Cần nhân rộng mô hình nuôi cua trong ao tôm suy thoái

Trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh tôm nuôi liên tiếp xảy ra khiến cho không ít hộ nuôi tôm ở các xã ven biển Hoài Nhơn bị thua lỗ. Vừa qua, thành công của mô hình nuôi cua xanh thương phẩm tại thôn Cửu Lợi Tây, xã Tam Quan Nam đã đem lại triển vọng khôi phục môi trường nuôi trồng thủy sản, tạo sự yên tâm cho người dân làm nghề nuôi thủy sản.

Mô hình nuôi cua xanh thương phẩm của ông Vũ ở thôn Cửu Lợi Tây

Ông Trần Tuấn Vũ, ở thôn Cửu Lợi Tây vốn có thâm niên hàng chục năm trong nghề nuôi tôm nhưng trong những năm gần đây bị thua lỗ nặng do dịch bệnh tôm xảy ra liên tiếp, kéo theo đó hồ nuôi cũng bị ô nhiễm nặng nên không thể tiếp tục nuôi. May mắn là đầu tháng 3.2017, ông được Trung tâm Khuyến nông tỉnh và Trạm Khuyến nông huyện Hoài Nhơn chọn triển khai mô hình nuôi cua thương phẩm trong ao nuôi tôm suy thoái.

Sau 5 tháng thực hiện trên diện tích 5.000 m2 ao nuôi, mô hình đã đạt được các chỉ tiêu như kế hoạch đề ra. Tỉ lệ cua sống đạt trên 40%, trọng lượng trung bình từ 3 – 4 con/kg, năng suất trên 2,1 tấn/ha. Với giá bán hiện nay 150 ngàn đồng/kg, doanh thu được 162 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi 44 triệu đồng.

Cũng theo ông Vũ, hiện thị trường đầu ra khá thuận lợi, bởi cua xanh thương phẩm có thịt thơm ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng. Việc nuôi cua khá suôn sẻ nhờ nguồn giống có chất lượng tốt, nguồn thức ăn tại chỗ dồi dào như các loài cá tạp, đầu mực, rong tảo. Đặc điểm sinh trưởng của loài cua rất có lợi cho việc làm sạch môi trường ao nuôi. Nếu nuôi cua xanh xen kẽ với cá rô phi, các đối mục sẽ cho lợi nhuận kép, giảm được thời gian và tận dụng được thức ăn thừa của cua giúp cá tăng trọng lượng nhanh hơn.

Theo thống kê, toàn huyện Hoài Nhơn hiện có 210 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản, riêng xã Tam Quan Nam có gần 50 ha, chủ yếu nuôi tôm; song những năm qua đã có trên 25 ha tôm nuôi bị dịch bệnh do môi trường ô nhiễm, nên việc triển khai mô hình nuôi cua xanh thương phẩm trong ao nuôi tôm suy thoái là rất hợp lý và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.

Ông Huỳnh Xuân Vấn, Phó Chủ tịch UBND xã Tam Quan Nam, cho biết: “Mô hình nuôi cua xanh thương phẩm trong ao nuôi tôm bị suy thoái đã cho kết quả rất khả quan; nếu được nhân rộng thì đây là một hướng nuôi mới đầy triển vọng giúp bà con gỡ lại vốn sau những vụ tôm thất bại”.

Qua mô hình nuôi thí điểm hiệu quả thấy rõ, bà con nông dân và chính quyền địa phương đồng tình ủng hộ, tuy nhiên để tiếp tục nhân rộng mô hình ở các vùng nuôi tôm thường xuyên bị dịch bệnh, ông Huỳnh Xuân Vấn kiến nghị: “Trong điều kiện bà con chưa chủ động được nguồn giống, thời gian tới chúng tôi rất mong Trung tâm Khuyến nông tỉnh, Trạm Khuyến nông huyện tiếp tục hỗ trợ nhân rộng mô hình tại một số hồ nuôi cần thiết khác trên địa bàn. Đồng thời để việc nuôi cua xanh thương phẩm phát triển bền vững, các ngành chức năng cần định hướng vùng nuôi, hạn chế người dân thả nuôi đại trà sẽ dẫn đến cung vượt cầu, cua bán mất giá”.

Nguồn: tepbac được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Ồ ạt nuôi trồng thủy sản ven bờ

Tình trạng nuôi trồng thủy sản (NTTS) tự phát, ngoài khu vực quy hoạch đang để lại nhiều hệ lụy về môi trường trên vịnh Cam Ranh.

Lồng bè nuôi trồng thủy sản trên vịnh Cam Ranh

Dày đặc ô lồng vùng nước ven bờ

Lâu nay, người dân TP. Cam Ranh và nhiều địa phương lân cận thường đến vịnh Cam Ranh để đầu tư NTTS. Ông Mai Tiều – người dân ở thị trấn Cam Đức (huyện Cam Lâm, Khánh Hòa), đầu tư nuôi cá trên vùng biển vịnh Cam Ranh cho biết: “Tôi từ Cam Đức vào phường Cam Phúc Nam (TP. Cam Ranh) để đầu tư nuôi cá bớp được mấy năm nay. Những năm trước, việc nuôi trồng khá thuận lợi, hiệu quả mang lại cao nên lồng bè giăng kín một góc vịnh Cam Ranh. Mấy năm gần đây, tuy điều kiện thời tiết khắc nghiệt, môi trường vùng nuôi không đảm bảo nhưng số bè nuôi không có dấu hiệu giảm”.

Ông Hoàng Đình Minh – Chủ tịch Hội Nông dân phường Cam Phúc Nam cho biết: “Thời gian gần đây, số lồng bè NTTS, nhất là nuôi tôm hùm xanh trên vùng biển Cam Phúc Nam tăng đột biến. Hiện nay, toàn phường có 364 bè NTTS, với 4.416 lồng; trong đó số bè nuôi của người dân vãng lai là 59 bè. Nguyên nhân là do tôm hùm xanh đang cho hiệu quả và giống rất rẻ nên người dân đổ xô nuôi”. Cũng theo ông Minh, theo quy hoạch, vùng nước Cam Phúc Nam không còn phát triển NTTS, các chủ bè phải di dời về vùng biển xã Cam Bình. Tuy nhiên, người dân ít lưu tâm mà vẫn vô tư thả nuôi, không chịu di dời nên rất khó quản lý.

