Khánh Hòa: 100 ao nuôi tôm 90 ao trúng đậm, nhiều hộ lãi tiền tỷ

Năm nay thời tiết thuận lợi, tôm thẻ chân trắng thả nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ít xảy ra dịch bệnh, vì thế nhiều nơi bà con thu hoạch có lãi khá. Đặc biệt là do bà con có nhiều năm kinh nghiệm nuôi tôm nên tỷ lệ ao tôm trúng đậm rất cao.
Chúng tôi có mặt tại các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã Ninh Phú và phường Ninh Giang (TX Ninh Hòa) khi người nuôi đang thu hoạch vụ thứ 2. Niềm vui thể hiện rõ trên khuôn mặt rám nắng của họ khi 2 vụ liên tiếp có lãi.

Ông Nguyễn Phú, một người nuôi tôm ở khu vực thôn Tiên Du 1, xã Ninh Phú phấn khởi chia sẻ, năm nay hầu hết người nuôi tôm ở đây đều có lãi, trong vụ 1 nuôi 100 ao thì có trên 90 ao bội thu. Tuy nhiên mức lãi nuôi tôm trong ao đất không cao. Người lãi nhiều trên trăm triệu đồng, lãi ít vài chục triệu. Nguyên nhân do người nuôi không dám thả dày kết hợp nuôi cua.

Vụ tôm 2017, nhiều người nuôi ở Khánh Hòa có lãi.

“Với diện tích gần 1ha, tôi chỉ thả khoảng 10 vạn giống/2 vụ, với giá đầu tư 920.000 đồng/vạn con giống, sau khi thu hoạch trừ chi phí còn lãi hơn 50 triệu đồng”, ông Phú chia sẻ.

Ông Nguyễn Phú cho biết qua 2 vụ nuôi tôm hầu hết người nuôi có lãi

Nuôi tôm trong ao đất có mức lãi khiêm tốn, nhưng nuôi ao trải bạt năm nay cho lãi hàng tỷ đồng. Tiêu biểu là hộ anh Lê Minh Chính áp dụng nuôi tôm theo công nghệ biofloc ở khu vực thôn Hang Dơi. Gặp chúng tôi, anh Chính cho biết, vụ 1 gia đình thả 1 triệu giống trong 6.600m2, sau hơn 2 tháng nuôi thu 19 tấn, với kích cỡ tôm đạt từ 40 – 60 con/kg, bán với giá 140.000 đ/kg.

Anh Chính áp dụng nuôi theo công nghệ biofloc.

Còn vụ thứ 2, anh thả 1,5 triệu giống trong 9.600m2, sau 2 tháng nuôi, tôm đạt 70 – 80 con/kg, sản lượng trên 25 tấn, bán với giá 112.000 đ/kg.

Ông Phan Thanh Sinh, Phó Chủ tịch xã Ninh Phú cho biết, toàn xã có khoảng 170ha nuôi tôm, trong đó 4ha nuôi trải bạt. Năm nay ở 2 vụ nuôi bà con đều thả 100% diện tích. Vụ đầu tiên hầu hết người nuôi có lãi, còn vụ thứ 2 đã thu hoạch hơn 50%, trong đó khoảng 15% diện tích có lãi, số còn lại huề vốn.

Tại vùng nuôi tôm ở phường Ninh Giang, người nuôi đã thu hoạch gần kết thúc. Ông Huỳnh Chiếm Đạt, Phó Chủ tịch phường cho hay, toàn phường có 81ha nuôi tôm, qua 2 vụ chỉ có 7,1ha bị dịch bệnh, giảm nhiều so với mọi năm. Số diện tích còn lại bà con thu hoạch đạt 1,5 tấn/ha. Sản lượng cả 2 vụ ước đạt 110 tấn.

“Đây là vụ tôm được mùa hơn mọi năm trước. Việc người nuôi có lãi có thể do thời tiết thuận lợi và tuân thủ thả giống có nguồn gốc, nuôi mật độ thưa. Thêm vào đó, địa phương cũng phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức nhiều lớp tập huấn nuôi tôm an toàn”, ông Đạt chia sẻ.

Tại vùng nuôi tôm trên bạt ở xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh, người nuôi tôm cũng vui mừng không kém vì thu hoạch trúng đậm. Ông Ngô Chín, một người nuôi tôm ở đây cho biết, 2 vụ thả nuôi diễn ra suôn sẻ, rất nhiều hộ lãi tiền tỷ. Gia đình ông có ao nuôi 3.000m2, mỗi vụ thả từ 60 – 80 vạn tôm giống. Sau khi thu hoạch bán sản phẩm, trừ chi phí còn lãi hơn 1 tỷ đồng.

 

 

Nguồn: đã kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

 

 

Để cây cao su phát triển hiệu quả, bền vững

Sau thiệt hại do hai cơn bão liên tiếp xảy ra vào tháng 7 và tháng 10 năm 2017, người trồng cao su trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đang rất băn khoăn về hướng phát triển loại cây này trong những năm tới. Tìm giải pháp để làm sao vẫn phát triển cây cao su trên vùng đất vốn không có nhiều thuận lợi với đặc thù của loại cây này, trong điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt và diễn biến khó lường như hiện nay chính là vấn đề cần được các cấp, ngành quan tâm.

