Nghệ An: Chính thức dãn nhãn tem truy xuất điện tử cho cam vinh

Thông tin từ Sở KH&CN Nghệ An cho biết, đã có 120 nghìn tem truy xuất nguồn gốc cam Vinh được HTX Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Tấn Thanh và HTX sản xuất dịch vụ cam Phùng Huyền đăng ký để dán lên sản phẩm, bán ra thị trường.

Thông tin từ Sở KH&CN Nghệ An cho biết, đã có 120 nghìn tem truy xuất nguồn gốc cam Vinh được HTX Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Tấn Thanh và HTX sản xuất dịch vụ cam Phùng Huyền trên địa bàn xã Minh Hợp, huyện Quỳ Hợp đăng ký để dán lên sản phẩm, bán ra thị trường.


Qua tem điện tử, khách hàng có thể tra cứu nguồn gốc sản phẩm qua điện thoại thông minh.

Thông qua nhãn tem này, khi người tiêu dùng kiểm tra truy xuất điện tử sẽ cho thông tin: Tên sản phẩm, giống cam, quy cách đóng gói, bảo quản, ngày thu hoạch; hạn sử dụng; phân loại chất lượng, thông tin cảnh báo; quy trình sản xuất, địa chỉ sản xuất, diện tích, số lượng, thời gian gieo trồng; Tên tổ chức, cá nhân đại diện, địa chỉ giao dịch, điện thoại giao dịch, email và thông tin phân phối cũng được đơn vị chức năng tiến hành thẩm định, in đầy đủ trên mỗi nhãn tem Cam Vinh.

Quy trình thẩm định, cấp phép in ấn tem truy xuất điện tử cam Vinh sẽ được giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng.

Nguồn: Báo Khoa học và phát triển được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vào vụ dưa hấu Tết

Năm nay, vùng chuyên canh dưa hấu xã Lý Văn Lâm, TP Cà Mau xuống giống vụ dưa phục vụ Tết Nguyên đán được 73 ha, tăng 13 ha so với năm trước. Vùng xuống giống tập trung chủ yếu ở các ấp: Thạnh Điền, Bào Sơn, Bà Điều và ấp Chánh.

Nhiều thuận lợi

Năm nay, những giống dưa được người dân đưa vào canh tác như Hương nông, Trung nông, An Tiêm, dưa vỏ vàng, dưa Mỹ, dưa hạt lép, không hạt, đây là những giống dưa cho năng suất và chất lượng cao. Đồng thời, người dân cũng sử dụng màng phủ sinh học để hạn chế cỏ dại và giảm chi phí công tưới nước, giúp dưa hấu phát triển tốt hơn.

Có kinh nghiệm trồng dưa hấu hơn 20 năm, là một trong những người tiên phong trồng dưa hấu tại địa phương, ông Lê Văn Thanh (ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm) chia sẻ: “Trồng dưa hấu đươc xem là nghề “hốt bạc” dịp Tết vì điều kiện đất đai ở đây phù hợp với loại dưa này. Vài năm trở lại đây, dưa hấu đem lại lợi nhuận khá cao, nhất là vào dịp Tết nên bà con rất phấn khởi và yên tâm mở rộng diện tích”.

Hiện số hộ tham gia trồng dưa hấu tại vùng chuyên canh xã Lý Văn Lâm tăng lên 108 hộ. Hội Nông dân cũng mở các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật như: xử lý hạt giống, bón phân, tạo mầm hoa, chọn trái, nuôi trái… giúp nông dân áp dụng vào thực tiễn sản xuất đạt hiệu quả.

Năm nay, giá giống, phân bón và giá nhân công khá ổn định nên người trồng dưa cũng yên tâm về các yếu tố đầu vào. Cộng thêm thời tiết đầu vụ khá thuận lợi, mưa rào nhẹ, tạo điều kiện cho ruộng dưa phát triển tốt.

Ông Lê Văn Đa (ấp Chánh, xã Lý Văn Lâm) cho biết: “Năm rồi tôi trồng 3 công, năm nay có kỹ sư vô hướng dẫn kỹ thuật nên tôi trồng thêm 3 công nữa. Lúc mới xuống giống nước dâng cao, tôi cố gắng be bờ, giữ được nước nên dưa rất tốt, ít sâu rầy. Mỗi công dưa cho trên 3 tấn trái. Nếu giá cả ổn định và thời tiết thuận lợi đến khi thu hoạch thì mỗi công có thể thu lời trên 20 triệu đồng”.

Anh Nguyễn Văn Phong (xã Tân Lộc, huyện Thới Bình) cho biết: “Vào vụ dưa hấu đi làm công một ngày được 200.000 đồng, làm suốt 3 tháng cũng có tiền trang trải trong gia đình, sắm sửa chuẩn bị Tết”.

Tăng nhanh diện tích trồng dưa chuẩn VietGAP

Để giúp người dân nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm thấp nhất thiệt hại do ảnh hưởng của thời tiết, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Cà Mau phối hợp Phòng Kinh tế TP Cà Mau triển khai thí điểm Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất dưa hấu đạt tiêu chuẩn VietGAP tại xã Lý Văn Lâm, TP Cà Mau”. Đây là mô hình thí điểm trồng dưa đạt tiêu chuẩn VietGAP đầu tiên tại tỉnh Cà Mau. Dự án triển khai thực hiện năm 2016 với diện tích ban đầu là 4 ha, đến nay đã nhân rộng thêm 17 ha với 21 hộ dân tham gia.

Ươm hạt giống dưa hấu theo tiêu chuẩn VietGAP để chuẩn bị đưa xuống ruộng.
Ông Nguyễn Đông Dương, Giám đốc HTX Lý Văn Lâm, cho biết: “Trồng dưa theo tiêu chuẩn VietGAP sẽ hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng phân bón, góp phần giảm thiểu chi phí đầu vào. Đặc biệt là phải đạt tiêu chuẩn từ khâu chọn giống, chăm sóc nên dưa VietGAP sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao, sản phẩm đảm bảo an toàn so với dưa hấu trồng theo cách truyền thống, được đưa vào siêu thị với giá 10.000 đồng/kg. Với diện tích dưa hấu VietGAP được mở rộng, năm nay sản lượng sẽ cao gấp 3-4 lần so với năm trước”.

