 50.000 đồng/kg. Một kg ghẹ ban đầu có thể tăng trọng lượng 1,3 – 1,5 kg, sau khi đưa vào nuôi thành ghẹ lột. Ghẹ lột là đặc sản ngon, bổ dưỡng và hiếm, có giá trị kinh tế nên giá đầu ra cao gấp 3 – 4 lần so với sản phẩm thô ban đầu.

Hướng đi hiệu quả mới

Trong khuôn khổ dự án nuôi trồng thủy sản thực hiện theo đề án xây dựng nông thôn mới xã Nhơn Hải, giai đoạn 2011 – 2020, Tổ hợp tác nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển do Hội Cựu chiến binh (CCB) xã Nhơn Hải chủ trì đã thả nuôi hơn 2.500 con ghẹ xanh giống, trên diện tích hơn 300 m2 (nuôi bằng hình thức thả đăng) tại đảo Hòn Khô. Trong đó, nguồn vốn nhà nước hỗ trợ 75 triệu đồng, Tổ hợp tác Hội CCB xã gồm 7 thành viên tham gia nuôi ghẹ xanh bỏ vốn 10 triệu đồng/người, thời gian thực hiện mô hình là 3 năm. Nguồn ghẹ giống ngư dân đánh bắt trong tự nhiên được mua tại TP Quy Nhơn về thả nuôi. Giá ghẹ giống 28.000 – 35.000 đồng/kg (khoảng 40 – 50 con/kg). Nuôi thương phẩm 3 tháng thì xuất bán. Giá ghẹ xanh thương phẩm trên thị thường hiện nay 180.000 – 250.000 đồng/kg.

Nuôi ghẹ xanh trên biển là hướng đi mới cho ngư dân

Đây là mô hình nuôi ghẹ xanh thương phẩm đầu tiên ở địa phương, bên cạnh nhiều mô hình nuôi hải sản (tôm hùm thương phẩm, tôm hùm giống, ốc hương thương phẩm, cá bóp…). Cùng đó, ngành nghề đánh bắt, khai thác thủy hải sản là những ngành kinh tế mũi nhọn ở địa phương, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, công tác an sinh – xã hội được bảo đảm, an ninh chính trị được giữ vững, hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn. Mô hình nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển hướng đến sự phát triển mới với nhiều mô hình trong nuôi trồng hải sản ở Bình Định. Thị trường tiêu thụ ghẹ xanh đang khá mạnh, mở ra một hướng sản xuất mới cho người nuôi trồng.

Ông Nguyễn Văn Chín, Chủ tịch Hội CCB xã Nhơn Hải, Tổ trưởng tổ hợp tác nuôi ghẹ xanh, cho biết: Dự án nuôi ghẹ xanh trên biển được triển khai nhằm tạo công ăn việc làm để hội viên CCB phát triển kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hội viên, đồng thời thực hiện công cuộc xây dựng nông thôn mới xã Nhơn Hải. Từ đó, nhân rộng mô hình ra cho hội viên và ngư dân trong xã để tham gia nuôi trồng thủy sản, phát triển kinh tế gia đình.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi cá Chẽm công nghiệp tại Sóc Trăng

Với thu nhập bình quân 6 – 8 triệu đồng mỗi tháng, nghề nuôi cá chẽm giúp những công nhân làm việc tại trang trại nuôi cá ở Sóc Trăng có thu nhập ổn định.

Mô hình nuôi cá chẽm tại Sóc Trăng từ lâu đã trở thành một trong những điểm mạnh đối với ngành thủy sản của tỉnh nói riêng và nước ta nói chung. Từ vùng ao và kênh rạch bỏ trống, người dân nơi đây đã cải tạo thành các khu ao nuôi cá chẽm, đảm bảo nguồn cung ứng cho người tiêu dùng.

Cá chẽm là một trong những thực phẩm có giá thành cao do thịt trắng thơm và chứa nhiều chất dinh dưỡng tốt cho cơ thể. Tuy nhiên, lượng cá chẽm trong tự nhiên sau nhiều lần khai thác không còn đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường. Nắm bắt được điều này, nhiều hộ gia đình tại Sóc Trăng đã lấy cá tự nhiên mang về nhân giống và thực hiện quy trình nuôi công nghiệp nhằm tạo nguồn cung ổn định.