Đứng ở ven biển phường Cam Linh, phóng tầm mắt ra vài trăm mét là có thể thấy hàng nghìn ô lồng nuôi tôm hùm san sát, các ghe thuyền phục vụ NTTS phải khó khăn lắm mới có thể luồn lách ra bè. Trên bờ, nhiều lồng nuôi tôm hùm xanh vẫn tiếp tục được làm mới chất đầy đường. Theo ngư dân phường Cam Linh, đầu tư nuôi tôm hùm xanh chi phí ít hơn nhiều so với tôm hùm bông. Tôm hùm xanh giống rẻ, ít dịch bệnh, giá bán khá cao.

Theo bà Nguyễn Thị Châu Pha – Chủ tịch Hội Nông dân phường Cam Linh, cách đây 2 năm, trên địa bàn phường chỉ khoảng 1.500 lồng NTTS, nhưng hiện nay đã lên đến trên dưới 6.500 lồng. Theo quy hoạch, vùng nước khu vực Cam Linh không được NTTS lồng bè. Chính quyền địa phương đã tăng cường tuyên truyền, vận động nhưng người dân vẫn ồ ạt NTTS tại khu vực này.

Không riêng gì ở Cam Linh mà nhiều địa phương khác ven vịnh Cam Ranh cũng có chung tình trạng trên.

Những hệ lụy

Ông Lê Minh Hải – Trưởng phòng Kinh tế TP. Cam Ranh cho biết, thành phố hiện có hơn 33.100 lồng NTTS, trong đó có hơn 80% là lồng nuôi tôm hùm xanh, tăng gần 4.000 lồng so với thời điểm đầu năm 2017, gấp nhiều lần so với quy hoạch phát triển NTTS trên vịnh Cam Ranh. Theo số liệu tổng hợp giám sát dịch bệnh của Trạm Chăn nuôi và Thú y Cam Ranh, từ đầu năm 2017 đến nay, tình hình dịch bệnh trên tôm hùm nuôi tại Cam Ranh diễn biến khá phức tạp. Vào thời điểm tháng 3, tỷ lệ tôm hùm chết (chủ yếu có độ tuổi từ 3 đến 5 tháng) ở một số vùng nuôi lên đến 30%. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do khu vực nuôi lồng bè gần bờ, mật độ nuôi dày, chưa có các quy định hay quy chế vệ sinh chung cho vùng nuôi nên gây ô nhiễm vùng nuôi, dẫn đến phát sinh dịch bệnh trên thủy sản nuôi.

Theo lãnh đạo UBND TP. Cam Ranh, vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay đối với NTTS trên vịnh Cam Ranh là yếu tố môi trường. Thực tế, nhu cầu NTTS của người dân rất lớn, trong khi quy hoạch vùng nuôi tại Cam Bình diện tích chỉ 187ha, không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Mặt khác, các hộ NTTS cho rằng khu vực quy hoạch xa, nước sâu, sóng gió lớn, trong khi kết cấu lồng bè chưa đảm bảo an toàn. Bên cạnh đó, do chưa có chế tài cụ thể, một số địa phương còn buông lỏng công tác quản lý nên tình trạng NTTS tự phát vẫn diễn ra.

Được biết, hiện nay, TP. Cam Ranh đã triển khai cắm mốc, vận động người dân di dời lồng bè đến vùng quy hoạch ở xã Cam Bình nhưng các hộ NTTS chưa thực hiện. Để giải quyết tình trạng này, UBND TP. Cam Ranh đã đề nghị bổ sung vào Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản tỉnh giai đoạn 2016 – 2025, tầm nhìn đến năm 2035 thêm 200ha đến 300ha mặt nước ven bờ phục vụ NTTS.

Theo Đề án Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản tỉnh giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2035 được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình UBND tỉnh, đến năm 2020, nuôi thủy sản biển trên vịnh Cam Ranh sẽ tập trung vào các đối tượng chính gồm: tôm hùm 28.000 lồng, cá biển 2.000 lồng. Đối với các vùng nuôi ven bờ sẽ di dời toàn bộ diện tích nuôi lồng bè hiện có ở phía tây vịnh Cam Ranh ra khu vực Cam Lập, Cam Bình; khuyến khích các hộ nuôi chuyển sang nuôi lồng bè công nghiệp khu vực phía đông xã Cam Lập…

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Bột vỏ chanh làm tăng khả năng sinh trưởng và miễn dịch của cá

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cho thấy bổ sung bột vỏ chanh vào thức ăn có thể kích thích tăng trưởng và hoạt động miễn dịch của cá

.

Tác dụng bột vỏ chanh với động vật thủy sản.

Chanh (Citrus limon) là loài thực vật có múi quan trọng thứ ba trên thế giới, trong đó Tây Ban Nha là quốc gia sản xuất chính ở châu Âu. Nhiều tác dụng có lợi của chanh đã được biết, điều này giải thích việc sử dụng chúng một cách rộng rãi trong y học cổ truyền.

Bột vỏ chanh

Bài báo cáo này mô tả ảnh hưởng của vỏ chanh (sản phẩm phụ của ngành công nghiệp tinh dầu chanh) đối với khả năng tăng trưởng, miễn dịch và chống oxy hoá của cá tráp (Sparus aurata L.) trong thời gian 30 ngày.

Thí nghiệm

Cá được phân chia ngẫu nhiên thành ba bể (mỗi bể 12 cá thể), tương ứng với ba nhóm: đối chứng (chế độ ăn không bổ sung bột vỏ chanh – DLP), chế độ ăn uống bổ sung 1,5% DLP và chế độ ăn uống bổ sung 3% DLP. Cá được cho ăn với lượng thức ăn 1,5% trọng lượng cơ thể/ngày trong 30 ngày.

