Đây là giống lúa độc nhất vô nhị tại Việt Nam do ông Lê Văn Chính, giám đốc HTX lúa giống 9 Táo LK (xã Song Lộc, H.Châu Thành, T.Trà Vinh) sưu tầm và lai tạo thành công.
Theo như chủ nhân của giống lúa này chia sẻ thì khả năng chịu mặn trên môi trường thử nghiệm, độ mặn 5‰, cây lúa vẫn phát triển bình thường, cho năng suất khá. Còn trong điều kiện nước ngọt, lúa cho năng suất tốt dao động từ 7-9 tấn/ha, tùy vụ.
Ông Chính cho biết đã sưu tầm và thử nghiệm từ hơn ba năm nay, chọn được 3 dòng có năng suất khá cao và phẩm chất tốt để làm giống nhân rộng.Ông đã đặt tên cho các giống lúa này là Táo Tím 19, 29, 39. Ba dòng Táo Tím đều có những ưu điểm vượt trội, như Táo Tím 19 có hạt dài hơn giống lúa RVT, sinh trưởng từ 85-89 ngày. Táo Tím 29, hạt dài hơn giống Jasmine thời gian sinh trưởng từ 89-95 ngày. Táo Tím 39 hạt dài như VD 20, thời gian sinh trưởng từ 97-99 ngày. Tất cả ba dòng lúa đều thơm nhẹ và dẻo.
Như giống lúa Táo Tím 39 là giống lúa được ông Chính lai từ tổ hợp VD20, TV39 và tím Ấn Độ cho cây con có đặc tính thơm nhẹ, dẻo và năng suất kháng rầy nâu, đạo ôn, chịu mặn tốt lên đến 5‰. Mới vừa thu hoạch xong gần 10 công lúa Táo 39, ông Chính cho biết, năng suất được bình quân được 875/kg/công.
Còn 1 tuần nữa thu hoạch 5 công lúa Táo Tím 19, ông Lê Đức Tuấn ở ấp Hòa Hảo xã Phước Hảo, phấn khởi nói: “Tôi thấy lúa này sạ được đó, nhẹ phân hơn RVT. Lúa thơm thì có rầy, nhưng cũng bình thường như các giống khác. Dàn lúa tôi vụ này chắc cũng cỡ 700-800 kg/công à. Vậy là ngon rồi vì được cái nhẹ phân”.
Còn chị Trần Thị Thiết ở ấp 2 xã Ba Sao H. Cao Lãnh, T. Đồng Tháp cho biết: “Tôi đang sạ giống Táo Tím 39, nay được 47 ngày rồi. Thấy phân thì bình thường. Từ hồi sạ tới giờ không thấy bệnh đốm lá, đạo ôn gì hết, lá to như lá sả vậy đó. Dàn lúa rất cứng cáp tôi thấy rất yên tâm”.
Được biết, hồi tháng 6/2018, giống lúa Táo Tím 19, 29, 39 đã được Cục Trồng Trồng Trọt chấp nhận đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng mới của ông Chính. Mới đây nhân chuyến công tác sơ kết Vụ ĐX và triển khai kế hoạch xuống giống vụ HT, ông Nguyễn Như Cường, Quyền cục trưởng Cục Trồng Trọt đã đến thăm giống lúa này tại HTX lúa giống 9 Táo LK. Ông Cường cho biết, giống lúa này có năng suất và phẩm chất gạo khá tốt, chống chịu mặn, sâu bệnh khá. Cục Trồng Trọt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để HTX lúa giống 9 Táo nói chung và các HTX lúa giống nói riêng có điều kiện phát triển các giống lúa chất lượng cao, thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay.
Huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển của cây lạc.
Cây lạc đã được người dân nơi đây trồng từ nhiều năm nay, tuy nhiên đa số diện tích lạc được trồng thường theo kiểu rạch hàng, gieo hạt… nên năng suất chưa cao.
Vụ Đông 2018, huyện Chiêm Hóa đã triển khai mô hình trồng lạc che phủ nilon, nhằm từng bước thay đổi tập quán canh tác cũ bằng biện pháp canh tác tiên tiến, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho nông dân.
Mô hình trồng lạc theo phương pháp tiên tiến bằng giống L14 nguyên chủng với diện tích trên 53 ha tại 4 xã: Tân Mỹ, Phúc Sơn, Minh Quang và Yên Nguyên. Các hộ thực hiện được hỗ trợ tiền mua nilon và một phần tiền giống, thuê máy làm đất và được cán bộ kỹ thuật trực tiếp theo dõi, hướng dẫn.
Kết quả cho thấy, việc che phủ nilon cho lạc làm tăng nhiệt độ đất, giúp cây phát triển nhanh ở giai đoạn mọc mầm; giữ ẩm đất, tạo điều kiện cho cây phát triển thuận lợi ở các giai đoạn sau; hạn chế cỏ dại, sự rửa trôi chất dinh dưỡng nên năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn.
Ông Quan Vân Trường, thôn Bản Chỏn, xã Phúc Sơn là một trong những hộ được chọn thực hiện mô hình cho biết, vụ Đông 2018, gia đình ông thực hiện che phủ nilon cho 2.300 m2 đất trồng lạc. Qua thực hiện cho thấy so với trồng lạc theo phương pháp thông thường thì trồng lạc che phủ nilon có ưu thế vượt trội như tỷ lệ mọc cao, giảm được công làm cỏ, chăm sóc, cây phát triển tốt, củ lạc chắc, không bị thối… năng suất cũng cao hơn từ 20 – 30% so với trồng lạc theo cách truyền thống trước đây.
Chị Quan Thị Hằng – cán bộ Trạm Khuyến nông huyện cho biết, qua theo dõi quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lạc tại các hộ dân tại xã Phúc Sơn cho thấy, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của diện tích lạc che phủ nilon ngắn hơn so với không che phủ nilon từ thời gian mọc, giai đoạn cây con, thời kỳ ra hoa… Theo đó, cũng hạn chế được những rủi ro như sâu bệnh nhiều, thối rễ, chết cây do mưa, còn nắng thì làm cây héo rũ, kém phát triển.
Theo tính toán của các hộ tham gia mô hình, vụ lạc này cho năng suất 4 tấn củ tươi/ha. Với giá thu mua của Hợp tác xã Phúc Sơn là 12.000 đồng/kg củ tươi, sau khi trừ chi phí, người trồng lạc lãi trên 30 triệu đồng/ha.