Sau bão số 10, vợ chồng chị Lê Thị Xuân, ở đội 1 thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh cặm cụi thu dọn vườn cây bị bão quật ngã. Hơn 7 sào với khoảng 190 cây cao su của gia đình chưa kịp khai thác, giờ chỉ còn lại một phần nhỏ may mắn chống chịu qua bão, còn phần lớn cây bị gãy đổ, vợ chồng chị Xuân chặt lấy củi, tận dụng chút nào hay chút đó. “Bão số 4 gia đình tôi cũng bị ảnh hưởng nhưng không nhiều như cơn bão số 10 này. Đa phần những cây bị gãy đều đến thời kỳ khai thác, coi như thất thu. Trồng cao su giống như “đánh bạc với trời” vậy, may mắn thuận lợi thì có khi thu tiền triệu mỗi ngày, bằng không thì cũng dễ tay trắng như chơi”, chị Xuân ngậm ngùi nói.

Tỉnh Quảng Trị hiện có hơn 19.945 ha cao su, tăng 570 ha so với cùng thời điểm năm 2016. Sản lượng thu hoạch mủ cao su 6 tháng đầu năm ước đạt 4.617 tấn, là loại cây chủ lực đem lại giá trị kinh tế cao cho người dân. Theo thống kê ban đầu do cơn bão số 10, toàn tỉnh có hơn 2.900 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó huyện Vĩnh Linh là địa phương thiệt hại nặng nhất với hơn 1.900 ha. Có khoảng 981 ha thiệt hại nặng trên 70%, hầu hết tập trung vào các xã vùng Đông Vĩnh Linh như Vĩnh Hiền, Vĩnh Hòa, Vĩnh Kim, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạch…

Hàng ngàn héc ta cao su trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại do bão số 10 gây ra

Huyện Gio Linh cũng là địa phương bị thiệt hại nặng nề với hơn 800 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó có xã như Trung Sơn có đến hơn 600 ha bị thiệt hại. Có nhiều nơi mật độ cây bị tàn phá rất dày, lại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản nên thiệt hại về giá trị kinh tế là rất lớn. Nhiều hộ dân gần như mất trắng vườn cây khi phần lớn cây cao su bị gió bão đánh gãy ngang gốc, không thể phục hồi.

Theo ông Trần Thanh Hiền, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để kịp thời khắc phục thiệt hại, sớm ổn định sản xuất, nhất là đối với người trồng cao su ở các địa phương trong tỉnh, ngành nông nghiệp đã kịp thời tham mưu đề xuất các biện pháp xử lý thích hợp. Riêng đối với diện tích cao su vùng Đông Vĩnh Linh, nhất là các địa phương vùng ven biển có vườn cao su bị thiệt hại trên 70% thì khuyến cáo người dân cần thanh lý, chuyển đổi sang cây trồng khác phù hợp như hồ tiêu, trồng cỏ nuôi bò hoặc các loại cây trồng khác có hiệu quả thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt.

Đối với những vườn cây cao su chưa đến thời kỳ cạo mủ, những cây bị gãy toác thân từ trên xuống hoặc đổ rạp xuống đất thì cần phải cưa bỏ để trồng lại cây mới, không dựng lên phục hồi nữa, vì làm vậy vừa tốn công, tốn tiền mà cây lại cho mủ quá ít, chất lượng kém. Đối với những cây bị gãy ngang thân, cần cưa vát theo góc nghiêng 30 độ ngay chỗ gãy cưa hết phần thân bị gãy xước, sau đó dùng mỡ vaseline bôi vào vết cắt để phục hồi. Đối với vườn cao su kinh doanh bị ảnh hưởng sau bão thì khuyến cáo tạm ngừng khai thác, tập trung chăm sóc và xử lý chờ cây phát triển ổn định trở lại mới khai thác.

Trồng cây cao su ở vùng đất thường xuyên chịu gió bão như Quảng Trị thì đòi hỏi các ngành chức năng phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trong việc định hướng cho người dân các khâu từ chọn giống, kỹ thuật trồng, thời điểm khai thác phù hợp để hạn chế thấp nhất thiệt hại do bão gây ra. Theo các nhà khoa học khuyến cáo, cần lựa chọn các giống rễ sâu, tán thấp, thân to, nên sử dụng các cây giống ươm trong bầu, có khả năng chịu được gió, rút ngắn được thời gian khai thác như GT1, PB 255, PB 260, RRIM 600… Ngoài việc mở rộng diện tích trồng thì cần quan tâm đến việc trồng các loài cây thân gỗ như cây keo có khả năng chống chịu gió làm vành đai chắn bão. Trên thực tế, đối với các vườn cao su tiểu điền hiện nay trong toàn tỉnh, hầu như người dân chưa quan tâm đến vấn đề này.