Kết quả

Cá nuôi có chế độ ăn bổ sung bột vỏ chanh vào thức ăn (1,5% và 3%) trong 15 ngày cho thấy sự tăng trưởng tốt hơn và cả hệ thống miễn dịch (Serum immunoglobulin M) và hoạt động của tế bào (peroxidase và khả năng thực bào) tăng lên đáng kể.

Hoạt tính của các enzyme chống oxy hóa cũng có biểu hiện tăng lên và các gen chống stress trong gan đã được cải thiện theo chế độ ăn. Tuy nhiên sau 30 ngày thí nghiệm, khác biệt lại không có ý nghĩa. Điều này chứng tỏ đáp ứng miễn dịch của chế độ ăn bổ sung bột vỏ chanh đạt được trong thời gian ngắn (15 ngày).

Kết luận

Từ các kết quả nghiên cứu trên, có thể kết luận bột vỏ chanh (DHP) có thể được đưa vào chế độ ăn của cá có để tạo ra các hiệu ứng miễn dịch trong một thời gian ngắn một cách rất hiệu quả.

Nguồn: tạp chí Sciencedirect được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Dung dịch giấm táo (ACV) và propionic acid có tác dụng điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Đây được kỳ vọng như là một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm.

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Giấm táo là gì?

Giấm táo (dấm táo) hay Apple cider vinegar là một loại giấm làm từ rượu táo. Giấm làm từ táo có có màu nâu nhạt, đậm dần đến lưng chừng màu hổ phách. Là một loại giấm sống chưa được tiệt trùng. Khi chưa lọc, giấm táo có chứa những phân tử dấm mẹ nhìn giống như có một lớp màng mỏng phía trên mặt hoặc có những trầm tích màu nâu đục lắng tụ dưới đáy chai, đó là những phân tử giấm mẹ dạng loãng.

– Khởi đầu giấm được làm bằng những trái táo băm nhỏ hay nước ép táo, pha trộn với đường. Vi khuẩn và nấm men được thêm vào chất lỏng để tạo nên quá trình lên men rượu.

– Trong quá trình lên men kế tiếp, rượu được chuyển thành giấm bởi vi khuẩn tạo nên axit axetic (Acetobacter). Axit axetic và axit malic là tác nhân hình thành vị chua của giấm.

Nghiên cứu ảnh hưởng của ACV và propionic acid lên tôm thẻ chân trắng

Thí nghiệm này được tiến hành để nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ khác nhau của ACV và Propionic axit (PA) trên biểu hiện của gen miễn dịch liên quan và hiệu suất tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).

375 con tôm với trọng lượng ban đầu trung bình là 10,2 ± 0,04 g đã được thu thập và làm quen với môi trường nước trong hai tuần. 5 chế độ ăn thử nghiệm bao gồm chế độ ăn đối chứng, chế độ ăn uống 0,5% PA và chế độ ăn 1%, 2% và 4% ACV được sử dụng để nuôi tôm. Tôm được cho ăn 4 lần một ngày với 2,5% trọng lượng cơ thể.

Kết quả:

Biểu hiện của prophenoloxidase (proPo), lysozyme (Lys), penaeidin-3a (Pen-3a) và gen Crustin (Cru) đã được xác định từ gan tụy, sử dụng real-time PCR sau 15, 30 và 60 ngày. Việc biểu hiện gen Lys và proPo được tăng lên đáng kể trong tôm nuôi bằng khẩu phần ACV và PA so với nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày điều trị.

Sau 15 ngày, biểu hiện gen Pen-3a cao hơn đáng kể ở nhóm PA so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, tôm ăn với chế độ ăn 1% & 4% ACV và PA cho thấy Pen-3a tăng lên đáng kể sau 30 ngày.

Ngược lại, sự biểu hiện của Cru đã giảm đáng kể khi đáp ứng với chế độ ăn uống của ACV, nhưng sự biểu hiện của Cru trong tôm được xử lý với khẩu phần PA cao hơn nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày.

Kết luận:

Các kết quả cung cấp bằng chứng cho thấy ACV có thể được sử dụng như một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm để điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch.
Nguồn: NCBI được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam 

Dân bất an vì cá bỗng dưng chết nổi đầy sông ở Nghệ An

Nhiều loại cá chủ yếu sống ở tầng đáy bỗng dưng chết nổi lên đầy sông Hoàng Mai khiến người dân bất an.

Lượng cá chết được người dân vớt lên bờ, đây hầu hết là những loài cá sống ở tầng đáy có giá trị kinh tế cao.

Ngày 26/9, một cán bộ thị xã Hoàng Mai, Nghệ An xác nhận sự việc trên. Đồng thời cho biết, hiện thị xã cũng đang tiến hành làm rõ nguyên nhân khiến cá chết hàng loạt trên sống Hoàng Mai.

Theo đó, nhiều người dân sống gần vùng hạ lưu sông Hoàng Mai bất ngờ khi thấy hàng loạt các loại cá như Hành, Nữ, Bống…bỗng dưng chết nổi đầy trên sông Hoàng Mai.

Bên cạnh đó các hộ dân làm nghề đóng đáy bắt cá trên sông Hoàng Mai cũng giật mình khi sáng sớm thu đáy về thấy phía trong nhiều loại cá đã chết từ lúc nào không rõ.

Cá chết dạt vào bờ rất nhiều, người dân dùng thuyền ra vớt được hàng chục kg. Phía trong những chiếc đáy cũng đầy cá đã chết dạt vào. Cá chết chủ yếu là loài cá sống ở tầng đáy, có giá trị kinh tế cao. Từ trước đến nay người dân chưa bao giờ thấy hiện tượng này xảy ra. Ngay sau khi phát hiện sự việc, người dân đã lập tức thông tin đến cơ quan chức năng để kiểm tra làm rõ nguyên nhân.