Thời gian đầu, khi áp dụng nuôi cá chẽm, các hộ chủ yếu để cá phát triển giống như ngoài tự nhiên bằng việc cung cấp thức ăn tươi sống. Do đó, khó khăn gặp phải là người dân khó tìm được nguồn thức ăn ưa thích thường xuyên cho cá. Không những vậy, đặc tính của giống này là cá lớn ăn cá bé nên những con phát triển sẽ ăn những con nhỏ hơn. Điều này khiến nhiều hộ rơi vào tình trạng khó khăn, lợi nhuận khi thu hoạch thấp hơn nhiều so với số tiền bỏ ra mua giống.

Ao nuôi cá chẽm tại Sóc Trăng.

Trước tình hình đó, trang trại nuôi trồng thủy sản Ngọc Hường, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng đã tìm cách tạo nguồn cá giống, nguồn cung cấp thức ăn ổn định và quy trình nuôi nhốt nhằm đảm bảo sản lượng thu hoạch.

Theo anh Dũng, chủ trang trại Ngọc Hường, do đặc tính tự nhiên của cá chẽm là ăn thịt tươi nên không thể nuôi chung với các loại cá khác. Bên cạnh đó, loại cá này còn có xu hướng ăn thịt lẫn nhau nên giai đoạn thuần dưỡng con giống khi mới nuôi gặp nhiều khó khăn.

Cá chẽm sau khi thu hoạch được vận chuyển tới địa điểm tiêu thụ. 

Tuy nhiên, tận dụng tiềm năng và lợi thế của địa phương, những năm qua, trang trại Ngọc Hường đã xây dựng thành công mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp với quy trình khép kín, quản lý chặt chẽ từ khâu lựa chọn con giống, kỹ thuật nuôi tới xây dựng ao hồ, hoàn thiện hệ thống sục khí hiện đại. Toàn bộ quy trình này được giám sát bởi Chi cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Sóc Trăng. Trang trại hiện có khoảng 12 ha nuôi cá chẽm công nghiệp, tạo việc làm ổn định cho 30 nhân công địa phương.

Anh Dũng cho biết, 30 nhân công làm việc tại trang trại có mức thu nhập ổn định 6 – 8 triệu đồng mỗi tháng. Bên cạnh đó, trang trại còn hỗ trợ ăn trưa, các sinh hoạt cơ bản cho những người cần phải ở lại trại nuôi trong thời gian dài. Nếu tiết kiệm, họ có thể để ra được một khoản tiền không nhỏ.

Hiện, Sóc Trăng có nhiều trang trại áp dụng mô hình nuôi cá chẽm công nghiệp nhằm đảm bảo nguồn cung ứng cho các công ty chế biến hải sản nội địa và quốc tế. Trong đó, một số trang trại hình thành xu hướng mở rộng và phát triển để trở thành nhà cung cấp trực tiếp trên thị trường.

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Ghẹ xanh lột thương phẩm

Ghẹ xanh là đối tượng khai thác rất lớn ở vùng biển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đặc biệt là vùng biển Phước Hải. Sản lượng khai thác không chỉ nhiều mà chất lượng thịt ghẹ cũng rất ngon cho nên thương hiệu ghẹ Phước Hải đã được người tiêu dùng nhiều nơi biết đến.

Ghẹ lột

Tuy nhiên, nguồn ghẹ thịt dồi dào có trong tự nhiên lâu nay chỉ bán ở các chợ hoặc bán cho lái buôn với giá 50.000 -100.000 đồng/kg. Trong khi đó, ghẹ lột là loại hàng thương phẩm có giá trị cao về kinh tế và dinh dưỡng, được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng. Giá ghẹ lột có thể cao gấp 2-3 lần so với giá ghẹ thô ban đầu nên hiện nay nghề nuôi ghẹ lột thương phẩm trở thành nghề mang lại thu nhập cao.

1. Thiết kế bể nuôi ghẹ xanh lột

–   Nuôi trong bể xi măng 5×5= 25 m2, có che bớt ánh sáng bằng lưới chắn để nhiệt độ trong bể nuôi không quá 300C

–    Các yếu tố thủy lý, thủy hóa: nhiệt độ nước dao động 25-300C, độ muối duy trì 30– 33 %o oxy hoà tan 6,2 – 6,5mg/l và pH khoảng 7,8-8

–    Bể nuôi phải được sục khí liên tục 24/24 giờ và thay nước 100%/ngày

2. Hướng dẫn cách chọn ghẹ xanh làm ghẹ giống

Ghẹ xanh nuôi lột chọn cỡ từ 15 – 20 con/kg, trọng lượng từ 50 – 70g/con. Chọn những con chắc thịt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đủ chân càng và mai yếm không bị dập nứt. Trường hợp những con hình thành lớp vỏ mới chuẩn bị lột xác, khỏe mạnh có đủ chân càng nuôi riêng.

