Kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê

Mô hình kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê là mô hình được bà con nông dân rất quan tâm hiện nay. Việc trồng xen hai loại cây trồng trên cùng một đơn vị diện tích sẽ góp phân gia tăng hiệu quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích đất canh tác và tiết kiệm nhân công.

Hướng dẫn kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê

+ Công đoạn đầu tiên của kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê hộ trồng cần xác định mật độ trồng của cây cà phê là bao nhiều và áp dụng biện pháp trồng xen, nếu giống cà phê là cà phê vối thì mật độ 6mx6m hộ nông dân trồng xen tại các ngã tư của cây cà phê. Đối với giống cây cà phê chè thì mật độ trồng là 7.5mx4.5m vị trí trồng cũng ngay ngã tư cây cà phê.

Chọn nhiều giống mắc ca khác nhau để trồng trên cùng một đơn vị diện tích vì cây có đặc tính là thụ phấn chéo cho nên trồng như vậy khả năng thụ phấn cho trái của cây sẽ tốt hơn. Cây giống mang đi trồng cần có chiều cao từ mặt bầu đến mắc ghép khoảng 40-60cm thân dày chừng khoảng 6-10 mm, tuổi của cây gốc ghép chừng 20-24 tháng tuổi là thời điểm thích hợp nhất để mang đi trồng. Khi trồng xuống bộ rễ sẽ bắt đầu phát triển và ăn sâu vào bên trong lòng đất giúp cây vững chắc và chống chọi tốt khi mưa gió, lũ lụt hay hạn hán xảy ra.

Hố trồng mắc ca cần có kích thước 60x60x50 cm hộ trồng nên trộn các loại phân chuồng, phân hữu cơ cùng đất mặt xuống hố thời điểm 2 tháng trước khi trồng. Khi trồng cắt bỏ túi nilong, cắt luôn phần rễ cọc ở đáy bầu bằng kéo sắt rồi đưa cây xuống hố sau đó lấp đất lại, xung quanh gốc trộn Basudin với Phuradang liều lượng 1kg/ 20 gốc những lá ở dưới mắt gốc ghép cần tỉa bỏ luôn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Kỹ thuật trồng, chăm sóc cây mắc ca

Cây Mắc ca là lựa chọn thích hợp sau 20 năm nghiên cứu khảo nghiệm, vùng đất hứa cho cây Mắc ca Việt Nam đã được xác định là các vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.

1. Cây chủ lực triển vọng cho Tây Nguyên, Tây Bắc

Nguồn gốc: Mắc ca (tên quốc tế: Macadamia, thuộc họ Proteaceae với 2 loài là vỏ trơn – Maccadamia integriflia – hoa trắng và loài vỏ nháp Maccadamia tetraphylla – hoa tím phớt hiện đang được phát triển tại Việt Nam. Mắc ca có lá xanh quanh năm có tuổi khai thác kinh tế 40 – 60 năm (tuối thọ đến 100 năm), Mắc ca là cây thân gỗ, cao trên 15 m, vân gỗ đẹp, có quả hạch với hạt vỏ cứng, ăn có vị thơm bùi, béo ngậy hấp dẫn, xuất xử từ Bang Qeensland (Úc). Sau 100 năm thế giới đã phát triển được 80 ngàn ha (đứng đầu là Úc, sau đó là Nam Phi, Mỹ…).

Giá trị kinh tế: Quả Mắc ca có thành phần ăn chủ yếu của hạt là nhân với tỷ lệ 30 – 40%, có tỷ lệ dầu béo (đa số là dầu rất quý – dầu béo không no Omega3, 6,7, không để lại Cholecterol) chiếm tới 78% – cao nhất trong các loại cây có dầu (hạnh nhân 51%, điều – 47%, lạc 44,8%), Nhân hạt còn chứa đường 10%, đạm(protein) 9,2%, nhiều vitamin, chất khoáng có ích như: Kali 0,37%, Phôt-pho 0,17%, Ma-nhê 0,12%, vì thế Mắc ca là nguyên liệu đa dạng cho các ngành chế biến bánh kẹo, thực phẩm, mỹ phẩm cao cấp (kem dưỡng da, chống nắng), là thức ăn phù hợp cho các lứa tuổi từ người già tới trẻ em, tốt cho người ăn kiêng, tiểu đường, huyết áp..

Triển vọng, vùng quy hoạch: Sau hơn 10 năm khảo nghiệm rộng với diện tích 2.000 ha (Tây Nguyên 1.600 ha, Tây Bắc 400 ha), đã xác định 2 vùng với tổng diện tích 1,2 triệu ha rất thích hợp hoặc thích hợp trồng cây Macca với nhiệt độ thấp hơn 17oC trong 3 – 5 tuần, không có mưa xuân, tầng canh tác dày 0,5 – 1m (nếu giàu mùn sẽ đỡ bón phân), thích hợp đất hơi chua pH= 5 – 6. Độ cao 300 – 1200 m trên mặt biển. Lượng mưa tối ưu: 1.500 – 2.500 mm.

Mắc-ca có thể chịu lạnh, sương giá tới – 40 C đối với cây con và – 60 C đối với cây trưởng thành tới 7 ngày và có thể chịu nóng tới trên 38-400 C. Dưới 100 C cây hoàn toàn ngừng sinh trưởng, kích thước và sinh khối tăng mạnh nhất ở nhiệt độ 15-300 C, trên 300 C lá non mất màu xanh, khô đọt, gốc đâm cành thành chùm.

Hầu hết các giống Mắc ca đều ngừng quang hợp ở 380 C. Hoa nở thành từng chùm đuôi sóc rất đẹp chủ yếu vào tháng 3 – 4, các tháng khác vẫn có hoa rải rác – thích hợp nuôi ong mật, quả chín tháng 9 – 10, ít bão, ít gió lào, tháng 10 mát mẻ, tháng 4-5 ẩm ướt, tháng 7-8-9-10 nóng ẩm mà không quá gay gắt đó là những yếu tố khí hậu cần thiết đảm bảo cho Mắc ca đạt năng suất cao.

Dự kiến quy hoạch 10 năm tới 2025 Việt Nam trồng 100 ngàn ha, sau 20 năm (tới 2035) đạt 200 ngàn ha, là cây triển vọng thay thế trồng thuần cho 100 ngàn ha tái canh cây cà phê đã có tuổi trên 20 năm hiện nay, các vùng đang trồng sắn có thể trồng xen trong 4 năm đầu, trồng xen trong cà phê, tiêu, cây bóng mát, cây đô thị, cây hàng dào che nắng gió, trở thành cây chủ lực với giá trị thu nhập hàng tỷ đô la cho nông nghiệp sau 10 – 20 năm tới tại Tây Nguyên, Tây Bắc.

Vì vậy, hiện nay Nhà nước đã chủ trương phát triển rộng loại cây này tại Tây Nguyên, Tây Bắc, đã ban hành Nghị định 210/2013 NĐ-CP hỗ trợ phát triển mỗi ha Mắc ca trồng mới 15 triệu (quy mô trên 50ha), mỗi trang trại nhân giống quy mô trên 500.000 cây giống hỗ trợ không quá 2 tỷ đồng.

2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây mắc ca

Các nhà khoa học đã chứng minh ở Mắc ca: Yếu tố giống – di truyền đóng góp làm tăng năng suất 27,1%, các yếu tố dinh dưỡng tổng hợp là 17,7%, tưới nước 8,2% và kẽm trong đất 5,2% (Stepenson và CS, 1986). Đạm là chất dinh dưỡng quan trọng được sử dụng để kiểm soát tăng trưởng và đậu quả, N trong lá cao giúp cây sinh trưởng nhanh chóng, năng suất quả và tỷ lệ dầu cũng cao hơn.

Hàm lượng Lân (photsphate) trong lá tối ưu ở ngưỡng 0,08 – 0,10% làm tăng sản lượng hạt (Robinson, 1986; Cooil et al, 1966). Phun Bo 0,02% liên tục trong 3 năm, hoặc bón phân chứa Bo làm tăng Bo trong lá tạo ra năng suất tới 10%, làm cho năng suất rõ rệt (Boswell, 1981; Mik, Nagao, 1992)…

Mắc ca rất nhạy cảm với các nguyên tố dinh dưỡng trong đất, đất thiếu P hoặc Mg cũng gây vàng lá, cây phát triển kém, năng suất thấp nhưng không làm cây chết, nhưng Măc ca cũng không thích hợp với đất thừa P khi bón các loại lân quá đậm đặc như DAP, MAP…

Đáp ứng nhu cầu kỹ thuật trồng cây Mắc ca hiện nay, Công ty CP Phân lân Nung chảy Văn Điển phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu sản xuất ra các loại phân bón chuyên dụng phục vụ thâm canh cây Mắc ca đạt hiệu quả kinh tế cao, giúp cho cây Mắc ca phát triển cân đối, tỷ lệ đậu quả cao, nâng cao kích thước quả và tỷ lệ nhân/quả đạt trên 1/3 (35 – 42%).