 Người dân vớt cá chết lên bờ

Hiện tượng cá chết bất thường khiến nhiều người dân sống ven dòng sông tỏ ra bất an. Đặc biệt là những hộ nuôi tôm lấy nguồn nước từ sông. Một số người nhận định, nhiều khả năng, cá chết do bị sốc nước. Bởi sau bão, nước triều cường dâng cao, nước mặn xâm thực đột ngột vào sông Hoàng Mai dẫn đến cá bị sốc nước nên chết hàng loạt.
Hiện nguyên nhân sự việc đang được cơ quan chức năng tiếp tục làm rõ.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Sản xuất thành công giống cá khế vằn: Góp phần đa dạng đối tượng nuôi

Đạt giải nhì trong hội thi Sáng tạo Khoa học – Kỹ thuật tỉnh Khánh Hòa lần thứ VII, đề tài kỹ thuật sản xuất thành công giống nhân tạo cá khế vằn (còn gọi cá bè đưng hoặc cá bè vàng) của kỹ sư Lê Thị Như Phượng đã góp phần làm đa đạng đối tượng thủy sản nuôi cho người dân.
Theo kỹ sư Lê Thị Như Phượng (Doanh nghiệp tư nhân Phương Hải, TP. Nha Trang), Khánh Hòa là tỉnh ít chịu ảnh hưởng của bão lụt nên rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là việc sản xuất giống. Hiện nay, người dân các tỉnh ven biển trong cả nước nói chung và ở Khánh Hòa nói riêng nuôi lồng bè chủ yếu các loài như: cá mú, cá bớp, cá chim vây vàng… Các loài cá này đã chủ động được nguồn giống, nhưng gần đây xảy ra nhiều dịch bệnh, làm cho một số hộ nuôi thua lỗ, muốn chuyển sang đối tượng nuôi khác để thay đổi môi trường nuôi và thị trường tiêu thụ.
Nắm bắt được tình hình trên, cùng với sự gợi ý của một vài hộ nuôi thủy sản ở huyện Vạn Ninh, năm 2015, kỹ sư Phượng hình thành nên ý tưởng sản xuất giống nhân tạo cá bè đưng. Đây là loại cá thịt trắng, thơm ngon, có giá trị kinh tế cao, được thị trường nội địa ưa chuộng. Ở Việt Nam, cá bè đưng chỉ phân bố ở huyện Vạn Ninh và đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang). Loại cá này đã được người dân ở 2 địa phương trên nuôi thương phẩm bằng nguồn giống đánh bắt ngoài tự nhiên. Nhưng nguồn giống này ngày càng khan hiếm, trong khi đó, trên cả nước chưa có cơ sở, viện nghiên cứu nào nghiên cứu sản xuất loại giống cá này để cung ứng nguồn giống ổn định cho người dân.

Kỹ sư Phượng bên cạnh cá bè đưng trưởng thành thành thục

Do sự khan hiếm nguồn cá giống, kỹ sư Phượng phải “nằm vùng” ở huyện Vạn Ninh thời gian dài để tìm mua nguồn cá bố mẹ. Sau khi tìm được 170 cặp bố mẹ, chị tiến hành nuôi, vừa tự nghiên cứu sản xuất các loại thức ăn phù hợp cho cá. Qua 1 năm, khi các cặp cá giống phát triển thành thục được cho sinh sản nhân tạo bằng cách thử nghiệm tiêm kích dục tố với các liều lượng khác nhau. Sau nhiều lần thử nghiệm, các cặp cá bố mẹ đã sinh sản hơn 15 triệu cá bột. “Từ cá bột, chúng tôi ươm nuôi sản xuất được hơn 400.000 con cá giống đạt kích cỡ 4 – 6cm/con và đã xuất bán cho nhiều hộ nuôi ở tỉnh Khánh Hòa, Vũng Tàu, Kiên Giang, Quảng Ngãi, Huế… Qua nuôi thử nghiệm cho thấy, loại cá này dễ nuôi vì ăn tạp, có khả năng sống trong vùng nước lợ, nguồn thức ăn dễ tìm. Đặc biệt, cá sống thành bầy đàn, ăn nổi nên dễ quan sát, dễ quản lý môi trường nuôi hơn so với các loài sống ở tầng đáy hoặc sống ẩn nấp như: cá mú, cá chình. Hiện nay, cơ sở chúng tôi đang tiếp tục hoàn thiện quy trình sản xuất cá giống để đáp ứng các đơn đặt hàng trong và ngoài tỉnh”, kỹ sư Phượng cho hay.
Ông Trịnh Văn Tèo, hộ nuôi thủy sản ở thôn Đầm Môn, xã Vạn Thạnh (huyện Vạn Ninh) cho biết, năm ngoái, biết được kỹ sư Phượng sản xuất thành công giống nhân tạo cá bè đưng, xác định đây là loại có giá trị kinh tế cao nên gia đình ông đặt mua hơn 1.000 con giống để thả nuôi thử nghiệm, song song với nuôi tôm hùm. “Hiện nay, đàn cá phát triển khá tốt. Với giá thương phẩm trên thị trường dao động từ 130.000 đến 150.000 đồng/kg, trừ hao hụt, khi xuất bán với cân nặng khoảng 1,2 – 1,5 kg/con, tôi dự kiến sẽ thu lời được gần gấp đôi vốn bỏ ra”, ông Tèo nói.
Được biết, ngoài sản xuất giống nhân tạo cá bè đưng, từ năm 1999 đến nay, kỹ sư Phượng còn tự mày mò nghiên cứu sản xuất thành công giống nhân tạo cá chẽm mõm nhọn, cá mú, cá bớp, cá gáy biển, cá bè vẩu.
Có thể nói, việc sản xuất thành công loại cá này góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá biển, đa dạng hóa đối tượng nuôi và tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi thủy sản ở tỉnh Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung.