Ngay sau khi thu hoạch, huyện tiếp tục hỗ trợ nilon để bà con nông dân mở rộng diện tích trồng lạc che phủ ni lon nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng giá trị trên một đơn vị đất canh tác, tăng thêm thu nhập.
Cà là cây truyền thống của nhiều địa phương đã được nông dân thâm canh nhiều trở lại bởi nó là cây dễ trồng, cho hiệu quả kinh tế khá cao trong những năm gần đây.
Song nhiều vùng trồng cà nông dân vẫn chưa biết cách giữ cho bền cây, sai quả vì bị nhiều sâu bệnh gây hại, nhất là bệnh chết rũ ở các vùng chuyên canh. Hiện đang là thời vụ chính trồng cà. Xin chia sẻ một số kinh nghiệm đúc rút được khi thâm canh cây trồng này như sau:
1. Thời vụ trồng:
Cà (cà pháo, cà bát, cà dài) là cây ưa ánh sáng mạnh nên có thể trồng được quanh năm (trồng từ tháng 7 đến tháng 4 năm sau tùy theo các loại).
2. Giống:
Người trồng có thể sử dụng các giống cà địa phương có năng suất cao, kháng bệnh tốt để trồng. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể lựa chọn cà bát, cà pháo hay cà quả dài. Ngoài ra, có thể mua giống cà Thái từ các công ty cung ứng giống sẽ cho năng suất cao, giống sạch bệnh.
3. Đất trồng:
Cà có bộ rễ khỏe, ăn sâu, tán rộng, lá nhiều nên cần đất có tầng canh tác dày, giàu dinh dưỡng, dễ thoát nước… Tốt nhất nên chọn đất thịt nhẹ hoặc pha cát để trồng cà. Đất trồng được cày lật, phơi ải và được xử lý nấm bệnh và tuyến trùng trước khi trồng là tốt nhất.
4. Gieo ươm cây con và trồng:
Hạt giống sau cất trữ hoặc khi mua về cần được ngâm nước ấm 540C trong 30 phút, tiếp tục ngâm nước sạch 1 ngày đêm để hạt hút no nước rồi mới đem gieo (vì hạt cà có vỏ dày). Tốt nhất nên làm vườn ươm có bón lót phân chuồng mục và NPK để gieo cây cà giống rồi mới nhổ cây con trồng ra ruộng sản xuất. Lượng hạt gieo 2 – 3g/m2 (150-180g/sào BB).
Khi cây có 1-2 lá thật thì tỉa bỏ cây xấu, giữ lại khoảng cách 2 – 3cm/cây. Cây cao 5 – 6cm tỉa lần hai giữ lại khoảng cách 5 – 6cm/cây. Sau mỗi lần tỉa cần xử lý nấm bệnh gây chết thắt thân hoặc thối rễ cây con, sau 2 ngày nữa thì tưới thúc phân hữu cơ pha loãng hoặc NPK (13-13-13+TE) với lượng 50-100g/thùng 20lít. Khi cây giống được 20-30 ngày tuổi thì nhổ đem trồng.
Cần huấn luyện cây con trước nhổ bằng cách ngừng tưới nước trước đó 4-5 ngày rồi tưới đẫm và nhổ cây. Để cây không bị nấm bệnh xâm hại rễ trước trồng nên nhúng rễ các cây con vào dung dịch thuốc trừ nấm đã pha. Lượng còn lại dùng để xử lý đất trồng.
Đất trồng cà cần được cày sâu, bừa kĩ, lên luống cao 25-30cm, rộng 1,4-1,5m. Luống được bố trí trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Tùy theo các loại cà khác nhau mà bố trí mật độ sao cho phù hợp (50x 60cm hay 60x 80cm).
5. Chăm sóc, bón phân:
Cà có bộ rễ ăn sâu và rộng lại cho thu quả kéo dài vì cà ra hoa đậu quả quanh năm nên việc chăm sóc sao cho cây đạt tiêu chuẩn khỏe mạnh là khâu then chốt để nâng cao hiệu quả khi trồng. Người trồng cà muốn có năng suất cao cần phải giữ cho cây vừa bền lại sai quả. Đồng nghĩa rằng chế độ dinh dưỡng cần phải được cân đối và hệ vi sinh vật trong đất trồng cà cần được cân bằng. Cho nên, trước khi trồng cà nông dân cần ưu tiên sử dụng các chế phẩm phân bón vi sinh hay các chế phẩm nấm đối kháng, cộng sinh để bổ sung vào luống đất trồng trong các giai đoạn (lót, thúc định kì). Tuyệt đối không nên lạm dụng phân bón, thuốc BVTV hóa học sẽ làm cây nhanh bị tàn lụi.
Lượng phân lót cho 1 sào Bắc Bộ (360m2) là 0,8 – 1 tấn phân chuồng hoặc 80 -100 kg phân hữu cơ vi sinh + 18 – 20kg NPK (16-16-8+TE.
* Lưu ý: Phân chuồng nếu có cần được trộn cùng chế phẩm nấm đối kháng hay nấm cộng sinh theo liều lượng khuyến cáo để bộ rễ cà được phát triển rộng dài và vi sinh vật có hại ít xâm nhập gây hại. Giữa các lần bón thúc phân nuôi cây và quả sau này cũng cần bổ sung một trong hai chế phẩm này vào vùng rễ cà để giữ cho cây khỏe.
* Bón thúc:
– Sau trồng 12-15 ngày, xới nhẹ mặt luống lần đầu, bón thúc 8-10kg NPK 13-13-13+TE/sào Bắc Bộ.
– Lần 2 vun xới cách lần 1 từ 15- 20 ngày kết hợp với bón phân NPK với loại và liều lượng như lần 1.
– Từ khi cây thu lứa quả đầu đến cuối vụ. Thời kì này cần bón phân định kì nhiều lần để giữ cho cây ra hoa, nuôi quả liên tục đảm bảo năng suất cà quả. Nên ưu tiên loại phân NPK 12-3-10 hoặc 12-5-10 hay 16-16-8, 13-13-13+TE với liều lượng khuyến cáo trên bao bì để thúc nuôi quả và cây.
* Tưới nước: Cà là cây có tán rộng, cành lá rậm rạp lại liên tục ra hoa đậu quả nên cần được dưỡng ẩm thường xuyên. Độ ẩm đất không đủ sẽ làm cây ít hoa dễ bị rụng hoa, quả… Người trồng không nên để cà quá hạn rồi mới tưới nước sẽ làm cho rễ bị đứt vi sinh vật gây bệnh xâm nhập làm thối hỏng. Cần vun gốc để thúc rễ phát triển và giữ ẩm cho gốc cà, chống đổ ngã cho cây bằng cách dùng cọc chống.