Hiện Hội Nông dân xã phối hợp với Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Cà Mau tích cực hỗ trợ người dân kỹ thuật chăm sóc ruộng dưa, chủ động đủ nguồn nước tưới tiêu và thực hiện các biện pháp phòng trừ sâu bệnh, nhằm giúp ruộng dưa phát triển tốt, đạt năng suất cao.

Ông Nguyễn Văn Nhàn, Chủ tịch Hội Nông dân xã Lý Văn Lâm, phấn khởi: “Trồng dưa hấu được xem là mô hình sản xuất mang lại hiệu quả cao, nhiều hộ đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu từ cây trồng này. Vụ dưa này trung bình mỗi công chi phí đầu tư từ 4-5 triệu đồng, nếu giá cả bình ổn như mọi năm thì người trồng dưa có thể thu lời trên 15 triệu đồng/công, không chỉ giúp thương hiệu dưa hấu Lý Văn Lâm ngày càng phát triển mà còn giúp người dân đón Tết sung túc hơn”.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

 

Mùa kiệu Tết: Cung thấp, cầu cao

Những ngày này, về các vùng trồng kiệu tại huyện Cam Lâm hay TP. Cam Ranh, không còn thấy những ruộng kiệu bạt ngàn như những năm trước.

Ông Lê Văn Bông – Khuyến nông viên xã Cam Thành Bắc (Cam Lâm) cho hay, nông dân không mặn mà với việc trồng cây kiệu. Trên địa bàn xã diện tích kiệu giảm mạnh, hiện nay chỉ còn vài sào so với khoảng trên dưới 20ha những năm trước. Tại vùng Đồng Bà Thìn, diện tích kiệu lâu nay khoảng 15ha nhưng năm nay chỉ còn vài sào.

Sản xuất kiệu tại Cam Thành Nam, Cam Ranh.

Tại thị trấn Cam Đức (Cam Lâm), diện tích trồng kiệu cũng không như những năm trước đây. “5 – 6 năm trước, diện tích kiệu lên tới 25ha. Năm nay chỉ đạt khoảng 12ha”, ông Nguyễn Văn Thư – cán bộ nông nghiệp thị trấn Cam Đức xác nhận.

Tại xã Cam Thành Nam (Cam Ranh) – trọng điểm kiệu của tỉnh – bây giờ tìm “đỏ mắt” mới thấy được mảnh ruộng trồng kiệu. Ông Ngô Văn Nhẹ – Chủ tịch Hội Nông dân xã cho biết: Có nhiều lý do khiến diện tích giảm mạnh: đất trồng nhiễm sâu bệnh phải luân chuyển cây khác, giá giống cao (35.000 – 38.000 đồng/kg), công lao động tăng (hiện nay 200.000 đồng/công), giá cả bấp bênh… Vì thế, tổng diện tích kiệu toàn xã chỉ còn dưới 10ha, trong khi những năm trước lên đến 50 – 60ha.

Lãnh đạo Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Cam Lâm cho rằng, ngoài những nguyên nhân trên thì tâm lý nông dân ngại mưa lũ nên cũng không phát triển thêm diện tích. Năm nay, diện tích kiệu toàn huyện giảm 15ha so với năm 2016, chỉ còn 148ha.

Tuy vậy, tình hình cây kiệu lại rất khả quan cho nông dân. Ông Trần Văn Ân – chủ cơ sở chế biến Ngọc Thưởng (thôn Quảng Phúc, Cam Thành Nam) cho biết, từ tháng 6 âm lịch (thời điểm xuống giống) tới nay, kiệu phát triển tốt; năng suất cao hơn năm trước, có thể đạt 1,2 tấn/sào; sâu bệnh cũng giảm nên chi phí phun xịt thuốc bảo vệ giảm nhiều. Hơn tháng trước, cơn bão số 12 khủng khiếp là vậy nhưng lại không ảnh hưởng đến các ruộng kiệu.

Còn một tháng nữa mới tới vụ thu hoạch nhưng ngay từ bây giờ, nhiều nông dân trồng kiệu đã thu tiền bán kiệu sớm. Ông Trần Văn Ân cho hay, theo dự báo, giá kiệu Tết thu mua sẽ cao hơn từ 5 đến 7 triệu đồng/sào. Hiện nay, các thương lái đã tìm đến các ruộng kiệu ngã giá và đưa tiền trước; căn cứ vào dự đoán năng suất mà chốt giá mức 27 – 35 triệu đồng/sào, thậm chí còn cao hơn.

Ông Ngô Văn Nhẹ cho biết, đầu mùa, người dân không đầu tư trồng kiệu nhiều nên diện tích sụt giảm. Giảm cung ắt tăng cầu. Chuyện các thương lái thu mua kiệu sớm khẩn trương như hiện nay là điều bình thường vì nếu không nhanh thì đến mùa, có tiền chưa chắc đã mua được. Năm nay, nhờ mã kiệu đẹp thương lái trả giá rất cao. Kiệu đang thời kỳ tích lũy tinh bột, củ to, chắc, dự báo được mùa, năng suất, sản lượng có thể tăng 20 – 25% so với mọi năm.

Còn ông Nguyễn Văn Thao – người trồng kiệu nhiều kinh nghiệm tại thôn Quảng Phúc, Cam Thành Nam cho hay, kiệu Tết năm nay năng suất dự báo có thể đạt 1,5 tấn/sào, cao nhất từ trước tới nay. Hiện nay, các thương lái đã đặt mua kiệu non với giá 34 triệu đồng/sào, cao nhất từ trước tới nay so với giá kiệu sớm 25 – 27 triệu đồng/sào cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Báo Khánh Hòa được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cánh đồng rau VietGap tỏa hương thơm, nông dân thu nhập cao ở Tân Minh

Nhiều năm nay, xã Tân Minh (huyện Thường Tín) được coi là vùng chuyên trồng các loại rau gia vị lớn nhất TP.Hà Nội. Nhờ sản xuất theo hướng an toàn, việc trồng rau gia vị của người dân tại đây ngày càng phát triển, đem lại thu nhập ổn định cho bà con.