Nữ kỹ sư bên bè cá bè đưng

* Cá bè đưng thân cao, hình quả trám, dẹp hai bên, trán dốc phía trên mặt tạo thành hình rất cong. Vây lưng thứ 2 có 1 tia cứng và 19 – 20 tia mềm. Vây ngực hình lưỡi liềm. Cá có màu vàng với nhiều sọc đen trên thân. Thức ăn của cá là các loại cá, giáp xác và động vật thân mềm. Môi trường sống của cá ở tầng nổi trên cát và đá, thường gặp nhất ở vùng biển ven bờ với độ mặn thấp. Cá bè đưng thường đẻ trứng vào ban đêm tại những thời điểm khác nhau trong năm, tập trung vào những tháng có khí hậu ấm.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Hiệu quả từ nuôi sò

Những năm gần đây, nhiều hộ ở phường Cam Phúc Bắc (TP. Cam Ranh) mạnh dạn chuyển đổi vật nuôi thủy sản từ cá, tôm sang các loại sò: mồng, dương, mía, tu hài… Bước đầu, các vật nuôi này đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao cho hộ nuôi.

Thu nhập khá

Gia đình ông Đào Minh Tiến (phường Cam Phúc Bắc) được xem là hộ đầu tiên chuyển đổi từ nuôi cá lồng sang nuôi các loại sò. “Trong quá trình nuôi, tôi thấy các loại sò ở đây sinh trưởng rất tốt. Do đó, năm 2012, tôi quyết định chuyển sang nuôi một số loại sò như: mồng, dương, mía, tu hài. Đợt nuôi đầu tiên tôi thả khoảng 5.000 con giống, với tổng chi phí đầu tư khoảng 40 triệu đồng. Sau 10 tháng thả nuôi cho thu hoạch lời hơn 100 triệu đồng. Từ bước đệm này, tôi mạnh dạn đầu tư nuôi đại trà trên diện tích hơn 2ha. Bây giờ, tháng nào tôi cũng thả nuôi nên lúc nào cũng có sò thương phẩm để bán”, ông Tiến cho hay.

Nuôi sò dương

Được biết, trung bình 1 năm, ông Tiến thả nuôi hơn 70 triệu con giống. Sau 10 tháng thả nuôi, sò đạt trọng lượng từ 25 đến 30 con/kg, bán với giá 100.000 đồng/kg, riêng tu hài 250.000 đồng/kg. Trừ các chi phí, mỗi năm, gia đình ông Tiến lời hơn 400 triệu đồng. Ông Tiến cho biết: “Nuôi sò chi phí đầu tư ít, trong quá trình nuôi không phải lo thức ăn. Sò có đặc tính di chuyển chậm nên cách nuôi rất đơn giản, dùng lưới mùng bao quanh rổ nhựa (cao 20 cm, đường kính 40 cm), bên trong thả con giống đem đặt dưới đáy vịnh có độ sâu từ 2 đến 3 m. Mỗi rổ thả khoảng 50 con giống, 1 tháng kiểm tra 1 lần để có sự điều tiết đối tượng nuôi cho phù hợp”.

Thấy hộ ông Tiến nuôi hiệu quả, hiện nay, đã có hàng chục hộ chuyển sang nuôi các loại sò. Ông Vi Thanh Đông cho biết, trước đây gia đình ông nuôi cá bớp, chi phí đầu tư cao, công chăm sóc nhiều, chỉ cần một lần bị dịch bệnh có thể thua lỗ hàng trăm triệu đồng. Chính vì thế, gia đình ông đã chuyển sang nuôi sò được hơn 4 năm nay. Thấy hiệu quả kinh tế cao, hiện nay, diện tích nuôi của gia đình ông Đông tăng lên đến 15 ô. Mỗi ô được khoanh với diện tích 100 m2, thả 10 triệu con giống, sau 10 tháng thả nuôi thu hoạch được 7 tấn sò thương phẩm. “Nuôi sò lợi nhuận không cao bằng nuôi các loại thủy sản khác, nhưng khi đã thả nuôi thì thắng chắc. Mấy năm qua, gia đình tôi chỉ đầu tư nuôi sò vì không tốn chi phí thức ăn, không xảy ra dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt không đáng kể. Nhờ vậy, kinh tế gia đình ngày càng khá hơn”, ông Đông chia sẻ.

Theo lãnh đạo UBND phường Cam Phúc Bắc, hiện nay trên địa bàn có khoảng 40 hộ chuyển sang đầu tư nuôi các loại sò. Phần lớn những hộ này trước đây nuôi các loại thủy sản lồng. Từ ngày chuyển qua nuôi sò, các hộ này có kinh tế ổn định hơn.

Gia đình ông Đào Minh Tiến thả nuôi các loại sò

Không còn phải lo con giống

Trước đây, điều trăn trở lớn nhất của người nuôi sò là con giống, bởi nguồn giống chủ yếu được khai thác trong tự nhiên nên rất bị động.

Bên cạnh đó, do quy mô và số lượng người nuôi tăng lên khiến cho con giống trong tự nhiên trở nên khan hiếm, tăng giá. Có lúc, con giống tự nhiên cỡ bằng ngón tay út có giá từ 1.200 đến 1.500 đồng/con. Mặt khác, tỷ lệ hao hụt cũng khá cao, khoảng 40%, do lúc bắt con giống, người dân không biết cách bảo quản, khi thay đổi môi trường đột ngột làm con giống bị chết.

Hiện nay, người nuôi sò không còn phải lo con giống vì hơn 2 năm nay, Công ty Phát triển Thủy sản Nam Đại Dương (phường Cam Phú, TP. Cam Ranh) đã nghiên cứu ươm tạo được các loại giống sò. Ông Đào Minh Tiến cho biết: “Hơn 2 năm nay, con giống đã có công ty cung cấp nên rất thuận lợi cho người nuôi. Giá thành con giống thấp chỉ 70 đồng/con, tỷ lệ hao hụt khoảng 20%. Bây giờ, chỉ cần gọi điện thoại là công ty đưa giống xuống tận nhà. Đồng thời, công ty còn cử cán bộ kỹ thuật xuống hướng dẫn tận tình nên việc nuôi sò của gia đình tôi cũng như các hộ ở đây gặp nhiều thuận lợi”.