Ngoài ra, khi kiến thiết vườn cây cao su, người dân cần tránh trồng mật độ quá dày theo truyền thống (bình quân 500 – 550 cây/ha), bởi như vậy sẽ tạo nên sức cản gió lớn khiến cây nhanh chóng gãy đổ khi gặp bão. Ngoài ra, người trồng cao su cần tuân thủ việc cạo mủ theo đúng quy trình kỹ thuật, cạo hai ngày, nghỉ một ngày, không nên khai thác theo kiểu tận thu. Đối với vườn cao su đang giai đoạn kiến thiết cơ bản thì tăng cường bón phân để cây chắc rễ, chống chịu được với gió bão. Hiệu quả kinh tế mà cây cao su mang lại cho người trồng cao su trong tỉnh những năm qua đã được chứng minh.

Trong đề án tái cơ cấu các ngành kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2017 – 2020, tỉnh đặt ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu tăng diện tích trồng cao su lên 21.000 – 22.000 ha, sản lượng khai thác đạt từ 20.000 – 25.000 tấn. Để tiếp tục phát triển hiệu quả cây cao su tại địa phương, các cấp, ngành chức năng cần có những giải pháp mang tính lâu dài, cần điều chỉnh lại quy hoạch để xác định chỗ nào nên trồng, chỗ nào cần loại bỏ, hướng dẫn người trồng cao su nghiêm túc thực hiện cơ cấu giống và quy trình kỹ thuật áp dụng cho khu vực duyên hải miền Trung đã được Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam khuyến cáo, ban hành… nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại khi có thiên tai xảy ra.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Tìm hướng đi mới cho nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên

Để phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững thì phải có quy hoạch chi tiết và quản lý quy hoạch này; không để xảy ra việc nuôi tự phát của người dân.

Trước tình trạng vùng nuôi tôm hùm liên tục bị thiệt hại thời gian qua do ô nhiễm, ngày 16.8, tại TP.Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên phối hợp Bộ NN-PTNT tổ chức hội thảo bàn giải pháp quy hoạch chi tiết và quản lý nuôi tôm hùm bền vững ở địa phương.

Nghề nuôi tôm hùm ở Phú Yên phát triển từ những năm 1990, từ năm 2000 tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển nghề nuôi trồng này và TX.Sông Cầu được xem là vùng nuôi tôm hùm trọng điểm. Ông Lương Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND TX.Sông Cầu, cho biết hiện ở địa phương có hơn 2.142 hộ nuôi tôm hùm với khoảng 16.000 lồng nuôi tôm thương phẩm, sản lượng hơn 600 tấn/năm với doanh thu khoảng 500 – 600 tỉ đồng. Nghề nuôi này đã đóng góp đáng kể vào nền kinh tế – xã hội của địa phương.

Nuôi tôm hùm ở Sông Cầu, Phú Yên

Quản lý lỏng lẻo

Tuy nhiên, vùng nuôi tôm hùm ở xã Xuân Phương và Xuân Yên (TX.Sông Cầu) liên tiếp 2 năm liền bị chết, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm. Theo ông Nguyễn Tri Phương, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, mật độ nuôi ở đây gấp 4 lần so với quy định. “Đó là do chúng ta không quản lý, thả lỏng việc nuôi tôm hùm ở vùng này”, ông Phương nói và thừa nhận về quản lý chỉ mới khoanh vùng, chứ chưa giao mặt nước cho người dân. Trong khi đó, những tồn tại hiện nay của nghề nuôi tôm hùm tại Phú Yên là nguồn giống vẫn khai thác tự nhiên nên không đủ cung cấp, phải nhập tôm hùm giống nước ngoài nhưng kiểm soát không tốt; thức ăn chính từ nguồn khai thác cá tạp tươi, ốc, sò, cua ghẹ… góp phần gây ra ô nhiễm môi trường; thị trường tiêu thụ chủ yếu là Trung Quốc.

Ông Trần Minh Phương ở xã Xuân Cảnh (TX.Sông Cầu) khẳng định nghề nuôi tôm hùm đã tạo ra nguồn thu lớn, thay đổi đời sống nhưng rủi ro nghề này càng ngày càng tăng cao vì phụ thuộc vào thị trường và tôm chết bất ngờ. Hơn nữa, người dân phát triển lồng nuôi tôm hùm rất nhanh, dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường. Vì vậy, đề nghị chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ.

Ô nhiễm từ cách nuôi

Ông Võ Minh Khôi, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), cho biết khi đi khảo sát vùng tôm chết tại P.Xuân Yên và xã Xuân Phương (TX.Sông Cầu) thì thấy nghịch lý là tôm đang chết nhưng người dân vẫn đưa lồng ra vịnh Xuân Đài để thả mới. “Đây là vấn đề nan giải”, ông Khôi lo lắng.