Phân bón đáp ứng nhu cầu của cây có dầu với đầy đủ các thành phần dinh dưỡng cân đối phù hợp với cây Mắc ca: ngoài các chất đa lượng N (đạm), P (lân), K (kali) còn có các chất trung lượng CaO, MgO, SiO2, S với tỷ lệ vừa phải và hàng chục loại chất vi lượng thiết yếu như Zn, Mn, B, Cu, Co… loại phân này có thành phần cơ bản là Lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung vi lượng, kết hợp một phần tan nhanh đáp ứng nhu cầu của cây, phần lớn tan chậm – không tan trong nước, chỉ tan khi khi tia rễ tiếp xúc hấp thụ, lân nung chảy chứa tới trên 90% các chất hữu hiệu đa, trung và vi lượng, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, cải thiện chất đất, 1 kg lân nung chảy có tác dụng trung hòa, giảm bớt độ chua của đất tương tự 0,5 kg vôi bột.

Ngoài ra trong phân chứa nhiều Ka li, Silic và kẽm, Bo làm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, giảm độ chua, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, tăng tỷ lệ đậu quả, đạt năng suất và chất lượng cao, làm tăng kích cỡ quả và thành phần dầu Mắc ca trên các loại đất chua, đất bạc màu.

3. Kỹ thuật trồng cây mắc ca

Tổng kết kinh nghiệm trồng và chăm sóc Mắc ca ở Việt Nam và trên thế giới, có thể khuyến cáo kỹ thuật và liều lượng phân bón cho Mắc ca ở các lứa tuổi như sau:

3.1Phân bón:

  • Phân cho bầu: Dùng phân NPKS 5-10-3-2 + CaO, MgO, SiO2, B,Mn, Zn, Cu, Co…
  • Cách bón: 30% phân chuồng + 70% đất bột + 2 kg NPK 5:10:3 Văn Điển cho 1.000 bầu
  • Phân bón lót: Dùng phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng:
  • Cách bón: Trước khi trồng cây vào hố 01 tháng nên đào hố và trộn lớp đất mặt cùng với 10 kg phân chuồng ủ hoai; 0,5 kg phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng; 300 gram vôi bột. Trộn đều với lớp đất mặt, sau đó lấp đất lại hố 20 ngày trước khi trồng.
  • Phân chuyên bón thúc: chuyên dụng NPK Đa yếu tố cho Mắc ca: 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng

3.2 Trồng cây:

Đào hố, mật độ trồng: Đất bằng 4,5 x 8 m/hốc (277 cây/ha), đất dốc <30%: 4,5 x 9 – 10 m/hốc (200 cây/ha), kích thước hốc nên 1 x 1 x 1m để bảo đảm cho bộ rễ cọc phát triển tốt về chiều sâu, tăng khả năng chống đổ về sau khi cây có chiều cao trên 10 m.

Mắc ca là cây có hoa tự lưỡng tính nở thành chùm đuôi sóc dài 15 – 25 cm, nhưng do đặc điểm có thời gian nở khác nhau nên khó tự thụ phấn, mỗi chùm hoa chỉ đậu 5-14 quả, để tăng tỷ lệ đậu quả khuyến cáo nên trồng xen trên 2 loài/dòng khác nhau để hoa dễ thụ phấn chéo.

Giống cần mua tại các Trung tâm giống Mắc ca có uy tín, có chứng chỉ cây đầu dòng để bảo hành cho người trồng. Tránh dùng giống thực sinh (mọc từ hạt), giống rớm – lấy ngọn ghép gốc, năng suất về sau không bảo đảm, sẽ gây hệ lụy thiệt hại kinh tế cho hàng chục năm sau.

Thời vụ trồng Mắc ca vào mùa mưa. Trước tiên rạch túi bàu, kiểm tra bộ rễ. Nếu thấy có rễ quá dài xuyên qua khỏi túi bàu thì dùng kéo cắt sát tới bàu đất, cây sẽ tự mọc ra rễ mới.

Sau đó đào hố và trồng âm xuống đất 10 cm và lấp đất lại, tạo mô đất nơi gốc cây tránh trường hợp bị trũng nước khi có gió làm lay gốc, đứt rễ. Dùng chân giẫm nhẹ xung quanh gốc cây nhằm cố định cây không bị nghiêng ngả do gió lớn hoặc mưa xuống gây sụt lún.

Trường hợp vùng có nhiều gió, nên cố định cây đứng thẳng bằng cách cắm cọc tre. Sau 20 ngày kiểm tra nếu có cây chết thì trồng dặm thay thế. Nếu cây bị nghiêng ngả thì điều chỉnh lại. Trước và sau khi trồng cây bỏ thuốc Basudin… vào trong hố và rải trên mặt đất quanh gốc cây để phòng trừ mối hại.

3.3 Phương thức và thời vụ trồng

  • Phương thức trồng

Phương thức trồng

Mật độ trồng (cây/ha) Cự ly (m) Thời vụ trồng (tháng)
Trồng thuần loài 286 – 400 5 x 7  hoặc 5 m

Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5

Tây Nguyên: 6 – 8

Miền Trung 2 -3

Trồng xen cà phê

285 – 330 6-7 x 5 m Tây Nguyên: 6 -8

Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5

3.4 Phân bón thúc:

Sử dụng công thức phân bón chuyên dụng NPK Đa yếu tố cho Mắc ca: 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng cho các loại đất đồi hơi chua. Nguyên tắc chung là bón phân NPK nhiều đợt trong năm và số lượng vừa đủ , không nên bón quá nhiều cùng một lúc .

3.5 Chăm sóc vườn

+ Chăm sóc năm thứ nhất

Lần 1 nếu trồng vụ thu: Sau khi trồng từ 2 – 3 tháng tiến hành chăm sóc: Kỹ thuật chăm sóc lần này chủ yếu làm cỏ phát luỗng dây leo, xới xáo đất và vun gốc. Đối với vùng trồng đất tốt, khả năng tái sinh của thực bì cao ta cần rút ngắn thời gian ấn định chăm sóc 1 – 2 tháng làm 1 lần. Bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng với lượng 0,2 – 0,3 kg/ cây

Lần 2 nếu trồng vụ xuân: Thường vào tháng 8-9 trong năm. Công việc như trên, Mắcca là cây lấy hạt cho lên ta phải bón thúc phân chuồng hoai nếu có điều kiện (5 kg/cây). Nếu không có, cần bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng với lượng 0,2– 0,3 kg/ cây.

+ Chăm sóc năm thứ 2: Trong 2 năm đầu chỉ cần bón 0,2 – 0.3 kg NPK/cây/năm vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa mưa. Các thao tác như trên, ngoài ra ta cần tiến hành loại bỏ các mầm dưới gốc ghép ( tính từ miệng ghép trở xuống).

+ Chăm sóc các năm tiếp theo

-Sau 3 – 4 năm cây cho hoa và đậu quả ta cần bổ xung chất hữu cơ kịp thời theo từng chu kỳ sinh trưởng của cây (cá biệt có cây chỉ sau khi trồng hai năm đã cho hoa và đậu quả).Trước thời kỳ ra lộc non ta bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng 0,3 – 0,5 kg/tuổi cây, chia làm 2 lần vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa mưa. Bón phân vào rãnh quanh gốc (rãnh sâu khoảng 5-10cm cách gốc 30-40cm). Mỗi lần bón lượng phân trên, sau khi bón phân lấp đất lại.

Lưu ý:

-Tùy tình hình sinh trưởng thực tế của cây nơi trồng mà sử dụng lượng phân sao cho hợp lý để tận dụng tối đa dinh dưỡng cho cây, tránh lãng phí nguồn phân.

– Tạo các rãnh nhỏ sâu 5 – 10 cm để rải phân, cây càng lớn kích thước rãnh càng rộng, vị trí tạo rãnh là đường tròn khép kín chiếu thẳng tán cây xuống mặt đất, không được sát gốc cây sẽ làm ảnh hưởng đến bộ rễ của cây.

-Phân bón được trộn đều và dải đều trên rãnh, sau đó lấp đất kín phân.

– Nên chọn những ngày vừa mưa xong tiến hành bón thì hiệu quả sẽ cao hơn, hoặc bón xong cần tưới ẩm cho cây.