Bà Nguyễn Thị Hương – cán bộ kỹ thuật Trạm Khuyến nông, Khuyến lâm, Khuyến ngư TP. Cam Ranh cho biết, hiện nay, trên địa bàn thành phố chỉ có người dân ở phường Cam Phúc Bắc là phát triển nuôi các loại sò với diện tích hơn 10ha. “Qua nhiều năm theo dõi, chúng tôi thấy đối tượng sò: mồng, dương, mía, tu hài phát triển khá tốt ở địa phương này và hầu như chưa xảy ra dịch bệnh. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, chúng tôi vẫn theo sát và hướng dẫn người dân để tránh sự chủ quan, dẫn đến phát sinh nguồn bệnh, gây thiệt hại cho người nuôi sò”, bà Hương cho hay.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Đa Mi (Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận): Trồng mắc ca liệu có phù hợp?

Xung quanh cây mắc ca

Cây mắc ca (Macadamia) du nhập vào Việt Nam từ năm 1992, từ đó đến nay có rất nhiều ý kiến ủng hộ, cũng như nghi ngờ hiệu quả về giống cây này. Ban chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Kinh tế Trung ương và tỉnh Lâm Đồng cũng đã phối hợp tổ chức hội thảo “Chiến lược phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên”, và đặt niềm tin là mắc ca sẽ là cây làm giàu của nông dân Tây Nguyên và Tây Bắc, 2 vùng đất thích hợp. Theo đó, mắc ca trồng từ hạt sau 7 – 8 năm sẽ cho ra trái. Hạt có giá trị dinh dưỡng cao, sử dụng làm nguyên liệu đầu vào để sản xuất nhiều sản phẩm dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe, giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như dầu ăn, sản phẩm chăm sóc da và tóc… Có thể trồng mắc ca xen với cà phê, chè, làm cây che bóng, chắn gió, hoặc trồng tập trung thành rừng công nghiệp. Ý kiến nghi ngờ thì chỉ ra rằng: nhiều nơi trồng mắc ca không có trái, năng suất thấp, như vậy có nên đặt vấn đề phát triển trên diện rộng?…

Cây mắc ca ra trái mùa đầu.

Đây là lý do để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đắn đo trong phê duyệt diện tích mắc ca đến năm 2020 của cả nước. Diện tích được phê duyệt là 10.000 ha, thay vì 200.000 ha như dự kiến trước đây. Tuy vậy, mới đây trong một bài báo đăng trên Lao Động, ông Trần Vinh – Phó viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, không ngại ngần tái khẳng định: Mắc ca là cây có giá trị kinh tế cao. Nếu đầu tư đúng cách, chăm bón đúng kỹ thuật và tìm được đầu ra, giá trị kinh tế mang lại không kém cây cà phê và hồ tiêu. 1 ha cây mắc ca có thể cho 3 -4 tấn hạt thô, trong khi đó, mỗi kg hạt thô có thể bán từ 3 – 4 USD. Còn vì sao một vài nơi, nông dân trồng mắc ca không hiệu quả là do mấy vấn đề sau: Mắc ca là cây á nhiệt đới, yêu cầu độ ẩm cao, tầng đất dày, trồng không đúng đất, cây sẽ không phát triển tốt; giống trồng không tốt, không được chọn lọc, là giống trôi nổi; chăm sóc không đúng kỹ thuật…

Cũng theo ông Trần Vinh, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên có hơn 20 giống mắc ca, trong đó H2, OC và 508 là những giống rất triển vọng, cho năng suất cao. Viện trồng thử nghiệm cây mắc ca xen với một số loài cây công nghiệp có giá trị như cà phê vối, cà phê, chè, ca cao. Kết quả bước đầu cho thấy mắc ca sinh trưởng tốt, sau 4 – 5 năm cho năng suất khoảng 10 kg hạt/cây, thậm chí có cây đạt 15 kg/năm.

Bài báo trên Lao Động còn đề cập đến vấn đề: có 8 tỉnh thích hợp để trồng cây mắc ca, đó là: Đắc Nông, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Sơn La, Lai Châu và Điện Biên.

Đa Mi có thích hợp?

Trở lại với xã Đa Mi của huyện Hàm Thuận Bắc. Đây là địa phương duy nhất trong tỉnh trồng mắc ca. Lý luận của người dân ở đây rất đơn giản: Đa Mi nằm gần Bảo Lộc (Lâm Đồng), là bậc thềm của Nam Tây Nguyên. Trên đó trồng được thì Đa Mi cũng trồng được.

Mắc ca được trồng thành công ở Lâm Đồng

Theo anh Ngô Xuân Vân, Bí thư Đảng ủy Đa Mi: Người dân bắt đầu trồng xen mắc ca với sầu riêng, cà phê từ 4 năm trước. Cây cao nhất là 4m, thấp là 1,5 – 2m. Giống được mua ở các cơ sở bán giống trên thị trường, với giá 40 – 45 ngàn đồng/cây. Tổng diện tích mắc ca toàn xã ước khoảng 5 ha, nhiều nhất là ở thôn La Dày… Đã có một công ty chuyên về cung ứng giống mở hội thảo trồng mắc ca tại La Dày và nhiều nông dân tỏ ra hưởng ứng. Những nông dân trồng đầu tiên hy vọng mắc ca sẽ cho năng suất khá khi vào năm thứ 7 (đang là năm thứ 4). Vấn đề đặt ra, theo thông báo của đại diện Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, Đa Mi rộng ra là Bình Thuận không nằm trong 8 tỉnh có chất đất phù hợp, tầng đất dày để trồng mắc ca. Vậy có nên tiếp tục phát triển mắc ca ở Đa Mi cho dù rất gần Lâm Đồng? Cơ quan nào chịu trách nhiệm khẳng định điều đó? Rất cần một sự nghiên cứu về chất đất, giúp nông dân, thay vì để nông dân trồng tự phát.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Người trồng bưởi da xanh đầu tiên trên cao nguyên, thu hơn 1 tỷ đồng/năm

Là người tiên phong trong lĩnh vực trồng cây ăn quả, năm 2012 vợ chồng ông Nguyễn Văn Nhàn và bà Nguyễn Thị Thái Hà, ở tổ dân phố 8, thị trấn Quảng Phú, huyện Cư Mgar, Đắk Lắk mạnh dạn phá bỏ hơn 1 ha cà phê để trồng 700 gốc bưởi da xanh nổi tiếng ở miền Tây.

