Quy trình kỹ thuật trồng, thâm canh Chè an toàn

Chè là đối tượng nông nghiệp có giá trị xuất khẩu cao và được nhiều người ưa chuộng. Kỹ thuật trồng chè cũng khá đơn giản, bà con có thể tham khảo bài viết mà Fman giới thiệu dưới đây:

1.Điều kiện sinh thái.

1.1.Khí hậu:

– Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 18 – 23oc.

– Độ ẩm không khí trung bình hàng năm: >80%

– Lượng mưa hàng năm trên 1200 mm.

1.2. Đất đai:

– Đất có tầng dày canh tác 50 cm trở lên, kết cấu tơi xốp.

– Mạch nước ngầm ở sâu dưới mặt đất từ 100 cm trở lên.

– Độ PHKCL từ 4,0 – 6,0, tỷ lệ mùn tổng số 2,0% trở lên.

– Độ dốc bình quân đồi không quá 25 o .

2. Thiết kế đồi nương.

2.1. Thiết kế đồi, hàng chè.

– Thiết kế từng đồi phải nằm trong thiết kế tổng thể chung toàn vùng.

– Thiết kế đồng bộ ngay từ đầu hệ thống đường, các công trình phụ trợ cây phân xanh, che bóng, chắn gió. Những nơi thuận lợi cần làm đập, hồ chứa nước chân đồi, bể chứa nước hệ thống tưới nước, hố ủ phân trên đồi.

– Thiết kế hàng: Nơi đồi có độ dốc bình quân 6 o trở xuống ( cục bộ có thể tới 8o0): Thiết kế hàng chè thẳng theo hàng dài nhất, song song với đường bình độ chính, hàng cụt xếp ở bìa lô.

2.2. Thiết kế đường :

Loại đường Vị trí Bề rộng

Mặt

đường

(m)

Độ dốc

mặt đường

(độ)

Độ nghiêng

vào trong

đồi(độ)

Các yêu cầu khác Loại đường
             
1- đường

trục chính

Xuyên giữa khu chè 5 – 6 5 Hai mép trồng cây. Có hệ thống rãnh thoát nước 2 bên. 1- đường

trục chính

2- Đường

liên đồi

Nối đường trục với các đồi hoặc các đồi với nhau 4 – 5 6 6 Mép ngoài trồng cây.

 

2- Đường

liên đồi

3- Đường

lên đồi

Nối đường liên đồi với đỉnh vàđường vành đồi 3 – 4 8  – 10 5 Có rãnh thoát nước phía trong. Có vòng quay xe ở ngã ba.

Mép ngoài trồng cây thưa.

3- Đường

lên đồi

4- Đường

vành  đồi

Đường vành chân đồi và cách 30 – 50 m theo sườn đồi có một đường. 3 – 4 1 – 2 6 – 7 Mép ngoài trồng cây thưa. 4- Đường

vành  đồi

5- Đường lô Cắt ngang (đồi phẳng) hay cắt chéo

hàng chè (đồi dốc), cách nhau 150 – 200 m.

3 –  4 10 – 12 Sửa theo mặt đất tự nhiên, không có rãnh thoát nước. 5- Đường lô
6- Đường

chăm sóc

Trong lô chè , cách nhau 57-70 m, cắt ngang hay chéo hàng chè . 1,2 – 1,3 10 – 12 Sửa theo mặt đất tự nhiên, không có rãnh thoát nước. 6- Đường

chăm sóc

2.3.Thiết kế hạng mục phụ trợ:

– Cứ 5 – 10 ha có một lán trú mưa, nắng. Cứ 3 – 5 ha có một bể chìm chứa 3 – 5m3 nước dùng cho phun thuốc, bình quân 1m3 nước/ ha dùng cho phun thuốc. Cứ 2- 3 ha có một hố ủ phân hữu cơ tại chỗ, dung tích chứa 8 – 10m3/đợt ủ.

3. Kỹ thuật gieo trồng:

3.1. Làm đất:

Việc làm đất trồng chè phải đạt yêu cầu sâu sạch ải , vùi lớp đất mặt có nhiều hạt cỏ xuống dưới, san ủi những điểm dốc cục bộ.

a) Làm đất theo cách cày sâu toàn bộ bề mặt sâu 30 – 35 cm, bừa san. Trường hợp không cày toàn bộ bề mặt cũng phải đào rãnh trồng. Đào rãnh hàng trồng chè sâu 40 – 45 cm, rộng 50 – 60 cm. lấp đất mặt xuống dưới , lấp đất cái lên trên cách mặt đất 5 – 10 cm.

b) thời vụ làm đất: Làm đất vào thời gian ít mưa (dưới 150mm/tháng) tránh xói mòn.

– Tháng 9 – 11 đối với loại đất mới, nhiều mùn, khai hoang xong trồng ngay.

– Tháng 11 – 3 đối với đất phục hoang, đất xấu, trồng một vụ cây phân xanh cải tạo đất.

3.2.Giống chè:

3.2.1. Trồng các giống chè đã được khảo nghiệm thích hợp vùng:

– Vùng thấp (độ cao dưới 100m): Nhõn trồng cỏc giống chố chọn tạo trong nước như giống LDP1, LDP2, PH8, PH9, Các giống nhập nội từ Trung Quốc và giong Trung du chọn lọc.

– Vùng giữa: Phân vùng có độ cao 100 – 500m trồng các giống LDP1, LDP2 và Shan chọn lọc giâm cành. Phân vùng có độ cao 500 – 1000m trồng giống Shan chọn lọc, TRI777 giâm cành.

– Vùng cao (hơn 1000m): Trồng giống Shan chọn lọc tại chỗ.

3.2.2 Trồng chè bầu cây đảm bảo đúng tiêu chuẩn:

Chè giâm cành: Cây sinh trưởng trong vườn ươm từ 8 – 10 tháng tuổi. Mầm cây cao từ 20cm trở lên, có 6 – 8 lá thật, đường kính mầm sát gốc từ 4 – 5 mm trở lên, vỏ phía gốc màu đỏ nâu, phía ngọn xanh thẫm. Lá chè to, dày, xanh đậm, bóng láng, không có nụ hoa.

3.3.Thời vụ trồng:

Thời vụ giâm cành: Phía Bắc tháng 1- 2 và tháng 7- 8; phía Nam tháng 2- 3 và tháng 5 – 7.

Thời vụ trồng bầu cây: Phía Bắc ttháng 1 – 3 và tháng 8 – 9; phía Nam tháng 2- 4 và tháng 6 -7 khi đất đủ ẩm.

3.4. Trồng cây chè

Đất trồng chè phải được cày vùi phân xanh trước khi trồng ít nhất 1 tháng. Khi trồng thì bổ hố hay cày rạch sâu 20 – 25 cm theo rãnh hàng đã được đào để trồng bầu cây.

3.4.1. Khoảng cách trồng:

– Nơi dốc < 15o : Hàng cách hàng 1,4 – 1,5m, cây cách cây 0,4 – 0,5m.

– Nơi dốc > 15o : Hàng cách hàng 1,2 – 1,3m, cây cách cây 0,3 – 0,4m.

3.4.2. Trồng cây sau khi đã bỏ túi bầu. Đặt bầu vào hố hay rạch, lấp đất, nén đất đều xung quanh bầu, lấp phủ lớp đất tơi trên vết cắt hom 1 – 2 cm, đặt mầm cây theo một hướng xuôi chiều gió chính.

Trồng xong tủ cỏ, rác 2 bên hàng chè hay hốc trồngdày 8 – 10 cm, rộng 20 – 30 cm mỗi bên. Loại cỏ, rác dùng để tủ là phần không có khả năng tái sinh.

3.4.3. Trồng cây phân xanh, cây che bóng:

Cây phân xanh là các loại cây có khả năng cải tạo đất, làm phân bón tăng chất dinh dưỡng cho cây chè, tốt nhất là các cây họ đậu.

Thời vụ gieo: Từ tháng 1 – 4 hàng năm, ngay sau khi làm đất, trồng chè .

Cách gieo: Cây hàng năm gieo giữa hàng, mật độ tuỳ theo loại cây, cách gốc chè ít nhất 40 cm về mỗi bên. Cây phân xanh lưu niên 2- 4 năm (các loại muồng, cốt khí) kiêm che bóng tạm được gieo theo cụm một đường giữa 2 hàng chè, khoảng cách tâm cụm 30 – 40 cm, mỗi cụm đường kính 3-5cm.

Cây bóng mát bộ đậu, thân gỗ, tán thưa, rộng, không tranh chấp nước với cây chè về mùa đông, được trồng cùng hàng hay giữa hai hàng chè, mật độ từ 150 – 250 cây/ha, trồng bằng cây ươm bầu, đảm bảo che bóng 30 – 50% ánh sáng mặt trời.

4.Kỹ thuật chăm sóc:

4.1. Giặm cây con:

– Nương chè phải được trồng giặm cây con ngay từ năm đầu sau trồng vào những chỗ mất khoảng. Bầu cây con đem giặm có cùng tuổi cây trồng trên nương, đã được dự phòng 10%.

Bón thêm mỗi cây 1,0 kg phân chuồng tốt trước khi trồng giặm. Trồng giặm vào ngày dâm mát, mưa nhỏ hoặc sau mưa to. Giặm chè cần được tiến hành liên tục trong thời kỳ nương chè kiến thiết cơ bản (2 – 3 năm), đảm bảo nương chè đông đặc, đồng đều

Thời vụ trồng giặm tốt nhất vào vụ xuân sớm (tháng 1-2) mưa nhỏ, đất vừa ẩm.