Kỹ thuật xử lý để ghẹ lột đồng loạt      

Để ghẹ xanh lột vỏ đồng loạt có thể áp dụng biện pháp cắt mắt và trộn chất Chitosan 1% vào thức ăn cho ghẹ ăn.

Sau khi tuyển ghẹ nuôi lột, cho ghẹ vào bể có sục khí nuôi lưu từ 10-12 h để ghẹ hồi sức và ổn định. Bổ sung Vitamin C vào bể nuôi để tăng thêm sức đề kháng cho ghẹ.

Khi kiểm tra ghẹ đã khỏe mạnh, giảm nhiệt độ nước xuống còn 20-220C và thực hiện cắt mắt. Dùng kéo đã khử trùng để cắt mắt ghẹ.

– Cắt mắt: Đốt nóng kéo hoặc dùng cồn khử trùng kéo cắt. Một người cầm giữ ghẹ, một người cắt, vết cắt tính từ gốc mắt ra là 2-3 mm. Sau khi cắt mắt tiếp tục nuôi thêm 10-12 h trong bể để ghẹ ổn định. Khi trời mát cho ghẹ vào bể nuôi lột.

– Cho ăn thuốc: Cá tươi rửa sạch trộn với chất kích thích lột vỏ của giáp xác là chất Chitosan với nồng độ 1%, có thể dùng dầu mực bao thức ăn để tăng khả năng của thuốc. Ghẹ cắt mắt sử dụng chất Chitosan trong vòng 14 ngày ghẹ lột vỏ đồng loạt, tỷ lệ 70 – 80%.

3. Hướng dẫn cách chăm sóc và quản lý ao nuôi ghẹ xanh lột

Thức ăn cho ghẹ lột là cá tạp tươi cắt thành miếng nhỏ, rửa sạch và rải đều khắp bể cho ghẹ ăn. Lượng thức ăn hàng ngày từ 10-20% trọng lượng thân và tùy thuộc vào sức ăn của ghẹ.

Ngày cho ghẹ ăn 2 lần vào buổi sáng (5-6h) và chiều (17-18h), cho ghẹ ăn lúc mới thay nước và tránh cho ăn lúc nhiệt độ cao. Những ngày đầu ghẹ ăn nhiều, sau ngày thứ 9, 10 trở đi sức ăn của ghẹ giảm và bắt đầu lột.

Kiểm tra: Sau từ 9 đến 14 ngày nuôi, một số ghẹ đã chuyển sang giai đoạn chuẩn bị lột. Người nuôi dùng ngón tay ấn nhẹ vào mép dưới mai ghẹ sẽ nghe thấy tiếng gãy của mai. Tách riêng những con chuẩn bị lột sang bể nuôi mới, thay nước để kích thích ghẹ lột, thay 100% nước hàng ngày và giữ nhiệt độ nước ổn định từ 28 – 30ºC. Ghẹ sắp lột vỏ không cho ăn, 2 – 3 giờ kiểm tra 1 lần, chú ý thay nước sạch cho ghẹ lột nhanh.

Cách nhận biết ghẹ chuẩn bị lột: Màu sắc trên lưng ghẹ chuyển từ màu xanh sau khi cắt mắt sang màu xanh hơi đỏ và chuyển tiếp sang màu xanh nâu hơi đậm.

Công việc lọc ghẹ lột được thực hiện liên tục vì sau khi lột vỏ hoàn toàn phải tiến hành thu hoạch và bảo quản ngay vì chỉ 2 giờ sau khi lột vỏ ghẹ đã cứng lại

Thời gian ghẹ lột nhiều nhất từ 17 giờ đến 5 giờ sáng ngày hôm sau.

4. Cách thu hoạch ghẹ xanh lột Ghẹ vừa lột được rửa sạch bằng nước ngọt ở nhiệt độ 150C, đem ghẹ lên cắt yếm, cắt ruột và gói vào bao nilon, sau đó xếp từng con vào trong vỉ, bảo quản lạnh và chuyển đến nơi tiêu thụ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.