Vườn bưởi nhà ông Nhàn, bà Hà cho trái quanh năm.

Ba năm sau, vườn bưởi bắt đầu cho quả ngọt không kém xứ miệt vườn, mỗi năm thu nhập hơn tỷ đồng/ha.

Vợ chồng ông Nhàn, bà Hà vốn làm nghề buôn bán nông sản nhưng rất đam mê nông nghiệp. Bao nhiêu lời lãi trong kinh doanh, ông bà đều dồn vào mua đất. Cả những vùng đất xấu, ông cũng không ngại đầu tư thời gian, công sức cải tạo, biến đất cằn cỗi trở nên màu mỡ. Sau nhiều năm kiên trì tích góp, đến nay gia đình ông Nhàn đã sở hữu 20ha đất, đủ để ông thỏa sức thực hiện mơ ước làm “nông dân chính hiệu”.

Năm 1990, khi có đất trong tay, gia đình ông, bà cũng như nhiều nông dân khác trong vùng chọn cây cà phê để khởi nghiệp. Một thời gian sau, thấy người dân đua nhau mở rộng diện tích cà phê nên chuyển hướng sang trồng hồ tiêu. Nhờ siêng năng, chịu khó chăm sóc, vườn cà phê 10 ha và 3 ha tiêu phát triển tươi tốt quanh năm cho thu nhập ổn định vài trăm triệu đồng/vụ. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa làm ông, bà thỏa lòng bởi số tiền đầu tư cho hai loại cây công nghiệp này tương đối lớn, trong khi giá cả liên tục biến động nên quyết định chọn cây ăn quả làm hướng đi riêng.

Năm 2007, nhà ông, bà trồng thêm 2 ha sầu riêng và xen thêm hàng trăm cây vào vườn cà phê. Thời điểm đó, sầu riêng còn khan hiếm, bán được giá cao cho thu nhập bình quân 200 triệu đồng/ha. Ông bà tiếp tục lấn sân sang trồng bơ và mít Thái (mít “siêu sớm”) vừa để đa dạng cây trồng vừa so sánh hiệu quả kinh tế giữa các các cây trồng với nhau.

Liên tiếp gặt hái nhiều thành công trong lĩnh vực cây ăn quả, năm 2012, ông Nhàn mạnh dạn thử sức với cây bưởi – loại quả biểu tượng cho sự may mắn, tài lộc đang có sức hút trên thị trường. Ông khăn gói xuống miền Tây – thủ phủ bưởi da xanh có tiếng từ xưa để mua 700 gốc về trồng thử nghiệm.

Thấy ông chặt bỏ cà phê để trồng loại cây vốn chỉ ưa tiết trời dịu mát, ôn hòa ở miền Tây Nam bộ, nhiều người nóng mặt can ngăn. Nhưng bằng kinh nghiệm và ý chí của người con đất võ Bình Định, gia đình ông Nhàn – bà Hà quyết tâm làm cho bằng được mới thôi. Đầu tiên, là cải tạo đất cho tơi xốp, trồng một lớp cỏ dại dưới gốc bưởi tránh xói mòn, lắp hệ thống tưới tiết kiệm cung cấp nước quanh năm… để đảm bảo mọi điều kiện tốt nhất cho cây bưởi sinh trưởng, phát triển tốt. Với cách làm khoa học trên, ba năm sau vườn bưởi bắt đầu ra hoa, đậu quả. Vỏ bưởi màu xanh, ruột hồng, không hạt, ăn rất ngon, ngọt không thua kém bưởi trồng ở miền Tây.

Cây bưởi ra trái quanh năm, trung bình mỗi cây cho 100 quả, mỗi quả nặng từ 1,2 – 3kg, giá bán tại vườn 40 nghìn đồng/kg, có thời điểm lên đến 70 nghìn đồng/kg. Dù giá cao nhưng vườn bưởi luôn trong tình trạng “cháy hàng”, vì trên địa bàn hiện nay chỉ mình nhà bà trồng. Năm 2015, vườn bưởi 1 ha cho thu nhập 1, 2 tỉ đồng, trong khi tổng doanh thu 8 ha các loại cây gồm bơ, sầu riêng, mít Thái chỉ được 3 tỉ đồng. Như vậy hiện nay, bưởi da xanh đang là loại quả siêu lợi nhuận nhất trong các loại cây ăn trái được trồng trên vùng đất cao nguyên.

Bà Hà cho biết: Để cây bưởi ra hoa, đậu quả trên vùng đất có khí hậu nắng – mưa thất thường không hề đơn giản. Người trồng phải tính toán rất kỹ từ khâu trồng, bón phân, tưới nước, ánh sáng,… đến việc che chắn gió cho cây vì đất bazan rất mềm, những lúc mưa bão rất dễ làm bật gốc cây. Hiện gia đình bà đang nghiên cứu nhân giống cây bằng phương pháp ghép cho rễ cọc bám sâu phù hợp với đất Tây Nguyên. Đồng thời đầu năm 2017 ông đã trồng 1.000 cây bưởi bởi trên thị trường hiện đang rất chuộng loại cây này.

Một quả bưởi nặng từ 1,2 – 3kg.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Độc đáo vườn cà chua trái cây

Không cần phải đi Đà Lạt, du khách, người tiêu dùng vẫn có thể tham quan, thưởng thức những trái cà chua bi trái cây, cà chua Sôcôla… Đặc biệt là giống cà chua đen, cà chua vàng được trồng theo công nghệ cao của nông dân Hồ Tấn Phong (phường Châu Phú B, TP. Châu Đốc, tỉnh An Giang).