– Lần tiếp theo bón thúc NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng đểv bổ sung dinh dưỡng trước thời kỳ cây phân hóa mầm hoa (ở các nách lá và thân cành có các chấm nhỏ li ti bật đều đặn màu trắng sáng hoặc phớt nâu).

– Khi cây bắt đầu đậu quả ngoài việc bón Phân bón Đa yếu tố NPK chuyên dụng Văn Điển theo đúng liều lượng chỉ dẫn, có thể bó thêm lân Văn Điển bổ sung vi lương với liều lượng 0.2 kg/gốc.

– Khi Mắcca vào giai đoạn ra hoa đậu quả, yếu tố nước là rất cần thiết, vì vậy để có năng suất cao cần quan tâm đến tưới nước cho cây, thao tác tưới tuyệt đối không được tưới lên hoa, tưới ngầm vào gốc cây.

– Cũng có thể tăng năng suất bằng phương pháp dùng hóa phẩm sinh học nhằm tăng khả năng đậu quả, nhưng vì Mắcca rất nhạy cảm với các yếu tố dinh dưỡng cho nên khi sử dụng cần thận trọng đọc kỹ hướng dẫn liều lượng.

3.6 Tạo tán, tỉa cành

– Năm đầu cây sinh trưởng còn chậm, sang năm thứ hai tốc độ sinh trưởng phát triển của cây rất mạnh. Bởi vậy trong 3 năm đầu nên tạo tán giữ cho cây có 1 thân thẳng đứng. cắt bỏ các cành cao dưới 1,4m. Mỗi tán cành cách nhau khoảng 60-70cm. Độ dài các nhánh khoảng 60 cm thì cắt ngọn một lần. Chỉ nên giữ lại 2-3 chồi từ một nhánh. Nếu thực hiện đúng phương pháp tạo tán sẽ cho năng suất cao và thông thoáng Loại bỏ hoa trái vụ để tập trung dinh dưỡng cho cây và đỡ tốn công thu hoạch nhiều lần trong năm.

– Cần khống chế xu thế tăng chiều cao của tán cây bằng phương pháp bấm ngọn đỉnh sinh trưởng của cây (vào mùa đông)

– Đối với cây đã thành thục cho quả ta cần điều chỉnh tán cây, dọn vệ sinh các cành già cỗi, cành la dưới tán gây trở ngại cho các thao tác chăm sóc, cuống quả còn nằm lại trên cành khi quả tự rụng và những cành có xu thế phát triển khỏe, chèn ép lẫn nhau.

– Khi cây đã trưởng thành và cho thu hoạch , nên bón thêm phân chuồng ủ hoai và phân chuyên dụng Mắc ca và Lân Văn Điển hàng năm vào tháng 11 để phục hồi sức cho cây sau vụ thu hoạch, đồng thời tạo tán tỉa cành.

3.7 Tưới nước cho cây

Trong thời gian 3 năm đầu sau khi trồng có thể tưới bất khì khi nào nếu thấy khô hạn nhằm cho cây phát triển. Nhưng đến năm thứ 4 trở đi cây có khả năng cho quả thì nên ép khô xiết nước cây nhằm ức chế ra hoa .

Sau đó tập chung tưới đồng loạt vào giữa tháng 1 dương lịch thì đến khoảng giữa tháng 02 đầu tháng 3, cây bắt đầu ra hoa đồng loạt, tăng khả năng thụ phấn chéo cho cây.

Đến tháng giữa tháng 3 dương lịch nên bón phân Lân và tưới nước cho cây thêm một lần nữa nhằm tránh quả bị rụng non do thời điểm đó tại Tây nguyên trời thường khô hạn.

3.8 Bảo vệ thực vật 

Nên sử dụng, phun định kỳ lên cây bằng các chế phẩm sinh học Tam Nông thân thiện môi trường bằng cách phối hợp của các vi nấm Beauveria (Nấm trắng), Metarhizium (Nấm xanh) và Entomophthora để diệt bớt côn trùng có hại ( không nên dùng hóa chất diệt toàn bộ sẽ gây mất cân bằng sinh thái, tạo ra dòng mới đề kháng với thuốc, hại cho ong mật và các loại thiên địch hữu ích). Tạo ra các vi sinh vật đối kháng có khả năng tấn công trứng và ấu trùng. Việc này là vô cùng cần thiết để sản phẩm xuất khẩu không bị vướng các hàng rào kỹ thuật tại các quốc gia phát triển. Ngoài ra chi phí cũng rẻ hơn các thuốc bảo vệ thực vật bằng hóa học đang lưu hành trên thị trường. Khi trang trại được cấp chứng chỉ Hữu cơ – Organic thì sản phẩm bán ra cũng được giá cao hơn.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Độc đáo xen canh keo lai, dưa hấu, mì

Trồng xen kiểu này cây keo và cây mì tốt vượt trội nhờ “ăn theo” phân, nước đầu tư cho cây dưa. Thu nhập từ dưa và mì đủ để đầu tư cho rừng keo những năm tiếp theo mà chủ rừng không cần bỏ thêm vốn.

Mô hình trồng keo xen dưa hấu và mì của ông Đặng Vĩnh Kính thu lợi kép

Xã Bình Tân được đánh giá là địa phương có phong trào trồng rừng mạnh và thành công nhất huyện Tây Sơn (Bình Định). Để tăng thêm hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích, nông dân nơi đây đã sáng tạo ra phương pháp xen canh độc đáo: Trồng keo lai xen dưa hấu và mì.

Trồng xen kiểu này cây keo và cây mì tốt vượt trội nhờ “ăn theo” phân, nước đầu tư cho cây dưa. Thu nhập từ dưa và mì đủ để đầu tư cho rừng keo những năm tiếp theo mà chủ rừng không cần bỏ thêm vốn.

Thời gian trước đây, những diện tích đất cát xám, bạc màu ở xã Bình Tân hầu hết được nông dân trồng cây mì. Từ năm 2011 trở về trước, giá mì nguyên liệu khá ổn định nên cây mì còn cho hiệu quả. Về sau, giá mì nguyên liệu trở nên bấp bênh, đời sống của người dân cũng long đong theo. Năm 2007, cây keo lai theo Dự án WB3 về đây cho thấy rất phù hợp trên vùng đất xám bạc màu.

“Trồng keo lai chỉ cần đầu tư phân bón 2 năm đầu, sau 5 năm là cho năng suất 100 tấn/ha. Chỉ cần giá bình quân 1 triệu đồng/tấn gỗ nguyên liệu, sau chu kỳ 5 năm, 1ha keo cho thu nhập 100 triệu đồng, bình quân mỗi năm thu nhập được 20 triệu, hơn hẳn cây mì. Vì vậy từ năm 2011 đến nay, phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây mì sang cây keo trên địa bàn phát triển rất mạnh. Đến nay, trên địa bàn xã Bình Tân đã có trên 1.500ha keo, một nửa trong đó thuộc Dự án WB3 đã cho khai thác”, ông Đặng Vĩnh Kính, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Tân chia sẻ.

Để tăng thu nhập trên cùng diện tích, một số nông dân đã sáng kiến ra phương pháp trồng keo xen dưa hấu và mì cho thấy hiệu quả kép. Là người từng thực hiện mô hình này, ông Đặng Vĩnh Kính kể rành rọt: “Những diện tích keo đến chu kỳ khai thác, thu hoạch keo xong, bà con thuê xe múc với chi phí 5 triệu đồng/ha móc hết gốc keo lên, sau đó cho máy cày đất rồi lên vồng để trồng dưa hấu. Sau khi đất được lên vồng, bà con xuống giống dưa hấu.

Khi dưa hấu đã ra cành ra nhánh, bà con bắt đầu xuống giống keo bên mé ta-luy của vồng đất. Phân bón cho cây dưa hấu, cây keo được ăn theo. Do đó, cây keo sống cạnh dưa hấu chỉ sau 3 tháng đã cao đến gần 1m, bằng cây keo 1 năm tuổi trồng bên ngoài.

“Nhờ khai thác hết tiềm năng của đất bằng phương thức trồng xen canh kể trên nên mức thu nhập của người dân xã Bình Tân được tăng cao trong những năm gần đây. Nếu như vào năm 2010, thu nhập bình quân chỉ đạt 10 triệu đồng/người/năm thì hiện nay đã đạt đến gần 24 triệu đồng/người/năm”, ông Đặng Vĩnh Kính cho biết.
Sau khi thu hoạch dưa hấu, bà con tiếp tục móc đất cho hom mì xuống dọc 2 bên hàng keo. Khi cây mì nảy mầm thì cây keo đã cao gần 1,5m, nên cây mì phát triển cỡ nào cũng không thể lấn keo được, do đó cả keo cả mì đều sinh trưởng, phát triển bình thường”.

Cũng theo ông Kính, với phương thức trồng xen canh như đã kể trên, nhờ ăn theo phân bón, nước tưới, được đầu tư cho cây dưa hấu nên năng suất cây mì cho khá cao.

“Mì trồng xen với dưa hấu và keo cho củ to lắm, bụi mì phải 2 – 3 người nhổ mới lên. Ngoài 1 củ to tướng đóng thẳng xuống đất, còn có 3 củ khác cũng to không kém đóng ngang, nhổ bụi mì lên thấy mất hồn”, ông Kính diễn tả.

Ngoài ra, những diện tích rừng keo trồng xen mì thì không bao giờ bị bò phá. Bởi, nếu bò ăn phải đọt mì là chết ngay. “Nhất là trong mùa nắng nóng, mủ dồn lên đọt mì, con bò to là thế mà chỉ cần ăn chừng 3 đọt mì là ngã ngửa ngay”, ông Kính cho biết thêm.

Theo tính toán, trồng xen canh keo, dưa hấu và mì, nông dân có lợi kép. Riêng cây dưa hấu đạt 40 tấn/ha, cây mì dù trồng mật độ thưa nhưng cũng đạt đến 30 tấn/ha. Khoản thu từ dưa hấu và mì thừa sức đầu tư cho cây keo suốt chu kỳ. Đặc biệt, nhờ ăn theo mức đầu tư của cây dưa nên cây keo chỉ cần 4 năm là có thể thu hoạch với năng suất cầm chắc 100 tấn/ha, rút ngắn chu kỳ cây keo được 1 năm.

Nhờ hiệu quả kinh tế cho thấy nhãn tiền, trong những năm qua, mô hình sáng tạo trồng xen keo với dưa hấu và mì ở xã Bình Tân ngày càng được nhân rộng. Cty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn cũng phát triển mô hình trên diện tích 10ha rừng keo.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng sắn xen lạc, nông dân thu lợi nhuận gấp đôi

Trung tâm Khuyến nông (KN) tỉnh vừa triển khai thành công mô hình canh tác sắn xen lạc tại các huyện Hướng Hóa và Cam Lộ. Theo đánh giá của nông dân, mô hình này không chỉ tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích mà còn hạn chế hiện tượng xói mòn đất, góp phần đảm bảo canh tác sắn bền vững.

Mô hình trồng sắn xen lạc mang lại hiệu quả cao ở xã Cam Tuyền, Cam Lộ

Mô hình được triển khai trong vụ đông xuân 2016 – 2017 trên diện tích 6 ha tại các xã Tân Lập, Hướng Tân (huyện Hướng Hóa) và Cam Tuyền (huyện Cam Lộ) với giống lạc L 14 trồng xen giống sắn KM 94 theo quy cách giữa 2 hàng sắn trồng xen 2 hàng lạc. Theo các hộ tham gia thực hiện mô hình, khi canh tác theo phương thức sắn xen lạc không những nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả kinh tế được tăng lên, mà còn góp phần cải tạo đất. Ông Trần Văn Bình ở tại thôn Tân Quang, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, một trong những hộ tham gia thực hiện mô hình cho biết, gia đình ông có 3 sào đất thực hiện mô hình trồng sắn xen lạc.

Hiện cây lạc đã bắt đầu cho thu hoạch. Theo tính toán của ông, trung bình 1 sào lạc trồng xen với sắn cho năng suất khoảng 1 tạ lạc/sào, với giá bán hiện nay từ 30.000 – 32.000 đồng/kg thì với 3 sào đất trồng sắn xen lạc đã mang lại cho ông hơn 9 triệu đồng. Sau khi thu hoạch lạc, phần thân và lá được dùng để che phủ gốc sắn nhằm duy trì độ ẩm và tăng chất hữu cơ cho đất. Theo ông Bình, thế mạnh của mô hình này là trên cùng một diện tích canh tác, nông dân thu hoạch được 2 lần, hiệu quả kinh tế mang lại gấp đôi so với trước đây. Theo kỹ sư Dương Hồng Phong, Phó Trạm trưởng Trạm KN huyện Cam Lộ, kết quả việc trồng sắn xen với lạc cho thấy cả 2 loại cây trồng này đều sinh trưởng, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh gây hại, ít cỏ dại hơn.

Trong mô hình trồng xen 2 hàng lạc giữa 2 hàng sắn với mật độ 45 cây/m2. Nhờ được hưởng lợi thế khoảng không gian của cây sắn thời kỳ đầu chưa khép tán nên cây lạc có số hạt chắc/cây cao, năng suất thực thu tương đương so với trồng thuần lạc. Trong khi đó nhờ được trồng sớm, cây sắn có đủ thời gian tích lũy (11 – 12 tháng) nên sẽ cho năng suất và hàm lượng tinh bột cao hơn. Chính vì thế thu nhập cao hơn so với mô hình luân canh lạc (đông xuân) – sắn (hè thu) hoặc trồng thuần sắn. Bên cạnh đó, sau khi thu hoạch lạc xong, toàn bộ thân, cành, lá, gốc, rễ của lạc sẽ được vùi lấp xuống đất làm phân xanh, đất sẽ giàu mùn và tơi xốp hơn, độ phì và khả năng giữ ẩm cũng tăng lên, nhất là với đất dốc bạc màu, đất sét pha cát tại các huyện trung du, miền núi.

Qua đánh giá thực tế tại các mô hình trồng sắn xen lạc này, tại huyện Hướng Hóa năng suất lạc đạt từ 12,4 – 13,4 tạ/ha, năng suất sắn đạt từ 25 – 28,7 tấn/ha; còn tại huyện Cam Lộ cây lạc đạt năng suất từ 15 – 20 tạ/ha, năng suất cây sắn dự kiến đạt khoảng 25 – 30 tấn/ha. Như vậy với giá lạc (30.000 – 32.000 đồng/kg) và sắn (1.000 đồng/ kg) như hiện nay, ước tính mỗi héc ta trồng sắn xen lạc cho thu nhập trên 70 triệu đồng, cao gấp 2 – 2,5 lần so với trồng thuần lạc hoặc sắn trên cùng chân đất. Tuy nhiên để trồng lạc xen sắn đạt hiệu quả cao, nông dân cần lưu ý làm đất kỹ, bón phân đầy đủ, nhất là bón lót, lên luống để trồng với khoảng cách và mật độ thích hợp, sao cho mỗi cây trồng đều tận dụng được không gian dinh dưỡng (ánh sáng, không khí, đất) để sinh trưởng và phát triển đạt năng suất cao, chất lượng tốt.

Ông Nguyễn Trung Hậu, Giám đốc Trung tâm KN tỉnh cho biết: “Là một trong bảy loại cây trồng chủ lực của tỉnh, hiện cây sắn không còn là cây lương thực mà đã trở thành nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến. Với diện tích trên 11.000 ha trồng tập trung chủ yếu tại các địa bàn miền núi, trung du như Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Vĩnh Linh… cây sắn không chỉ là cây xóa đói giảm nghèo mà còn là cây làm giàu cho nhiều hộ gia đình, trong đó có nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, năng suất bình quân sắn ở tỉnh chưa cao (khoảng 19 tấn/ha), chất lượng củ thấp và độ đồng đều không cao; nguy cơ bạc màu, xói mòn rửa trôi đất trồng vẫn tiềm ẩn, sản xuất thiếu bền vững, mà nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật canh tác, đầu tư thâm canh, độ phì đất, giá bán giao động lớn.

Vì vậy với mô hình trồng sắn xen lạc này, ngoài hiệu quả kinh tế thu được, mô hình còn làm thay đổi quan điểm của nông dân về kỹ thuật trồng lạc xen sắn trên vùng đất đồi núi chỉ nhờ nước trời, sử dụng giống lạc có chất lượng cao, có bón phân lân, vôi cho lạc. Bên cạnh đó còn hạn chế xói mòn đất, góp phần bảo vệ tài nguyên đất, giúp quá trình canh tác bền vững hơn. Trên cơ sở này, trong thời gian chúng tôi sẽ tiếp tục tuyên truyền, nhân rộng mô hình này ra các vùng trồng sắn trong tỉnh nhằm tạo ra vùng nguyên liệu sắn củ tươi cho các nhà máy trên địa bàn, hạn chế thoái hóa đất, bảo vệ môi trường sinh thái và tăng hiệu quả sản xuất cho người trồng sắn”.

Nguồn: Báo Quảng Trị được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng sen lấy củ (P2)

Ở phần 1, Fman đã giới thiệu cho các bạn về đặc tính của sen cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của sen lấy củ. Phần 2 , chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật canh tác sen lấy củ

1. Đặt hom

Đặt hom củ khi nhiệt độ nóng ấm, hom được đạt theo hàng, hàng cách hàng 2-3m, cây cách cây 1,2-3m, khoảng cách này thay đổi theo giống và điều kiện canh tác. Cây cách bờ hồ 1-2 m.