Về nguyên nhân gây ra tôm hùm chết trong tháng 6 vừa qua, theo ông Phan Hữu Đức, Phó giám đốc thú y Vùng 4, Cục Thú y (Bộ NN-PTNT), là do ô nhiễm chất hữu cơ, dẫn đến làm giảm hàm lượng ô xy hòa tan ở cả tầng mặt nước và tầng đáy khu vực nuôi. Cũng do ô nhiễm chất hữu cơ đã tạo thuận lợi cho vi khuẩn, sinh vật phù du phát triển mạnh. “Số lượng lồng nuôi quá nhiều so với quy hoạch do người dân tự phát. Mật độ nuôi dày, lượng thức ăn tươi sống mỗi ngày đổ xuống vịnh từ 15 – 20 xe container (tương đương 400 tấn thức ăn tươi sống là cá giã cào, ốc, cua, ghẹ…) liên tục trong thời gian dài dẫn đến môi trường ô nhiễm nặng, nhiều chỉ tiêu thủy hóa vượt ngưỡng cho phép”, ông Đức nói, đồng thời chỉ ra việc quy hoạch chưa sát với thực tế nên vị trí quy hoạch làm vùng nuôi thì người dân không nuôi vì cho rằng không thích hợp với dòng chảy, vị trí không quy hoạch thì người dân lại đem lồng đến nuôi.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, cho biết đã tiến hành khảo sát vùng nuôi tôm hùm vịnh Xuân Đài (vùng nuôi tôm bị ô nhiễm nặng vừa qua) thì phát hiện nước thải từ các hồ nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi ốc hương, rác thải sinh hoạt của người dân đều đưa xuống vịnh Xuân Đài. Về lượng thức ăn cung cấp, nếu 8 kg thức ăn cho 1 lồng/ngày thì riêng ở xã Xuân Phương là 49 tấn/ngày, còn P.Xuân Yên khoảng 50 tấn/ngày… Thức ăn thừa trong lồng đều đổ xuống vịnh Xuân Đài. “Như vậy, vịnh Xuân Đài đã oằn mình gánh một lượng chất thải kinh khủng mỗi ngày”, bà Hòa nói.

Tôm hùm chết hàng loạt

Cần kiểm soát toàn diện

Ông Võ Minh Khôi cho biết nghề nuôi tôm hùm phát triển chủ yếu ở Khánh Hòa, Phú Yên. Số lượng lồng tăng 1,5 lần, nhưng nghịch lý là sản lượng giảm. Hiện nay có 4 loại tôm hùm, nhưng người dân nuôi chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Ông Khôi xác định việc phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm có nhiều yếu tố, đó là con giống, môi trường vùng nuôi, thị trường.

Vẫn theo ông Khôi, hiện nhu cầu tôm hùm giống hằng năm ở VN khoảng 24 triệu con, nguồn tôm tại địa phương chỉ đáp ứng khoảng 9 triệu con nên phải nhập tôm hùm giống nước ngoài về qua đường tiểu ngạch. “Qua tìm hiểu, chưa có cơ sở nào đăng ký nguồn tôm hùm giống. Nếu quản lý tốt sẽ tránh trường hợp tôm hùm giống trôi nổi. Nếu không kiểm soát được thì nguy cơ dịch bệnh rất cao, chất lượng tôm sẽ ảnh hưởng”, ông Khôi nói. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm hùm tương đối bấp bênh. Khi thị trường Trung Quốc “ăn” thì giá cao, ngược lại là giá rớt thê thảm. Giá trị xuất khẩu từ tôm hùm khoảng 40 triệu USD/năm. Quy hoạch đã có nhưng chưa đầy đủ, giám sát chưa sâu sát nên gây ra yếu tố ô nhiễm cục bộ, khiến tôm hùm chết.

PGS-TS Nguyễn Phú Hòa cho biết muốn vùng nuôi tôm hùm không bị ô nhiễm thì thức ăn thừa trong lồng, bè phải thu gom, đem vào bờ xử lý. “Nếu người dân đưa toàn bộ thức ăn thừa vào thì chứa ở đâu. Đây là chuyện địa phương phải tính đến”, bà Hòa nói. Bà Hòa cũng khuyến cáo không nên nuôi vẹm xanh ở khu vực nuôi tôm hùm vì như thế sẽ dẫn đến cạnh tranh về ô xy, khiến tôm hùm thiếu ô xy, đặc biệt là vào ban đêm hay thời tiết bất thường theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, tôm thẻ chân trắng cũng là nguy cơ lây nhiễm bệnh cần lưu ý. “Nếu tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh thì phải xử lý triệt để trong hồ không được xả ra bên ngoài”, bà Hòa nói.

Quy hoạch nuôi tôm gắn với du lịch

Ông Lương Minh Sơn, Phó bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, cho biết những vùng biển ở các huyện ven biển Phú Yên có nhà cao tầng, đó là nhờ nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, trong đó có nghề nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hiện các vùng nuôi này ô nhiễm nên đề nghị các ngành chức năng đề xuất giải pháp làm sao giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi tôm hùm ở Phú Yên, quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển du lịch, vì những vùng nuôi này đều là danh lam, thắng cảnh quốc gia. Làm sao có cơ chế quản lý, có quy hoạch chi tiết cho ngành nuôi tôm hùm ở Phú Yên.

Đảo Bình Ba, Khánh Hòa là nơi từng thực hiện thành công mô hình nuôi tôm hùm kết hợp du lịch

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm

Ngày 21-7, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, Trưởng bộ môn nuôi thủy sản nước mặn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản (Trường Đại học Nha Trang) cho biết, ông và các cộng sự đã sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm bông và tôm hùm xanh. Đó là kết quả của dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (Panulirus homarus)”. Dự án thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2011 – 2015, do Trường Đại học Nha Trang chủ trì và Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng làm chủ nhiệm.

Tôm hùm bông sử dụng thức ăn công nghiệp.