Nhiều giống mới, tốt cho sức khỏe

Trong nhà kính rộng hơn 1.000m2, chú Phong chia ra làm 2 phần, một bên trồng các giống cà chua trái cây, một bên trồng dưa lê, dưa lưới. Bước vào khu vực trồng cà chua, tôi “mê mẩn” trước những trái cà chua đủ màu sắc: Xanh, đỏ, tím, vàng, đen… bé xíu treo trên cây. Thấy tôi chụp hình những trái cà chua căng mọng, chú Phong cho biết: “Ai vô đây cũng khoái chụp hình hết. Nền xanh lá cây, lại thêm mấy trái cà chua nhỏ nhỏ, đủ màu sắc! Cô ăn thử trái cà chua vàng này và cho biết cảm nhận nhé!”. “Ngọt, giòn, thơm thơm, không hạt… ngon và lạ!”- tôi quay sang nói với chú Phong. “Đây là cà chua vàng Kim Ngọc, giống mới! Khách vào đây ăn thử xong cũng đòi mua loại này vì nó ngon, ngọt, thơm… nên gọi là cà chua trái cây. Mới trồng thử không nhiều nên cung không đủ cầu”.

Nông dân Hồ Tấn Phong chăm sóc vườn cà chua trái cây

à chua vàng, tuy trái nhỏ nhưng chứa nhiều hợp chất có lợi cho sức khỏe, làm giảm nguy cơ lão hóa cao, màu đẹp và có vị ngọt dịu. Chỉ tay vào những trái cà chua đen bóng, chú Phong nói: “Nó là loại “hot” và đắt tiền nhất thời gian qua, vì chứa nhóm hợp chất có khả năng chống ô-xy hóa mạnh, có khả năng ngừa hàng loạt bệnh (ung thư, tiểu đường và béo phì) và giúp tăng sinh lực. Những lúc hút hàng ở Đà Lạt, họ bán 100.000 đồng/kg nhưng vẫn không đủ để cung cấp. Cà chua đen có vỏ màu đen, ruột đỏ. Đây là giống cà chua khó trồng, nhiều nông dân ở Đà Lạt cũng trồng thử”. Cà chua đen, cà chua vàng chứa nhiều hợp chất có lợi cho sức khỏe và có khả năng làm giảm nguy cơ lão hóa. Được tham quan, dùng thử các loại cà chua tại vườn, anh Lê Cao Trị (du khách đến từ huyện Tịnh Biên) chia sẻ: “Những trái cà chua mới hái nên ngọt và giòn, ngon. Mỗi loại có mùi vị khác nhau, cà chua sôcôla có màu đen nhạt, tím, hơi chua; cà đen trái to hơn cà chua sôcôla nhưng màu đen đậm, có vị ngọt, cơm dầy; cà chua cherry trái màu đỏ, nước nhiều, vị ngọt nhẹ…”.

Sản xuất ứng dụng công nghệ cao

Nông dân Hồ Tấn Phong cho biết: “Với diện tích 500m2, tôi trồng 1.500 gốc cà chua các loại, như: Cà chua bi đỏ Thúy Hồng, cà chua cherry, cà chua vàng Kim Ngọc, cà chua sôcôla, cà chua đen… Cà chua được trồng theo công nghệ cao, đảm bảo an toàn nên có thể hái và ăn tại vườn”. Cà chua được trồng trên luống cao và cố định bằng sào để cây không bị gãy, đổ vì đang đến độ thu hoạch, trái sai trĩu cành. Mặc dù nhiệt độ nóng hơn so với ở Đà Lạt nhưng do áp dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại nên cà chua sinh trưởng tốt, không cần dùng đến chất kích thích tăng trưởng hay thuốc bảo vệ thực vật.

Cà chua vàng trái nhỏ, ngọt dịu, giòn, thơm

Cũng như cà chua đỏ thường, các loại cà chua này trồng 3 tháng thì bắt đầu cho ra quả và thu hoạch (kéo dài 3 – 4 tháng), trung bình mỗi gốc từ 3-5kg trái chín. Với 1.500 gốc sẽ thu hoạch được 5-6 tấn, giá bán 50.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận thu được trên 50 triệu đồng/vụ. Vì mô hình trồng bán thủy canh nên nhu cầu nước cung cấp cho cây rất cao, cây càng lớn hút nước càng nhiều. Hiện cà chua đang trong giai đoạn thu hoạch nên phải tưới nước từ 6-7 lần/ngày. “Trong quá trình sản xuất, nhờ có hệ thống tưới nhỏ giọt theo công nghệ Israel nên tiết kiệm được nước tưới, nhân công… Ngoài ra, việc sản xuất trong nhà lưới giúp hạn chế rất nhiều sâu bệnh và không phun xịt các loại thuốc bảo vệ thực vật nên an toàn cho người tiêu dùng”- nông dân Hồ Tấn Phong thông tin.

Theo Chủ tịch Hội Nông dân phường Châu Phú B (TP. Châu Đốc) Huỳnh Mộc Khải: Mô hình này hiện đang có thương hiệu trên thị trường vì hiệu quả mang lại rất cao. Từ khâu gieo hạt giống, chăm sóc, thu hoạch… được kiểm soát kỹ nên sản phẩm đạt chất lượng và tiêu chuẩn an toàn. Mặt khác, đây là mô hình được UBND TP. Châu Đốc, Sở Khoa học và Công nghệ chọn làm điểm kết hợp tham quan du lịch sinh thái. Qua thời gian thực hiện rất thành công, lượng khách đến bình quân từ 5-10 lượt người/ngày, những ngày nghỉ cuối tuần, lễ, Tết… lên đến 40-50 lượt khách/ngày. Hiện chú Phong đang đầu tư, mở rộng thêm 1.300m2 nhà kính để trồng thêm một số giống cây mới. Song, để nông dân an tâm sản xuất, tỉnh và địa phương quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về sử dụng thực phẩm sạch, an toàn. Tiếp tục hỗ trợ về giống, kỹ thuật để sản phẩm chất lượng hơn. Đồng thời, hỗ trợ nông dân đăng ký Vietgap…”.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.