Lượng hom giống cần thiết phụ thuộc vào khoảng cách trồng. Với mật độ 1,2 x 2m ước lượng cần 4000 hom (Honda, 1987). Trái lại, những nông dân mới cần mua hom giống hoặc dành riêng một diện tích đất để nhân giống liên tiếp trong 2 vụ. Việc du nhập hom giống rất tốn kém do phải qua khâu kiểm dịch, khảo nghiệm tính thích nghi trước khi phóng thích.

2. Dinh dưỡng và biểu hiện thiếu dinh dưỡng

Bón phân phải dựa trên phân tích đất, lá sen ở các giai đoạn tăng trưởng khác nhau. Lượng dinh dưỡng bị ảnh hưởng bởi loại đất và các biện pháp canh tác trước đó. Phân tích đất sẽ phát hiện các dưỡng chất bị thiếu, dư thừa, pH và các chỉ dẫn cần thiết. Nông dân đối chiếu giữa kết quả phân tích đất và lá , quan sát màu sắc lá để đưa ra biện pháp xử lý thích hợp.

Lượng phân bón phải căn cứ vào thành phần các chất dễ tiêu trong đất, khả năng độn và khả năng trao đổi cation CEC. Đất có CEC cao sẽ giữ các cation trong đất cao, cho phép cung cấp các chất dinh dưỡng đều đặc cho cây. CEC thấp sẽ không có khả năng kềm giữ chất dinh dưỡng do phần lớn chúng nằm trong do đó đất, khi bón phân cần cẩn thận vì dễ gây ngộ độ.

* Bón phân

Phân bón được chia 4-5 lần:

Lần đầu bón lót ¼ lượng phân đạm và kali, ½ lượng phân lân và các loại phân trung vi lượng. Nên dùng máy xới vùi phân vào trong đất sau khi rút nước ra, nếu diện tích nhỏ cào bằng tran.

Bón thúc lần thứ nhất 2 tháng sau khi cấy, ¼ lượng đạm và kali

Bón thúc lần thứ hai 3,5 tháng sau khi cấy, ¼ lượng kali, toàn bộ phân đạm, lân và các loại phân trung vi lượng khác.

Bón thúc lần thứ ba ¼ lượng kali còn lại. Vào giai đoạn này cây phát triển củ nên rất cần kali, ít cần phân đạm.

Triệu chứng thiếu dinh dưỡng

Thiếu đạm: sen có nhu cầu đạm rất lớn vào giai đoạn tăng trưởng dinh dưỡng. Triệu chứng thiếu đạm xuất hiện trên lá già, phiến lá chuyển sang màu vàng do đạm từ lá già chuyển sang nuôi đỉnh sinh trưởng. Sau đó lá khô nhanh chóng. Thiếu đạm trầm trọng sẽ làm cây lùn lại. Tuy nhiên bón nhiều phân đạm, đặc biệt lúc hình thành củ sẽ kích thích phát triển thân ngầm hơn là củ. Ngộ độc phân đạm phiến lá bị cháy tạo vết hình tròn ở giữa 2 gân lá, nơi trao đổi khí xảy ra.

Thiếu lân: sen rất nhạy cảm với phân lân. Thiếu lân lá có biểu hiện màu xanh đậm có những vệt tím (anthocyanosis) trên lá non. Khi thiếu trầm trọng lá sẽ chuyển sang màu tím hòan toàn, gân lá chuyển sang màu xám đen và khô, cây tăng trưởng rất chậm.

Thừa lân lá non bị biến dạng, không bung ra được.

Thiếu kali: sen có nhu cầu kali rất lớn vào giai đoạn trổ hoa và hình thành củ. Biểu hiện đầu tiên trên là những vệt vàng chạy dọc theo gân lá già. Vệt vàng ngày càng lan rộng sau đó chuyển sang màu nâu.

Thiếu ma-nhê (mg): triệu chứng xuất hiện trên lá già, có những đốm vàng giữa 2 gân lá, do Mg di chuyển sang đỉnh sinh trưởng. Thiếu trầm trọng vệt vàng sẽ lan rộng ra cả phiến lá

Thiếu calci: thiếu calci có triệu chứng tương tự như thiếu ma-nhê, những đốm vàng xuất hiện trên lá già, sau đó chuyển sang màu cam. Có khác là lá dòn dễ vỡ

3. Quản lý dịch hại

Thật khó đưa ra một khuyến cáo về chế độ phun nông dược hoặc hoàn toàn không sử dụng thuốc đối với cây sen trong một giai đoạn nhất định. Hơn nữa có một số loại thuốc gốc dầu lại độc đối với cây. Chỉ khuyến cáo nông dân quan tâm đến sâu xanh và rệp chích hút. Tốt nhất là nông dân nên xịt thử thuốc ở các nồng độ khác nhau để xem ảnh hưởng của nó đối với sâu hại và sen. Định hướng phần trừ dịch hại đối với cây sen là xác định ngưỡng kinh tế để tránh gây thất thu trong từng thời kỳ, cần cân nhắc trong việc phun một loại thuốc đặc hiệu khi dịch hại xuất hiện sớm. Trong đó không bỏ qua việc sử dụng bẫy dính thu hút rệp chích hút và bẫy chua ngọt hoặc pheromone thu hút bướm sâu xanh.

Việc thả nuôi cá trên các ruộng sen cũng góp phần hạn chế phát triển của một số sâu hại. Tuy nhiên ảnh hưởng của phân bón đối với cá và chất lượng nước chưa được hiểu biết tường tận, nhiều loại nông dược cũng rất ảnh hưởng đến cá.

* Sâu hại

Đối tượng gây hại sen quan trọng nhất ở châu Á là sâu xanh Heliothis sp. Sâu non tấn công lá chỉ vài ngày sau khi cấy. Lúc đầu lá chỉ bị ăn vài lổ, nhưng khi sâu lớn lá chỉ còn trơ gân, sau đó sâu đục bông và gương sen. Sâu kháng thuốc rất nhanh, nên xịt sớm với loại thuốc Bacillus thuringiensis vì khi sâu lớn vi khuẩn này không phá hủy được hệ thống tiêu hóa. Những gốc thuốc còn hiệu quả là carparyl, pyrethoid và rotenon. Pheromone cũng rất hiệu quả trong thu hút thành trùng nhưng để hạn chế sâu chưa biết rõ.

Rất nhiều loại rệp chích hút tấn công sen, gần thiệt hại đáng kể. Cây mận và xê-ry là ký chủ trung gian của các loại rệp chích hút này. Nhện đỏ cũng rất phổ biến, để lại các vết chích màu vàng trên lá, trị bằng các loại thuốc đặc hiệu như Admire, Confidor, dầu DC plus.

Bướm sâu vẽ bùa Cricotopus ornatus đẻ trứng trên lá, sau đó sâu non đục vào phiến lá, chừa gân lá. Diệt bằng Padan hay B. thuringiensis.

* Bệnh hại

Phổ biến là bệnh đốm phấn do Erysiphe polygoni, Cercospora sp, Ovularia sp và Cylindrocladium hawkesworthii. Chúng tạo những vết bệnh màu vàng, lồi lên trên phiến lá, sau đó chuyển sang màu đen. Bệnh làm giảm quang hợp, ảnh hưởng đến năng suất. Trị bằng các loại thuốc trừ nấm gốc đồng. Bệnh sọc virus do rhabdovirus tạo những sọc vàng trên thân và củ, trên lá có những đốm vàng

Bệnh thối thân do nấm Phythophthora rất phổ biến. Bệnh làm đỉnh sinh trưởng và thân bị thối đen, lây lan rất nhanh trong hồ, triệu chứng ban đầu là lá bị vàng úa cả lá, sau đó khô đi rất nhanh. Mô bị thối đen, bầy nhầy có mùi thối ngay cả rễ vẫn phát triển tốt. Khi hồ bị bệnh, nhổ các sen mắc bệnh đem đốt, hạ mực nước và bón sulphat đồng. Nếu bệnh vẫn tiếp tục lây lan phải khử trùng cả hồ bằng sodium hypochloride.

Bệnh thối củ do nấm Fusarium oxysporum sp nelumbicola và Pythium elongatum. Cả 2 loại nấm này đều tồn tại rất lâu trong đất. Bệnh thường bộc phát khi nhiệt độ cao, ít mưa. Nếu ruộng bị bệnh thì trong mùa tới chọn loại cây trồng khác để canh tác.