Theo Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lại Văn Hùng, thức ăn dự án sản xuất có hàm lượng protein chiếm 55-56%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn (FCR) 4,5-4,6 đối với tôm hùm bông giai đoạn giống và thương phẩm; protein 52-53%, lipid 8-9%, hệ số thức ăn là 4,3-4,4 đối với tôm hùm xanh giống và thương phẩm. Qua quá trình nuôi thử nghiệm tôm hùm bằng thức ăn công nghiệp cho thấy tôm hùm sử dụng thức ăn tốt, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, hệ số thức ăn thấp, tỷ lệ sống cao; các chỉ số đều tốt hơn so với thức ăn truyền thống (cá tạp) đang được sử dụng hiện nay. Thức ăn công nghiệp đã được các hộ nuôi tôm hùm Khánh Hòa cũng như một số tỉnh Nam Trung Bộ sử dụng và đánh giá cao.

Việc sản xuất thành công thức ăn công nghiệp cho tôm hùm của dự án sẽ mở ra triển vọng sử dụng thức ăn công nghiệp cho tôm hùm thay thế nguồn thức ăn cá tạp, từ đó, góp phần phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững tại Việt Nam.

Quá trình sản xuất thức ăn viên cho tôm hùm

Dự án trên kế thừa kết quả đã đạt được từ đề tài “Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng, công thức và công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông và tôm hùm xanh” được thực hiện trước đó.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ copefloc cho năng suất cao

Copefloc sử dụng copepods (giáp xác chân chèo), các hạt biofloc và các động vật thân mềm sống đáy (giun nhiều tơ,…) như là một nguồn thức ăn chính yếu cho tôm nuôi và hoàn toàn không sử dụng thức ăn viên công nghiệp.

Công nghệ Copefloc – công nghệ gây nuôi thức ăn tự nhiên

Để gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ Copefloc cho năng suất cao, sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1.2 – 1.5 m, tiến hành gây nuôi copepods, các loài phiêu sinh động vật, giáp xác nhỏ khác (krill) và động vật thân mềm sống đáy (barnacle, giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ, và các loài động vật thân mềm sống đáy khác) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học (probiotics).

Tuyệt đối không cung cấp nguồn copepods hay các sinh vật khác từ bên ngoài vào ao nuôi để tránh trường hợp chúng mang mầm bệnh vào ao nuôi, tất cả các loài thức ăn tự nhiên có trong hệ thống nuôi tự nó sẽ phát triển khi có các điều kiện thích hợp. Cám gạo được cho vào trong chậu (bể) lớn, cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 – 48 giờ.

        Giun nhiều tơ và các loài động vật thân mềm sống đáy trong ao nuôi copefloc

Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài (dạng giống như ống bơm nước), chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men với probiotic lan tỏa khắp ao nuôi. Ao nuôi được sụt khí liên tục trong thời gian từ 7 – 10 ngày trước khi thả giống tôm.

Sử dụng cám gạo lên men ban đầu với liều lượng khoảng 300 kg hoặc 30 ppm trên 1 hecta để gây tạo thức ăn tự nhiên trong ao. Cám gạo lên men sẽ là nguồn thức ăn cho copepod, động vật thân mềm và các loài sinh vật khác trong ao.

Trong quá trình nuôi không cần cho ăn; thay vào đó người nuôi phải quản lý, duy trì quần thể và mật độ thức ăn tự nhiên, lượng biofloc trong ao nuôi. Thu mẫu và tính toán mật độ copepod hằng ngày bằng cách dùng xô, chậu lấy 50 – 100 lít nước ở các vị trí khác nhau trong ao nuôi.

     Đây là nguồn dinh dưỡng tự nhiên rất tốt cho tôm nuôi. 

Sau đó lọc qua lưới phiêu sinh, kích thước mắt lưới 50 – 70 µm, cho vào lọ 60 ml, cố định bằng formol 2 – 4%. Dùng pipet lấy 1 ml và đếm dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 10X, 40X, bằng phương pháp di chuyển buồng đếm theo tọa độ. Từ đó tính toán được mật độ của copepod và điều chỉnh lượng chế phẩm sinh học bón xuống ao làm thức ăn cho copepod và sinh vật trong ao nuôi.

Để kích thích sự hình thành và duy trì tính ổn định của biofloc, cần bổ sung biofloc mồi và bổ sung nguồn cacbon vào hệ thống nuôi. Có rất nhiều nguồn cung cấp cacbon: bột ngũ cốc, mật rỉ đường, bột bã mía, rơm, cỏ. Duy trì hàm lượng biofloc < 1 ml/l trong suốt chu kỳ nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Những lợi ích của giun (trùn) đất