– Đối với nương chè tuổi lớn mất khoảng tiến hành trồng giặm cây con 14- 16 tháng tuổi, chiều cao 35 –40 cm sau khi bấm ngọn. Kích thước bầu lớn 25 x 12 cm, bầu đất được đóng với tỷ lệ 3 phần đất + 1 phần phân hữu cơ hoai mục đã được ủ với phân lân.

Thời vụ trồng giặm chè lớn tuổi vào tháng 8 –10 (phía Bắc), tháng 9 – 11 (phía Nam) vào cuối mùa mưa khi đất đủ ẩm.

4.2.Bón phân

4.2.1. Bón lót trước khi trồng: Sau khi đào rãnh hàng xong bón lót phân hữu cơ 20 – 30 tấn/ha và 100 – 150 kg P2O5/ha, trộn phân vào đất trồng.

4.2.2.Bón phân cho mỗi ha chè KTCB (2-3 năm sau trồng) theo bảng sau:

Loại chè Loại phân Lượng phân    (Kg) Số lần bón Thời gian bón

(vào tháng)

Phương pháp bón
       1        2         3       4            5              6
Chè tuổi 1       N

P205

K20

       40

30

30

      2

1

1

   2-3 và 6-7

2-3

2-3

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 25-30 cm, lấp kín.
Chè tuổi 2

 

 

Đốn tạo

hình lần 1 (tuổi 2)

      N

P205

K20

      60

30

40

      2

1

1

 2-3 và 6-7

2-3

2-3

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 25-30 cm, lấp kín.
     Hữu cơ

 

P205

   15.000 –

20.000

100

      1

 

1

      11-12

 

11-12

Trộn đều bón rạch sâu 15 –20 cm, cách gốc 30-40 cm, lấp kín
Chè tuổi 3

 

      N

P205

K20

      80

40

60

      2

1

2

2-3  và  6-7

2-3

2-3 và 6-7

Trộn đều, bón sâu 6-8 cm; cách gốc 30-40 cm, lấp kín.

4.2.3.Bón phân cho mỗi ha chè kinh doanh.

– Cuốc lật tòan bộ diện tích; đào rạch giữa hai hàng chè sâu 20 đến 25 cm, rộng 25 đến 30 cm trước khi đốn chè, ép xanh cành lá chè đốn hoặc chất xanh khác kết hợp bón phân hữu cơ 30 -35tấn/ha. .

– Kỹ thuật bón phân thúc: Hàng năm bón NPK theo tỷ lệ 3:1:1 với lượng phân 35N cho 1 tấn sản phẩm + 75kg MgSO4/ha.

Số lần bón: 4 lần trong năm.

Lần 1: Bón 30% NPK + 60% MgSO4 (Tháng 2)

Lần 2: Bón 30% NPK + 40% MgSO4 (Tháng 5)

Lần 3: Bón 25% NPK (Tháng 7)

Lần 4: Bón 15% NPK (Tháng 9)

4.3.Phòng trừ cỏ dại:

4.3.1. Đối với chè kiến thiết cơ bản:

Xới cỏ đảm bảo cỏ sạch quanh năm trên hàng chè .

riêng chè 1 tuổi cần nhổ tay ở gốc chè để bảo vệ được cây chè . Giữa hàng trồng xen cây phân xanh, đậu đỗ hoặc bừa xới sạch cỏ.

Vụ xuân (tháng 1- 2) và vụ thu (tháng 8-9) xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ

Trong năm sới gốc 2 – 3 lần, rộng 30 – 40 cm về 2 bên hàng chè.

4.3.2. Đối với chè kinh doanh:

– Vụ đông xuân: Xới sạch cỏ dại, cày giữa hàng hoặc phay sâu10 cm, lấp phân hữu cơ và cành lá già sau khi đốn, nếu hạn không cày được thì xới sạch toàn bộ.

– Vụ hè thu: đào gốc cây dại, phát luổng hoặc xới cỏ gốc giữa hàng, bừa 3 – 4 lần hoặc phay sâu 5 cm.

Đồi chè được tủ cỏ, rác kín đất trong vụ đông xuân thì bớt các khâu làm cỏ trong vụ hè thu.

4.4.Phòng trừ sâu bệnh:

Phòng trừ sâu, bệnh hại chè bằng biện pháp tổng hợp đảm bảo hợp lý về kinh tế và bền vững dựa trên sự phối hợp biện pháp trồng trọt, sinh học, di truyền chọn giống và hoá học, nhằm đạt sản lượng cao nhất với tác hại ít nhất trong môi trường.

Phải kiểm tra thường xuyên, phát hiện sớm để tập trung phòng trừ. Các biện pháp phòng trừ cụ thể:

– Biện pháp canh tác: Cày bừa diệt cỏ, vệ sinh nương đồi, lấp đất diệt nhộng, diệt mầm bệnh, bón phân hợp lý, thay đổi thời kỳ đốn, hái chạy non để loại bỏ trứng sâu, mầm bệnh.

– Biện pháp sinh học sinh thái: Trồng cây bóng mát với loại thích hợp và có mật độ đảm bảo độ ẩm trên nương chè. Hạn chế đến mức thấp nhất thuốc hoá học để đảm bảo duy trì tập đoàn thiên địch có ích, cân bằng sinh thái nương chè.

– Biện pháp hoá học: Không phun thuốc theo định kỳ.

Phun thuốc theo dự tính, dự báo khi có sâu non hoặc khi chè mới bị bệnh.

Dùng thuốc đúng chỉ dẫn về loại, liều lượng dùng đối với các đối tượng sâu, bệnh hại. Thời gian cách ly đảm bảo ít nhất 10 – 15 ngày mới được thu hái đọt chè.

4.5.Đốn chè:

4.5.1. Đốn tạo hình:

Lần 1: Khi chè 2 tuổi, đốn thân chính cách mặt đất 12 – 15 cm, đốn cành cách mặt đất 30 – 35 cm.

Lần 2: Khi chè 3 tuổi đốn cành chính cách mặt đất 30 –35 cm, đốn cành tán cách mặt đất 40 –45 cm.

4.5.2. Đốn phớt:

Hai năm đầu mỗi năm đốn trên vết đốn cũ 5 cm. Sau đó mỗi năm đốn cao thêm 3 cm, khi vết đốn dưới cùng cao 70cm so với mặt đất thì hàng năm chỉ đốn cao thêm 1cm so với vết đốn cũ.

Tuyệt đối không cắt tỉa cành la, đảm bảo độ che phủ, khép tán trên nương.

Đối với nương chè sinh trưởng yếu, tán lá thưa mỏng, có thể áp dụng chu kỳ đốn cách năm: Một năm đốn phớt như trên, một năm đốn sửa bằng tán chỉ cắt phần cành xanh.

4.5.3. Đốn lửng:

Những đồi chè đã được đốn phớt nhiều năm, vết đốn cao quá 90cm so với mặt đất, nhiều cành tăm hương, u bướu, búp nhỏ, năng suất giảm thì đốn lửng cách mặt đất 60 -65cm; hoặc chè năng suất khá nhưng cây cao quá cũng đốn lửng cách mặt đất 70 – 75 cm.

4.5.4. Đốn đau:

Những đồi chè được đốn lửng nhiều năm, cành nhiều mấu, cây sinh trưởng kém năng suất giảm rõ rệt thì đốn đau cách mặt đất 40 – 45cm.

4.5.5. Đốn trẻ lại:

Những nương chè già, cằn cỗi đã được đốn đau nhiều lần, năng suất giảm nghiêm trọng thì đốn trẻ lại cách mặt đất 10 – 25 cm.

4.5.6. Thời vụ đốn: Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 1.

– Nơi thường bị sương muối đốn muộn hơn, đốn sau đợt sương muối nặng.

– Đốn đau trước, đốn phớt sau.

– Đốn tạo hình, chè con trước, đốn chè trưởng thành sau.

Đối với vùng đảm bảo độ ẩm, hoặc có điều kiện chủ động tưới chè có thể đốn một phần diện tích vào tháng 4-5 sau đợt chè xuân góp phần rải vụ thu hoạch chè.

4.5.7. Cách đốn và dụng cụ đốn:

– Đốn tạo tán có mặt bằng nghiêng theo sườn dốc, không làm dập cành,xây sát vỏ.

– Đốn đau, đốn lửng, đốn tạo hình lần đầu thì dùng dao. Đốn phớt, đốn tạo hình lần 2 thì dùng kéo hoặc dao. Đốn trẻ lại, sửa cành lớn chè giống thì dùng cưa.

– Đối với các giống chè có phân cành nhiều, mật độ cành lớn sinh trưởng đỉnh đều thì có thể áp dụng máy đốn để nâng cao năng suất lao động.

4.6. Tưới chè:

Nơi có điều kiện về nguồn nước, khả năng đầu tư thì có thể tiến hành tưới cho chè khi độ ẩm đất dưới 60% sức chứa ẩm đồng ruộng (vào các tháng hạn, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và các thời điểm hạn dài chính vụ quá 15 ngày).

Tưới theo phương pháp phun mưa bề mặt với vòi tưới di động hoặc cố định cho hiệu quả cao.

5.Thu hoạch và bảo quản:

5.1.Thu hoạch:

5.1.1.Hái tạo hình chè KTCB:

– Đối với chè tuổi 1: Từ tháng 10, hái bấm ngọn những cây chè cao 60 cm trở lên.

– Đối với chè 2 tuổi: Hái đọt trên những cây to khoẻ và cách mặt đất 50 cm trở lên.

5.1.2. Hái tạo hình sau khi đốn:

– Đối với chè đốn lần 1: Đợt hái đầu cách mặt đất 40 – 45 cm tạo thành mặt phẳng nghiêng theo sườn dốc. Đợt 2 hái đọt chừa 2 lá và lá cá..

– Đối với chè đốn lần 2: Đợt hái đầu cao hơn đốn lần 1 từ 25 – 30 cm, các đợt hái sau chừa bình thường như ở chè đốn lần 1.