4.Thu hoạch

Đối với giống thu hoạch củ, nhổ sen để lấy củ đòi hỏi tốn nhiều công lao động, trong quá trình nhổ, khó tránh làm củ không bị tổn thương. Trở ngại lớn hiện nay của các nước trồng sen lấy củ trên thế giới là không có máy thu hoạch củ sen.

Thông thường, thu hoạch củ sen khi nhiệt độ thấp, ngày ngắn, thân sen khô, củ sen bắt đầu miên trạng. Điều này cho phép cây sen hấp thu tối đa các chất dinh dưỡng để tập trung nuôi củ. Ngoài ra có thể kích thích tạo củ bằng cách rút khô nước.

Để thu hoạch củ sen, trước tiên cần tháo cạn nước ra, sau đó nhổ bằng tay hoặc dùng đinh ba nạy gốc.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng sen lấy củ (P1)

Phần trình bày dưới đây chỉ mang tính gợi ý, kỹ thuật canh tác sen phụ vào yếu tố giống, điều kiện đất và thời tiết để mỗi nông trại có kỹ thuật canh tác phù hợp.

Giống

Có hằng trăm giống sen được trồng theo mục đích lấy củ, lấy hạt hoặc lấy hoa. Có giống có 2 hoặc cả 3 đặc tính trên nhưng được xếp loại theo đặc tính có ưu thế nhất. Giống cho củ có rất ít hoa, thường là hoa trắng, giống cho hoa hạt rất ít, không cho củ. Nhiều giống sen cho củ nhiệt đới không cho củ nếu không có thời kỳ lạnh kéo dài giúp cây dự trữ chất dinh dưỡng để sinh tồn.

Giống cho củ thường phần rễ có 3-4 đoạn kéo dài giống khoanh xúc xích để các chất dinh dưỡng tích lũy khi điều kiện phù hợp.

Nhân giống – Nhân giống vô tính từ củ

Đây là phương pháp thuận tiện, nhanh chóng và dễ dàng nhất nhằm giữ được các đặc tính của cây giống ban đầu. Nguồn củ giống được lấy từ vụ trước hoặc những hồ sen chuyên sản xuất giống. Củ giống có ít nhất 2 lóng, cắt ngang đoạn cuối vùi vào đất ẩm sâu 5cm tạo góc nghiêng 15o. Củ sen càng lớn càng cho cây mạnh.

Điều cần lưu ý là củ sen có tính miên trạng nên không thể trồng ngay sau vừa thu hoạch. Phải mất ít nhất 3 tháng củ mới có thể nẫy mầm, nếu trồng ngay phải xử lý bằng nước nóng.

Tại Đồng Tháp, phần lớn sen trồng bằng cách tách ngó từ bụi sen đem cấy với mật độ hàng cách hàng 2,5-3m, cây cách cây 2-2,5 m, kỹ thuật này cho phép bắt đầu thu hoạch gương sau 4 tháng.

Chuẩn bị đất

Thiết kế hồ rất quan trọng trong sản xuất sen vì khi đã thiết kế rất khó thay đổi. Vì vậy cần quan tâm đến thiết để thuận tiện cho sản xuất, thuận tiện cho việc bơm và giữ nước. Hồ sâu thích hợp ở đất có địa hình cao, nếu địa hình thấp cần có bờ bao giữ nước.

Đáy hồ cần được bằng phẳng, có lớp sét giữ nước. Tuy nhiên nhiên nếu sét quá nặng sẽ khó thu hoạch củ sen sau này. Lớp đất mặt tơi xốp rất cần thiết và độ dầy của nó tùy thuộc vào loại giống. Có thể tiến hành bón vôi, nhất là đối với đất phèn.

Các nhu cầu về môi trường của cây sen

– Đất:

Đất có tác dụng giúp rễ cây bám vào và phát triển, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây, ổn định pH. Để thuận tiện cho cây sen phát triển và thu hoạch, nhất là theo hướng củ, đất cần có một số đặc tính nhất định như hơi không ngấm nước để củ sen có màu trắng kem.

Cấu trúc lớp đất mặt phải mịn để tránh củ bị trầy xướt. Trong môi trường nước, khi đánh bùn, tác động của trọng lực, những hạt đất có kích thước to nằm dưới, hạt nhỏ nằm trên góp phần làm củ không bị biến dạng. Đất thịt pha sét phù hợp cho củ sen nhất.

Đất không thích hợp cho sen bao gồm đất sét nặng rất khó cho rễ phát triển và thu hoạch củ. Tương tự đất cát cũng làm thu hoạch khó khăn do bản chất di động và trọng lượng cao của cát, nó không mang nhiều chất dinh dưỡng và ảnh hưởng đến chất lượng củ (Liu, 1994).

Đất chứa chất hữu cơ từ nguồn không xác định cũng không phù hợp. Chúng có thể chức tannins làm nước bị mặn, hay chứa các chất rắn có thể làm tổn thương củ. Hơn nữa các hạt chất hữu cơ có thể lớn hơn hạt đất. Chất hữu cơ phù hợp phải là phân chuồng ũ với các chất độn có tỷ lệ N/C cao đã hoai mục, nó giúp cho đất giữ được các chất dinh dưỡng, cấu trúc đất tơi xốp và gíup đất ngấm nước nhẹ. Các nghiên cứu cho thấy kích thước hạt và tính thấm có ảnh hưởng đến phẩm chất củ (Nguyen & Hick, 1998).

Chất hữu cơ phải bón khi đất khô, tốt nhất là trước khi trồng. Nếu củ giống đã hết miên trạng thì chất hữu cơ tốt nhất là bón trên mặt hơn là trộn trong đất. Nếu củ sen chưa hết miên trạng thì nhiệt độ cao của chất hữu cơ sẽ kích thích sen nảy mầm.

Chở đất tốt từ nơi khác đến được thực hiện rất tốn kém, tuy nhiên sẽ thích hợp cho canh tác sen trong lâu dài.

– Thời tiết

Cây sen cần nhiệt độ ấm của vùng nhiệt đới, bình quân là 25 oC. Sen không tăng trưởng ở vùng bị sương giá do nó rất nhạy cảm với nhiệt độ lạnh. Tuy nhiên củ sen có đặc tính miên trạng qua đông nhằm gíup sen tồn tại.

Do đó thời vụ trồng sen cần bố trí trong mùa nắng, lúc ngày dài. Việc phân hóa củ bị kích thích khi gặp ánh sáng giảm và nhiệt độ thấpTại Đồng Tháp, sen đuợc trồng vào 2 thời vụ chính

+ Vụ Đông xuân: trồng vào tháng 12 đến tháng 1 dương lịch

+ Vụ Hè thu: trồng vào tháng 5 đến tháng 6 dương lịch. Đây là mùa tốt để sen phát triển.

– Chất lượng nước

Chất lượng nước rất quan trọng để sen tăng trưởng tốt. Nhiệt độ nước thích hợp và nước phải trong. Nước cũng là yếu tố giới hạn ở các vùng ven biển của nhiều nước. Ngay cả nước có mưa biến đổi theo mùa. Vùng phải phụ thuộc hoàn toàn vào nước bơm và đất không thích hợp bị ngập như đất mặn hay đất bạc màu.

pH đất biến động không lớn ở các nước trồng sen châu Á, sen có thể thích nghi tốt với biến động của pH đất. pH thích hợp nhất là 6-6,5.

Độ sâu thích hợp nhất là 20cm, khi mới gieo chỉ cần 5 cm. Thay đổi độ sâu sẽ ảnh hưởng đến nhiệt độ nước. Độ sâu càng tăng, tính giữ nhiệt càng kéo dài. Việc tăng độ sâu của nước sẽ giúp không chế bệnh thối củ do nấm Fusarium oxysporum pv nelumbicola do nấm này cần oxygen. Nước sâu quá sẽ ảnh hưởng đến phát triển bộ rễ vì việc vận chuyển không khí từ lá qua hệ thống vận chuyển khí gặp trở ngại (Honda, 1987). Việc hình thành củ cũng bị kích thích khi thiếu nước. Cây không bị thiếu nước sẽ không có dấu hiệu hình thành củ và tiếp tục giai đoạn tăng trưởng dinh dưỡng. Do đó nông dân cần tạo sự thiếu nước để kích thích hình thành củ, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường.

Cây sen có thể chịu được nồng độ muối nhất định. Những khảo nghiệm bước đầu cho thấy thành phần natri trong muối bị thay thế bởi ion kali ở nồng độ thấp, mở triển vọng trồng sen ở những nơi bị nhiễm mặn. Nồng độ muối được thể hiện qua độ dẫn điện EC, cây sen chịu được EC 2,8-3,1 mS cm. Lá non bắt đầu bị vàng khi EC 3,2-3,5 mS cm, tăng trưởng ngừng lại

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và bón phân cho cây sen lấy hạt

Tuy nhiên, khi trồng thâm canh, ruộ̣ng trồng cần được gia bờ bao hoàn chỉnh để khống chế, giữ được mức nước trong ruộng theo yêu cầu kỹ thuật của từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây.

Đất trồng sen cần cày bừa kỹ, mặt ruộng phải bằng phẳng để dễ thâm canh. Khi trồng sen cần chú ý các biện pháp kỹ thuật sau:

1. Chọn giống, cách trồng

Cây sen hiện có 2 giống phổ biến: Giống dùng lấy hạt có kích thước thân, lá, hoa, gương to hơn, đặc biệt hoa có màu hồng sậm, dân gian thường gọi là “Sen Trâu”. Giống trồng lá ngó ngược lại, thân, lá, hoa, gương nhỏ hơn, hoa có màu hồng phấn. Do vậy, khi trồng cần chú ý chọn đúng giống.

Cây sen giống đem trồng phải đạt tiêu chuẩn: Có 2 lá mập, khỏe, đường kính lá lớn của cây giống là 30cm, không để cây bị dập lá hay gãy cọng hoặc gãy thân ngầm (ngó). Các chỉ tiêu này liên quan chặt chẻ đến tỷ lệ sống của cây khi trồng. Nếu cây giống được chọn lọc và bảo quản tốt khi trồng tỷ lệ sống cao.

Cách trồng: Cây con sau khi nhổ từ ruộng sen phải được giữ nơi mát, tránh ánh sáng mặt trời bức xạ làm cho cây khô héo, đem cấy ra ruộng đã cày bừa xong cần nhẹ nhàng để tránh gãy ngó (thân ngầm). Không nên trồng quá sâu cây lâu bén. Không nên quá nông cây dễ bị nổi. Khoảng cách trồng 2m x 2m/cây. Mật độ 2.500 cây/ha.

Cần khống chế mực nước trong ruộng 20-25 cm trong thời gian mới trồng, giúp cây mau bén rễ.

Sau khoảng 10 ngày sau cần theo dõi và trồng dặm liền. Sau đó, cho mực nước tăng dần theo sự sinh trưởng của cây. Mực nước trong ruộng cần khống chế ở mức 40-50cm là tốt nhất.

2. Bón phân:

Số lượng phân bón sử dụng cho 1 ha/vu:

-Super lân: 400kg, DAP: 500kg, Better NPK 12-12-17-9+TE: 150kg, chia làm các lần bón như sau:
-Lót trước khi trồng (lúc làm đất): 400kg Super lân
-Thúc lần 1: 15 NST (ngày sau trồng), 50kg DAP
-Thúc lần 2: 30 NST, 50kg DAP
-Thúc lần 3: 45 NST, 50kg DAP
– Thúc lần 4: 60 NST, 50kg DAP
-Thúc lần 5: 75 NST, 50kg DAP + 25kg Better NPK 12-12-17-9+TE

Các lần sau cứ 15 ngày bón 10kg Better NPK 12-12-17-9+TE +50kg DAP cho đến hết 300kg DAP + 300kg Better NPK 12-12-17-9+TE

Chú ý: Cần thay nước trước khi bón phân và khống nước ở mức tốt nhất.

3.Sâu bệnh

Trong giai đoạn đầu trước và chuẩn bị cho hoa cây sen dễ bị nhện đỏ, và bọ trỉ gây hại. Chúng thường bám trên cuống lá, hoa chích hút làm lá nhăn, teo lại, nếu bị nặng chúng làm khô lá, hoa hạn chế sinh trưởng cũng như năng suất. Nên cần xử lý bằng thuốc hóa học, có thể dùng Trebon pha với nồng độ 20cc/bình/8lít phun phía dưới lá, bông.
Bên cạnh đó, cây sen thường bị sâu xanh và một số loại sâu ăn tạp khác phá hại nặng trên lá. Chúng thường đẻ trứng theo từng ổ, sâu non mới nở ra tập trung trên 1 – 2 lá ăn phần thĩa lá phía dưới rất dễ nhận diện trong quá trình thu hoạch trái chúng ta có thể giết chúng bằng tay. Nếu sâu ăn lá phát sinh nhiều thì xử lý bằng thuốc hóa học như Sherpa. Decis lượng dùng 10cc/bình/8 lít.

Khi cây đã ra hoa vào giai đoạn thu hoạch cần hạn chế sử dụng thuốc.

4. Thu hoạch

Khi sen già trên đỉnh hạt xuất hiện màu đen, ở cuống của gương sen có màu hồng thì thu hoạch được. Nên thu hoạch 2 ngày/lần để hạn chế hái sót tạo sen quá lứa khó chế biến vì sen già rất nhanh.

Khi thu hoạch trái thì kết hợp loại bỏ lá ở ngay cùng vị trí cuống, bông (cây sen có đặc tính từ mắt ở thân ngầm cây sẽ cho 1 cuống mang lá và một cuống mang bông) để giúp cây phát triển tiếp vì lá này sau khi đã thu gương nó trở nên vô hiệu. Nếu để chúng phát triển tiếp tạo sự cạnh tranh ánh sáng, dinh dưỡng với các lá khác nhất là các nơi phát triển ảnh hưởng lớn đến năng suất sau này.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phương thức trồng và mật độ trồng tre trúc

Phương thức trồng và mật độ trồng tre trúc có thể chia thành 2 loại: trồng thuần loài tre hoặc trúc và trồng hỗn loài xen lẫn với các loài cây gỗ lá rộng khác.

Giống như các loại cây trồng khác, tre trúc có thể trồng thuần loài hoặc hỗn loài. Rừng hỗn loài có rất nhiều ưu điểm, đặc biệt với tre trúc lại càng rõ nét. Thực tiễn ở trong nước và ngoài nước đều cho thấy rừng tre trúc hỗn loài với cây gỗ lá rộng thì tre trúc sinh trưởng tốt. Ở đây có thể lí giải là cây gỗ lá rộng có tác dụng cải tạo đất, làm tăng độ ẩm không khí và độ ẩm đất lại có tác dụng hạn chế ảnh hưởng của gió bão, bảo vệ măng khỏi bị gãy ngọn. Mặt khác còn hạn chế sâu hại lan nhanh, nhất là bọ nẹt hại lá tre. Trước đây ở một số vùng Thanh Hoá nhân dân thường trồng thưa để búi luồng có đủ đất phát triển, cây luồng có giá trị cao, giữa các khoảng đất trong rừng thường có các loài cây gỗ lá rộng ưa sáng, mọc nhanh tái sinh tự nhiên như giẻ, xoan, gội, v.v. hình thành hỗn loài giữa luồng và cây gỗ lá rộng.

Tuy vậy không có nghĩa là ở đâu cũng cần trồng rừng hỗn loài, mà tuỳ theo mục đích và điều kiện từng nơi mà cần và có thể trồng rừng tre trúc thuần loài, thí dụ các rừng chuyên canh thì cần thiết trồng thuần loài, có cùng biện pháp xử lí như rừng chuyên lấy măng, chuyên lấy nguyên liệu giấy và rừng trồng tre ven đê thì nên trồng thuần loài, về điều kiện địa hình thì những nơi tương đối bằng phẳng (<15°) thì có thể trồng thuần loài. Những nơi dốc 15° thì nên trồng hỗn loài với cây lá rộng.

Rừng tre thuần loài

Đặc tính của loài tre trúc có thân mọc cụm thì không có khả năng bò lan trong đất, mặt khác do mầm măng mọc từ các mắt ở gốc ra nên lâu dần có hiện tượng nâng búi, tức là gốc búi tre ngày càng nổi lên cao, nhất là tre gai thì rất rõ. Về mặt lợi dụng đất mà nói thì không bằng loại có thân mọc phân tán. Loại mọc cụm nếu trồng thành rừng thuần loại, lại ở nơi đất dốc mạnh thì sau này rất khó xử lí, không có đất để bồi đắp vào gốc, việc bỏ gốc già cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì thế nơi đất dốc thì nên trồng hỗn loài với cây lá rộng.

Mật độ trồng với loài mọc cụm như luồng, diễn nếu đất bằng, trồng thuần loài thì có thể trồng với cự ly 4m x4m hoặc 4m x 5m (mật độ trồng 500-670 cây/ha) sau này mọc thành 500-670 bụi; nếu trồng hỗn loài thì chỉ nên 200-400 cây/ha (cự ly 5 x 10m, hoặc 4 x 6m).

Với loại có thân mọc tản thì có thể trồng thưa hơn loại mọc cụm. Bởi vì thân ngầm có thể bò lan trong đất. Các loài trúc, vầu có thể trồng với mật độ 200 cây/ha (5 x 10m). Giữa các hàng trúc, vầu lúc đầu có thể thực hiện nông lâm kết hợp như trồng đỗ, lạc, sắn, ngô. Làm nông lâm kết hợp qua việc xới xáo đất khiến đất tơi xốp càng có tác dụng dẫn dụ thân ngầm lan nhanh. Loại này (trúc, vầu) không nhất thiết trồng dày (kín) ngay lúc đầu vì đào gốc và thân ngầm khó khăn hơn loại mọc cụm. Mặt khác nếu trồng dày sau này thân ngầm sẽ bò chằng chịt trong đất, tốn công xử lí hơn.

Nguồn: Caytrongvatnuoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật cho tre ra nhiều măng vào mùa khô

Muốn cho tre đẻ măng trong mùa khô thì sau khi kết thúc mùa mưa, bà con để vườn khô tự nhiên trong khoảng nửa tháng không tưới…

Theo ông Nguyễn văn Loan, một nông dân có nhiều kinh nghiệm trồng tre lấy măng trong nhiều năm qua ở thôn Bắc Lĩnh, xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh: bình thường các loài tre chỉ cho măng vào các tháng mùa mưa, trong đó nhiều nhất là từ tháng 7 đến tháng 9 hàng năm trùng với mùa bão lũ nên giá bán không cao, hiệu quả thu nhập thấp.

Trong những năm gần đây, nhiều giống măng tre nhập nội như Mạnh Tông, Điềm Trúc, Lục Trúc… được Khuyến nông các tỉnh khuyến cáo bà con trồng vừa để “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, vừa để lấy măng làm thực phẩm như một loại rau sạch cao cấp. Các loại măng tre này đều có chất lượng tốt: ít xơ, ăn ngọt, giòn được nhiều người ưa chuộng nên bán rất được giá, cho thu nhập cao. Tuy nhiên, vào các tháng mùa khô do ít mưa nên cây tre hầu như không đẻ măng. Sau một thời gian tự mày mò học hỏi, tự rút kinh nghiệm từ 20 gốc tre Điềm Trúc trồng trong vườn đồi của gia đình, ông Loan đã làm chủ được kỹ thuật chăm sóc cho cây tre đẻ nhiều măng, kể cả các tháng mùa khô.

Theo ông Loan, muốn cho tre đẻ măng trong mùa khô thì sau khi kết thúc mùa mưa, bà con để vườn khô tự nhiên trong khoảng nửa tháng không tưới. Tiến hành chăm sóc theo các bước sau: Chỉ giữ lại khoảng 3-4 cây khỏe mạnh phân đều về các phía làm cây mẹ nhằm cung cấp dinh dưỡng cho khóm đẻ măng còn lại chặt bỏ hết những thân cây già, cây còi cọc trong khóm. Dùng kéo cắt tỉa hết các cành lá trên thân cây từ mặt đất đến khoảng 1m chiều cao. Dùng cuốc hoặc mai xới đất xung quanh gốc tre rồi bón thúc cho mỗi khóm tre 10 kg phân chuồng hoặc phân hữu cơ đã được ủ hoai mục + 2kg phân urê + 1kg supe lân + 1kg kali clorua rồi lấp đất, tủ kỹ, tủ dày một lớp 20-30cm bằng lá cây, rơm rạ, cỏ rác và tưới thật đẫm nước.

Kinh nghiệm của ông Loan là sau khi thu hoạch chuối, ông chặt thân cây chuối thành từng đoạn 50-60cm đem bổ đôi rồi xếp kín cả khóm tre vừa có tác dụng cung cấp thên nguồn nước cho gốc tre, giúp cho các vi sinh vật có ích hoạt động cải tạo đất làm cho đất tơi xốp đồng thời sau khi phân hủy, những thân cây chuối này sẽ cung cấp thêm nguồn hữu cơ rất tốt cho đất. Cứ cách 7-10 ngày tưới 1 lần, sau 3 lần tưới thì măng bắt đầu mọc, sau nửa tháng là có thể thu hoạch được. Ngoài ra, nếu muốn cho tre nhanh ra măng hơn nữa, bà con dùng xà beng bằng sắt hoặc các dùi gỗ nhọn có đường kính 3-4cm xuyên chéo sâu vào gốc tre khoảng 50-60cm vừa có tác dụng làm đứt bớt rễ gây ức chế cho tre mọc măng đồng thời tạo lỗ để tưới nước phân trực tiếp. Pha 2kg phân đạm urê + 1kg lân supe + 0,5kg phâ kali trong 30 lít nước, tưới đầy vào các lỗ đã đục với lượng khoảng 10 lít/khóm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cân nhắc khi trồng tre lấy măng

Nhờ trồng tre lấy măng, không ít nhà vườn vượt khó, có hộ giàu to, nhưng không ít nhà nông trồng đến ba bốn bụi vẫn không có đủ măng ăn cho một mái bếp dăm khẩu; lại có nhà phải mướn xe xúc móc nguyên cụm, quẳng tre ra khỏi vườn…

Thị trường “loạn” giống tre

Những giống tre lấy măng nhập vào nước ta những năm qua bao gồm tre bát độ, điền trúc (có người gọi là lục trúc do mo măng có màu xanh). Thế nhưng những người bán giống lại chào bán đủ thứ: tre Tàu (tiếng lóng chỉ giống mang về từ Trung Quốc), tre mao trúc, tre lục trúc và tre điền trúc (hai giống thực chất chỉ là một), tre trải (một giống trúc nhỏ – nhưng nói là giâm mắt tre lục trúc). Không thấy ai bán giống tre bát độ (cho dù thực tế có nhập), vì giống này cho ít măng, nhưng lại thấy bán giống tre mạnh tông (giống bản địa chuyên măng ở ĐBSCL).

Trong khi thị trường giống tre gặp “loạn” thì một số nhà vườn lại có “cửa” làm ăn. Họ chọn chân đất thích hợp, chăm sóc đúng cách, biết cách khai thác cây giống từ mấu thân tre nên ngoài cho măng, một cây tre cho dăm bảy cây giống. Họ là những người đi trước và nắm vững yêu cầu kỹ thuật khâu làm giống và quan trọng hơn là việc các chủ vườn giống tre ra nghề đúng lúc.

Trồng tre điền trúc lấy măng

Tre điền trúc là giống tre “siêu măng”, còn là cây đa dụng. Nếu trồng trên đất “an toàn” và bón phân đúng cách, măng điền trúc được coi là sản phẩm rau “sạch” vì không sử dụng thuốc trừ sâu. Măng rất dễ ăn, thường cho vào lẩu ăn tái giòn. Măng đưa vào các món xào, nấu từ ngọt đến chua, nhiều món ngon nhớ đời. Ngoài ra trồng măng vẫn thu hoạch cây, cành, gốc tre, làm ra các sản phẩm gia dụng…

Trồng măng tre cần đất riêng để không ảnh hưởng cây trồng khác như che bóng, rễ hút dinh dưỡng. Đất trồng tre cần có độ dày canh tác trên 50 cm, đất tơi xốp, giàu mùn, chủ động nước tưới, có thể ngập 1 – 2 ngày nhưng đất lại ráo. Áp dụng các chỉ tiêu kỹ thuật khuyến cáo trong chuẩn bị đất gồm đào hố, bón lót. Trồng đúng kỹ thuật để cây bén rễ càng sớm càng tốt. Bón phân định kỳ bao gồm phân chuồng và phân “bao” đúng liều lượng và tăng giảm phân theo màu và độ rộng của phiến lá. Tưới nước thường xuyên kết hợp với bón phân hữu cơ và mùn làm cho đất xốp. Đốn tỉa một cách hợp lý cũng như chừa lại 2 – 3 cây măng/bụi làm cây mẹ hàng năm. Bứng gốc các cây tre trên 3 tuổi – hết khả năng ra măng. Phát cành, có thể kết hợp bó bầu nhân giống giúp bụi tre thông thoáng trong tầm cao 2,5 m. Thu hoạch măng đúng cách để có măng ngon, nhiều và không tạo cơ hội nhiễm bệnh cho bụi tre. Vun gốc tủ mùn là việc làm cần thiết nhưng hết sức thận trọng để tránh cho mụt măng nhỏ khỏi bị thối do nhiễm nấm và “ngạt”. Chỉ nên tủ đất và mùn tơi xốp dày từ 5 – 8 cm trước khi bụi tre đồng loạt ra măng để măng có màu trắng, non, ngọt hơn. Sau khi thu hoạch hết măng, cào đất ra, tạo rãnh bón phân để “kéo” măng đi xuống giúp tăng sản lượng và chất lượng măng kỳ thu hoạch sau.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.