* Tỉa cành, lá: Cà có 7- 9 lá bắt đầu ra quả khi đó những nhánh dưới chùm hoa thứ nhất cần vặt bỏ. Ngoài ra khi cây phát tán ra hoa đậu quả cũng cần vặt bỏ bớt các lá già, lá mọc chen chúc trong tán. Việc làm này sẽ hạn chế cho cây bị rệp hại và bệnh hại thân lá. Tùy theo loại cà được trồng mà nông dân có thể để từ 2- 3 cành/cây.
* Phòng trừ sâu bệnh: Cà trồng ở vụ chính thường hay bị rệp, sâu đục quả, đục ngọn, bệnh lở cổ rễ, sương mai, héo xanh, héo vàng gây hại. Cần áp dụng phương pháp phòng trừ tổng hợp, ưu tiên các loại thuốc trừ sâu bệnh sinh học để phòng trừ nhất là khi cây đang ra hoa, thu quả để đảm bảo an toàn cho sản phẩm.
Ở Việt Nam, khoai tây là một trong những cây thực phẩm quan trọng và đặc biệt là một cây hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao. Chỉ trong vòng 90 ngày, từ khi trồng đến khi thu hoạch, cây khoai tây cho giá trị thu nhập cao gấp từ 2 đến 3 lần giá trị thu nhập so với cây lúa. Khoai tây được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, Vùng Bắc Trung bộ, Tây Nguyên.
1. Chọn đất, chuẩn bị đất và giống
a) Chọn đất
Cây khoai tây thích hợp với chân đất tơi xốp, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa ven sông với thành phần cơ giới nhẹ thoát nước và giữ ẩm tốt, quy hoạch tập trung, gọn vùng, chủ động tưới tiêu, tốt nhất là ruộng luân canh với lúa nước.
b) Làm đất
Vơ sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng vụ trước. Nếu đất còn ướt áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu. Nếu đất khô tiến hành cày bừa và lên luống. Đất sau khi gặt lúa xong, cắt rạ sát gốc, tiến hành cày rãnh để thoát nước và chia luống.
Luống đơn trồng bằng 1 hàng, luống rộng 60 – 70 cm, cao 20 – 25 cm.
Luống đôi trồng 2 hàng, luống rộng 120 – 140 cm, rãnh rộng: 30 – 40 cm, sâu 15 – 20 cm.
Việc làm rãnh nhằm mục đích thoát nước, tránh không để úng nước ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây khoai tây.
c) Chuẩn bị giống
Giống khoai tây có thể để nguyên cả củ trồng nếu là loại củ giống nhỏ. Nếu củ giống to (khối lượng≥ 50 g/củ) nên cắt củ giống trước khi trồng. Ngoài biện pháp cắt củ giống, xử lý bằng cách nhúng vào bột xi-măng, tro bếp, có thể áp dụng biện pháp cắt dính. Phương pháp này bao gồm các bước sau đây:
Chuẩn bị củ giống:
– Củ giống được đem cắt phải có độ trẻ về sinh lý. Tốt nhất là dùng củ giống từ nguồn nhập khẩu hoặc củ giống được bảo quản trong kho lạnh.
– Củ giống khi cắt phải hết thời gian ngủ nghỉ (đã phát mầm).
Chuẩn bị vật liệu và xử lý dao cắt:
– Vật liệu xử lý: Khi áp dụng cắt củ giống thì việc xử lý dao cắt phải rất chú ý; có thể xử lý dao bằng cồn công nghiệp, lửa đèn cồn hay lửa ngọn nến hoặc nước đun sôi bằng bình siêu tốc.
– Dao cắt: Phải sắc và mỏng, không được dùng dao có bản dày, để tránh làm dập nát tế bào ở chỗ cắt.
-Sau mỗi lần cắt nhất thiết phải xử lý lại dao cắt để tránh lây lan bệnh từ củ bị bệnh sang củ sạch bệnh.
Phương pháp và tiêu chuẩn miếng cắt:
-Cắt dọc củ theo chiều của mầm đỉnh với tiết diện miếng cắt phải là nhỏ nhất, để tránh gây thương tổn không cần thiết.
– Cắt củ giống phải tuân thủ tuyệt đối theo phương pháp cắt dính, nghĩa là miếng cắt không rời hẳn ra mà còn dính lại khoảng 2 – 3 mm.
– Cắt củ xong, phải úp ngay hai miếng cắt còn dính lại với nhau (như trước khi cắt) rồi xếp vào khay đựng hoặc rổ, rá và không được cho vào bao tải ẩm ướt.
– Không cần xử lý củ giống sau cắt với bất kỳ loại hoá chất nào.
– Để đảm bảo năng suất khoai tây, mỗi miếng cắt phải có ít nhất 2 mầm trở lên.
– Mỗi củ giống chỉ nên cắt đôi, không nên cắt làm 3 hay 4.
Phương pháp và thời gian bảo quản củ giống sau cắt:
– Sau khi cắt, củ giống phải được bảo quản trong điều kiện 18 – 20 độC, thoáng khí.
– Thời gian để miếng cắt lành lại vết thương mất khoảng 7 – 10 ngày. Trước khi trồng 1 – 2 ngày nên tách hẳn miếng cắt ra làm đôi để’ miếng cắt lành hoàn toàn.
2. Thời vụ trồng
a) Vùng Đồng bằng Bắc bộ: Có 3 vụ:
– Vụ Đông Xuân sớm: Trồng đầu tháng 10, thu hoạch vào tháng 12.
– Vụ chính: Trồng từ 15/10 – 15/11, thu hoạch vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm sau.
– Vụ Xuân: Trồng tháng 12, thu hoạch vào đầu tháng 3 năm sau.
b) Vùng miền núi phía Bắc
– Vùng núi thấp <1000 m: Vụ Đông trồng tháng 10, thu hoạch tháng 1 năm sau. Vụ Xuân trồng tháng 12, thu hoạch cuối tháng 3.
– Vùng núi cao >1000 m: Vụ Thu Đông trồng đầu tháng 10, thu hoạch tháng 1. Vụ Xuân trồng tháng 2, thu hoạch tháng 5.
c) Vùng Bắc Trung bộ
Chỉ trồng vụ Đông: Trồng đầu tháng 11, thu hoạch cuối tháng 1.
d) Vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng)
Vùng chuyên canh sản xuất khoai tây tại Tây Nguyên chủ yếu là ở tỉnh Lâm Đồng. Lâm Đồng có thể sản xuất khoai tây quanh năm nhưng mùa vụ thuận lợi nhất vẫn là vụ Đông xuân và vụ Xuân, kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
3. Mật độ, khoảng cách
– Lượng giống: Trung bình 830 – 1.100 củ/ha. Có thể trồng với lượng củ cao hơn tùy thuộc vào tập quán từng vùng và loại củ giống.