Mỗi ngày một con giun đất có thể tạo ra lượng phân bằng trọng lượng nó

  • GIUN ĐẤT có thể tạo ra thêm nhiều phân bón hơn những phương pháp khác. Phân giun có giá trị dinh dưỡng cao gấp 5 lần về ni tơ, gấp 7 lần Lân, gấp 3 lần Mg, gấp 2 lần Cacbon, 1,5 lần Calcium, 11 lần Kali.
  • Việc phát hiện ra lợi ích của GIUN ĐẤT đã có từ rất lâu trong lịch sử. Người Hy Lạp cổ đại đã từng nhắc đến vai trò của GIUN ĐẤT trong việc cải tạo đất đai. Nhà triết học Aristole so sánh giun như là” bộ máy tiêu hóa của trái đất”.
  •  Người Ai Cập cổ đại đó là nữ hoàng Cleopatra cũng đã nhận ra vai trò của GIUN ĐẤT và được tôn thờ như một vị thần. Người nào mang GIUN ĐẤT ra khỏi Ai Cập có thể bị xử tử. Người nông dân Ai Cập cổ đại thậm chí còn không dám đụng vào giun vì sợ vì thần đất trừng phạt. Năm 1949 một nghiên cứu cho rằng mức độ màu mỡ của sông Nin có được là nhờ một phần rất lớn của GIUN ĐẤT.
  • Charle Darwin ( 1809-1882) đã nghiên cứu hơn 40 năm về GIUN ĐẤT để viết lên quyển sách nổi tiếng “Sự hình thành mùn thông qua quá trình hoạt động GIUN ĐẤT”. Darwin nói rằng “ Không có sự nghi ngờ nào nữa rằng nhiều loại động vật có vai trò trong lịch sử trái đất là những loài sinh vật có tổ chức rất đơn giản”.

Vậy bạn có biết GIUN ĐẤT có những vai trò nào nữa không ?

Giun đất

  • Giun giúp đất trồng trở nên thông thoáng, những đường di chuyển của chúng giúp cho nước ngấm sâu vào trong đất, tránh xói mòn. Nó cũng giúp đất trở nên mềm mại hơn, rễ cây dễ thâm nhập sâu hơn.
  •  GIUN ĐẤT cân bằng độ pH trong đất, phân của chúng giúp tăng độ kiềm trong đất.
  • Giun thường có khuynh hướng đào sâu vào nền đất rồi đùn phân lên phía mặt trên
  •  Giun giúp giải quyết vấn đề rác thải hữu cơ, so với những phương pháp khác giun giúp phân hủy nhanh gấp 4 lần.
  • Mật độ giun trong đất cao cũng tạo môi trường thuận lợi cho các vi sinh vật có lợi giúp hạn chế tuyến trùng và nấm gây hại trong đất

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi trùn quế làm giàu

Tình cờ anh Hồ Văn Tây, 39 tuổi, một chủ trang trại ở Diên Xuân (Diên Khánh, Khánh Hòa) học được nghề nuôi trùn quế từ một người bạn Việt kiều ở Úc. Và nghề nuôi trùn quế đã giúp anh làm giàu sau bao lần thất bại trong kinh doanh.

nuôi trùn quế làm giàu

Anh Tây đưa tôi đi xem trang trại nuôi trùn quế của anh trên một ngọn đồi nhỏ, bạt ngàn mía và cỏ voi thuộc thôn Xuân Nam, xã Diên Xuân. Hàng dãy nhà lá nối tiếp nhau chạy dài như một nhà máy lớn. Bên trong từng căn nhà, các ô nuôi trùn xếp bằng gạch, nối tiếp nhau dày đặc một màu đen toàn phân và phân. Một công nhân đang tưới giữ ẩm cho các ô nuôi trùn. Anh Tây chỉ vào một ô nuôi, hồ hởi: “Nuôi trùn rất thú vị, phân bò đưa vào đây chỉ trong 10 – 15 ngày, con trùn đã biến phân sống thành phân vi sinh, bón rất tốt cho cây trồng. Con trùn quả là một nhà máy chế biến tuyệt vời…”.

Được biết, phân trùn là chất dinh dưỡng tuyệt vời đối với cây trồng. Phân chuồng sau khi qua “công đoạn” xử lý của trùn đã trở thành thức ăn bổ dưỡng, rất dễ hấp thụ đối với cây trồng. Chính vì vậy, trang trại của anh bán rất chạy loại phân này. Hiện nay, nguồn thu nhập chính từ trang trại là bán phân trùn. Mỗi tháng trang trại có thể sản xuất từ 15 – 20 tấn phân trùn. Với giá bán hiện tại 2.000 đ /kg, anh Tây thu về một nguồn lợi không nhỏ. Anh Tây cho biết, thị trường tiêu thụ phân trùn rộng khắp, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, hiện nay trang trại không đủ sức cung cấp cho thị trường. Phân trùn có thể bón cho rất nhiều loại cây trồng: từ cây lương thực (lúa, màu), cây ăn quả (thanh long, cam, bưởi…), cây công nghiệp (cà phê, chè, tiêu, cao su…), đến cả cây cảnh; đây cũng là loại phân cao cấp không sợ bị lạm dụng. Dân trồng laghim ở Đà lạt (Lâm Đồng) rất thích tìm mua loại phân này. Để phát triển thị trường, anh Tây mua thiết bị chế biến phân, in bao bì (25 kg) và lập nhà kho để chứa phân.