Có mặt trên cánh đồng xã Tân Minh, chúng tôi không khỏi choáng ngợp khi đứng trước những vườn rau kinh giới, mùi tàu, húng, tía tô xanh tốt và tỏa hương thơm ngào ngạt. Bà Đàm Thị Dung (thôn Phúc Trại) đang thu hoạch rau ngổ cho biết, rau ngổ là một trong những loại rau dễ trồng, dễ chăm sóc, lại ít sâu bệnh nên hầu như không phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, lại nhanh cho thu hoạch (chỉ khoảng 50 ngày).

Mỗi lần trồng nếu chăm sóc tốt, bà con có thể thu hoạch liền trong vòng 6 tháng mới phải trồng lại. Bên cạnh đó, chu kỳ thu hoạch chỉ khoảng 12 – 15 ngày/lứa nên người trồng rau thơm có thể thu quanh năm.

Nông dân xã Tân Minh chăm sóc ruộng rau thơm. 

“Gia đình tôi trồng 4 sào rau thơm các loại, mỗi tháng thu hoạch đều trong 20 ngày, đem bán cho các thương lái đổ buôn tại chợ đầu mối. Ngày ít cũng được vài trăm ngàn đồng, ngày nhiều có thể thu được tiền triệu nên lúc nào cũng “rủng rỉnh” tiền trong túi ” – bà Dung vui vẻ cho biết.

Cách đó không xa, chị Nguyễn Thị Mai cũng ở thôn Phúc Trại đang chăm sóc ruộng rau tía tô. Chị vui vẻ cho biết: “Mùa này không cần chăm sóc nhiều, rau tía tô vẫn lên ầm ầm. Nếu thời tiết ẩm thì 2 ngày mới phải tưới một lần, còn hanh khô thì ngày nào cũng phải tưới. Hiện nay gia đình nào cũng đầu tư giếng khoan và bể lọc ngay cạnh ruộng, một số gia đình còn đầu tư hệ thống tưới nước tự động nên sản xuất nhẹ nhàng lắm. Gia đình tôi có hơn 2 sào trồng rau thơm, thu nhập bình quân gần 50 triệu đồng/năm, cao gấp 5 – 7 lần so với cấy lúa”.

Nông dân xã Tân Minh chăm sóc rau trồng theo mô hình VietGAP.

Hiện nay, ngoài các hộ chuyên sản xuất, tại địa bàn xã Tân Minh còn hình thành một đội ngũ chuyên thu gom hàng giao cho các chợ đầu mối. Người dân chỉ cần thu hoạch rau lên đầu bờ là đã có người tới thu mua. Toàn xã hiện có hơn 30 ôtô bán tải và vài trăm chiếc xe máy tham gia vận chuyển rau.

Theo tìm hiểu của phóng viên, toàn xã Tân Minh hiện có hơn 4.000 hộ trồng rau gia vị các loại. Mỗi ngày đều có hàng chục ô tô, xe máy của tư thương đến thu mua và chở rau phân phối ra khắp các chợ đầu mối quanh khu vực Hà Nội.

Chị Vũ Thị Hằng, một hộ trồng rau ở đây cho biết, gia đình chị trồng rau gia vị với diện tích hơn 1 sào, chủ yếu là rau kinh giới, tía tô, thơm Láng… Bình quân mỗi tháng, gia đình chị thu lãi khoảng 3 triệu đồng (khi giá thị trường bình ổn). Riêng dịp cuối năm, bao giờ giá rau cũng cao gấp 2, gấp 3 lần giá ngày thường.

Chị Hằng cho biết, thời gian gần đây, với sự giúp đỡ của HTX Tân Minh, gia đình chị được hướng dẫn trồng rau theo mô hình cộng đồng, nhờ vậy rau thơm cho năng suất cao hơn, giá bán tốt hơn. Đặc biệt các hộ tham gia mô hình đều yên tâm khi rau trồng đúng quy trình, thu hoạch đúng cách, đảm bảo chất lượng cho người tiêu dùng.

“HTX phân công các nhóm trưởng trực tiếp quản lý rau của các hộ trong nhóm. Điều này giúp mỗi hộ có ý thức tự giác trong việc trồng rau an toàn và đảm bảo chất lượng. Nhờ đó, rau gia vị Tân Minh ngày càng có uy tín, thương lái thu mua với giá tốt” – chị Hằng nói.

Tuân thủ nghiêm quy trình VietGAP

Cán bộ HTX Tân Minh hướng dẫn trồng và quản lý rau theo mô hình cộng đồng.

Năm 2017, thực hiện nhiệm vụ của Sở NNPTNT Hà Nội, Chi cục Bảo vệ thực vật Hà Nội đã phối hợp với các địa phương xây dựng 20 mô hình kiểm tra cộng đồng áp dụng hệ thống đảm bảo cùng tham gia (PGS) trong sản xuất và tiêu thụ rau an toàn tại 20 xã, phường, thị trấn thuộc 14 quận, huyện, thị xã, với tổng diện tích 1.138,7ha. HTX Tân Minh là một trong những mô hình phát huy hiệu quả rất tích cực.

Phó Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Tân Minh Nguyễn Mạnh Thắng chia sẻ, rau thơm đang được xem là cây trồng chủ lực của địa phương với thu nhập bình quân 20 triệu đồng/sào/năm. Trung bình mỗi năm, địa phương xuất ra thị trường 50 – 60 tấn rau. Đặc biệt, xã đã có 90ha trồng rau thơm được công nhận là vùng sản xuất rau an toàn.