5.1.3.Hái chè kinh doanh:

a) Hái đọt và 2 – 3 lá non ( Xác định theo tiêu chuẩn Nhà nước TCVN 1053 -71-1054-71)

b) Thời vụ:

Vụ xuân (tháng 3-4): Hái chừa 2 lá và lá cá, tạo tán bằng. Những đọt vượt cao hơn mặt tán thì hái sát lá cá.

Vụ hè thu (tháng 5-10) : Hái chừa 1 lá và lá cá, tạo tán bằng. Những đọt cao hơn mặt tán thì hái sát lá cá.

Vụ thu đông (tháng 11-12): tháng 11 hái chừa lá cá, tháng 12 hái cả lá cá.

5.1.4.Hái chè trên nương đốn trẻ lại, đốn đau thì tiến hành như đối với chè kiến thiết cơ bản.

5.2 Bảo quản:

Chè bup tươi thu xong phải để nơi râm mát, bỏ trong sọt không nén chặt, không đựng trong bao kín, không để héo, lẫn bẩn với vật lạ, tạp chất va đưa đến nơi chế biến không quá 10 tiếng.

Nguồn: Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chế biến Chè xanh an toàn chất lượng cao

Chè sau khi được thu hoạch, cần nhanh chóng đưa vào công đoạn sơ chế để giữ được hương vị tươi ngon nhất và bảo quản được lâu.

– Nguyên liệu: búp chè loại A theo TCVN cú tỷ lệ 1 tụm 2 lỏ > 80% trở lờn. Nguyên liệu phải được hái từ vườn chè được canh tác, đốn, hái và phũng trừ dịch hại theo qui trỡnh chố an toàn.

– Héo nhẹ: Chè hái về được rải ngay vào nong gác trên dàn héo đặt trong phòng héo thoáng khí, ít bị ảnh hưởng bởi bức xạ mặt trời. Độ dày chè rải trên nong từ 2¸4cm. Thời gian héo chè đối với nguyên liệu giống Trung du tốt nhất là 3¸4 giờ, thời gian héo nhẹ đối với nguyên liệu giống chè LDP1 là 4¸6 giờ.

– Diệt men. Bằng máy sao thùng quay chế tạo bằng thép không gỉ. Các thông số kỹ thuật áp dụng như sau:

+ Lượng chè diệt men: 1,4-1,6kg/mẻ

+ Thời gian diệt men: 2,5-3 phỳt

+ Nhiệt độ thùng sao: 250-2600C

+ Tốc độ quay thùng sao: 40-45 vũng/phỳt

+ Thủy phần chố sau diệt men: 60-62%

– Vũ và rũ tơi: Chè sau diệt men được vũ làm 2 lần (mẻ).

Lượng chè vũ thớch hợp: Với thựng vũ cú đường kính 300mm : 3,5-3,8 kg chè diệt men/mẻ vũ tương ứng 6-7kg chè tươi/mẻ.

Với thựng vũ cú đường kính 400mm: 5-6,6 kg chè diệt men/mẻ vũ tương ứng 9-12 kg chè tươi/mẻ.

Thời gian vũ mỗi mẻ: 12-15 phút.

Tốc độ vũng quay thựng vũ: 55-60 v/ph.

Sau mỗi lần vũ, chố được bỏ ra nong để rũ làm tơi các phần chè vón thành cục trước khi đem vũ lại (đối với chè mới qua 1 lần vũ) hoặc đem sấy (đối với chè đó được vũ 2 lần với đủ thời gian).

– Làm khụ: theo phương pháp sấy-sao-sấy với các thông số kỹ thuật như sau:

Giai đoạn 1: Chè sau khi vũ và làm tơi được đem sấy sơ bộ ở máy sấy chuyên dùng (đó được chế tạo phù hợp với công suất dây chuyền)

Sấy ở nhiệt độ 100¸110ºC đến khi hàm lượng nước trong chè còn 33¸35%, thời gian sấy khoảng 4¸5 phút. Chè ra khỏi máy sấy được rải ra nong làm nguội và cân bằng ẩm trong thời gian 8-10 phút

Giai đoạn 2: Chè được sao định hình trong mỗi sao thùng quay ở nhiệt độ 150¸170ºC (nhiệt độ bầu lũ) đến khi hàm lượng nước trong chè còn khoảng 8¸10%, thời gian sao khoảng 15¸20 phút. Chè sau khi sao được làm nguội và cân bằng ẩm  trong thời gian 10¸15 phút.

Giai đoạn 3: Chè được sấy bằng máy sấy chuyên dùng ở nhiệt độ 95¸100ºC đến khi hàm lượng nước trong chè còn 3%, thời gian sấy khoảng 20¸25 phút.

– Phân loại: Với sản xuất quy mô hộ và do có tỷ lệ bồm cám không đáng kể nên phân loại chỉ cần sàng, sẩy bằng sàng tay.

– Đánh hương: Tùy theo yêu cầu thị hiếu khách hàng về ngoại hình và hương thơm của chè và mục đích sử dụng mà chè có thể được đánh hương (sao hương) hoặc không cần đánh hương.

Đối với khách hàng ưa ngoại hình của chè có màu xanh lục sẫm và hương thơm tự nhiên hoặc mua chè làm nguyên liệu cho ướp hoa thì không cần đánh hương.

Đối với khách hàng ưa ngoại hình chè có màu óng bạc  và hương cốm mạnh, chè được đánh hương trong máy sao thùng quay ở nhiệt độ 110¸130ºC trong thời gian 7¸10 phút. Trước khi ra chè khoảng 1¸2 phút, điều chỉnh nhiệt độ tăng đến 150¸170ºC để tạo hương cốm.

Nguồn: Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng cây muồng đen làm trụ sống cho tiêu

Trong thời gian những  năm trở lại đây, cây  hồ tiêu đã trở thành loại cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con. Cách canh tác tốt nhất bền vững và lâu dài là tìm cây trụ sống thích hợp cho cây hồ tiêu leo.

Cây muồng đen sống làm trụ cho tiêu

Nhưng mặt khác làm khó khăn trở ngại là do chi phí đầu tư cho cây hồ tiêu,  nhất là cây trụ đỡ để cho cây hồ tiêu leo là khá cao, điều này đã  khiến cho nhiều bà con nông dân e ngại. Song song với đó là việc phát triển mạnh diện tích trồng cây hồ tiêu vô hình dung đã  kéo theo nhiều tình trạng chặt phá những cây gỗ tốt để làm trụ đỡ cho tiêu, việc khai thác cây như vậy đã làm gia tăng tình trạng chặt phá rừng. Để giải quyết thực trạng này,  Phòng lâm nghiệp huyện Krông Bông,tỉnh Đăk Lăk  đã triển khai dự án hỗ trợ phát triển lâm nghiệp (Dự án Flitch) để triển khai mô hình dùng cây  muồng đen sống để làm trụ tiêu.

Sử dụng cây muồng đen sống làm trụ cho tiêu đã góp phần tích cực trong việc ngăn chặn nạn khai thác rừng bừa bãi hiện nay vốn đã rất trầm trọng mà nó còn đem lại một khoản tiết kiệm đầu tư rất lớn, nhất là với những hộ nông dân mới khởi nghiệp trong điều kiện không đủ vốn và còn gặp nhiều khó khăn, đồng thời tạo ra môi trường  sinh thái cân bằng và  bền vững trong việc canh tác cây hồ tiêu hiện nay ở nhiều địa phương trong huyện.

Ông Trần Văn Hồng, một nông dân ở thôn 1, xã Cư Drăm tham gia mô hình này cho biết: “Mô hình đã mang lại rất nhiều hiệu quả kinh tế  mà chi phí đầu tư của nó lại thấp rất phù hợp với bà con nông dân. Trồng cây muồng đen làm trụ sống cho tiêu đã giúp giảm đi  một khoản chi chí đầu tư khá lớn so với dùng trụ gỗ, hoặc trụ bê tông và cũng đã  giảm đi đáng kể vấn nạn chặt  phá rừng”.

Đã có rất nhiều  bà con tham gia mô hình trồng muồng đen để làm trụ cho cây hồ tiêu ở các xã trực thuộc vùng dự án như: Cư Drăm, Cư Pui, Hòa Lễ và Yang Mao cho biết thêm: Cây muồng đen đã đem lại  nhiều ưu điểm vượt trội so với các  loại cây sống khác như cây sầu đâu,điều, trôm, keo, lồng mức, mít,dông…bởi vì đây là loại cây có cùng họ với cây đậu nên giúp phần cung cấp chất mùn hữu cơ tốt cho việc cải tại và phục hồi chất dinh dưỡng của đây, tán lá của cây cũng vừa phải, phù hợp và dễ dàng đễ cắt tỉa cành cây, thân cây thuộc loại gỗ tốt 2A, còn về phần rễ thì ăn sâu vào đất nên không ảnh hưởng đến việc cung cấp chât dinh dưỡng cho cây hồ tiêu, cây thuộc loại phát triển khá nhanh.

Nếu ta đêm trồng cây con thì cũng tầm 1 đến 2 năm đã có thể cho dây tiêu leo. Ta sử dụng cây muồng đên vừa có thể làm cây trụ cho tiêu, vừa tạo ra bóng râm, chắn gió cũng rất tốt đem lại hiệu quả 2 trong 1 nông lâm kết hợp. Dựa vào những ưu điểm này nên chỉ mới triển khai dự án được 2 năm đã có hơn 460 hộ bà con nông dân đã tham gia phát triển theo mồ hình nông lâm kết hợp và cũng đã có hơn 500 ha cây được trồng, cụ thể hơn đã có hơn 50 ha mô hình trồng xen cây muồng-tiêu,có hơn 450 ha mô hình trồng xen cây muồng-tiêu- cà phê-cây ăn quả.