Nuôi trùn quế rất đơn giản, sau khi đem phân bò về, lượm rác, sỏi đá, tạp chất; dùng thuốc xử lý vi khuẩn, mầm bệnh; đưa vào ô nuôi, tưới giữ ẩm và chờ ngày “ra” thành phẩm. Sản phẩm bao gồm: trùn quế (sinh khối) và phân vi sinh. Cả 2 đều có thể bán. Giá trùn quế sinh khối hiện tại 9.000 đ /kg, là thức ăn cao cấp của các loài tôm, cá, ba ba, heo, gà… Tuy nhiên, hiện nay việc bán sinh khối gặp khó khăn về đầu ra nên trang trại chủ yếu bán phân vi sinh và sinh khối cho các hộ có nhu cầu. Để có thức ăn cho trùn, mỗi tháng anh Tây mua khoảng 20 m3 phân chuồng, chủ yếu là phân bò ở các nơi về với giá từ 40 – 50 ngàn đồng /m3. Anh cho biết, tiền lãi nuôi trùn quế từ đầu năm đến nay đã lên tới 150 triệu đồng. Có thể nói, trùn quế là đối tượng nuôi kinh tế xếp đầu bảng, vượt xa các đối tượng nuôi khác trong nông nghiệp. Đến nay, anh Tây đã xây dựng được 10 trại nuôi, mỗi trại có diện tích 100 m2. Lượng sinh khối lên tới vài chục tấn. Để duy trì sản xuất, anh thuê 12 người giúp việc để nuôi trùn, trồng cỏ voi (1 ha) và chăm sóc đàn bò (70 con), thu nhập mỗi lao động từ 1 – 1,2 triệu đồng /tháng.

Được biết, ở nước ngoài, nghề nuôi trùn quế rất phát triển và con trùn được chế biến thành nhiều sản phẩm cao cấp như: trà trùn, biscuis trùn và phân trùn cũng là phân vi sinh cao cấp. Anh Tây cho biết, tổng vốn đầu tư vào trại trùn quế đến nay đã lên đến 500 triệu đồng nhưng anh rất tin tưởng vào tương lai của nghề này. Hiện tại, nhiều đơn vị trong đó có Công ty Cao su Việt Lào (Gia Lai) đang đặt vấn đề mua phân vi sinh của anh với số lượng lớn nhưng do khả năng còn yếu nên anh chưa dám nhận đơn đặt hàng vì sợ đáp ứng không đủ. Anh dự định sẽ mở rộng trại trùn lên 5.000 m2 để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Thu siêu lợi nhuận từ trồng chanh dây

Nhiều năm nay, hàng ngàn bà con nông dân một số tỉnh như Lâm Đồng, Gia Lai, Đăk Nông… trồng chanh dây cho thu nhập “siêu lợi nhuận”

Chanh dây mang lại hiệu quả kinh tế cao

Tại Lâm Đồng nói chung các tỉnh như Gia Lai, Đăk Nông nói riêng, cây chanh dây được bà con nông dân hồ hởi trồng chủ yếu là loại giống nhập khẩu từ Đài Loan. Giống này nếu chăm sóc tốt cho năng suất bình quân 70 – 100 tấn/ha/năm, với giá cả thị trường từ 15.000 – 17.000 đ/kg, sau khi trừ chi phí thì người trồng chanh dây thu được lãi thuần từ 500 – 700 triệu đ/ha/năm, chu kỳ canh tác hiệu quả nhất không quá 2 năm.

Với việc trồng chanh dây đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, kiểm soát được sâu bệnh hại và chu kỳ từ khi trồng đến khai thác xong không vượt quá 2 năm, sẽ cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với một số loại cây trồng khác, nhất là với những địa phương cần chuyển đổi cơ cấu cây trồng.

Để đưa cây chanh dây trở thành cây trồng chủ lực và đảm bảo nguồn nguyên liệu sạch, chất lượng cao phục phụ chế biến xuất khẩu đi thị trường châu Âu, hơn 5 năm trở lại đây Cty CP Nông Nghiệp Đông Phương – TP.HCM đã ký hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm với bà con nông dân nhằm chuyển giao giống, kỹ thuật giúp bà con nông dân canh tác loại giống chanh dây nhập khẩu từ Đài Loan đạt hiệu quả kinh tế cao.

Tại Đắk Nông, công ty liên kết bao tiêu khoảng gần 100 ha chanh dây tím nhập khẩu từ Đài Loan, được phân bố ở các huyện Đắk R’lấp, Krông Nô, Đắk Glong, Chư Jút, thị xã Gia Nghĩa…

Chi chi phí đầu tư cho một ha chanh dây khoảng 70 – 100triệu đồng gồm tiền mua giống, kẽm gai, trụ… để làm giàn và công chăm sóc cũng khá đơn giản chỉ cần chăm chỉ thăm nom, nếu thấy xuất hiện sâu bệnh thì xử lý kịp thời để phòng trừ và sau trồng 5-7 tháng là bắt đầu cho thu hoạch với năng suất bình quân khoảng 70 – 100 tấn một ha. Có hộ chăm sóc tốt còn đạt năng suất lên tới gần 130 tấn/ha.

Khuyến cáo với bà con nông dân: Rủi ro tiềm ẩn!!