Để thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, HTX thường xuyên tập huấn và nâng cao ý thức về trồng rau an toàn cho người dân. Bên cạnh đó, HTX đã thành lập 33 tổ giám sát, mỗi tổ có từ 30 – 35 người, chịu trách nhiệm trực tiếp giám sát quá trình sản xuất của bà con. HTX còn liên kết với một số công ty về trực tiếp thu mua hàng, bao tiêu sản phẩm cho bà con nông dân, nhờ đó giảm bớt các khâu trung gian, nâng cao giá trị sản phẩm.

“Địa phương sẽ tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn bà con sản xuất an toàn để ổn định đầu ra cho sản phẩm và xây dựng được thương hiệu rau thơm Tân Minh trên thị trường” – ông Thắng nói.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hoa nội ‘đẩy lùi’ hoa ngoại

Lan hồ điệp nhập tiểu ngạch từ Trung Quốc thường bị “mù” nụ hoa đầu cành, độ bền của cành hoa chỉ bằng 2/3 hoa cùng loại sản xuất trong nước, giá bán cũng đắt hơn đáng kể.

Trong nhiều năm qua, Trung tâm Nghiên cứu & phát triển hoa – cây cảnh (Viện Nghiên cứu Rau quả, Viện Khoa học nông nghiệp VN) luôn là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển hoa cây cảnh phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Ngoài nghiên cứu quy trình công nghệ SX và chọn tạo giống hoa cây cảnh mới, trung tâm còn đóng vai trò nòng cốt trong chuyển giao TBKT vào SX hoa cây cảnh cho các địa phương…


Nhân giống lan hồ điệp bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào tại Viện Nghiên cứu Rau quả

PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả cho biết: Trong các loại hoa phổ biến trên thị trường hiện nay, thì lan hồ điệp được coi là hoa cao cấp cho hiệu quả SX lớn nhất (thu nhập có thể đạt 25 tỷ đồng/ha canh tác/năm). Hiện SX trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa, còn lại phải nhập khẩu khoảng 1 triệu cây hoa/năm (năm 2017). Tuy nhiên SX hoa lan hồ điệp cần vốn đầu tư khá lớn, yêu cầu kỹ thuật chăm sóc khắt khe, cây giống phải trồng trên giá thể, trong nhà kính/nhà màng, có thiết bị điều khiển nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng chủ động, cây lan mới có thể ra hoa được.

Sớm nắm bắt được các yêu cầu thực tế đặt ra, ngay từ những năm 2005 – 2008 Trung tâm Nghiên cứu & phát triển hoa – cây cảnh đã nghiên cứu xây dựng thành công quy trình SX hoa lan hồ điệp quy mô công nghiệp. Quy trình đã được tặng cúp Vàng hội chợ Asean + 3 và giải thưởng Bông lúa vàng. Được các địa phương trong nước áp dụng phổ biến trong SX.

Theo thống kê, năm 2017 toàn miền Bắc đã xây dựng được 88.300m2 nhà màng hiện đại, SX được gần 1.300.000 cành lan hồ điệp thương phẩm (tăng 87.100m2 nhà màng và 1.248.000 cành lan hồ điệp so với năm 2005). Đáp ứng được hơn 50% nhu cầu hoa lan hồ điệp cho thị trường nội địa. Cơ bản “đẩy lùi” được hoa ngoại nhập vào nước ta qua con đường tiểu ngạch.

Nhà màng trồng lan hồ điệp của Viện Nghiên cứu Rau quả

Đặc biệt từ năm 2011 đến nay, trung tâm còn lai tạo thành công một số giống lan hồ điệp chất lượng cao, phù hợp điều kiện khí hậu miền Bắc. Đồng thời xây dựng được quy trình kỹ thuật nhân giống lan hồ điệp bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào. Đã đảm bảo được 20,3% nhu cầu cây giống lan hồ điệp cho các nhà vườn trồng lan miền Bắc. Đây là những kết quả rất quan trọng để trong thời gian tới, nước ta hoàn toàn tự chủ được nhu cầu cây giống cho SX hoa trong nước, tiến tới xuất khẩu lan hồ điệp sang thị trường các quốc gia khu vực.

Ông Lê Quý Đôn, Chủ tịch UBND xã Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên) cho biết, trên địa bàn xã có một số nhà vườn, mỗi năm nhập khẩu tiểu ngạch hàng chục nghìn cành lan hồ điệp từ Trung Quốc để xuất bán ra thị trường khu vực. Do hoa Trung Quốc hình thức khá bắt mắt nên dễ bán được giá cao, nhưng sau sử dụng các nụ hoa đầu cành thường bị mù (không nở), độ bền của cành hoa cũng chỉ bằng 2/3 hoa cùng loại SX trong nước.

Trước thực trạng đó, UBND xã Xuân Quan đã phối hợp với Sở KH – CN Hưng Yên và Trung tâm Nghiên cứu & phát triển hoa – cây cảnh xây dựng phòng nuôi cấy mô để ứng dụng các TBKT nhân giống một số loại lan quý hiếm. Bước đầu đã tạo cho ra hàng ngàn cây giống lan đai châu, địa lan, hồ điệp đáp ứng cho nhu cầu phát triển SX tại chỗ.

PGS.TS Đặng Văn Đông cho biết thêm: Tiềm năng SX hoa – cây cảnh nói chung, hoa lan hồ điệp nói riêng ở nước ta còn rất lớn. Vì chúng ta có thị trường tiêu thụ nội địa lớn, có nguồn lao động rẻ, người dân có ý chí vươn lên làm giàu, cán bộ khoa học có trình độ cao, và có một số vùng khí hậu ôn đới như Mộc Châu, Sa Pa rất phù hợp cho cây lan hồ điệp phân hóa mầm hoa tự nhiên.

Trước những thuận lợi trên Viện Nghiên cứu Rau quả đã và đang tập trung đầu tư lai tạo các giống hoa mới, nâng cao quy trình công nghệ SX hoa thương phẩm, hình thành một số cơ sở nhân giống lan hồ điệp công nghiệp, đảm bảo đủ nguồn giống tốt, giá thành hạ cho nhu cầu SX hoa quanh năm trong nước. Xúc tiến thành lập Câu lạc bộ Hoa lan hồ điệp Việt Nam, là cầu nối cho sự liên kết “4 nhà”, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao trình độ cho cán bộ nghiên cứu và cán bộ kỹ thuật.

Sản xuất lan hồ điệp tại Viện Nghiên cứu Rau quả

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Xử lý nghịch vụ cây ăn trái

TS Võ Hữu Thoại, Phó Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, để đảm bảo vườn cây trong giai đoạn mang trái đầy đủ dinh dưỡng, cần hạn chế bón nhiều phân đạm trong mùa mưa, lũ.

Nguyên nhân là trong nước mưa có chứa khí nitơ (78%) kết hợp với khí oxi (21%) tạo ra dạng đạm rơi xuống.

Theo tính toán, 10ha đất sẽ nhận được lượng đạm từ nước mưa vào khoảng 10 – 84kg đạm/năm. Chính vì vậy trong nước mưa có đạm, nếu bà con bón thêm đạm sẽ gây hiện tượng thừa, làm cho cây ra đọt non, trong giai đoạn cây có trái non, sẽ dẫn hiện tượng rụng trái. Ngược lại, trên sầu riêng, hoặc trái đang phát triển sẽ xảy ra hiện tượng trái bị sượng.

Để nuôi trái trong giai đoạn này, TS Võ Hữu Thoại khuyến cáo, cần sử dụng phân NPK, đặc biệt các loại phân chuyên dụng phù hợp cho từng giai đoạn sinh trưởng của cây, bón với liều lượng vừa đủ. Khi trái non rụng nhiều, bà con nên bổ sung các loại phân bón lá chứa các nguyên tố vi lượng phun lên để hỗ trợ dinh dưỡng, cung cấp các dưỡng chất cho cây.

Tăng cường bón phân cung cấp các dưỡng chất cho cây

PGS.TS Phạm Văn Kiêm, nguyên giảng viên Khoa Nông nghiệp – Sinh học ứng dụng (ĐH Cần Thơ) nhận định, đối với bệnh thối rễ của các loại cây ăn trái nói chung từ sầu riêng, cam, quýt… và những loại cây trồng cạn trên rẫy như ớt, khổ qua… đều có thể bị bệnh thối rễ. Tất cả các loại cây này đều bị ảnh hưởng bởi nấm Fusarium gây hại rễ.

Trong đất ở vùng ĐBSCL, đều xuất hiện loại nấm Fusarium ở trong đất. Đối với loại nấm này, cần điều kiện để phát triển, nếu hệ vi sinh vật trong đất phong phú thì có thể ức chế nấm Fusarium gây thoái rễ. Nhưng, khi hệ vi sinh vật trong đất cạn kiệt, khi đó trong đất chỉ còn duy nhất nấm Fusarium, dẫn đến nấm Fusarium ăn rễ cây, phát triển mạnh dẫn đến thối rễ.

Mặt khác, điều kiện làm cho hệ vi sinh vật trong đất ít đi là do phân hữu cơ bị vi sinh vật ăn và phân hủy hết, đến lúc cạn kiệt nguồn thức ăn, dẫn đến vi sinh vật chết dần, dẫn đến nấm hại phát triển, tấn công rễ. Do đó, bên cạnh bón phân hóa học, bà con cần phải bón nhiều phân hữu cơ cho đất vườn, nuôi hệ vi sinh vật ngoại sinh này, ức chế bệnh thoái rễ.

Đối với bệnh thối rễ, nếu tưới  Benomyl chỉ giúp vườn cây khá lên khoảng 3 tháng, khi hết thuốc dẫn đến cây càng kiệt quệ nhanh hơn. Vì vậy, chỉ có cách tạo hệ vi sinh vật có sẵn trong đất, bằng cách bón phân hữu cơ cho cây.

Trên thị trường có nhiều loại phân hữu cơ để bón cho cây, nhưng có thể sử dụng cách thả lục bình vào mương nước trong vườn cây, đợi lục bình mọc dày, kéo lên tủ gốc, sau đó tưới Trychoderma lên để lục bình phân hủy nhanh, tạo thành phân hữu cơ cung cấp cho đất.

Kỹ sư Phạm Văn Quy, đại diện Cty Beymer (Đức) cho biết, vào mùa mưa, rất dễ gây ảnh hưởng đến quá trình xử lý trái non, đất dễ đi đọt sẽ gây rụng trái. Trong quá trình này, sau khi đậu trái non, nên sử dụng các dòng phân bón. Thứ nhất, về phân bón gốc, sử dụng các dòng có kali để hạn chế quá trình ra đọt và có thêm thành phần trung, vi lượng để đảm bảo bộ lá dày hơn. Beymer có đưa ra thị trường dòng sản phẩm Nitrofoska Perfect 15-5-20, bên cạnh thành phần kali 20%, có thêm vi lượng là Mg 2% giúp bộ lá xanh hơn. Dòng sản phẩm này còn có thêm thành phần Boron để tăng tỷ lệ đậu trái. Dòng sảng phẩm thứ hai, được sử dụng trong giai đoạn sau khi đậu trái non này là dòng kali Boron, gồm 40% kali, 6% Mg, Boron 0,8%.

Theo liều lượng khuyến cáo sử dụng, trong giai đoạn cây từ 4 – 6 năm tuổi, bà con nên bón thành phần Nitrofoska Perfect khoảng từ 400 – 500 gram/gốc; cây từ 6 – 8 năm tuổi trở lên, bón khoảng 600 – 700 gram/gốc. Cây từ 10 năm tuổi trở lên, bón khoảng 1kg phân/gốc. Bên cạnh quá trình bón phân dưới gốc đảm bảo có thành phần kali để hạn chế hiện tượng ra đọt gây rụng trái, Beymer cũng có dòng sản phẩm Basfolia Boron và sản phẩm kết hợp để phun lên trái và mặt lá là sản phẩm Basfolia Combi-Stipp.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Điểm mạnh và điểm yếu của nông nghiệp hữu cơ

Trên thế giới, nông nghiệp hữu cơ là một chủ đề có nhiều luồng ý kiến trái chiều. Người ủng hộ cho đây là phương thức tốt về môi trường, giảm tác hại của hóa chất trong nông nghiệp. Còn theo người phản đối, phương thức này kém hiệu suất trong khi lợi ích chưa rõ ràng.

Về mặt môi trường

Trong suy nghĩ của hầu hết mọi người, các nông trại hữu cơ có vẻ tốt hơn nông trại truyền thống về khía cạnh môi trường. Nhưng thực tế thì sao?
Lợi: Các trang trại hữu cơ cung cấp sự đa dạng sinh học cao hơn thông qua việc nuôi nhiều ong, chim, côn trùng có ích… Phương thức này cũng có giúp nâng cao chất lượng nước và đất, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính.
Chưa tốt: Nông nghiệp hữu cơ thường mang lại ít sản phẩm hơn – khoảng 19-25%. Khi chúng ta tính đến sự khác biệt về mặt năng suất đó và xem xét hiệu suất về mặt môi trường tính trên một lượng lương thực cụ thể được sản xuất ra, ưu thế của nông nghiệp hữu cơ trở nên ít rõ ràng hơn (một vài nghiên cứu đã cho thấy điều này).

Đối với người tiêu dùng

Lợi: Đối với người tiêu dùng ở các nước có ít quy định về thuốc trừ sâu – chẳng hạn như Ấn Độ, thực phẩm hữu cơ làm giảm nguy cơ phải sử dụng các sản phẩm nông nghiệp có thuốc trừ sâu. Theo các nhà khoa học, những thành phần hữu cơ trong các sản phẩm này cũng có hàm lượng vitamin và chất chuyển hóa thứ sinh cao hơn đôi chút.
Chưa tốt: Các nhà khoa học chưa xác định được liệu những khác biệt về giá trị dinh dưỡng – nhất là vi chất dinh dưỡng – của thực phẩm hữu cơ và thực phẩm thường có thực sự quan trọng đối với sức khoẻ của chúng ta hay không, vì sự khác biệt đó rất nhỏ. Ngoài ra, thực phẩm hữu cơ cũng đắt hơn thực phẩm thông thường nên người nghèo ít có khả năng tiếp cận.

Đối với người sản xuất

Tốt: Nông nghiệp hữu cơ thường mang lại nhiều lợi nhuận – lên tới 35%, theo các nghiên cứu ở Bắc Mỹ, châu Âu và Ấn Độ – so với phương thức sản xuất thông thường. Nó cũng mang lại nhiều cơ hội việc làm ở nông thôn do cần nhiều lao động hơn. Đối với người lao động, điều tốt nhất của nông nghiệp hữu cơ là tránh cho họ sự tiếp xúc với các chất hóa học độc hại.
Chưa tốt: Hiện các nhà khoa học trên thế giới vẫn chưa có nghiên cứu, thống kê thuyết phục về sự khác biệt thu nhập của người lao động làm việc ở trang trại hữu cơ và trang trại truyền thống. Thường thì nhân lực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ được sử dụng theo cách tương tự các nông trại bình thường.
Kết luận: Cần ủng hộ nông nghiệp hữu cơ
Nông nghiệp hữu cơ vẫn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cao cho con người
Hiện các nhà khoa học vẫn tranh cãi về việc liệu nông nghiệp hữu cơ có thể nuôi sống thế giới, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khi cung cấp việc làm bền vững và thực phẩm giàu dinh dưỡng, giá cả phải chăng hay không. Một số thách thức khác vẫn chưa có được lời giải là vấn đề tăng năng suất của canh tác hữu cơ để thu hẹp khoảng cách sản lượng với các trang trại thông thường và liệu có đủ phân bón hữu cơ để sản xuất tất cả thực phẩm trên thế giới.
Nhưng chúng ta có nên tiếp tục sử dụng thực phẩm hữu cơ và mở rộng đầu tư vào canh tác hữu cơ? Câu trả lời là có. Nông nghiệp hữu cơ cho thấy những hứa hẹn đáng kể trong nhiều lĩnh vực và vì vậy, cần coi đó là một công cụ quan trọng để phát triển nông nghiệp toàn cầu bền vững hơn.
Hiện chỉ có khoảng 1% đất nông nghiệp được canh tác theo phương thức hữu cơ trên toàn thế giới, nhưng ảnh hưởng của nó đã vượt xa mức 1% đó. Trong vòng 50 năm qua, các trang trại hữu cơ đã cung cấp cho nông nghiệp truyền thống những ví dụ sống động về cách thức sản xuất mới và đóng vai trò là nhân tố thử nghiệm cho một loạt phương thức quản lý canh tác khác nhau, từ luân canh đến canh tác bảo tồn – những điều mà nông nghiệp truyền thống đã quên lãng suốt thời gian dài.
Thế nên, chúng ta nên hiểu và ủng hộ các trang trại hữu cơ – những người đang làm tốt việc sản xuất thực phẩm thân thiện với môi trường, mang lại lợi ích kinh tế cao, cung cấp thêm thực phẩm cho thế giới, đồng thời chờ đợi họ sớm giải quyết các điểm yếu như năng suất. Về phần mình, các nhà khoa học cần nghiên cứu để sớm đưa ra lời giải cho những câu hỏi quan trọng về nông nghiệp hữu cơ, giúp mọi người hiểu hơn về thành quả mà nó mang lại.
Tóm lại, cần học hỏi từ những thành công của các nông trại hữu cơ trong khi dần cải thiện nông nghiệp truyền thống – phương thức vẫn chiếm 99% nền nông nghiệp thế giới và đang nuôi sống nhân loại.
Theo khoahocphattrien.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật mới trồng chuối già hương

Với giải pháp luân chuyển hố trồng chuối già hương để tăng năng suất và tránh bệnh tuyến trùng rễ, ông Lê Hoàng Oanh (thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, TP. Nha Trang), Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Ngọc đã được trao giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh lần thứ VII (2016 – 2017).

Sau gần chục năm trồng chuối già hương, ông Oanh nhận thấy, cây chuối thường chỉ cho năng suất cao trong khoảng 2 năm đầu. Năm đầu tiên, buồng chuối có thể đạt 12 nải. Năm thứ hai, cây mẹ đẻ ra nhiều cây con, số buồng cũng tăng thêm. Tuy nhiên, từ năm thứ ba, khi các cây con tạo thành bụi chuối um tùm, mật độ trồng dày đặc thì bắt đầu có hiện tượng thân cây kém phát triển, hoặc vẫn cho buồng nhưng buồng chuối ít nải, trái nhỏ. Đặc biệt, gốc bụi chuối bắt đầu xuất hiện bệnh tuyến trùng rễ, thường biểu hiện là rìa lá vàng, cuộn lá, không thể cung cấp dưỡng chất nuôi cây và trái. Do các cây ở gần nhau nên bệnh lây lan nhanh từ cây này qua cây khác. Vì vậy, từ năm thứ ba, thu nhập từ vườn chuối gia đình cứ giảm dần, có năm chỉ được chừng 30 triệu đồng. Không bỏ cuộc, ông Oanh tích cực tìm hiểu, từ đó cải tiến cách trồng chuối già hương trên diện tích 1.200m2 đất nhà. Nguyên tắc cơ bản của kỹ thuật này là luân chuyển hố trồng sau lần thu hoạch thứ 2. Qua 3 năm áp dụng thực tế, kỹ thuật này đã chứng minh hiệu quả.

Ông Oanh kiểm tra những cây có dấu hiệu bị tuyến trùng rễ do để bụi chuối mọc tự phát

Theo ông Oanh, mỗi bụi chuối, tốt nhất chỉ nên thu hoạch 2 lứa, sau đó phải phá bỏ hố cũ, chọn cây con khỏe mạnh chuyển sang hố trồng mới. Mỗi bụi chuối chỉ nên giữ lại 2 cây con khỏe nhất, còn lại chặt bỏ để tập trung dinh dưỡng cho cây. Đối với hốc cũ, ông cuốc xới, rải vôi để bệnh tuyến trùng rễ không lây lan. Để luân chuyển hố trồng, ngay năm đầu tiên, sau khâu làm đất, ông chú ý bố trí phân chia khoảng cách hố trồng. Ngoài các hố được bố trí thẳng hàng cách 2 – 3m để trồng chuối trong năm đầu, ông còn dự trù đặt hàng hố xen kẽ so le giữa 2 hàng hố trồng năm đầu để luân chuyển cho năm sau. Hố nên sâu 0,5m, rộng 0,5m, dài 0,5m, được bón phân chuồng và vôi rồi trồng cây con vừa ra 3 lá vào, tưới đậm một lần, sau đó tưới phun. “Trước đây, để cung cấp nước cho cây, nông dân thường dẫn nước vào vườn chuối cho ướt đất. Nhưng cách làm này dễ làm bí đất. Cây chuối thường bị rệp sáp trên buồng. Để trừ bệnh, nông dân thường phải mua thuốc, vừa tốn kém, vừa hại sức khỏe. Tôi phát hiện ra loại rệp sáp này rất kỵ nước. Do đó, nếu phun tưới cho trôi xuống đất, chúng sẽ chết hết, đất cũng được thông thoáng, chưa kể tưới lên lá và buồng cũng giúp trái chuối mau to hơn”, ông Oanh chia sẻ kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, biết cây ngò gai không ưa ánh nắng, nên khi cây chuối phát triển đến tháng thứ ba, xòe lá rộng, ông Oanh còn trồng xen canh thêm ngò gai để tăng thu nhập. Trong điều kiện bóng mát, cây ngò gai phát triển khá tốt, cứ nửa tháng có thể cắt bán một lần.

Với cách làm này, cứ 2 năm ông Oanh thu hoạch được 3 lứa chuối, buồng luôn đạt 12 nải, trái chuối to đẹp, trọng lượng trung bình 30kg/buồng, cao hơn buồng trồng theo cách truyền thống. Từ ngày ông Oanh trồng theo cách này, nhiều người còn tới đặt mua tại vườn. “3 năm nay, trung bình thu nhập của gia đình từ chuối và ngò gai đạt 150 triệu đồng/năm. Năm nay, nếu không bị cơn bão đốn ngã cả vườn chuối, tôi cũng sẽ thu được như vậy. Bây giờ, tôi phải chờ đất khô hẳn mới trồng lại được”, ông Oanh nói.

Ông Phan Văn Cường – Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Ngọc cho biết, giải pháp của ông Oanh bước đầu có hiệu quả. Sắp tới, Hội Nông dân xã sẽ truyền đạt cách làm này cho người trồng chuối. Trước mắt, hội sẽ định hướng cho 2 hộ có diện tích trồng chuối trên 1.000m2 áp dụng. Sau này, khi số hộ trồng chuối áp dụng kỹ thuật này tăng lên, hội sẽ xúc tiến hình thành tổ hợp tác trồng chuối theo kỹ thuật cải tiến của ông Oanh.

Nguồn: Báo Khánh Hòa được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ca cao Việt Nam được ví ngon nhất thế giới, dân vẫn chê ồ ạt phá bỏ

Chỉ trong 5 năm, diện tích cây ca cao tại Việt Nam đã giảm đến 56%. Nguyên nhân khiến loại cây này thăng trầm liên tục là bởi giá hạt ca cao nguyên liệu giảm mạnh, năng suất thấp, nông dân không có lợi nhuận so với một số loại cây trồng khác như sầu riêng, bưởi, cà phê…

Người dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk bên vườn ca cao đang cho thu hoạch

Đó là một trong những thông tin được Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) đưa ra tại Hội nghị tổng kết hoạt động Ban điều phối phát triển cây ca cao Việt Nam (VCC) năm 2017, do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức tại TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào ngày 13.12 vừa qua.

Theo Cục Trồng trọt, hiện cả nước có 11.559 ha diện tích ca cao, tăng 1.487 ha so với năm 2016. Trong đó, tập trung chủ yếu 15 tỉnh ở khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích ca cao đang cho thu hoạch chiếm khoảng 70% và diện tích trồng xen chiếm khoảng trên 90%. Vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chủ yếu trồng xen cây điều, còn tại ĐBSCL trồng xen dừa và cây ăn quả.

Tuy nhiên, tính từ năm 2012 đến nay, diện tích ca cao lại giảm 10.551 ha, tương ứng với 56%, mặc dù chất lượng hạt ca cao nguyên liệu trồng tại Việt Nam được các doanh nghiệp nhập khẩu, nhà chế biến chocolate đánh giá là thơm ngon nhất thế giới.

Nguyên nhân khiến diện tích ca cao giảm sâu là do giá cả biến động, có thời điểm xuống thấp, hiện nay chỉ còn dao động từ 4.500 – 5.000 đồng/kg; một số vùng trồng xen canh ca cao với cây ăn quả như bưởi, hồ tiêu…, đến khi cây ăn quả cho thu nhập ổn định, nông dân lại đốn bỏ ca cao.

Bên cạnh đó, do tác động của biến đổi khí hậu khiến năng suất giảm chỉ còn trung bình khoảng 7,5 tạ hạt khô/ha; doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu ca cao chưa xây dựng mối liên kết với nông dân nên người dân chưa yên tâm trồng ca cao.

Sơ chế ca cao tại huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. 

Theo quy hoạch phát triển cây ca cao được phê duyệt, đến năm 2020 sẽ tăng diện tích trồng đạt 50 nghìn ha, năng suất bình quân 12 tạ/ha. Để đạt mục tiêu đề ra, Bộ NN&PTNT đưa ra một số giải pháp chủ yếu là: các địa phương bổ sung cây ca cao vào đối tượng cây trồng trong Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển ngành hàng ca cao theo chuỗi, từ sản xuất, chế biến, đến tiêu dùng…

Tại hội nghị, Ban điều phối phát triển cây ca cao Việt Nam cho biết, trong năm 2018, Việt Nam sẽ đăng cai Hội nghị lần thứ 21 câu lạc bộ ca cao ASEAN. Do vậy, VCC sẽ tập trung vào công tác thống kê chính xác lại diện tích ca cao, xây dựng các mô hình để các đoàn khách quốc tế sẽ tham quan, trao đổi kinh nghiệm.

Hơn nữa, thông qua đó sản phẩm ca cao Việt nam cũng có dịp quảng bá về vùng trồng cững như chất lượng ra khu vực và thế giới. Đồng thời, năm tới VCC sẽ tiếp tục nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ các địa phương phát triển ca cao theo hướng chất lượng, trên cơ sở thâm canh tăng năng suất, hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông dân. Đồng thời, phát triển ngành hàng ca cao theo chuỗi, từ sản xuất, chế biến, đến tiêu thụ…

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hợp tác đưa công nghệ tưới Israel đến nông dân Việt Nam

Sáng 12.12, tại Hà Nội, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (T.Ư Hội NDVN) Lều Vũ Điều tiếp đoàn Tập đoàn Công nghệ tưới tiết kiệm NaanDanJain (NDJ) của Isarel do ông Ammon Ofen – Giám đốc Tập đoàn làm trưởng đoàn.

Tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều đã giới thiệu với Tập đoàn NDJ về tình hình nông nghiệp, ND, nông thôn và hoạt động của Hội NDVN. Phó Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều cho biết, Hội NDVN là tổ chức chính trị xã hội thành lập đến nay được 87 năm. Hội có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của ND; cung cấp các dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, dạy nghề cho ND; tham gia trực tiếp các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại nông thôn. Hệ thống Hội NDVN có tổ chức chặt chẽ với 4 cấp từ T.Ư đến cơ sở, với trên 10 triệu hội viên, ND.

Phó Chủ tịch Thường trực T.Ư Hội NDVN Lều Vũ Điều (phải) trao đổi với ông Ammon Ofen – Tập đoàn Công nghệ tưới tiết kiệm NaanDanJain.

Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều nhắc lại kết quả chuyến thăm Israel mới đây của đoàn cán bộ Hội NDVN; đánh giá cao chương trình hợp tác giữa Hội NDVN và NDJ nhằm đưa công nghệ tưới tiêu hiện đại áp dụng cho ND để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

“Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, thời tiết ở Việt Nam ngày càng khắc nghiệt, hạn hán, công nghệ tưới tiết kiệm nước của NDJ rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt ở những vùng khô hạn” – Phó Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều bày tỏ.

Ông Ammon Ofen – Giám đốc Tập đoàn NDJ đánh giá cao vai trò, vị trí của Hội NDVN. T.Ư Hội NDVN là kênh quan trọng để Tập đoàn NDJ chia sẻ với ND Việt Nam về kinh nghiệm hơn 80 năm xây dựng hệ thống tưới tiêu phục vụ nông nghiệp. “Chúng tôi tin tưởng sẽ giúp ND Việt Nam phát triển nông nghiệp mạnh mẽ hơn” – ông Ammon Ofen bày tỏ.

Phó Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều mong muốn thời gian tới hai bên hợp tác xây dựng mô hình nông nghiệp sử dụng công nghệ tưới tiết kiệm của Tập đoàn NDJ để đánh giá và nhân rộng. Phó Chủ tịch Thường trực Lều Vũ Điều giao Ban Hợp tác quốc tế và Trung tâm Môi trường T.Ư Hội NDVN làm đầu mối nghiên cứu hợp tác quan hệ quốc tế, triển khai xây dựng mô hình…

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.