Anh Trần Văn Dũng, Phó Trưởng ban chuyên trách Ban Phát triển xã Yang Mao khẳng định: “Từ lúc bắt đầu xây dựng  mô hình nông – lâm kết hợp do Dự án Flitch triển khai thuộc  địa bàn xã Yang Mao, nhiều hộ nông dân  đã tích cực tham gia trồng cây gây rừng xem kẽ  với hồ tiêu và các loại cây ăn trái. Cụ thể cho đến đầu năm 2015, mô hình này đã được bao phủ gần như toàn bộ diện tích đất đồi rừng thuộc địa bàn xã”.

Sử dụng loại cây muồng đen làm trụ sống cho cây hồ tiêu đã mang lại rât nhiều hiệu quả : gần như đã giảm được khá nhiều chi phí đầu tư của bà con nông dân, tránh được tình trạng khai thác rừng bừa bãi, góp phần bổ sung chất dinh dưỡng và cải tạo đất trống đồi trọc cho bà con nông dân, góp phần đa dạng hóa giống cây trồng và sản phẩm trên địa bàn.

Ông Đào Duy Ba ở thôn 2, xã Cư Drăm, người đã  sơ hữu  hơn 5 ha đất trống đồi trọc thực hiện  mô hình nông – lâm kết hợp từ sự hỗ trợ của Dự án Flitch nhận  định: Cây muồng đen ngoài tác dụng làm trụ đỡ, làm cây che bóng mát, giống cây muồng đen còn góp phần giúp cây tiêu tránh xa được các loại mầm bệnh lây lan từ bên ngoài do chúng ta trồng tiêu cách khá xa nhau. Cách canh tác bền vững này cần được học hỏi và chú trọng phát huy.

Nói tóm lại trồng cây muồng đen làm trụ đỡ cho cây hồ tiêu đã đem lại rât nhiều hiệu quả cho bà con nông dân trong vòng 2 năm thực hiện dự án trở lại đây. Xét về mặt hiệu quả mà cây muồng đen mang lại:  người dân các xã  Cư Drăm, Yang Mao, Cư Pui…đã và đang thực hiện để mở rộng diện tích canh tác, có thể thay thế các trụ tiêu bằng cọc bê tong, cọc gỗ, góp phần giảm nạn khai thác rừng bừa bãi, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm chi phí và tăng thu nhập.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Khắc tinh bệnh chết nhanh, chết chậm

Bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây hồ tiêu được xem như là căn bệnh nan y mà hầu hết bà con nông dân ai cũng đều lo ngại, nhưng không hẳn vì điều đó mà chúng ta phải bỏ cuộc, vì căn bệnh này hoàn toàn có thể phòng ngừa và hạn chế được tác hại của nó.

Ông Lê Đình Thường (ấp Thọ Lộc, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai), là một trong những người đã có kinh nghiệm trên 20 năm đã chiến thắng được căn bệnh chết nhanh, chết chậm trên tiêu và ông đã làm thế nào?

Tìm hiểu cặp “song sát”

Trạm Khuyến nông Thị Xã Long Khánh cho biết: đối với cây tiêu, một khi đã mắc căn bệnh chết nhanh chết chậm thì chắc chắn cây tiêu sẽ chết. Nhưng khi bà con đầu tư phòng bệnh ngay từ đầu thì khả năng mắc bệnh này sẽ rất thấp.

Căn bệnh chết nhanh còn được gọi là bệnh thối rễ, do nấm Phytophthora capsici tồn tại trong đất kết hợp với các loại nấm khác gây nên, khiến cây tiêu đổ bệnh và chết nhanh chóng. Đặc điểm của loài nấm này là khả năng tấn công bộ rễ và phần thân của cây tiêu nằm trong đất, khiến cho mầm cây không phát triển được, lá chuyển dần từ màu xanh sang màu vàng và rụng dần, còn phần dây trên mặt đất có hiện tượng bị héo.

Triệu chứng này thường diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng 1 vài tháng thì cả cây tiêu sẽ chết. Nên lưu ý, nếu tình trạng bệnh xảy ra vào mùa mưa sẽ khiến nước mưa kéo theo mầm bệnh lây truyền từ cây này sang cây khác và cả vườn tiêu sẽ bị chết hàng loạt. Ngoài ra, môi trường đất, dụng cụ canh tác cũng là một trong những nguyên nhân khiến mầm bệnh này lây lan nhanh.

Nguyên nhân gây ra bệnh chết chậm là do các loại nấm Fusarium sp., Rhizoctonia sp., Pythium sp,…và một số loại nấm khác gây hại lên bộ rễ. Một khi tiêu mắc căn bệnh này, đặc điểm đầu tiên để bà con nhận biết đó chính là biểu hiện cây tiêu sinh trưởng chậm lại, lá hơi nhỏ lại, màu nhạt dần hoặc chuyển sang màu vàng giống hiện tượng thiếu phân, thiếu nước. Sau một thời gian thì lá, hoa, quả dần dần bị rụng hết đi từ gốc lên tới ngọn. Bệnh này là nguyên nhân gây ra thối vỏ ở phần gốc cây, làm phần lõi thân bên trong màu nâu lợt. Lâu ngày sẽ khiến toàn bộ lớp rễ và gốc bị thâm đen, cây chết khô dần. Quá trình nhiễm bệnh của cây tiêu có thể kéo dài cả năm, làm cho tiêu nhiễm bệnh từ nhẹ tới nặng và chết luôn cả cây. Bệnh này thường gặp nhất ở các vườn tiêu đọng nước và ẩm ướt.

Phòng bệnh hơn chữa bệnh

Theo ông Lê Đình Thường thì nguyên nhân gây ra 2 căn bệnh này là do việc bà con lạm dụng thuốc hóa học quá mức, dẫn đến tình trạng càng ngày cây càng suy yếu, sức đề kháng của cây yếu dần đi và không thể chống chọi lại bệnh tật. Ngoài ra, việc chăm sóc vườn tiêu không chu đáo, thiếu thoáng mát và vườn tiêu không có hệ thống thoát nước cũng là nguyên nhân gây ra bệnh tật cho tiêu.

Ông Thường bên gốc tiêu miễn dịch

Để phòng ngừa bệnh cho tiêu một cách hiệu quả, ông Thường chia sẻ: Việc quan trọng nhất để có một vườn tiêu khỏe đó chính là phải tạo ra một hệ thống mương thoát nước triệt để vào mùa mưa, giúp tiêu hạn chế phát sinh nấm bệnh. Mặt khác mương cũng phải đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng nước tưới vào mùa khô. Bà con nên bón phân một cách hợp lý, sử dụng chủ yếu các loại phân vi sinh tối ưu, hạn chế sử dụng các loại phân bón hóa học. Việc sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh, cây sẽ không phát triển nhanh bằng phân hóa học, nhưng lại giúp cho cây khỏe mạnh về lâu về dài.

” Vườn tiêu sử dụng phân bón hóa học sẽ cho năng suất cao, nhưng chỉ được trong những năm đầu, còn những năm về sau thì không đảm bảo vì khi sử dụng phân bón hóa học thì cây tiêu sẽ rất nhanh bị kiệt quệ. Vườn tiêu nhà tôi vẫn cho năng suất đều đặn hàng năm, cây sống khỏe mạnh, tuổi thọ kéo dài. Cả vườn đã được hơn 20 năm tuổi”, ông cho hay.

Biện pháp cuối cùng là sử dụng thuốc men theo đợt. Vào đầu mùa mưa phun 2 đợt để phòng ngừa tuyến trùng, 1 đợt phòng trừ nấm, phun thêm 2 đợt vào cuối mùa mưa thì hoàn tất. Khi bà con phòng ngừa bệnh cho tiêu, nên lưu ý sử dụng những loại thuốc được khuyến cáo của ngành Bảo Vệ Thực Vật.

Với diện tích 3,5 ha hồ tiêu, cho năng suất thu hoạch ổn định hàng năm từ 3,5-4 tấn/ha mang lại nguồn thu nhập cho gia đình ông Thường 800-1 tỷ đồng/năm. Có năm, ở địa phương ông có hơn 60 ha hồ tiêu bị dịch bệnh chết, nhưng vườn tiêu của ông vẫn phát triển khỏe mạnh.

Nguồn: giongcaytrongeakmat.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nên lựa chọn trụ tiêu nào ?

Tiêu là một cây thân bò, mảnh mai, trên những đốt trên thân có rễ bám, để giúp cây có khả năng vươn lên và mọc thành cụm. Để dễ dàng chăm sóc và thu hoạch chúng ta cần trồng trụ tiêu để tạo điểm tựa cho thân tiêu.

Hiện nay có 3 loại trụ tiêu cơ bản được bà con nông dân sử dung là trụ đúc bê tông, trụ gạch xây và trụ sống. Tùy vào loại trụ sử dụng mà mật độ và khoảng cách trồng của dây tiêu sẽ thay đổi. Để nắm rõ được mật độ cũng như yêu cầu về trụ cho cây tiêu, chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết này nhé.

1. Cây trụ sống.

Cây trụ sống sẽ cùng sinh trưởng với cây tiêu và là điểm tựa cho cây tiêu nên cần chọn những cây trụ vững chắc, thân dài và thoáng để tạo điều kiện cho dây tiêu dễ leo bám. Cây cần có bộ rễ ăn sâu ra khỏi tầng đất từ 20-70 cm để không tranh chấp chất dinh dưỡng và nước với cây tiêu.

Yêu cầu chọn trụ sống:

Cây sinh trưởng nhan, phát triển mạnh để nhanh chóng vươn lên đáp ứng sự sinh trưởng của dây tiêu, lớp vỏ cần tương đối nhám để cây tiêu dễ bám vào và leo lêm.

Bộ rễ của cây cần ăn sâu để không cạnh tranh dinh dưỡng với cây tiêu.

Cây thuộc loại ít tán hoặc có tán thưa để không che ánh sáng, tạo điều kiện thông thoáng khí. Có thể chịu được việc cắt xén nhiều lần mà cây không chết.

Cây phải ít sâu bệnh và không có chứa những kí sinh trùng bệnh của cây tiêu.
Bạn có thể chọn một số cây họ đậu hoặc cây trồng bằng cành để dây tiêu dễ dàng leo bám.

Một số trụ sống đang được sử dụng hiện nay:

Ở vùng Đông Nam Bộ thường sử dụng cây keo đậu, cây lồng mức, cây gòn hoặc cây đỗ quyên để làm cây leo cho tiêu. Với cây trụ sống chúng ta có thể trồng tiêu ở mật dộ 2.5×2.5m hoặc 2.5×3.0m với mật độ là 1300- 1600 cây/ha.

Ở vùng Duyên Hải Miền Trung những cây thường được sử dụng là cây lồng mức, keo dâu hoặc mít và trồng với khoảng cách 2.5×2.5 m hoặc 2.5×3.0m với mật độ khoảng 1300 -1600 trụ/ha. Ngoài ra còn có muồng, keo hoặc cây núc nác cũng được người dân sử dụng những ít phổ biến hơn.

Vùng Tây Nguyên: Thường sử dụng cây keo dâu, giá anh đào, muồng đen hoặc lồng mức để làm trụ tiêu, với khoảng cách trồng là 2.5×2.5m hoặc 3.0×3.0m đạt mật độ khoảng 1100 -1600 trụ/ha.

Ưu điểm của cây trụ sống:

  • Cây trụ sống có tuổi thọ sống cao, đáp ứng trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây tiêu.
  • Trụ sống cần vốn đầu tư thấp, hoàn toàn dễ tìm.
  • Cây có thể tạo bóng râm cho cây tiêu, thích hợp cho những dây tiêu mới trồng.
  • Các rễ bám của cây tiêu có thể tận dụng được lượng nước từ cây sống và thích nghi tốt hơn trong mùa hạn.

Hạn chế của cây trụ sống:

  • Trụ sống có sức ảnh hưởng lớn và thường cạnh tranh dinh dưỡng với cây tiêu
  • Hàng năm phải cắt tỉa cành, lá để tạo thông thoáng cho cây.
  • Cây trụ sống cần được trồng trước cây tiêu từ 1-2 năm.

2. Cây trụ gỗ.

Cần chọn trụ gỗ chắc chắn, có chất lượng gỗ tốt, có khả năng chống chịu được mối ngọt cũng như sức ảnh hưởng của môi trường, cây không bị mục quá nhanh,…

Thân thẳng đứng có chiều cao từ 2- 5 m trở lên, đường kính thân dài từ 10-15 cm.

Ưu điểm của sử dụng trụ gỗ:

  • Cây không bị cạnh tranh về nước và dinh dưỡng.
  • Mật độ trồng của trụ gỗ cao hơn, có thể tùy ý chọn lựa độ cao của trụ để dễ dàng chăm sóc vườn đạt hiệu quả cao nhất.
  • Hàng năm không phải mất công cắt cành, tỉa lá.
  • Hoàn toàn có thể chủ động quy hoạch, thời điểm trồng, mật độ. Và không mất quá nhiều thời gian chờ đợi trụ đủ chiều cao như trụ sống.

Hạn chế của việc sử dụng trụ gỗ:

  • Trụ gỗ có thời gian tồn tại ngắn, chỉ đạt từ 10- 15 năm là không thể giữ được cây tiêu và dần bị mục. Trong khi đó cây tiêu có thời gian phát triển đến 25- 30 năm. Trong thời gian trồng cần phải thay thế trụ tiêu khiến mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến bộ rễ bám của cây tiêu dẫn đến quá trình phát triển của cây tiêu bị chậm từ 1- 2 năm, năng suất trong 2 năm này giảm đáng kể.
  • Chi phí mua gỗ lớn, hiện nay để có thể mua được đủ số lượng trụ gỗ để trồng 1 ha tiêu thường phải đốn mất 4- 5 ha rừng mà tính khả thi không cao.
  • Những loại gỗ được sử dụng để làm trụ tiêu gồm có: Xoan rừng, Kiền kiền, Tràm, Viết và Sỏi mật.

3. Trụ xây bằng gạch.

Rễ cây có thể bám vào những bề mặt nhám như gạch, đá. Để tăng thời gian sử dụng của trụ tiêu lên cao hơn người ta thường đổi từ trụ gỗ sang trụ gạch để tăng tính khả thi.

Ưu điểm của dùng trụ xây bằng gạch:

  • Hạn chế được việc phá rừng để lấy gỗ.
  • Có thời gian sử dụng lâu dài phù hợp với sự phát triển của cây tiêu, không phải thay đổi trụ trong thời gian cây tiêu đang cho năng suất cao ảnh hưởng đến kinh tế.
  • Không mất thời gian chăm sóc hàng năm.
  • Có thể tận dụng nguyên liệu sẵn có tại địa phương.
  • Tùy vào mục đích sản xuất và yêu cầu ánh sáng của giống trồng mà thay đổi thiết kế của trụ và giúp điều chỉnh được ánh sáng trong vườn được tốt nhất.
  • Mỗi trụ có thể trồng tới 8- 10 bầu đất, tăng khả năng định hình cho vườn cây. Năng suất mỗi trụ đạt được cao hơn.

Hạn chế của trụ xây bằng gạch:

  • Chi phí đầu tư ban đầu lớn hơn sử dụng trụ sống và trụ gỗ từ 1.5 – 2 lần.
  • Gạch, đá, xi măng có khả năng hút nhiệt cao, chính vì vậy trong mùa khô hoặc thời tiết nắng nóng trụ có thể nóng tới 40- 45 độ C, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. Bạn cần có kỹ thuật chăm sóc, nhất là cây che bóng cho cây.

Cách xây dựng trụ tiêu bằng gạch xây:

Bạn có thể xây trụ hình tròn hoặc vuông.Tuy nhiên trụ ống tròn được sử dụng nhiều nhất.

  • Chiều cao trụ từ 2 m trở lên.
  • Đường kính đáy từ 1 – 1.2 m.
  • Đường kính ngọn khoảng 0.6 – 0.8 m.
  • Móng trụ đào sâu 0.5m.
  • Khoảng cách: 2.0×2.0m hoặc 2.5×2.5m.
  • Thân trụ rỗng, vách trụ có những lỗ cách nhau 10 cm.

Những vườn cây sử dụng trụ gỗ hoặc trụ bằng gạch xây cần xây dựng một hệ thống cây bóng che để tạo bóng che cho cây, nhất là giai đoạn cây mới đem trồng cần có môi trường thoáng mát. Nhiều người người thường áp dụng những biện pháp thúc đẩy năng suất tăng cao, bón phân và tưới nước để đạt sản lượng lớn khiến cây nhanh chóng bị suy kiệt và dễ mắc phải những bệnh hại nguy hiểm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cách để Lạc mọc đều

Lạc là cây công nghiệp ngắn ngày, dễ trồng, dễ chăm sóc, có thể gieo trồng được nhiều vụ trong năm nên cho hiệu quả kinh tế cao đồng thời còn là loại cây góp phần cải tạo đất rất tốt.

Bộ rễ lạc có nhiều nốt sần có thể tổng hợp được đạm từ không khí kết hợp với lượng chất xanh từ thân, lá là nguồn phân hữu cơ giàu đạm cung cấp thêm cho đất, nhất là với những vùng đất bạc màu.

Kỹ thuật trồng lạc thì nhà nông ai cũng biết, tuy nhiên để cho lạc nẩy mầm đều, cây sinh trưởng khỏe, cho nhiều quả, đạt năng suất cao thì không phải nhiều người đều hay. Thời vụ gieo trồng lạc thu đông sắp đến, chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm của một số trồng lạc (đậu phộng) giỏi ở xã Hải Xuân, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định để bà con các nơi tham khảo, áp dụng:

– Chọn hạt giống để gieo:

Chọn hạt to, mẩy, đều, màu sắc còn tươi sáng, đúng giống theo yêu cầu thời vụ để gieo. Vì lạc đông cơ bản lấy giống từ nguồn lạc trồng vụ xuân, thu hoạch trong điều kiện thời tiết nóng và ẩm, hạt có chứa nhiều tinh dầu nên rất dễ mất sức nẩy mầm, thường chỉ đạt 70-75% do đó nên kiểm tra lại tỷ lệ nẩy mầm trước khi gieo bằng 2 cách: gieo thử trong cát ẩm hoặc tách nhân hạt để quan sát phôi và 2 lá mầm của giống. Nếu thấy phôi còn màu trắng hồng, lá mầm không có biểu hiện xỉn mốc là hạt còn tốt.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo:

Trước khi tách hạt khỏi vỏ nên phơi lại 1-2 nắng nhẹ (30-32oC) để “đánh thức” và tăng thêm sức nẩy mầm cho hạt giống. Ngâm hạt giống cho hút no nước rồi để ráo, ủ cho nứt nanh rồi chọn hạt tốt để gieo.

Kết quả theo dõi của các nhà khoa học Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải miền Trung cho thấy, các loại thuốc bảo quản hạt giống đã ngăn trở các vi khuẩn trong các nốt sần ở rễ tạo đạm từ khí trời để cung cấp thêm cho cây và đất nên thường cho năng suất thấp hơn là những lô hạt giống không có chất bảo quản chống nấm mốc. Do đó, với hạt giống có xử lý hóa chất chống nấm trong quá trình bảo quản, nên ngâm, rửa, thay nước vài lần trước khi ủ nhằm loại bỏ hết các thuốc chống nấm trước khi gieo.

– Trong trường hợp gieo hạt khô không qua ngâm ủ, nên thử lại tỷ lệ nẩy mầm (đạt trên 90%) và nên gieo 1-2 hạt/hốc, chỉ lấp một lớp đất mỏng 3-4cm. Có thể tưới nhẹ đạt độ ẩm đất 65-70% trước hoặc sau khi gieo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hạt nẩy mầm nhanh và đều.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thu hoạch và bảo quản Lạc làm giống

Lạc (đậu phộng) là cây lấy dầu ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên để thu hoạch và bảo quản lạc giống tốt, đảm bảo được tỷ lệ nảy mầm cho vụ sau cần làm tốt các yêu cầu kỹ thuật sau:

1. Thu hoạch

– Xác định thời điểm thu hoạch là một khâu quan trọng vì nó ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng hạt giống.

– Khi kiểm tra thấy lá vàng, vỏ quả cứng, chắc, ít quả lép, 70-75% quả chín sinh lí (với dạng cây phân cành liên tục tỷ lệ này còn có thể thấp hơn). Thu hoạch lạc để giống không nên thu quá già. Thu sớm hơn 7 – 10 ngày so với sản phẩm sử dụng để tiêu dùng và bán.

Sở dĩ thu hoạch sớm hơn vì:

-Lúc này hạt lạc ở vào giai đoạn chín sinh lý, các chất dinh dưỡng đạt cao nhất.

– Khi phơi khô, hạt lạc không bị nứt.

– Chủ động phơi sấy, không bị lẫn với các thứ khác khi phơi.

Sau khi nhổ, cây nên rải ra thành hàng để khử lẫn lần cuối. Bất cứ cây khác dạng nào và cây có quả bị bệnh nên loại bỏ, những quả rơi rụng không nên giữ làm giống.

Chú ý: + nếu trời nắng, vặt quả, phân loại chọn quả già, không dập nát, không có vết bệnh (màu nâu, đen, thối …) trên vỏ quả.

+ Nếu trời mưa: Nếu gặp trời mưa, phát hiện lạc nẩy mầm 3 – 5 % nên thu hoạch ngay, rửa sạch đất cát và đem về nhà, không vặt quả ngay mà nên treo hoặc làm giàn để trải ra cho thật thoáng, không dồn đè lên nhau, nhằm giúp không khí lưu thông, dễ thoát nước.

2. Làm khô giống

Các giống lạc hiện nay hầu hết không có tỉnh ngủ tươi nên có thể nảy mầm ngay tại ruộng hoặc khi đã thu hoạch nhưng không làm khô kịp thời. Vì vậy cần làm khô quả lạc bằng cách:

– Phơi ngay tại ruộng nếu trời nắng to, ruộng khô ráo hoặc treo phơi dưới hiên.

– Cũng có thể vặt quả ra phơi dưới sân gạch hoặc phơi trong nia, mẹt tránh phơi trên sân bê tông nhiệt độ quá cao làm ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống.

Khi phơi: gặp trường hợp nắng gắt, nên phơi trong bóng râm (hay dưới ánh sáng tán xạ) một hai lần. Khi lạc đã khô sau 1 – 2 nắng nhẹ và lúc này được phép phơi ngoài nắng trực tiếp để lạc nhanh khô (sao cho khi bóc vỏ dùng tay chà mạnh thấy cho tróc vỏ lụa). Sau khi phơi khô nên để nguội qua một đêm rồi mới đem bảo quản.

3. Phương pháp bảo quản lạc giống dạng quả:

Tỷ lệ nảy mầm của giống phụ thuộc rất nhiều vào quá trình bảo quản. Nếu bảo quản bằng kho lạnh 12 0C thì sau 12 tháng tỷ lệ nảy mầm vẫn đạt 95,6%, màu sắc vỏ lụa ít bị biến đổi. Nếu bảo quản kín trong phòng thì sau 6 tháng tỷ lệ nảy mầm đạt 89,5%, sau 8 tháng đạt 76,1% nhưng nếu để từ 9-12 tháng thì tỷ lệ nảy mầm giảm mạnh còn trên dưới 50 %. Có các phương pháp bảo quản sau:

Phương pháp 1: Bảo quản trong bao tải, chum vại, thùng phuy, gỗ … cách ly:

Lạc giống thật khô (khi hạt tách khỏi vỏ, lắc thấy long là được), sạch được đóng gói trong bao tải có túi nilon, chum vại, thùng phuy, gỗ, …. có lót lớp vôi dưới đáy và bịt chặt bằng nilon trên đầu túi cho vào bao tải, thùng phuy, gỗ… Cũng có thể cho lạc vào chum vại (có lót lớp vôi dưới đáy) rồi phủ lên trên 1 ít lá xoan, sau đó buộc nilon… Lạc giống không nên giữ quá 1 năm.

Phương pháp 2: Bảo quản lạc trong thùng xốp dày 15cm cách ly:

Sau khi thu hoạch lạc, phơi khô, để nguội rồi mới bỏ vào trong thùng xốp (Thùng xốp có bề dày 15cm, tùy theo số lượng giống cất giữ mà chọn thùng xốp to hay nhỏ) sau đó đậy nắp lại và dùng băng keo dán kín không cho không khí bên ngoài và bên trong trao đổi với nhau. Thùng xốp được đựng trong khung sắt được bao quanh bằng lưới mắt cáo để không cho chuột phá hoại.

Phương pháp 3: Bảo quản trong can nhựa cách ly chôn dưới đất sâu 1m:

Sau khi thu hoạch lạc, phơi khô, để nguội rồi mới bỏ vào can nhựa, tùy theo lượng giống mà chọn can nhựa lớn hay nhỏ. Sau khi bỏ vào can nhựa đậy nắp can lại và dùng băng keo bịt kín không cho nước vào. Theo kinh nghiệm cất giữ giống thì cần bỏ can nhựa vào túi ni lon buộc chặt rồi chôn xuống đất sâu khoảng 1m.

Phương pháp 4: Bảo quản lạc ngoài đồng ruộng (Gieo lại vụ Hè-Thu năm sau)

(Áp dụng cho lạc vụ Đông-Xuân)

Bảo quản lạc ngoài đồng ruộng: Sau khi thu hoạch Lạc Đông Xuân, những nơi có điều kiện nước tưới có thể gieo lạc vụ Hè Thu để làm giống cho vụ Đông Xuân năm sau.

Nếu bảo quản theo các phương pháp trên thì có thể bảo quản giống lạc từ 5-6 tháng mà tỷ lệ nảy mầm đạt 80-92%.

Nguồn: khuyennongqnam.gov.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số bệnh phổ biến trên cây Lạc

Lạc cũng được coi là một mặt hàng nông sản chủ lực bên cạnh các cây lương thực khác như lúa, ngô, khoai, sắn (mì)…

Dưới đây là một số bệnh liên quan đến cây lạc thường hay gặp phải:

Sâu hại Biểu hiện Cách phòng trừ
Sâu xám Là đối tượng gây hại chính ở thời kỳ cây con, sâu thường cắn trụi lá đến cắn đứt ngang cây lạc lúc vừa mới mọc làm đứt khoảng, giảm mật độ lạc trên ruộng. Bà con bắt bằng tay.

Hoặc bà con sử dụng các loại thuốc hoá học như Dylan, Map Winner, Sherpa 25 EC, Basudin 10H (rãi) …

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Sâu khoang Phát sinh gây hại trong suốt qúa trình sinh trưởng của lạc, ở thời kỳ đầu vụ mật độ sâu cao, cắn khuyết đến trụi lá làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của lạc, sâu hại nặng ở giai đoạn lạc ra hoa bói trở đi, cắn trụi lá.
 + Luân canh cây trồng và vệ sinh đồng ruộng.

+ Dùng bả chua ngọt để diệt trừ.

+ Bắt diệt bằng thủ công khi mật độ thấp.

+ Khi mật độ cao, bà con có thể dùng thuốc Ofatox 40EC, Fastac, Dylan, Map Winner,…

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Rệp hại lạc Rệp tập trung thành đám bám vào phần lá non, đọt non của lạc chích hút dịch cây làm lạc sinh trưởng kém, quăn queo, ra hoa đâm tia kém. Rệp phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết có mưa phùn, ruộng lạc ẩm ướt, rậm rạp.

 + Vệ sinh đồng ruộng và bón phân cân đối.

+ Dùng thiên địch để diệt trừ.

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Sâu cuốn lá Sâu cuốn lá lạc gặm ăn hết biểu bì để lại lá non màu trắng, nếu mật độ cao làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất lạc.

Bà con bắt sâu bằng tay.

Khi rệp phát triển nhiều thì dùng Ofatox 50EC, Trebon 10EC,… để diệt rệp. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuấ

Thối rễ và củ Cây con bị thối rễ và chết.

Lá cây bị héo vàng, cây còi cọc.

Rễ cái, củ non bị thối.

Phòng ngừa bằng các loại thuốc đặc hiệu như Amistar 250SC với các hoạt chất Hexaconazole, Difenoconazole… (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).
Thối gốc, mốc trắng Hạch nấm tròn nhỏ màu nâu và sợi nấm màu trắng trên gốc cây. + Phòng mầm bị thối bằng cách không gieo hạt quá sâu. Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc trừ nấm Dithan-M, Carbenzim, Rovral.

+ Biện pháp phòng bệnh là thu dọn tàn dư cây trồng, cày lật đất sớm. Nhổ bỏ cây bị bệnh nặng. Có thể phòng bằng các thuốc Hexin, Monceren, Rovral… vào thân và gốc cây. Ruộng lạc (đậu phộng) bị bệnh nặng cần luân canh cây khác. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Gỉ sắt Trên lá có những vết màu vàng đỏ.
Khi bệnh chớm xuất hiện trên lạc vụ thu, vụ xuân có thể phòng trừ bằng cách phun các loại thuốc Manage 15WP, Nustar 40EC hoặc Bavistin, Score 250EC, v.v….Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Đốm lá Trên lá có vết màu nâu đậm.
– Vệ sinh đồng ruộng trước và sau vụ trồng, nhằm hạn chế lây lan.

– Gieo tỉa với mật độ trung bình.

– Phun phòng và trị bệnh bằng thuốc các thuốc trừ sâu sinh học gốc đồng. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Khảm lá Cây không phát triển, lùn do các lóng thân phát triển kém.
– Ruộng sản xuất giống nên được trồng sớm và bố trí cách ly với ruộng sản xuất đại trà.

– Dùng hạt giống tốt, đầy đặn, chống bệnh hoặc từ ruộng không bị bệnh. Khử hạt trước khi gieo như đối với bệnh đốm phấn.

– Cần phát hiện bệnh sớm và tiêu hủy cây bệnh. Vệ sinh đồng ruộng, trừ cỏ dại.

– Phun thuốc trừ sâu sinh học phòng trừ côn trùng mang truyền mầm bệnh. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

 

Kỹ thuật trồng lạc cho năng suất cao trong vụ xuân

Cây lạc (đậu phộng) là cây thân thảo thuộc họ Đậu, bộ rễ có khả năng cải tạo đất trồng.

Nhiệt độ thích hợp cho cây lạc sinh trưởng là 25 – 30 oC, cây lạc trưởng thành có thể cao từ 30 – 50 cm. Một vụ lạc kéo dài khoảng 100 – 130 ngày, cho năng suất trung bình đạt 35 – 40 tạ củ/ha. Giá lạc trên thị trường trung bình khoảng 20 nghìn đồng một kg. Lạc cũng được coi là một mặt hàng nông sản chủ lực bên cạnh các cây lương thực khác như lúa, ngô, khoai, sắn (mì)… Củ lạc có giá trị dinh dưỡng cao, thường được sử dụng trong bữa ăn gia đình. Ngoài ra, củ lạc còn được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, bánh, kẹo. Phần thân lạc sau khi thu hoạch sẽ được tận dụng làm thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm rất hiệu quả.

1. Yêu cầu về đất trồng lạc (đậu phộng)

Chọn đất: Chọn đất có thành phần cơ giới cát pha hoặc thịt nhẹ, thoát nước tốt, không có nguồn bệnh héo xanh vi khuẩn. Vùng có t­ới chọn những khu đất có hệ thống t­ới tiêu chủ động, có chế độ luân canh với cây trồng nước.

Làm đất: cày sâu, bừa nhỏ, tơi xốp và nhặt sạch cỏ dại tr­ớc khi lên luống.

Độ ẩm: Đất trước khi gieo hạt phải đạt độ ẩm khoảng 70-75%, nếu đất khô phải t­ới ẩm rồi mới gieo.

2. Chuẩn bị giống lạc (đậu phộng)

* Bộ giống: Vùng có t­ới chọn các loại giống thâm canh nh­ L17, L15, L23, L24 và L18. Vùng khô hạn chọn giống L12, L17, L16, L20, L23 và L25. Vùng chuyên canh trồng lạc xuất khẩu chọn giống LO8.

* Lượng giống: Tuỳ thuộc vào kích cỡ hạt và chất Lượng hạt giống. Nếu sử dụng giống lạc Đông thì lượng dùng 200 đến 250 kg giống cho 1 ha.

* Xử lý hạt giống: trước khi gieo trồng bằng Rovral 50wp (2-3gam/kg hạt), Carbedazin 75 BTM 3 g/kg hạt, Thiram 3 g/kg hạt…

3. Thời vụ gieo đậu phộng

Thời vụ gieo từ 25/1 đến 5/2 hàng năm, tốt nhất là 5/2. Khi nhiệt độ không khí lớn hơn 13 0C là gieo được, không nên gieo sớm quá nhiệt độ thấp tỷ lệ nảy mầm của lạc kém, ảnh hưởng đến năng suất. Cũng không nên gieo muộn quá, thời gian sinh trưởng của lạc bị rút ngắn, lạc dễ bị sâu bệnh phá hại và gặp lụt tiểu mãn ảnh hưởng tới năng suất chất lượng.

4. Phân bón cho cây lạc (đậu phộng)

* Một ha cả 2 vùng dùng phân chuồng mục 10 tấn/ha (500kg/sào), vôi bột 400kg/ ha chia làm 2 đợt bón: đợt 1 bón lúc cày bừa làm đất 200 kg/ha; đợt hai 200kg/ha, vãi trực tiếp trên cây khi lạc ra hoa được 15-20 ngày.

* Vùng có t­ới bón phối hợp NPK với Lượng 45 kgN + 135 kg P2O5 + 90 kg K2O/ha. Hoặc có thể dùng phân hỗn hợp NPK tỷ lệ 3:9:6 với Lượng 1500 kg/ha.

* Vùng khô hạn bón phối hợp NPK với Lượng 30 kgN + 90kg P2O5 + 60 kg K2O/ha. Hoặc có thể dùng phân hỗn hợp NPK tỷ lệ 3:9:6 với Lượng 1000 kg/ha.

5. Mật độ và khoảng cách trồng lạc

Cả 2 vùng gieo khoảng cách 33 x 10 x 1 hạt với mật độ 33 cây/m2.

Ruộng thí nghiệm mật độ trồng lạc

Ruộng thí nghiệm mật độ trồng lạc

6. Chăm sóc đậu phộng

– Xới phá váng khi cây có 2 lá thật lúc này cần chú ý bới thoáng gốc để cho 2 lá mầm lộ ra, tạo điều kiện cho cặp cành cấp 1 phát triển tốt, phun đa vi Lượng đợt 1.

– Xới cỏ lần 2 khi cây có 7 – 8 lá thật (sau mọc 30 – 35 ngày) lần này nên sới sâu giữa hàng tạo điều kiện cho đất thoáng khí.

– Xới cỏ lần 3 kết hợp với vun gốc, bón vôi thúc sau khi ra hoa rộ 10 ngày.

– Vùng có t­ới: T­ới nước t­ới vào 2 thời kỳ quan trọng tr­ớc khi ra hoa và thời kỳ làm quả nếu thời tiết khô hạn. T­ơí vào rãnh ngập 2/3 luống, để nước ngấm đều rồi tháo cạn là ph­ơng pháp t­ới tốt nhất. Trong tr­ờng hợp khó khăn về nước có thể t­ới phun để tiết kiệm nước. Chú ý nếu lạc sinh trưởng kém lúc bói hoa có thể phun đa vi Lượng đợt 2.

– Phun thuốc phòng trừ sâu bệnh:

+ Phòng trừ bệnh lá: Daconil 15- 17 g/10lít nước; Tiltsuper 300ND 0,1-0,2 lít/ha; Topan 70ƯP 0,3- 0,5 kg/ha. Đối với giống nhiễm cần phun tr­ớc ra hoa và sau tắt hoa 10-15 ngày.

+ Phòng trừ bệnh hại quả và hạt (mốc vàng, đốm xám vỏ hạt, đốm đen quả); Xử lý hạt, đất tr­ớc khi gieo, tránh tổn th­ơng cho cây và quả trong quá trình chăm sóc. Thu hoạch đúng độ chín vào ngày nắng ráom phơi ngay sau khi thu hoạch.

+ Phòng trừ sâu hại chủ yếu (Sâu khoang, sâu xanh, sâu cuốn lá, sâu xám, sâu chích hút) Sử dụng cây hướng dương làm cây dẫn dụ để thu hút các loài sâu khoang, sâu xanh đến đẻ trứng. Định kỳ kiểm tra để diệt các ổ trứng và sâu non trên lá hướng dương. Có thể ngâm no nước hạt hướng dương rồi gieo cùng với gieo lạc. mật độ hướng dương 2 cây/ 10 m2.

+ Ngưỡng phòng trừ sâu hại nh­ư sau:

* Bọ trĩ: 5 con/búp ở giai đoạn 30-40 ngày sau mọc

* Sâu khoang: 20 – 25% diện tích lá bị hại ở 30-40 ngày sau mọc

* Rầy xanh: 5 con / cây ở giai đoạn 30 ngày sau mọc

* Các loại sâu khác: 20 – 25% diện tích lá bị hại ở 40-50 ngày sau mọc

– Chống chuột: Quy vùng lạc, có biện pháp đánh chuột đồng bộ toàn dân hoặc quây nilon nếu có thể.

7. Thu hoạch lạc (đậu phộng)

Thu hoạch khi quả già đạt khoảng 80 – 85% tổng số quả/cây sau khi nhổ, vặt quả, rửa sạch, phơi d­ới nắng nhẹ đến khi vỏ lụa tróc là được.

Nguồn: Cẩm nang cây trồng được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng mắc ca: Vì sao Úc chê, Việt Nam hăm hở?

Tại sao cây mắc ca tốt như thế mà diện tích trên thế giới chỉ 80.000 ha? GS. Hoàng Hòe cho biết, ông đi nhiều nơi và không chỗ nào tốt, thuận lợi với cây mắc ca như ở Tây Nguyên.

Cây mắc ca vào Việt Nam, phát triển ở vùng Tây Nguyên hơn 10 năm nay với diện tích khoảng 2.000 ha và bước đầu đã mang lại những kết quả nhất định. Cây mắc ca đang nổi lên là một vấn đề nóng trong ngành nông nghiệp về bài toán kinh tế và hướng phát triển.

Nhiều ý kiến cho rằng cần cẩn trọng với cây mắc ca vì mắc ca còn quá mới mẻ và thị trường chưa rõ ràng. Nhất là khi diện tích trồng mắc ca trên thế giới chỉ khoảng 80.000 ha nhưng mới đây nhiều doanh nghiệp và nhà khoa học kỳ vọng diện tích trồng mắc ca trong 5 năm tới sẽ là 200.000 ha.

Tại cuộc tọa đàm với chủ đề: Mắc ca, từ “vì sao” đến “như thế nào” đã nhận được rất nhiều ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học và hộ nông dân trồng cây mắc ca. Các ý kiến đều khẳng định đây là cây công nghiệp có triển vọng.

GS. Hoàng Hòe, nguyên Viện trưởng Viện Điều tra quy hoạch rừng là một trong những người có công đưa cây mắc ca về Việt Nam và có 20 năm nghiên cứu giống cây này cho biết, cho đến giờ, tuy chưa có tổng kết nhưng theo thống kê từ vườn ươm ước tính đã có khoảng 1 triệu cây mắc ca được trồng.

Trong đó có khoảng 1 nửa là cây thực sinh, còn lại là cây ghép. Các cây ghép được chọn lọc từ các nước như Úc, Trung Quốc, Thái Lan và Hawai. Và diện tích mắc ca hiện nay ở Tây Nguyên đã lên tới gần 5.000ha chứ không phải là 2.000ha như một số thông tin đang nói.

Trước nhiều ý kiến cho rằng tại sao cây mắc ca tốt như thế mà diện tích trên thế giới chỉ 80.000 ha. Đặc biệt mắc ca xuất xứ từ Úc nhưng mỗi năm chỉ được khoảng 45.000 tấn hạt (nguyên vỏ). Ông Hòe cho biết, ông đã đi nhiều nơi và không có chỗ nào tốt, thuận lợi với cây mắc ca như ở Tây Nguyên Việt Nam. Đây là một lợi thế cực kỳ hiếm có trên thế giới.

Ông Hòe lấy dẫn chứng: “Một cây trồng ở Việt Nam, cùng độ tuổi, cùng giống với cây mắc ca trồng ở nước khác nhưng hiệu quả gấp đôi. Hơn nữa theo nghiên cứu của Viện điều tra quy hoạch rừng thì nước ta có hàng triệu ha đất phù hợp với cây mắc ca. Đây là điều mà các nước trên thế giới không có được”.

Mặc dù Úc là một trong những nước phát triển cây này từ rất sớm nhưng trong 50 năm qua diện tích trồng mắc ca chỉ đạt 16.000- 17.000 ha vì chi phí nhân công, đất…quá đắt. Giá cây giống mắc ca ở Úc là 20 USD một cây giống, còn Việt Nam chỉ 60.000- 80.000 đồng một cây. Để trồng một cây mắc ca ở Úc chi phí đầu tư mất khoảng 6.000 USD.

Trong khi đó, năng suất mắc ca ở Úc cao nhất là 4 tấn/ha. Hawai khoảng 6 tấn/ha. Hiện nay Trung Quốc cũng đang phát triển mạnh loại cây này, tuy nhiên Trung Quốc cũng đang đối mặt với tình trạng giống dởm nhiều. Mỗi cây chỉ cho 7,5 kg/cây/năm.

Hạt mắc ca chỉ mới chiếm 1,2% ttrong tổng số hạt cứng, hạt khô trên toàn thế giới. Sản lượng chỉ mới 162.000 tấn một năm. So sánh hạt mắc ca và hạt điều, hạnh nhân thì hạt mắc ca có giá trị dinh dưỡng lớn.

Chính vì thế, theo ông Hòe, Việt Nam nên biết chớp thời cơ, lợi thế cạnh tranh này để nhanh chóng phát triển cây mắc ca.

Nói về con số 200.000 ha trồng cây mắc ca, ông Hòe cho biết đây là con số đề xuất của Viện điều tra quy hoạch rừng theo đề tài nghiên cứu do Bộ NN&PTNT giao cho. Trong 1 triệu ha đất ở Tây Nguyên phù hợp với cây mắc ca thì Viện chỉ đề xuất trồng 200.000 ha, chủ yếu trồng xen mắc ca vào vườn café. Theo GS Hòe “thực tế đây là con số khiêm tốn”.

Nói về triển vọng và tình bền vững của cây mắc ca trên mảnh đất Tây Nguyên, T.S Trần Vinh, Phó viện trưởng Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, Viện đã nghiên cứu mắc ca từ năm 2002 và đến nay mắc ca có thể phát triển ở Tây Nguyên nhưng không phải chỗ nào cũng trồng được. Trong số 15 giống cây mắc ca đem nghiên cứu nhưng chỉ có 4-5 giống phù hợp với điều kiện của Tây Nguyên.

Theo T.S Vinh, cây mắc ca là cây dễ trồng nhưng khó tính. Tỷ lệ sống cao trên 90%. Cây mắc ca có thể ra hoa kết trái được trong mùa khô, chịu được thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên nó khó tính ở chỗ, nếu nhiệt độ trên 35 độ, cây có thể rụng quả trên 50%. Những vùng quá nắng nóng, đất bí chặt, ngập úng, ông khuyến cáo không nên trồng cây mắc ca.

Tuy nhiên qua nghiên cứu thì phương pháp trồng xen cây rất hiệu quả. Cây cafe ưa bóng, khi trồng xen mắc ca thì tạo bóng cho cây cafe, cây mắc ca lại được hưởng nước tưới từ cây café khiến mắc ca có tỷ lệ hoa và đậu quả nhiều hơn và không ảnh hưởng gì đến năng suất cây cafe.

Sản lượng mắc ca năm 2014 là 162 tấn, chiếm 1,2% tổng các loại hạt cứng và hạt khô.

Nhìn nhận hiện trạng cây mắc ca ở Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Trí Ngọc, Tổng thư ký Hiệp hội Nông nghiệp Việt Nam cho biết: “Thời gian qua chúng ta đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau về cây mắc ca. Tuy nhiên điều đó là bình thường. Chúng ta không nên bàn nhiều đến những con số mà nên bàn là làm cách nào cho nó có hiệu quả”.

Ông Ngọc tin tưởng, mắc ca có đủ điều kiện để trở thành một cây trồng chủ lực và hiệu quả cao cho nông dân. Tuy nhiên có 4 vấn đề chính cần phải chú ý.

Vấn đề thứ nhất xác định vùng trồng phù hợp. Phải trồng vùng nào thời tiết thuận lợi phù hợp với cây đó thì năng suất mới tốt.

Vấn đề thứ hai là quản lý cây giống. Trồng giống không đảm bảo chất lượng, khoảng 3-5 sau sẽ nhìn thấy hậu quả. Chính vì thế ngay từ bây giờ phải quản lý chặt chẽ giống cây trồng.

Thứ ba là thị trường. Có một câu chuyện thị trường gần đây như tại sao hành tây dư thừa không bán được, dưa hấu đổ đi cho trâu bò ăn không hết. Doanh nghiệp phải vào cuộc ngay từ đầu đối với những chương trình như thế này. Chỉ có doanh nghiệp mới kết nối được các quy trình từ sản xuất đến thu mua, tiêu thụ. Và phải có cam kết từ doanh nghiệp, mọi rủi ro không thể đè lên nông dân.

Chia sẻ tại buổi tọa đàm, ông Bùi Hữu Hòa, nông dân huyện Lâm Hà, Lâm Đồng, một người mạo hiểm trồng 600 cây mắc ca từ năm 2009. Ông Hòa cho biết, nó như “một canh bạc thắng lớn”. Thời điểm đó mọi người vẫn còn chưa biết cây mắc ca là cây gì. Nhưng 2 năm sau cây mắc ca bắt đầu có trái. Năm 2014, vườn mắc ca đem lại cho ông 107 triệu đồng. Năm thứ 5, thu được 295 triệu.

Tuy nhiên ông Hòa cũng lưu ý, bà con nên chọn mua kỹ giống cây vì trên thị trường, nhiều người bán cây mắt ghép giả. Cây này có nhân rất nhỏ và phải 5-7 năm mới có quả trong khi đó, cây mắt ghép thật 3 năm đã cho quả bói.

Đồng tình với quan điểm, ông Quách Đại Ninh, Vụ phó Vụ Phát triển rừng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay: Sắp tới sẽ quản lý chặt chẽ cây giống mắc ca. Những cây đầu dòng không được cấp chứng chỉ, cây con không được chứng nhận sẽ không được đưa vào sản xuất. Những ai cố tình vi phạm sẽ bị xử phạt. Cá nhân bị phạt thấp nhất 10 triệu đồng. Đồng thời toàn bộ cây và giống chưa hợp lệ sẽ bị tiêu hủy.

Ông Nguyễn Đức Phong, Ủy viên chuyên trách, kiêm Vụ trưởng Vụ kinh tế – Ban chỉ đạo Tây Nguyên đánh giá: Hiếm có loại cây nào tạo được sự liên kết của ngân hàng, doanh nghiệp, nông dân như cây mắc ca, tuy nhiên cần lưu ý nên xem xét đầu tư phát triển ở mức độ như thế nào.

“Cây mắc ca đang có rất nhiều ý kiến nhưng sau những lần làm việc, đi thực tế, giao lưu, thực địa,… chúng tôi nhận thấy cây mắc ca có triển vọng phát triển. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã có văn bản trình bày triển vọng báo cáo thủ tướng. Tuy nhiên việc phát triển cây mắc ca phải làm từng bước, không thể ném tiền qua cửa sổ”, ông Phong nói.

Nguồn: Zing.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.