Chia sẻ kinh nghiệm của Ths.Trần Văn An –Giám đốc Trung Tâm Khảo Nghiệm giống chanh dây thuộc CTY Phương cho rằng “Hiện nay, trồng chanh dây đang hấp dẫn nhiều hộ nông dân ở Đắk Nông, Gia lai, Lâm Đồng,  do hiệu quả kinh tế rất cao . Tuy nhiên, chúng tôi khuyến cáo bà con nông dân có ý định trồng chanh dây hoặc đang trồng cần phải lưu ý những vấn đề như “chọn đúng giống, phát hiện sâu bệnh kịp thời , thị trường tiêu thụ và chế biến”.

Bài học làm kinh nghiệm:

“Vào năm 2010 nhiều người trồng chanh dây ở các địa phương đã chạy đôn, chạy đáo mua các loại thuốc về phun trên cây, lá, xịt xuống gốc nhưng dịch bệnh vẫn không hết. Vì vậy, nhiều vườn chanh dây đang xanh tốt thì bị nhiễm bệnh lá chuyển sang màu vàng rồi rụng dần cả lá lẫn trái và chết toàn bộ, nhất là những vùng trước đây đã trồng chanh dây nhưng xử lý đất chưa kỹ, gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho người trồng chanh dây. Nhiều hộ dân đã thiệt hại nặng nề, có hộ đã phá sản vì cây chanh dây.

Nguyên nhân chủ yếu do việc trồng ồ ạt. Nhiều đơn vị, hộ dân tự ý cấy ghép, nhân giống không thông qua đơn vị kiếm soát, bán giống để kiếm lời trước mắt. Bà con nông dân ham rẻ mua phải những cây bị bệnh mà không biết. Diện tích trồng chanh dây tự phát và vượt quá mức kiểm soát, giống cây trồng không bảo đảm chất lượng … Hơn nữa đa số các hộ dân tự phát trồng đều không qua lớp tập huấn kĩ thuật nào, chỉ là dân “tay ngang” thấy người khác trồng có hiệu quả thì làm theo, vườn chanh dây không mắc bệnh cũng sẽ chậm phát triển, năng suất khó đạt như mong muốn”.

Trước thực trạng chanh dây đang được bà con nông dân trồng trở lại. Tránh tình trạng chặt trồng, trồng chặt đã là điệp khúc khi đề cập đến một số cây trồng khác, hay hạn chế dịch sâu, bệnh hại.

Vì vậy, bà con nông dân cũng cần tìm hiểu cặn kẻ trước khi đầu tư , đặc biệt: Chọn giống và nguồn gốc giống là rất cần thiết, phải thường xuyên hiễm tra và phát hiện kịp thời sâu hại , bệnh hại để xử lý kịp thời,

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ớt ngăn ngừa và chữa chứng loét dạ dày

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã công bố một báo cáo mới bất ngờ về công dụng của ớt, theo đó ớt là thức ăn tốt cho những người bị loét dạ dày.

Theo báo cáo nói trên, ớt không những không gây loét dạ dày như người ta vẫn tưởng, ngược lại có thể ngăn ngừa hoặc làm lành chỗ bị loét.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được trong quả ớt có chất capsaicin có tác dụng ngăn chặn việc tạo ra axít chua, kích thích quá trình tạo kiềm và tăng lượng máu chảy vào niêm mạc dạ dày giúp ngăn ngừa tình trạng loét hoặc làm lành những vết loét.

Những nhà nghiên cứu trên còn dẫn một nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ bị loét dạ dày ở những người ăn nhiều ớt thấp 3 lần so với những người ăn ớt trung bình và chất capsaicin có tác dụng kích thích các tế bào thần kinh trong dạ dày tăng cường bảo vệ chống lại những kích thích có thể gây loét dạ dày.

 Ớt ngăn ngừa và chữa chứng loét dạ dày

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Cà chua biến đổi gene giúp ngăn bệnh tim

Các nhà khoa học đã trồng một loại cà chua đã được biến đổi gene, tạo ra một chuỗi axit amin giúp giảm bớt các điểm tụ máu trên động mạch chuột.


Loại cà chua biến đổi gene có thể ngăn được bệnh tim

Kết quả nghiên cứu này đã được công bố trong cuộc họp của Hội tim mạch Mỹ năm 2012. Theo đó, loại cà chua GM có thể tạo ra 6F, một chuỗi axitamin nhỏ, có khả năng bắt chước hoạt động của ApoA-1, một protein chính trong nhóm lipoprotein nồng độ cao. Họ đã sử dụng chuỗi axit amin này cho những chú chuột không có khả năng loại bỏ những lipoprotein nồng độ thấp và cho chúng ăn theo một chế độ ăn nhiều chất béo.

Các nhà khoa học phát hiện ra rằng những chú chuột có chế độ dinh dưỡng bao gồm cà chua GM có tỉ lệ nhiễm trùng máu thấp hơn, các enzyme chống ô-xi hóa làm tăng số lượng lipoprotein nồng độ cao, giảm axit Lysophospatidic và ít mảng xơ vữa động mạch hơn.

“Đây là lần đầu tiên chúng tôi tìm ra được một loại thuốc có những đặc tính này trên một loại thực vật có thể ăn được và phát huy được tác dụng mà không cần chiết tách”, tác giả của công trình nghiên cứu, tiến sỹ Alan M. Fogelman cho biết.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam