Dự báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (20.11.2017)

Ở các tỉnh thành phía Nam, rầy nâu phổ biến tuổi 3 – 5, rải rác có rầy trưởng thành di trú do lúa thu đông đang thu hoạch rộ.

Bệnh đạo ôn phát triển, có thể gia tăng nhiễm trên trà lúa đông xuân giai đoạn đẻ nhánh – đòng trỗ. Ngoài ra, cần lưu ý ốc bươu vàng đối với các trà lúa mới gieo sạ, bệnh bạc lá ở giai đoạn đẻ nhánh – làm đòng.

1. Các tỉnh phía Bắc

– Cây ngô, rau màu: Các đối tượng gây hại phát sinh nhẹ đến trung bình.

– Cây mía: Bệnh chồi cỏ có xu hướng tăng.

– Cam, chanh, bưởi: Bệnh chảy gôm, loét, sẹo… gây hại các vườn cây già cỗi, chăm sóc kém.

– Cây nhãn: Nhện lông nhung tiếp tục gây hại.

– Cây sắn: Nhện đỏ, rệp sáp, bọ phấn… hại cục bộ trên đồng ruộng.

2. Các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên

– Cây lúa: Trên lúa đông xuân cực sớm, lúa mùa đẻ nhánh – làm đòng, bệnh đạo ôn hại lúa nhẹ. Bệnh bạc lá vi khuẩn hại cục bộ trên các giống nhiễm vùng ổ dịch. Ốc bươu vàng di chuyển và lây lan theo nguồn nước và gây hại diện rộng sau mưa lũ.

– Cây trồng khác: Cây cà phê rệp sáp, rệp vảy, bệnh khô cành, gỉ sắt, đốm mắt cua,… hại tăng. Cây tiêu: Rệp sáp, bệnh chết chậm… hại tăng. Cây điều: Sâu đục thân, bọ xít muỗi, nấm, thán thư… tiếp tục gây hại. Cây mía: Bệnh trắng lá do phytoplasma… hại cục bộ vùng ổ dịch. Cây dừa: Bọ cánh cứng, đốm lá, thối nõn… tiếp tục gây hại. Cây sầu riêng: Bệnh nứt thân xì mủ, nấm hồng, thán thư… tiếp tục gây hại.

3. Các tỉnh phía Nam

– Cây lúa: Rầy nâu phổ biến tuổi 3 – 5, rải rác có rầy trưởng thành di trú do lúa thu đông đang thu hoạch rộ. Bệnh đạo ôn phát triển, có thể gia tăng nhiễm trên trà lúa đông xuân giai đoạn đẻ nhánh – đòng trỗ. Ngoài ra, cần lưu ý ốc bươu vàng đối với các trà lúa mới gieo sạ, bệnh bạc lá ở giai đoạn đẻ nhánh – làm đòng.

– Cây trồng khác: Cây thanh long bệnh đốm nâu tăng diện tích nhiễm. Cây hồ tiêu: Tuyến trùng hại rễ, bệnh chết nhanh và chết chậm tăng diện tích nhiễm. Cây điều: Bệnh thán thư tăng. Cây cà phê: Rệp sáp tăng nhẹ diện tích nhiễm.

Nguồn: Cục bảo vệ thực vật được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phòng trừ sâu đục thân ngô

Ở nước ta sâu đục thân ngô (bắp) thường gây hại rất nặng cho bắp quanh năm và ở mọi vùng trồng bắp. Ở khu vực ĐBSCL sâu thường tập trung hại nặng vào vụ hè thu từ tháng 5 đến tháng 9 vì vào dịp này thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao, lá bắp rậm rạp tạo điều kiện cho sâu phát triển.

Sâu đục thân gây hại cho cây bắp từ giai đoạn cây được 1 tháng đến suốt thời kỳ sinh trưởng cho đến kỳ thu hoạch. Bị hại nhiều nhất là từ khi cây trổ cờ đến hình thành bắp. Ruộng bắp bị sâu đục thân nặng làm số cây bị hại có khi lên  80-90%, dẫn đến năng suất bị giảm sút nghiêm trọng. Khi lớn sâu đục vào thân và ăn hết phần mềm trong cây, thải phân ra ngoài qua các vết đục.

Sâu đục thân gây hại cho ngô

Thân rỗng làm cho quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng và nước bị nhưng trệ làm cây suy yếu, còi cọc, nếu gặp gió to cây sẽ bị gẫy ngang. Cây thường bị gãy ở ngay trên hoặc dưới bắp, nếu cây bị gãy dưới bắp thì cây đó coi như thất thu hoàn toàn. Nếu cây gãy trên bắp sẽ làm bắp kém phát triển, hạt bị lép, làm giảm năng suất và chất lương hạt do không còn chất khô quang hợp từ lá vận chuyển về hạt. Khi bắp hình thành, chúng cắn râu làm quá trình thụ phấn bị ảnh hưởng và chui vào bắp cắn phá khiến bắp bị cong queo, hạt không chắc.

Thành trùng cái sâu đục thân dài khoảng 12-15 mm, sải cánh rộng 25-30 mm, cánh trước mầu vàng nhạt. Con trưởng thành đực nhỏ hơn, mầu nâu đến nâu vàng. Ban ngày thường ẩn nấp trong bẹ lá hay trong nõn lá non và hoạt động về đêm. Con cái đẻ trứng thành từng ổ ở mặt sau của những lá bánh tẻ gần gân chính, mỗi ổ có vài chục trứng, đôi khi lên đến hàng trăm trứng. Một con cái có thể đẻ đến hàng ngàn trứng, khi mới đẻ trứng có mầu trắng sữa.

Sâu nở phá hoại cây ngô rất nghiêm trọng

Trứng sâu nở sau một tuần, trứng thường nở vào buổi sáng. Khi còn nhỏ sâu non cắn nõn lá non hay cuống hoa đực, khi lá mở ra sẽ thấy trên lá có những lỗ thủng thẳng hàng nhau. Nếu bị hại nặng sẽ làm rách lá. Khi sâu lớn chui vào thân cây và ăn phần mô mềm trong thân và thải phân ra ngoài, chúng làm thân cây bị rỗng. Quan sát trên cây ngô sẽ thấy nhiều lỗ thủng sâu chui vào kèm theo nhiều cục phân sâu thải ra bám quanh lỗ thủng. Sâu non của loài sâu này có 5 tuổi. Khi gần hóa nhộng sâu dài trên 20 mm, chúng hóa nhộng ở trong đường đục trong thân cây hoặc trong bẹ lá, lõi bắp, lá bao.

Biện pháp phòng trừ:

Kiểm tra đồng ruộng nếu thấy mật độ trứng cao (khoảng 0,3-0,4 ổ/m²) thì nên dùng một trong số các loại thuốc sau: Sherpa 0,1%, Sumidicin 0,1%, Nuvacron polytril 440 Regent 800WG 0,08-0,12% hoặc một số thuốc đặc hiệu khác để phun với liều lượng 0,5-1 lít/ha.

Theo khuyến cáo của Viện Nghiên cứu Ngô, nếu mức hại của sâu chưa đến ngưỡng thì không phải trừ bằng thuốc hóa học mà có thể đi bắt bằng tay. Nếu mức hại đã quá ngưỡng cho phép (cấp hại 5, số lá bị hại 4, đường kính lỗ đục 5mm, điểm 2,25) thì có thể phun Nuvacron 0,1-0,15% để diệt sâu, song phải phun trước khi ngô trổ cờ ít nhất 10 ngày (trong trường hợp để giống). Tốt nhất cần xác định thời điểm sâu nở để phun thuốc có hiệu quả nhất. Trong trường hợp ngô thu hoạch để làm rau thì ngừng phun thuốc trước khi ngô nhú bắp ít nhất 5-10 ngày.

Luân canh với cây trồng nước như lúa, các loại rau trồng nước… để cắt đứt nguồn thức ăn liên tục của sâu trên đồng ruộng. Ở những vùng thường xuyên bị sâu gây hại nặng nên chọn những giống ngô có khả năng ít bị nhiễm sâu đục thân…

Không nên trồng nhiều vụ bắp liên tục trong năm để cắt đứt vòng đời của sâu. Không trồng bắp cùng với những cây ký chủ khác như kê, cao lương, đay… trên một cánh đồng vì sẽ luôn duy trì nguồn sâu trên đồng.

Sau khi thu hoạch, sử dụng thân cây ngô cho trâu bò ăn, làm chất đốt càng sớm càng tốt, để tiêu diệt những con sâu, con nhộng còn nằm bên trong thân cây, hạn chế sâu truyền qua vụ sau.

Ngắt ổ trứng sâu trên ruộng rồi tiêu hủy.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyện bởi Farmtech Vietnam.

Trồng lúa GlobalGAP

Những câu hỏi người dân luôn đặt ra là làm sao để làm ra hạt gạo chất lượng cao? Làm sao để thay đổi thói quen SX nông nghiệp không còn phụ thuộc vào thuốc BVTV hóa học? Làm sao để nhân rộng ý thức “hạt gạo sạch” cho chính những người làm ra?

Những hạt gạo sạch được tạo ra từ mô hình trồng lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP

SX nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn toàn cầu (GlobalGAP) chính là câu trả lời của Cty TNHH Thương mại Tân Thành. Tại huyện Tri Tôn (An Giang), Tân Thành thực hiện mô hình liên kết với nông dân làm 40ha lúa sạch. Đây là một trong 4 điểm đầu tiên tại ĐBSCL liên kết cùng Cty quyết tâm áp dụng hướng SX an toàn.

Từ vụ lúa ĐX 2013 đến nay, việc áp dụng công nghệ mới vào quy trình SX đã dần dần đi sâu vào nhận thức của người nông dân và thực sự mang lại hiệu quả rõ nét. Đây chính là nguồn động lực cho Cty tiếp tục mở rộng hướng SX GlobalGAP.

Trồng lúa GlobalGAP  mang lại hiệu quả rõ nét cho bà con ngư dân

Một trong những minh chứng cụ thể là nông dân liên kết cùng Cty tham gia áp dụng công nghệ sinh thái trồng hoa trên bờ ruộng. Mô hình tận dụng những bờ ruộng thường bỏ trống để trồng các loại hoa sao nhái, hướng dương, đậu bắp… có sắc rực rỡ dễ thu hút các thiên địch trong tự nhiên đến ruộng lúa. Trên những cánh đồng lúa GlobalGAP, thuốc BVTV hóa học được kiểm soát, ưu tiên sử dụng sản phẩm sinh học nhằm bảo vệ các thiên địch.

Những bờ ruộng đầy hoa thu hút thiên địch đến tiêu diệt các dịch hại trên đồng ruộng, góp phần giảm hoạt động sử dụng thuốc BVTV hóa học. Qua đây có thể thấy sự liên kết chặt chẽ giữa GlobalGAP và công nghệ sinh thái trong hoạt động SX nông nghiệp. Đây là bước đột phá, thay đổi thói quen canh tác và SX chạy theo sản lượng để chuyển hướng chuyên canh theo chiều sâu. Sản lượng ít nhưng giá trị vượt trội, đáp ứng nhu cầu sử dụng gạo đúng chất “sạch” của người tiêu dùng.

Vụ lúa ĐX 2015 – 2016 sắp kết thúc, trên cánh đồng SX GlobalGAP lại chuẩn bị hạt giống, ươm cây hoa con cho vụ mùa hoa tiếp theo.

Cây lúa đơm hoa trĩu hạt chuẩn GlobalGAP

Bà Trần Thị Bích Trân, Trưởng phòng Kỹ thuậ,t Cty TNHH Thương mại Tân Thành cho biết, ban đầu Cty liên kết thực hiện SX lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP tại Tri Tôn với 40ha, thu về 700 tấn lúa/năm. Vụ ĐX 2014-2015, Cty kết hợp cùng Chi cục BVTV An Giang triển khai mô hình công nghệ sinh thái trên toàn tỉnh An Giang, trong đó có 32ha lúa GlobalGAP, số nông dân tham gia chiếm 80% tổng diện tích SX theo tiêu chuẩn sạch của Cty.

Qua 2 năm áp dụng công nghệ sinh thái kết hợp SX lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP, điều rõ nét là thu hút thiên địch trên ruộng, tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường. Tới đây Cty sẽ tiếp tục triển khai mô hình công nghệ sinh thái ở Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Sóc Trăng… lên hàng trăm ha.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hiệu quả trồng ngô lai trên đất lúa

Vụ HT 2017 Trung tâm Khuyến nông tỉnh TT – Huế phối hợp với Trạm Khuyến Nông lâm ngư huyện A Lưới và UBND xã Hồng Quảng triển khai mô hình trồng 5ha ngô lai trên đất lúa giúp bà con chuyển đổi cây trồng và sử dụng toàn bộ diện tích thiếu nước để SX hiệu quả.

Ngô gieo trồng từ giữa tháng 6, sau khi thu hoạch vụ ngô trước đó. 39 hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 100% giống, phân bón, thuốc BVTV. Bên cạnh đó còn được tập huấn kỹ thuật làm đất, gieo hạt, bón phân chăm sóc.

Trồng ngô lai trên đất lúa mang lại hiệu quả cao

Kết quả cho thấy giống ngô lai LVN 10 có thời gian sinh trưởng 120 ngày, chiều cao cây trung bình 120cm, phù hợp với điều kiện SX của địa phương. Năng suất bình quân đạt 62 tạ/ha.

Về hiệu quả kinh tế, trên 1ha diện tích đất SX, với chi phí bỏ ra thấp hơn so với làm lúa, thực hiện mô hình trồng ngô lai cho thu nhập 16.050.000đ/ha, cao hơn 3.260.000 đ/ha và lợi nhuận 10.050.000 đ/ha, cao hơn 4.460.000 đ/ha so với trồng lúa thịt.

Theo Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Chuyện có thật ở nơi cả xã 10 năm nay không dùng đến thuốc sâu

Từ nhà khoa học đến người nông dân ai ai cũng đinh ninh rằng thuốc sâu độc hại nhưng không có nó thì sẽ mất mùa ngay. Thế nhưng có một nơi cả xã đã 10 năm nay không hề dùng đến thuốc sâu mà vẫn được mùa liên tiếp…

Những nông dân biết sám hối

Đó là một buổi chiều mùa hè năm 2013, ông Nguyễn Xuân Điện (thôn Động Giã, xã Đỗ Động, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đi làm đồng về, quần vẫn xắn móng lợn, người mướt mải mồ hôi, nói như reo lên với vợ rằng: “Bà nó ơi, hôm nay tôi ra hái mấy mớ rau muống ở cánh đồng Sú mà có ba con đỉa bám vào chân đấy! Đỉa lại xuất hiện ở làng mình rồi!”.

Đối với lão nông này thì bất kỳ sinh vật nào trên đời đều có quyền được sống, quyền bình đẳng dưới ánh sáng mặt trời.

Người dân cương quyết từ chối dùng bình thuốc sâu

Đã 10 năm nay dân làng ông, xã ông từ chối dùng thuốc trừ sâu. Cân bằng sinh thái trên đồng đã được tái lập mà bằng chứng là sự xuất hiện trở lại của đỉa, của bọ rùa, của chuồn chuồn kim, của xén tóc…

Đồng làng lại thơm mùi lúa chứ không còn tức ngực bởi mùi thuốc sâu sặc sụa. Đồng làng lại sáng sáng, chiều chiều từ trẻ con, người già đến các nam thanh, nữ tú quây quần ra ngồi hóng mát. Đồng làng lại có người tuốt đòng đòng để cắn chắt mà không sợ bị ngộ độc thuốc, hít hà hơi lúa mới đang lên sữa bên trong hạt mà không sợ bị ho hen vì hóa chất…

Cho đến nay, anh nông dân Nguyễn Đình Thắm ở Động Giã vẫn còn ám ảnh tội lỗi trước kia mình đã phải dùng đến chất diệt ốc bươu vàng: Thuốc vừa rời khỏi tay người là mặt nước bắt đầu nổi sóng. Các sinh vật bên dưới quằn quại và giãy giụa. Đầu tiên là tôm nổi lên, búng được vài cái rồi chết chìm. Kế đến là cá, chúng như bị thần kinh, lao đầu tứ tung, đâm cả vào bờ rồi chết rục. Lươn, chạch nằm sâu ở dưới bùn cũng phải bơi lên, giật đùng đùng rồi chết lập lờ ngang mặt nước. Cuối cùng là con ốc, gặp thuốc thì chúng chìm sau đó cả buổi mới chết nổi. Dã man quá! Diệt một con ốc bươu vàng thôi mà bao con phải chết theo…

Trước đây, nông dân dùng thuốc sâu bừa bãi theo thói quen. Gieo mạ xong thì phun phòng sâu đục thân, cấy bén rễ xong thì phun phòng sâu cuốn lá, bọ xít, lúa đứng cái thì phun phòng khô vằn, đốm sọc vi khuẩn, rầy, lúa vào hạt thì phun kích thích cho mã hạt đẹp, màu không bị rám. Tính ra mỗi vụ trung bình 4 – 5 lần đầu độc đất đai, đầu độc nước, đầu độc không khí mà thảm khốc nhất phải kể đến những buổi thuốc ốc, thuốc cỏ.

Anh Thắm cảm thấy tội lỗi khi nhớ lại cảnh rắc thuốc diệt ốc trước đây

Trong một buổi rắc thuốc như thế, anh Thắm bị chất độc ngấm vào người say lử lả. Miệng muốn nôn mà không thể nôn được, đầu váng vất như phải cảm còn khớp tay, khớp chân đau nhức như như có giòi bò ở bên trong, mãi chục ngày sau mới lại người. Hãi thuốc sâu từ dạo đấy nên hiện nay gia đình anh dù cấy đến 1,1 mẫu ruộng nhưng không hề dám phun một giọt hóa chất nào mà năng suất lúa vẫn đạt khá cao 1,5 – 1,7 tạ/sào.

Gieo mầm lành, gặp quả phúc

Vợ chồng ông Nguyễn Viết Đoạt và bà Vũ Thị Tị năm nay đã tròm trèm tuổi thất thập nhưng vẫn còn cấy tới 1,2 mẫu vì làm ruộng bây giờ nhàn quá, công đoạn nào cũng có máy móc trợ giúp lại chẳng phải dùng đến thuốc trừ sâu. Trước đây, cũng như bao vùng quê khác, mỗi khi vào vụ ông bà vẫn thường phải “tắm mình” trong chất độc.

Cho đến khi ông Đoạt trở thành học viên của lớp IPM đầu tiên của xã năm 1992, được thầy giáo giảng về tác hại của việc lạm dụng thuốc, của ích lợi do các loại thiên địch như nhện, như bọ dừa, như chuồn chuồn kim, như kiến ba khoang… đem lại. Kể từ đó, làng xóm dần dần vắng bóng bình phun thuốc và giờ đây gần như tuyệt nhiên không nhà nào còn giữ. Thỉnh thoảng cũng có một vài công ty thuốc đến tiếp thị, cho không sản phẩm nhưng dân làng cũng chỉ lịch sự cười và xua tay.

Ông Đoạt ngợi ca hạt thóc của nhà mình, nhờ cấy thưa mà lúa mọc đều, từng hạt, từng hạt vàng óng như kén tằm, năng suất đạt 1,5 – 1,7 tạ/sào với một giống rất “đỏng đảnh” như là Bắc Thơm số 7 kể cũng là một sự lạ. Mỗi vụ gia đình thu về 1,8 tấn thóc, giữ lại 8 tạ để ăn còn đâu đem bán, đút túi gọn gàng 4 triệu đồng tiền lãi để dưỡng già.

Còn bà Tị thì lại mê mẩn vẻ đẹp bình dị của cánh đồng làng. Mỗi lần ra đó là hồn bà như có muôn đợt sóng vỗ về, rào rạt ở bên trong. Bà yêu cánh đồng bằng cả tấm lòng chân thật, thủy chung từ thủa thanh nữ đến lúc về già đủ để tinh tế cảm nhận từng biến chuyển của nó theo từng ngày, từng tháng. Lúa trỗ rồi lúa uốn câu, đỏ đầu bông, dần dần vào chắc. Mùi thơm của cánh đồng chuyển từ hương cốm non thành hương cốm già, nồng nàn chứ không còn man mác nữa.

Niềm vui trên cánh đồng sạch

Đồng sạch, tôm, cá, cua, chạch đua nhau sinh sôi, nảy nở. Những buổi mưa rào đám con cháu bà Tị lại rủ nhau mang chũm ra đồng kéo cá còn những hôm nắng lửa thì chúng đeo giỏ, mang móc ra đồng bắt cua. Tôm béo thơm, cua béo ngậy, cá béo bùi càng đẩy đưa bữa cơm canh thanh đạm, quê mùa nhưng hễ đặt vào môi là trôi ngay xuống cổ.

Anh Nguyễn Đăng Miền – cán bộ HTX Nông nghiệp Đỗ Động khẳng định với tôi rằng ở đâu phun thuốc thì vụ nào, năm nào cũng phải dùng vì cánh đồng đã mất đi thiên địch, mất đi sự cân bằng sinh thái. Thuốc độc diệt sinh vật có hại đồng thời diệt luôn cả sinh vật có lợi. Mà thói đời, “hoa thường hay héo cỏ thường tươi” thứ có hại bao giờ cũng phát triển nhanh hơn thứ có lợi, bệnh tật bùng phát là vì thế.

Phải tôn trọng thế cân bằng của cánh đồng như tôn trọng chính con người. Tổ khoa học của HTX vỏn vẹn 4 người là thành viên đại diện cho 4 thôn trong xã. Họ thường xuyên đi kiểm tra, phát hiện các ổ dịch để tuyên truyền cho dân làng biết mà phòng ngừa, nếu có dịch thì chỉ dập ở ổ chứ không bao giờ phun tràn lan, đại trà cả cánh đồng.

“Đã mấy năm nay, chưa bao giờ chứng kiến dịch nào đủ lớn để phải phun cả. Vụ này tuy là lúa bị bạc lá, khô vằn nhưng nông dân cũng quyết định không phun bởi vì bạc lá là do vi khuẩn gây ra có phun thuốc cũng vô ích còn khô vằn tuy có nhiễm nhưng mật độ không đáng kể, phun thuốc chỉ làm mất đi các thiên địch có ích. Tổ khoa học chỉ tổ chức phun thuốc duy nhất một lần để phòng khi cây mạ chuẩn bị ra ngôi (khoảng 15 ngày tuổi) còn người dân thì không bao giờ phải động đến hóa chất độc hại. Thế mà ở Đỗ Động chúng chưa bao giờ chịu cảnh mất mùa kể cả năm 2013 lụt lội khiến lúa chậm phát triển nên gặp đúng đợt dịch sâu đục thân phá hoại, năng suất giảm xuống thấp nhất nhưng vẫn đạt 1 tạ/sào”, anh Miền nói.

Còn anh Trần Đình Tuyến – Bí thư xã Đỗ Động thì xác nhận với tôi rằng với tổng số 400ha lúa, 30ha rau mỗi vụ nhưng địa phương mình không hề có một cửa hàng bán thuốc trừ sâu nào, không hề có cảnh nông dân đi phun thuốc, không có bao bì thuốc vứt trên mương máng, đường nội đồng. Bởi thế mà hạt gạo sạch được trân quý, không chỉ để ăn mà còn gửi biếu cho họ hàng ở trong Nam, cho con em trọ học ngoài nội thành.

Nguồn: Báo Nông nghiệp được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Luân canh lúa – khoai lang tím Nhật xuất khẩu

Khoai lang tím Nhật là một giống cây trồng từng giúp cho nhiều nông dân trở nên khá giả, trong đó không ít người vươn lên hàng tỷ phú. Tuy nhiên, lắm lúc cũng khiến cho người trồng điêu đứng do giá cả biến động bất thường, đầu ra không ổn định.

Khoai lang tím Nhật

Ông Võ Văn Tước, 49 tuổi, quê ở ấp Tân Dương, xã Tân Thành, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long là một nông dân đã từng trải nghiệm với nhiều giống khoai, thành công cũng có, thất bại cũng nhiều. Từ những thất bại cay đắng, ông đã cần cù học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm, đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng để dần dần trở thành một nông dân sản xuất giỏi.

Từ những thành quả lao động miệt mài, ông là người duy nhất ở Vĩnh Long đã đạt danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2017” do Hội Nông dân Việt Nam công bố.

Ông Tước kể, trước đây ông được cha mẹ cho 10 công đất gồm 6 công ruộng và 4 công vườn. Lúc đầu ông cuốc đất trồng khoai nhưng vì không có bờ bao nên khoai lúc trúng, lúc thua. Thế nhưng, sau một thời gian học hỏi kinh nghiệm, dự các lớp tập huấn và được nhiều cán bộ nông nghiệp hướng dẫn nên năng suất ngày càng cao.

Nhờ tích lũy vốn liếng, mỗi năm sau mùa thu hoạch ông lại mua thêm đất canh tác. Tính đến nay, ông đã sở hữu gần 3ha đất vừa trồng khoai vừa cấy lúa theo mô hình luân canh. Lúc khởi nghiệp, ông trồng đủ các loại khoai lang nhưng hiệu quả không cao. Kể từ năm 2013, ông chuyển sang trồng khoai tím Nhật kết hợp với cấy lúa gia đình ông mới khá lên.

Là một nông dân tiêu biểu thời hội nhập, ông Tước không chỉ làm giàu cho gia đình mà còn tạo công ăn việc làm thường xuyên cho hàng chục lao động ở địa phương và hết lòng hỗ trợ khoai giống, đồng thời san sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật cho những hộ mới vào nghề.
Là một nông dân năng động, luôn tìm tòi suy nghĩ phải làm thế nào để nâng cao giá trị sản phẩm. Từ ý tưởng đó, ông Tước đã mạnh dạn trồng khoai vụ nghịch để bán với giá cao hơn. Thường mỗi năm ông xuống giống vụ I vào nửa tháng 7 âm lịch thu hoạch vào rằm tháng Chạp; tiếp theo là vụ II thu hoạch vào cuối tháng 6 âm lịch. Thu hoạch khoai xong ông bắt đầu sạ lúa.

Ông chia sẻ, sở dĩ ruộng khoai của ông trúng mùa, củ to, năng suất, chất lượng cao là nhờ có đê bao khép kín, chủ động được nguồn nước, không sợ ngập úng vào mùa mưa và khô hạn vào mùa nắng. Nhờ vậy mà sản lượng bình quân mỗi vụ trên 50 tạ/công (tạ = 60kg). Cá biệt năm 2016 tăng lên gấp đôi.

“Vua khoai lang” Võ Văn Tước

Ngoài ra, ông còn tích cực áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, đặc biệt là cách diệt côn trùng phá hoại dây, lá và củ. Nhờ cần cù sáng tạo và làm ăn có hiệu quả cao nên nhiều bạn bè con ở Bình Tân thường gọi ông là “vua khoai lang”.

Ông Tước phấn khởi cho biết lợi thế của khoai lang tím Nhật là dễ dàng xuất khẩu sang nhiều nước do chất lượng thơm ngon, màu sắc đẹp, độ dinh dưỡng cao. Hiện có giá dao động từ 450.000 – 500.000 đồng/tạ (cao gấp 4 lần các loại khoai lang khác). Ngoài 2 vụ lúa – khoai, ông còn trồng thêm rau màu trên bờ đê, mé ruộng, thu nhập cũng khá cao. Tính bình quân mỗi năm, sau khi trừ hết các chi phí ông Tước còn lời trên 1 tỉ đồng.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Giải mã giống lúa nước mặn của Trung Quốc

Lần đầu tiên, lúa trồng trên nước biển pha loãng ở quy mô thương mại đã được sử dụng trong các bữa ăn hằng ngày của người Trung Quốc. Điều như không tưởng đã trở thành sự thật…

Loại lúa được trồng ở khu vực nước mặn

Điều đặc biệt, loại gạo này không được trồng theo cách truyền thống ở những cánh đồng nước ngọt, mà nó sinh trưởng trong môi trường nước mặn, cụ thể là khu vực bờ biển Hoàng Hải tại thành phố Thanh Đảo, Sơn Đông.

Trung Quốc có khoảng 1 triệu km diện tích đất lãng phí, nơi cây cối rất khó phát triển bởi độ mặn hoặc độ kiềm cao trong đất. Do đó, nhà khoa học nông nghiệp Yuan Longping (87 tuổi), được mệnh danh là “cha đẻ của các giống lúa lai”, đã tìm ra cách trồng lúa trong điều kiện đất đai hạn chế. Ông cho hay, 1/10 diện tích nêu trên dùng để trồng lúa chịu mặn thì tổng sản lượng gạo của Trung Quốc sẽ tăng lên gần 20%. Họ có thể sản xuất 40 tấn lương thực, đủ để nuôi sống 200 triệu người với diện tích đất ấy.

Ông Yuan Longping (ở giữa) và nhóm nghiên cứu đi khảo sát tại cánh đồng lúa nước mặn ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc

Vào giai đoạn giữa những năm 1970, lo lắng về việc làm thế nào để cung cấp lương thực cho một quốc gia tăng trưởng nhanh và đông dân nhất thế giới, Trung Quốc đã bắt đầu cho nghiên cứu một loại lúa có thể sống được trên những cánh đồng nước mặn.

Những phát hiện ban đầu trong lĩnh vực này thuộc về nhà nghiên cứu Chen Risheng ở tỉnh Quảng Đông khi ông vô tình tìm thấy một loại lúa dại màu đỏ trong rừng ngập mặn tại huyện Toại Khê, thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông.

Sau nhiều thập kỷ tiến hành lựa chọn tính trạng, lai giống và sàng lọc di truyền, các nhà nghiên cứu đã phát triển được ít nhất 8 giống lúa có thể trồng trên nước mặn, nhưng năng suất của chúng vẫn thấp, chỉ 2 tấn/hecta, bằng 1/3 năng suất gạo thông thường, nên không đủ để trồng trên diện rộng.

Mới đây, tại cánh đồng lúa nước mặn lớn nhất Trung Quốc ở Thanh Đảo, thành quả từ đội nghiên cứu của ông Yuan tỏ ra rất khả quan khi thu hoạch về 4,5 tấn gạo/hecta đất.

Lúa nước mặn được thu hoạch

Công nghệ Sinh học Yuan Ce, một công ty khởi nghiệp tại Thanh Đảo, đối tác của nhóm nghiên cứu khoa học của ông Yuan, đã mở một cửa hàng gạo điện tử và đặt tên “Yuan Mi” cho sản phẩm của mình để vinh danh thành tựu của “cha đẻ” dự án.

Loại gạo được bày bán hiện tại được thu hoạch từ năm ngoái. Vụ mùa năm nay sẽ chính thức bắt đầu vào tháng tới. Mỗi kilo-gram gạo Yuan Mi có giá 7,5USD (tương đương 170.000 đồng), cao hơn 8 lần so với giá gạo thông thường. Tháng trước, gần 1.000 người đã đặt mua loại gạo này và cửa hàng Yuan Ce cho tới nay đã bán được 6 tấn gạo nước mặn kể từ tháng Tám.

“Mục tiêu doanh số bán hàng của chúng tôi là 10 triệu nhân dân tệ (34,3 tỷ đồng) vào cuối năm nay”, người phụ trách kinh doanh của Yuan Ce nói.

Giáo sư Huang Shiwen dẫn đầu một đội nghiên cứu các loại bệnh dịch trên lúa gạo tại viện Nghiên cứu Gạo Quốc gia Trung Quốc ở Hàng Châu, Chiết Giang cho biết, nước biển là một chất làm sạch tự nhiên, có thể làm giảm hoặc loại trừ sự lây truyền một số bệnh do vi khuẩn gây ra.

“Để tồn tại được trong môi trường khắc nghiệt, dòng lúa mới phải có một số gene “cứng rắn” giúp nó kháng cự tốt hơn với các cuộc tấn công của bệnh dịch hoặc các loài sâu bọ, đặc biệt là những bệnh ở gốc hoặc phần thân dưới của cây”, Giáo sư nói.

Giống lúa được phát triển bởi ông Yuan và các nhóm khoa học khác trước đó không phải được trồng hoàn toàn trên nước biển mà nó sẽ được hòa lẫn với nước ngọt để giảm nồng độ muối xuống còn 6 gram trên mỗi lít nước. Thông thường, trung bình mỗi lít nước biển chứa khoảng 30 gram muối.

Các nhà nghiên cứu cho hay sẽ mất nhiều năm nữa mới có thể phát triển giống lúa trồng được trên nước biển nguyên chất.

Nguồn: Nguoiduatin.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Dự báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (13.11.2017)

Ở các tỉnh thành phía Nam, rầy nâu phổ biến tuổi 2 – 4, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

1. Trên lúa

1.1. Các tỉnh phía Bắc: 

Rầy, sâu cuốn lá, chuột, nhện gié, bệnh khô vằn, bạc lá, đốm sọc vi khuẩn, lem lép,… hại nhẹ trên lúa mùa muộn tại Hà Tĩnh.

1.2. Các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: 

– Trên lúa đông xuân cực sớm giai đoạn đẻ nhánh – làm đòng các đối tượng bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông hại nhẹ; giai đoạn mạ – đẻ nhánh sâu năn, sâu keo, bọ trĩ, dòi đục nõn… phát sinh gây hại nhẹ. Rầy, sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân, bệnh bạc lá… hại lúa mùa giai đoạn đẻ nhánh – chín.

– Chuột gây hại cục bộ trên lúa đông xuân giai đoạn đẻ nhánh và trên lúa gieo.

– Ốc bươu vàng di chuyển và lây lan theo nguồn nước và gây hại diện rộng sau mưa lũ.

1.3. Các tỉnh phía Nam: 

– Rầy nâu phổ biến tuổi 2 – 4, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

– Bệnh bạc lá có khả năng phát triển mạnh trên lúa giai đoạn cuối đẻ nhánh đến trỗ, trên những diện tích lúa quá tốt do bón thừa phân đạm, nhất là trên các giống nhiễm C10, OM 4900, OM 5451, OM 7347…

2. Trên cây trồng khác

– Trên ngô và cây rau màu: Các đối tượng gây hại tiếp tục hại nhẹ – trung bình.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng rễ, bệnh chết chậm giảm; bệnh chết nhanh gây hại tăng nhẹ.

– Cây cà phê: Bệnh khô cành, gỉ sắt; rệp vảy xanh, rệp sáp, bệnh đốm mắt cua… gây hại tăng.

– Cây có múi: Sâu vẽ bùa, ruồi đục quả, bệnh loét, bệnh sẹo… hại tăng.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu tăng nhẹ.

– Cây điều: Bọ xít muỗi và bệnh thán thư tiếp tục phát sinh gây hại tăng.

– Cây mía: Bệnh chồi cỏ, bệnh trắng lá… gây hại cục bộ mía ở vùng ổ dịch.

– Cây sắn: Nhện đỏ, bệnh chổi rồng, bệnh khảm lá sắn… tiếp tục gây hại.

Nguồn: Cục Bảo vệ thực vật được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn khắc phục thiệt hại cây trồng sau bão

 Đối với lúa

 Với diện tích lúa bị ngập 1 – 2 ngày, khả năng phục hồi khá:
– Thực hiện các biện pháp chăm sóc kịp thời như bón thúc đợt 2 bằng phân kali cho diện tích lúa đứng cái, làm đòng, phun thêm các chất hỗ trợ sinh trưởng, phân qua lá cho lúa;
– Tăng cường công tác dự tính, dự báo tình hình phát sinh gây hại của các đối tượng dịch hại như bệnh bạc lá, rầy nâu, sâu cuốn lá, sâu đục thân,… để có biện pháp phòng trừ kịp thời, hiệu quả.

Với diện tích lúa bị ngập 2 – 3 ngày, thoát nước kịp, có khả năng hồi phục:
– Điều chỉnh mực nước tiêu thoát đảm bảo cây lúa không bị đổ rạp; nếu ruộng có rong rêu, bùn đất bám trên cây cần té nước rửa lá để tạo điều kiện thuận lợi cho cây lúa quang hợp.
– Khi nước trên ruộng rút xuống và lá lúa nhô cao mặt nước trên 10cm, lá lúa chuyển màu xanh cần phun các chế phẩm sinh học như KH, ET, siêu lân, Pennac P… giúp cây phục hồi nhanh, liều lượng như trong bao bì hướng dẫn.
– Sau khi cây lúa đã phục hồi: Đối với những ruộng đã bón thúc lần 1 cần bón thêm phân bổ sung để tăng cường khả năng phát triển của cây lúa; đối với những ruộng chưa bón thúc lần 1 cần khẩn trương bón hết lượng phân thúc.
Ưu tiên sử dụng phân NPK chuyên dùng có hàm lượng đạm và kali cân đối. Không sử dụng đạm đơn và không bón phân lai rai nhằm hạn chế sâu bệnh hại và đổ ngã cuối vụ.

Đối với những diện tích lúa vùng trũng ngập nước kéo dài trên 3 ngày không có khả năng phục hồi:
– Cấy lại ngay sau khi nước rút bằng các giống mạ dự phòng còn lại hoặc san tỉa lúa từ những chân ruộng lúa gieo thẳng hoặc ruộng cấy không bị ảnh hưởng ngập úng.
– Khẩn trương dùng các giống ngắn ngày như P6 đột biến, nếp IRi 352, PC6, HN6, Khang dân 18, Khang dân đột biến, Việt lai 20, TH3-3… ngâm ủ gieo mạ nền cứng hoặc gieo thẳng ngay nếu rút nước kịp thời; kết thúc gieo cấy trước 10/8.

Đối với các loại cây rau màu

– Khẩn trương thu hoạch sản phẩm ở những ruộng gần đến thời gian thu hoạch hoặc tận thu ở ruộng bị hại nặng.
– Tháo nước nhanh, kịp thời, khơi thông dòng chảy, không để nước ngập lâu trong ruộng gây thối cây, thối rễ.
– Với ruộng ngập thời gian ngắn và cây rau còn nhỏ có khả năng phục hồi cần phun các loại thuốc phòng trừ nấm hại như: Anvil, Ridomil, Oxyclorua đồng… để phòng trừ nấm lở cổ rễ; kết hợp chế phẩm KH, Pennac P, siêu lân.., chăm sóc bổ sung, bón thêm phân khi thời tiết thuận lợi giúp cây nhanh phục hồi.
– Đối với những diện tích bị ảnh hưởng nặng, không có khả năng cho thu hoạch cần vệ sinh đồng ruộng, chủ động chuẩn bị đất để gieo trồng lại những loại rau ngắn ngày, rau ưa nước để cung cấp rau nhanh cho thị trường lúc giáp vụ, tăng thu nhập cho nông dân.

Đối với các loại cây ăn quả

Với cây chuối


Với những vườn chỉ bị rách lá, nghiêng cây và không bị gẫy thân:
– Khai rãnh ở mặt luống để nước thoát nhanh, giúp rễ mau thông thoáng hơn;
– Cắt tỉa các lá bị gãy, vệ sinh đồng ruộng; khi đất đã se mặt bón phân với liều lượng thích hợp để kích thích cây hồi phục mọc rễ mới.
– Cung cấp các dưỡng chất qua lá (phân bón lá Yogen; phân bón lá Đầu Trâu)… để tăng cường khả năng hồi phục của cây.
Với những vườn bị gẫy thân chính:
– Dọn và xử lý tàn dư cây gẫy đổ; chọn 1-2 chồi khỏe nhất trong khóm để chăm sóc thành cây thay thế cây chính đã bị gẫy đổ;
– Cung cấp các dưỡng chất qua lá (phân bón lá Yogen; phân bón lá Đầu Trâu)… để tăng cường khả năng hồi phục của cây;
– Khi đất se mặt có thể bón phân với liều lượng thích hợp để tạo điều kiện cây con sinh trưởng khỏe.

Với cây nhãn, cây có múi


– Thoát nước nhanh trong vườn, đặc biệt với những vườn đất thấp chuyển đổi từ đất lúa, giúp rễ mau thông thoáng;
– Cắt bỏ những cành gẫy, cành bị tổn thương nặng do gió bão.
– Xới mặt đất (ở vùng tán cây) bằng cuốc răng (sâu 5 – 10cm) để phá váng khi đất đã se mặt, giúp đất được thông thoáng.
– Cung cấp các dưỡng chất qua lá (phân bón lá Yogen; phân bón lá Đầu trâu) … để tăng cường khả năng hồi phục của cây.
Riêng đối với cây nhãn sắp cho thu hoạch không nên bón phân, việc chăm sóc sẽ thực hiện ngay sau khi thu hoạch quả để giúp cây nhanh phục hồi; với những cây thu hoạch muộn có thể bón phân với liều lượng: 0,1 – 0,2kg ure + 0,1 – 0,2kg Kaliclorua/cây (tuỳ loại và tuổi cây) để kích thích cây hồi phục mọc rễ mới, việc này thực hiện khi đất xe mặt.
Với cây có múi khi đất se mặt, bón phân với liều lượng: 0,1- 0,2kg ure + 0,1 – 0,2kg Kaliclorua/cây (tuỳ loại và tuổi cây) để kích thích cây hồi phục mọc rễ mới; Phun phòng bệnh loét bằng thuốc Boocđo 1 – 2%, bệnh chảy gôm bằng thuốc Ridomil MZ 72, liều lượng phun theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Dự đoán sâu bệnh tổng hợp trong tuần (06.11.2017)

Ở các tỉnh thành phía Nam, dự kiến tuần tới sẽ có đợt rầy cám nở rộ, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, có thể hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

1. Trên lúa

1.1. Các tỉnh phía Bắc: 

Rầy, chuột, nhện gié, bệnh khô vằn, bạc lá, đốm sọc vi khuẩn, bệnh đen lép hạt… hại nhẹ trên lúa mùa muộn tại Nghệ An, Hà Tĩnh.

1.2. Các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: 

– Bệnh đạo ôn lá, cổ bông, khô vằn, rầy… hại lúa mùa, lúa gieo giai đoạn đòng trỗ – chín. Sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân… hại lúa mùa, lúa gieo giai đoạn đòng trỗ. Sâu keo, bọ trĩ… hại chủ yếu lúa lỡ vụ giai đoạn mạ – đẻ nhánh.

– Chuột gây hại cục bộ trên lúa mùa, lúa gieo, lúa lỡ vụ.

– Ốc bươu vàng di chuyển và lây lan theo nguồn nước.

1.3. Các tỉnh phía Nam: 

– Dự kiến tuần tới sẽ có đợt rầy cám nở rộ, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, có thể hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

– Bệnh đạo ôn lá, bạc lá, đạo ôn cổ bông phát triển thuận lợi trên lúa giai đoạn đẻ nhánh đến làm đòng và trên lúa giai đoạn trỗ do ảnh hưởng của mưa bão phân bố diện rộng, sáng sớm có sương mù nhẹ.

2. Trên cây trồng khác

– Trên ngô và cây rau màu: Các đối tượng gây hại tiếp tục hại nhẹ – trung bình.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng rễ giảm; bệnh chết nhanh, chết chậm… gây hại tăng nhẹ.

– Cây cà phê: rệp vảy xanh, rệp sáp, bệnh đốm mắt cua… gây hại nhẹ.

– Cây có múi: Bệnh Greening, sâu đục quả, sâu vẽ bùa… tiếp tục phát sinh gây hại.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu tăng nhẹ.

– Cây điều: Bọ xít muỗi tiếp tục phát sinh gây hại tăng và bệnh thán thư hại giảm.

– Cây mía: Bệnh chồi cỏ, bệnh trắng lá… gây hại cục bộ mía ở vùng ổ dịch.

– Cây sắn: Nhện đỏ, bệnh chổi rồng, bệnh khảm lá sắn… tiếp tục gây hại.

Nguồn: Cục Bảo vệ thực vật được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.