– Mật độ: Với củ nhỏ: Cứ 1 m2 trồng 10 củ, cách nhau 17 – 20 cm. Với củ bình thường: 1 m2 trồng 5 – 6 củ, cách nhau 25 – 30 cm.
4. Cách trồng
a) Cách trồng khoai tây nguyên củ
Bón lót phân chuồng hoặc rải một lớp rơm rạ đã ủ hoai mục, đạm và lân xuống đáy rồi lấp 1 lớp đất mỏng lên phân. Đặt củ giống so le nhau, nằm ngang và mầm khoai hướng lên trên. Chú ý không để củ giống tiếp xúc với phân, nhất là phân hóa học. Phủ một lớp đất mỏng (3-5 cm) lên củ giống; sau đó dùng rơm rạ phủ lên mặt luống. Tưới nước ướt đều lên mặt luống làm ẩm rơm rạ và đất; nếu độ ẩm đất còn cao không cần tưới. Có thể dùng đất đè lên rơm rạ tránh rơm rạ bay nếu gió mạnh.
b) Cách trồng khoai tây bổ củ
Rạch hàng trên mặt luống, rải toàn bộ phân chuồng hoai mục và lân vào rạch trộn đều với đất trong rạch. Đặt củ giống hay miếng bổ vào rạch, chú ý tuyệt đối không để mặt cắt của miếng bổ tiếp xúc trực tiếp với phân, đặt mầm hướng lên trên, rồi phủ kín mầm bằng 1 lớp đất dày từ 3 – 4 cm, không được để hở mầm.
5. Bón phân
a) Lượng phân bón
– Lượng phân bón bình quân cho 1 ha: Phân chuồng loại mục: 15 – 20 tấn; Đạm urê: 250 – 300 kg; Lân supe: 350 – 400 kg; Kali clorua: 150 – 200 kg. Chú ý: tùy thuộc vào chất đất có thể điều chỉnh lượng phân bón cao lên hoặc thấp đi.
Nếu dùng phân NPK cần đọc kỹ hướng dẫn trên bao bì và quy đổi về dạng phân đơn để điều chỉnh lượng bón cho phù hợp và cân đối.
Nếu bón phân NEB 26 thì giảm đi 50% đạm (trộn 7 ml NEB 26 với 1 kg đạm để bón sẽ có tác dụng như 2 kg đạm). Không phun NEB26 lên lá và không trộn NEB26 với phân khác ngoài đạm.
b) Cách bón
– Bón lót: Rải toàn bộ phân chuồng và lân + 1/3 đạm + 2/3 kali lên trên mặt luống giữa hai hàng khoai.
– Bón thúc lần 1: Sau khi cây mọc cao 15 – 20 cm: 1/3 đạm, 1/3 kali. Bón vào mép luống hoặc giữa 2 khóm khoai, không bón trực tiếp vào gốc cây vì dễ làm cây chết.
– Bón thúc lần 2: Sau thúc lần 1: 15 – 20 ngày: 1/3 đạm, 1/2 kali.
Chú ý: Bón lót nhiều kali sẽ cho củ to, mẫu mã đẹp. Không bón phân chuồng tươi vì có nhiều vi khuẩn nấm bệnh làm cho mã củ không đẹp và khoai dễ bị thối. Chỉ dùng phân chuồng hoai mục.
6. Chăm sóc
a) Phủ luống
Sau trồng có thể phủ luống khoai tây bằng chất liệu hữu cơ như: rơm, rạ hoặc mùn mục để tạo độ tơi xốp cho đất, giúp cho việc trao đổi chất.
b) Xới xáo, làm cỏ, vun gốc
– Khi cây mọc lên khỏi mặt đất 7 – 10 ngày, cao khoảng 15 – 20 cm tiến hành chăm sóc lần 1 bằng cách xới nhẹ, làm sạch cỏ, bón thúc đợt 1 rồi vun luống, kết hợp tỉa cây để lại 2 – 3 mầm chính.
Cách lần 1 từ 15 – 20 ngày khi đã qua tưới nước lần 2 thì tiến hành xới nhẹ, làm cỏ và vun luống lần cuối, lấy đất ở rãnh vun cho luống to và cao, dày cố định luôn, vun luống không đủ đất sẽ làm vỏ củ bị xanh hoặc mọc thành cây. Vét đất ở rãnh để khi ruộng bị nước sẽ nhanh khô.
c) Tưới nước
Thường xuyên giữ đất đủ ẩm, dùng nguồn nước sạch để tưới. Trong 60 – 70 ngày đầu khoai rất cần nước, nếu thiếu nước hoặc nước trong ruộng không đồng đều lúc khô, lúc ẩm làm củ bị nứt, chất lượng củ và năng suất giảm.
Có hai phương pháp tưới cho khoai tây:
– Tưới gánh: Không tưới nước trực tiếp vào gốc khoai mà tưới xung quanh gốc. Có thể kết hợp tưới với phân đạm và kali nhưng phải chú ý lượng phân hòa với nước, thùng 10 – 12 lít chỉ pha 1 nắm phân nhỏ là vừa. Không kết hợp tưới nước với phân chuồng vì có nhiều nấm gây thối củ.
– Tưới rãnh: Với ruộng phẳng, cho nước ngập 1/2 rãnh, khi nước ngấm đều thì tháo kiệt, tránh để nước đọng ở rãnh trong thời gian dài sẽ làm phát sinh và lây lan nguồn bệnh. Đặc biệt, kh iphát hiện trên ruộng có bệnh héo xanh vi khuẩn thì tuyệt đối không được tưới rãnh vì sẽ tạo điều kiện cho bệnh lây lan rộng. Từ khi trồng đến khi khoai 60 – 70 ngày thường có 3 lần tưới nước. Tưới phải kết hợp với xới xáo, làm cỏ, bón phân thúc.
• Tưới lần 1: Sau trồng khoảng 2 – 3 ngày, khi khoai mọc cao khoảng 20 – 25 cm, nếu đất khô có thể dẫn nước vào ruộng, mỗi lần chỉ cho vào 3 – 4 rãnh, khi đủ nước thì cho tiếp vào 3 – 4 rãnh khác, lấp đầy rãnh củ, tháo đầu rãnh mới để nước thêm đều vào luống. Đất cát pha cho ngập1/2 luống; đất thịt nhẹ cho ngập 1/3 luống, cho nước vào cùng một lúc nhiều rãnh hơn.
• Tưới lần 2: Khoảng 2 – 3 tuần sau lần 1, đất cát pha cho nước ngập 2/3 luống, đất thịt nhẹ cho ngập 1/2 luống làm như lần 1. Kết hợp bón thúc đợt 1 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.
• Tưới lần 3: Sau lần tưới 2 khoảng 15 – 20 ngày tiến hành tưới nước lần 3. Đợt tưới nước này cũng là kết thúc cho chu kỳ sản xuất khoai tây, kết hợp bón thúc đợt 2 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.
Chú ý: Trước khi thu hoạch khoảng 2 tuần cần ngừng tưới nước. Nếu trời mưa phải tháo nước kịp thời để đất khô ráo tuyệt đối.
7. Phòng trừ sâu bệnh hại chính
Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng và khuyến khích áp dụng các biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp (sử dụng giống kháng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, kỹ thuật làm đất, bón phân, luân xen canh cây trồng hợp lý, vệ sinh đồng ruộng…).
Chú ý các loại sâu chính hại khoai tây là sâu xám, nhện trắng, bọ trĩ, rệp, sâu hà khoai tây; các bệnh chính hại khoai tây như: bệnh vi rút xoăn lùn, bệnh vi rút khảm, bệnh vi rút cuốn lá (PLRV), bệnh héo xanh, bệnh mốc sương. Dùng các loại thuốc đặc hiệu để phòng trừ theo đúng hướng dẫn trên bao bì của mỗi thuốc. Chú ý cách sử dụng theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng lúc, đúng cách và đúng nồng độ, liều lượng).
8.Thu hoạch và bảo quản
a) Thu hoạch
– Trước khi thu hoạch cần loại bỏ cây bệnh, cắt bỏ thân lá để hạn chế bệnh hại truyền về củ giống. Thu hoạch khoai tây ở thời điểm phù hợp khi thấy lá vàng, cây rạc dần với thời tiết khô ráo. Khoai tây giống thu hoạch sớm hơn 5 – 7 ngày so với khoai thương phẩm.
– Khi thu hoạch, cần phân loại cỡ củ, củ to và nhỏ riêng rẽ, để nhẹ nhàng cho vào sọt ngay trên đồng ruộng để tránh sự sây sát.
b) Bảo quản
– Loại bỏ những củ bị dập, không nguyên vẹn. Bảo quản ở nơi khô, tối và thoáng khí.
– Khoai thương phẩm đóng gói trong bao bì, vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
Trên cây rau họ thập tự thường xuất hiện một số sâu bệnh hại: sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, sâu khoang, bọ nhảy, bệnh thối nhũn, bệnh đốm vòng, bệnh thối hạch… Để phòng trừ hiệu quả, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp, theo dõi phát hiện sớm và xử lý kịp thời.
1. Biện pháp canh tác:
– Vệ sinh đồng ruộng: Thu gom và tiêu huỷ tàn dư cây trồng mang nguồn bệnh như các bệnh thối nhũn, thối hạch, sương mai,… hại rau họ thập tự, cỏ dại ký chủ sâu hại, hạn chế nguồn lây lan…
– Sử dụng giống khoẻ, sạch sâu bệnh, sử dụng giống chống chịu:
+ Chỉ sử dụng giống khoẻ, hạt có tỷ lệ nảy mầm cao, sạch sâu bệnh.
+ Nên gieo giống trên giá thể khay bầu, đảm bảo chất lượng cây giống cho ruộng sản xuất.
– Chăm sóc:
+ Phân bón: Bón phân đúng kỹ thuật, bón vừa đủ và cân đối cho từng loại/ giống rau, từng loại đất, từng mùa vụ, đúng thời kỳ tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tôt, tăng sức đề kháng với sâu bệnh (1 ha bón khoảng 20-30 tấn phân chuồng hoai mục, 100-150 kgN, 30-50 kg P2O5, 40-60 Kg K2O, chú trọng phân hữu cơ khoáng, phân lân vi sinh…)
– Thời vụ: Lựa chọn loại rau/giống phù hợp với từng mùa vụ để cây sinh trưởng thuận lợi.
– Mật độ gieo trồng: Gieo trồng mật độ hợp lý, đảm bảo ánh sáng và không khí lưu thông tốt, hạn chế sâu bệnh phát sinh
– Xen canh: Xen canh với cây trồng khác họ, hạn chế nguồn ký chủ và xua đuổi sâu hại (cà chua xen rau thập tự để xua đuổi sâu tơ)
– Luân canh: với lúa nước, các cây khác họ không cùng ký chủ sâu, bệnh hại làm gián đoạn nguồn thức ăn của sâu bệnh hại
– Bẫy cây trồng: Trồng xen cây khác không thu hoạch trên diện nhỏ để thu hút sâu hại và phun trừ chúng (cây hướng dương hấp dẫn sâu khoang).
2. Biện pháp thủ công:
Sử dụng bẫy đèn, bẫy dính màu vàng, màu xanh bắt và tiêu diệt rệp có cánh, ruồi đục lá, bọ nhảy; ngắt ổ trứng sâu, bắt giết sâu non, tiêu huỷ cây bị sâu bệnh, xử lý nhiệt hạt giống,…
3. Biện pháp sinh học: Khai thác và sử dụng những sinh vật có lợi (thiên địch, kẻ thù của sâu hại), các sản phẩm sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại cây.
– Bảo vệ thiên địch: Các loài bọ rùa ăn rệp, ăn sâu hại; Các loài ong ký sinh trứng, sâu non, nhộng của sâu hại; Các loài kiến, bọ cánh cứng, nhện,… ăn sâu hại
– Sử dụng bẫy Pheromone giới tính: Thu hút sâu hại trưởng thành vào bẫy rồi tiêu diệt (trưởng thành sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ,…)
– Sử dụng thuốc sinh học và thuốc thảo mộc:
+ Các chế phẩm sinh học Bacillus thuringiensis phòng trừ sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, nấm ký sinh côn trùng Beauveria, Metarhizium,…
+ Thuốc thảo mộc Azadirachtin, Rotenone,… được dùng phòng trừ, xua đuổi và gây ngán nhiều sâu hại trên rau.
+ Nấm đối kháng Trichoderma hạn chế một số loại nấm bệnh.
4. Biện pháp hoá học: Sử dụng các chất hoá học để phòng trừ sâu bệnh hại cây, chỉ nên sử dụng những loại thuốc sau trong trường hợp cần thiết.
– Các loại thuốc chọn lọc, ít độc hại cho con người và môi trường
– Các loại thuốc nhanh phân hủy
– Các loại thuốc nhóm độc thấp (nhóm 3, 4)
– Áp dụng biện pháp xử lý hạt giống và cây con. Sử dụng thuốc phải theo nguyên tắc 4 đúng:
1. Đúng lúc: Phun lúc sâu non tuổi nhỏ, vết bệnh mới xuất hiện. Giai đoạn sinh trưởng của cây. Phun sáng sớm hoặc chiều mát, không mưa,…
2. Đúng thuốc: Cho từng đối tượng dịch hại, luân phiên các loại thuốc,…
3. Đúng cách: Thực hiện thao tác pha-phun đúng hướng dẫn của từng loại thuốc,…
4. Đúng liều lượng, nồng độ: Theo đúng hướng dẫn của từng loại thuốc (về lượng dùng, lượng nước pha)
NHỮNG SÂU BỆNH HẠI CHÍNH TRÊN RAU HỌ THẬP TỰ
1. Sâu tơ (Plutella xylostella:) Là đối tượng gây hại nguy hiểm, có khả năng chống thuốc rất nhanh. Hại nặng từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
2. Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae): Phát sinh quanh năm nhưng hại nặng từ tháng 8-10 và từ tháng 2- 4. Vòng đời 20-30 ngày .
3. Sâu khoang (Spodoptera litura): Trưởng thành đẻ trứng thành ổ. Sâu non mới nở sống tập trung dưới mặt lá (rất dễ phát hiện), tuổi 3 trở đi sâu mới phát tán và ăn khuyết lá, lúc này sâu hay đục vào nõn.
* Phòng trừ các loại sâu ăn lá: Xử lý cây con, hạt giống trước khi trồng. Trên ruộng: ngắt ổ trứng, ổ sâu non mới nở, thu sâu to, nhộng, bẫy pheromone, sử dụng luân phiên các loại thuốc sinh học với các thuốc hoá học và các thuốc thảo mộc (Một số loại thuốc thông dụng: Delfin WG – 32 BIU; Elincol 12 ME; V-Bt; Proclaim; Xentari 35WDG; Pegasus 500SC; Amate 150EC; Mach 050EC; Vinaneem 2SL; Vertimex 1.8EC; Fortenone 5WP; Success 25EC, Enasin 32WP, Atabron 5 EC,…)
4. Rệp xám (Brevicoryne brassicae), Rệp đào (Myzus percicae): Rệp phát triển mạnh trong điều kiện khô hạn. Nếu không sớm phát hiện, rất khó trừ về sau.
5. Bọ nhảy sọc cong (Phyllotreta striolata): Sâu non hại rễ cây, trưởng thành ăn lá tạo thành những lỗ thủng. Chúng phát sinh quanh năm, trưởng thành sống từ 2-3 tháng hoặc lâu hơn, đẻ trứng lai rai nên không thành lứa rõ rệt, nhiệt độ thích hợp 25-300C.
* Phòng trừ rệp, bọ nhảy: Cần theo dõi phát hiện sớm, xử lý các cây giống trước khi trồng. Đặt bẫy dính, chọn một trong các loại thuốc: Chế phẩm nấm Beauveria, Metarhizium, Elincol 12 ME, Sokupi 0,36AS, Oshin 20WP, Elsin 10EC, Ecasi 20EC,…
6. Bệnh thối nhũn: Do Vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra. Bệnh thường xuất hiện khi cây đã lớn và lây nhiễm rất nhanh, gây thối nhũn, có mùi khó chịu. Bệnh thường hại nặng vào cuối vụ muộn, kể cả trong khi bảo quản bệnh cũng phát triển nhanh.
7. Bệnh đốm vòng: Do nấm Alternaria brassicae gây ra, phá hại trên cải bắp, su hào và gây hại nặng cả khi cây đã lớn. Vết bệnh hình tròn, nhiều vòng tròn đồng tâm, có khi liên kết với nhau , trên mặt có một lớp mốc khi độ ẩm cao
8. Bệnh thối hạch: Do nấm Sclerotinia sclerotiorum gây ra trên cải bắp. Cây con bị bệnh dễ thối nhũn gốc và đổ rạp. Cây lớn bị bệnh, bệnh lan từ thân lên bắp đang cuốn làm thối từ ngoài vào trong, cây có thể chết thối khô trên ruộng. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao.
* Phòng trừ bệnh: Xử lý hạt giống, cây con, dọn sạch tàn dư cây bệnh để tiêu hủy.
Các thuốc sử dụng trừ bệnh đốm vòng: Bellkute 40WP, Score 250EC, Daconil 75WP, Validacin 3L,…
Hiện nay, tình trạng thực phẩm bẩn do một số người chạy đua theo năng suất và lợi nhuận đã lạm dụng, sử dung không đúng cách thuốc BVTV gây tồn dư chất độc hóa học trên nông sản, đang xuất hiện tràn lan và đầy rẫy trên thị trường, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiêu dùng.. Vậy tại sao chúng ta không tự cứu lấy mình thoát khỏi vấn nạn này bằng cách trồng rau sạch tại nhà để sử dụng?
HƯỚNG DẪN TRỒNG RAU SẠCH
1.Chuẩn bị giống rau:
Bạn nên tìm đến những cửa hàng giống cây trồng uy tín nơi mình sinh sống, để tìm mua những giống rau năng suất cao chất lượng tốt.Tránh tình trạng mua phải những giống kém chất lượng, ảnh hưởng đến sự phát triển cây rau, gây giảm năng suất và chất lượng của vườn rau.
Cây rau ngót (Sauropus androgynus (L) Merr.) là cây trồng không kén đất, có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên để cây cho năng suất cao, cần chú ý những biện pháp kỹ thuật sau:
1. Chuẩn bị đất trồng:
– Rau ngót có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, nhưng muốn có năng suất cao, cần chọn đất thịt nhẹ, thịt trung bình, đất cát pha, không bị úng ngập nhưng không quá khô, độ pH từ 5,5- 7,0, vùng đất chủ động nước tưới. Tốt nhất là nên chọn loại đất thịt pha đất sét vừa dễ canh tác mà lại giữ ẩm tốt.
– Cày xới đất tơi xốp và bón lót phân hữu cơ hoai mục kết hợp hỗn hợp phân đạm, lân, kali để giúp cây phát triển ngay giai đoạn đầu sau khi bén rễ.
2. Chuẩn bị giống:
2.1. Giống
Có 2 loại:
– Rau ngót lá to: Sinh trưởng khỏe, thân lá màu xanh đậm, phiến lá to và mỏng, phẩm chất ngon.
– Rau ngót lá nhỏ: Thân, lá có màu xanh nhạt, phiến lá nhỏ và dày, đường gân giữa cuống lá có màu xanh nhạt, ít bị sâu bệnh hại.
2.2. Phương pháp nhân giống:
– Nhân giống hữu tính (từ hạt): Tỷ lệ nảy mầm của hạt thường rất thấp và thời gian bắt đầu cho thu hoạch lâu.
– Nhân giống vô tính (giâm cành): Hiện đa số nông dân áp dụng phương pháp này. Để nhân giống đạt nên chú ý những vấn đề sau:
+ Chọn cành khỏe không bị sâu bệnh hại, cành không già, không non (cành vừa hóa nâu) để làm cành giống.
+ Dùng tro trấu hoặc trấu đã được ủ hoai để làm giá thể giâm cành. Liếp giâm tùy theo kích thước vườn, thường liếp giâm có chiều rộng 1-1,2m, chiều cao mặt liếp khoảng 10cm.
+ Cắt xéo từng đoạn cành dài 20 – 25 cm đem giâm, cành đặt nghiêng so với mặt liếp khoảng 450, vùi đất sâu 2/3 đoạn cành rồi lấp đất kỹ để cây nảy nhiều chồi. Để cành mau ra rễ, trước khi giâm ta nhúng cành vào dung dịch NAA (Naphthaleneacetic acid).
3. Thời vụ:
– Rau ngót có thể trồng quanh năm, tốt nhất là vào mùa mưa. Thời vụ trồng tốt nhất là vụ Xuân khoảng từ tháng 2 – 4 và vụ Thu từ tháng 8 – 9.
– Rau ngót được trồng bằng phương pháp nhân vô tính, trồng một lần và thu hoạch 2-3 năm.
4. Mật độ, khoảng cách:
– Chia luống 1,3- 1,5m, mặt luống rộng 1,0- 1,2m, rãnh 0,3 m; trồng với khoảng cách cây cách cây 25- 30cm, hàng cách hàng 50- 60 cm, mỗi hố có thể trồng 2 cây.
– Chuẩn bị giống từ 9,5- 10 vạn hom/ha, cũng có thể tách thân từ cây gốc của năm trước để nhân thẳng ra ruộng.
5. Phân bón:
– Lượng phân bón tính cho 1.000 m2 (tùy theo nền đất có thể tăng hoặc giảm lượng phân vô cơ) như sau:
+ Phân chuồng hoai mục: 1,5 – 2 tấn (đã trộn ủ với 1-1,5 kg chế phẩm nấm Trichoderma)
+ Phân vô cơ: Urê 20- 24 kg + Super lân 40- 50 kg + Kali clorua 6- 8 kg.
– Cách bón:
Bón lót (kết hợp khi làm đất): Toàn bộ lượng phân hữu cơ hoai mục và Super lân + 3- 4 kg Kali clorua.
Bón thúc chia làm 2 lần bón:
+ Lần 1: Sau trồng 15- 20 ngày, sử dụng phân Urê 7- 8 kg. Trong thời gian này, người trồng có thể kết hợp sử dụng thêm phân bón lá NPK 30-10-10 để bổ sung vi lượng cho cây.
+ Lần 2: Sau lần 1 từ 10- 15 ngày với liều lượng còn lại. Có thể bón theo hàng hoặc bón theo hốc, bón cách gốc 15- 20cm, kết hợp làm cỏ, vun gốc cho cây.
Lưu ý: Do cây rau ngót thu hoạch liên tục kéo dài 2- 3 năm, do vậy sau mỗi đợt thu hoạch, cần bón bổ sung từ 0,5- 0,7 tấn phân chuồng hoai mục vào gốc, kết hợp tưới NPK để bổ sung dinh dưỡng cho cây.
Bên cạnh việc sử dụng các loại phân hữu cơ và phân hóa học thì người nông dân còn sử dụng kết hợp thêm các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thuộc nhóm auxin và gibberellin (GA3). Xử lý GA3 có tác dụng kích thích gia tăng chiều cao chồi rau ngót nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng diệp lục tố (chlorophyll) và trọng lượng tươi rau ngót giai đoạn thu hoạch. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng GA3 với nồng độ từ 10- 80 ppm phun trên rau ngót, thời gian cách ly (PHI) 7 ngày, không để lại dư lượng GA3 trên rau khi thu hoạch.
– Nguồn nước tưới: Sử dụng nguồn nước sạch để tưới (nước sông hoặc nước giếng khoan). Tuyệt đối không được sử dụng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước bị ô nhiễm, nước thải từ bệnh viện. Luôn giữ độ ẩm đất 80-85%.
– Thường xuyên vệ sinh vườn và làm cỏ. Khi bón phân kết hợp vun gốc và tưới giữ ẩm cho vườn cây thường xuyên.
– Khi thu hoạch cần kết hợp cắt cành tỉa tán, tạo cho cây có bộ khung cân đối, giúp vườn rau thông thoáng và hạn chế sâu bệnh hại.
– Vào tháng 11-12 hàng năm, khi thấy cây đã cao (20- 25 cm), lá hơi vàng và ít lá (thời kỳ cây ngừng sinh trưởng) ta nên thực hiện biện pháp sau:
+ Trẻ hóa cây: Nhằm giúp cây đâm nhiều chồi, tăng năng suất bằng cách đốn cây. Dùng dao hay kéo cắt sát gốc cách mặt đất 15cm, các lần cắt sau cách vết cắt cũ 7-10 cm, tỉa thưa bớt các cành già.
+ Xới rãnh sâu 10- 15cm giữa 2 hàng, bón bổ sung lượng phân như sau (tính cho 1.000 m2): 0,7- 1 tấn phân chuồng hoai mục + 7- 8 kg Urê + 10- 15 kg Super lân + 5- 7 kg Kali clorua, trộn đều, lấp đất lại và tưới đủ ẩm để cây bung các đợt chồi mới, vườn rau được trẻ hoá, sung sức hơn.
7. Phòng trừ sâu bệnh:
7.1. Sâu hại chính
– Rầy xanh (Empoasca sp.): Gây hại nặng vào các tháng nắng nóng, khô hạn. Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC, Cyperan 25EC), Fipronil (Regent 800WG) hoặc chế phẩm nấm xanh,…
– Nhện đỏ (Tetranychus sp.): Sống tập trung dưới mặt lá, gây hại nặng trong điều kiện khô hạn. Cần phát hiện sớm để phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Propargite (Comite 73EC), Diafenthiuron (Pegasus 500SC), Fenpyroximate (Ortus 5SC).
– Bọ phấn (Bemisa myricae): Vừa gây hại, vừa là môi giới gây bệnh virut, cần phòng trừ triệt để bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC), Lambda -cyhalothrin (Karate 2,5EC),…
– Bọ trĩ (Thrip sp.): Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Emamectin benzoate (Dylan 2EC), Imidacloprid (Admire 50EC, Confidor 100SL), Cyfluthrin (Baythroid 50 SL).
7.2. Bệnh hại chính
– Bệnh phấn trắng (Erysiphe sp.): Gây hại nặng trong điều kiện khô hạn, nắng ấm. Phòng trừ khi bệnh mới xuất hiện bằng các thuốc có hoạt chất như: Metalaxyl + Mancozeb (Vinomyl 72BTN), Carbendazim (Vicarben 50HP), Hexaconazole (Anvil 5SC), Cyfluthrin (Bayfidan 25EC).
– Bệnh xoăn lá (virut): Cần diệt trừ môi giới truyền bệnh là bọ phấn; nên nhổ bỏ những cây bị bệnh ra khỏi vườn để tránh lây lan; nếu nặng thì phá bỏ trồng lại.
Lưu ý:
– Rau ngót có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, thường hay bị một số sâu hại chủ yếu như cuốn lá, sâu xanh, rầy rệp nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp với phương châm phòng là chính. Áp dụng đúng kỹ thuật canh tác để hạn chế phát sinh gây hại:
+ Chọn giống từ vườn sạch bệnh.
+ Thường xuyên vệ sinh vườn, cắt tỉa bỏ cành già, cành bị sâu bệnh hại đem tiêu hủy.
+ Sử dụng phân hữu cơ hoai mục kết hợp trộn ủ chế phẩm sinh học (nấm Trichoderma) diệt trừ nguồn bệnh và trứng sâu.
– Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:
+ Chúng ta nên thực hiện tốt quy tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); ưu tiên sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học.
+ Phải đảm bảo thời gian cách ly từ 7- 14 ngày trước thu hoạch.
8. Thu hoạch:
– 45- 60 ngày sau trồng có thể tiến hành thu hoạch đợt đầu tiên, các đợt tiếp theo cách nhau 25- 35 ngày.
– Thu hoạch rau ngót bằng cách lấy kéo hoặc dao cắt cành hoặc hái lá. Sản phẩm sau thu hoạch phải được đựng trong bao bì chuyên dụng.
Nguồn: khuyennongvn.gov.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.
Từ xưa đến nay người nông dân luôn được biết đến không chỉ ở sự cần cù chịu khó mà còn sức sáng tạo vô bờ bến của họ. Trong nông nghiệp nhiều mô hình kết hợp các loại cây với nhau mang lại hiệu quả kinh tế cao mà chính những kĩ sư nông nghiệp cũng không ngờ tới. Và mô hình trồng tiêu trên cây cừ tràm sống là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của người nông dân.
Cọc cừ tràm phù hợp với cây tiêu
Trước hết cây tiêu là một cây cho thu nhập khá cao, nếu được giá có thể nhanh chóng làm giàu. Chăm sóc cây tiêu không quá khó khăn nhưng cần phải có nọc tiêu để leo bám và phát triển. Và cừ tràm là sự lựa chọn hoàn hảo trên cũng đất nhiễm phèn, một sự kết hợp sáng tạo của những người nông dân sông nước miền tây. Nếu như sử dụng các loại cọc khác như gòn, dừa thì chỉ sau vài năm sẽ bị chết hoặc gãy đỗ. Nhưng cừ tràm thì hoàn toàn khác, đây là loại cây lâm nghiệp lâu năm, gỗ chắc bền đảm bảo thời gian cho cây tiêu phát triển đến lúc đạt năng suất cao nhất. Ngoài ra cừ tràm còn có nhiều lớp vỏ, giữ nước tốt tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu sinh sống và phát triển.
Cừ tràm dùng để làm cọc tiêu quả thực là một sự sáng tạo mang lại hiện quả kinh tế cao đối với những vùng đất nhiễm phèn. Nếu sử dụng cọc xi măng thì sẽ rất tốn kém, tăng chi phí sản xuất lên dẫn đến lợi nhuận không đáng kể. Đối với vùng đất như thế này chính cừ tràm đã giúp cho tiêu sinh sổi phát triển mạnh mẽ như các vùng đất khác. Đầu tiên đó là tán của loài cây này sẽ giúp tiêu tránh được những thời tiết bất lợi. Đặc biệt từ rễ của cây cừ tràm tiết ra một số chất có thể tiêu diệt được nấm trên cây tiêu. Thật bất ngờ phải không, nhưng đó là kết quả qua trình tìm hiểu tại sao mô hình vườn tiêu ôm cừ tràm đều cho năng suất cao và ít bị sâu bệnh tấn công.
Kĩ thuật trồng tiêu kết hợp với cừ tràm
Cho dù mô hình kết hợp có thuận lợi theo tự nhiên đến đâu thì kĩ thuật trồng vẫn đóng một vai trò then chốt cho sự thành công của mô hình kết hợp tiêu với cừ tràm này. Trước hết là trồng cừ tràm hơn một năm tuổi phải tiến hành đào sâu từ 5 tấc đến 7 tấc, tiếp giáp với mặt nước. Sau khi xong công đoạn này tiến hành dùng vôi bột rải lên gốc cừ tràm để hạ độ phèn. Tiếp theo là đặt dây tiêu vào mỗi gốc cừ tràm với mật độ 1,5 m đến 2m cho một nọc tiêu. Đây là kĩ thuật tạo ra được sự hiện quả đã được chứng minh bằng thực tiễn. Về mặt lí thuyết cách trồng này giúp cho tiêu và cừ tràm không cạnh tranh dinh dưỡng với nhau, quá trình sinh trưởng và phát triển đều bảo đảm cho cả 2.
Về khâu chăm sóc thì theo kinh nghiệm của người nông dân, sau khoảng một tuần trồng thì tiến hành bón phân chuồng vào mỗi gốc cừ tràm khoảng 5-7 kg. Và tất nhiên liều lượng bón sẽ tăng dần cùng với sự phát triển của cây nhằm tạo cho đất luôn ở trạng thái tươi xốp và màu mỡ. Nhìn chung nhờ sự kết hợp này mà tiêu với cừ tràm đều phát triển tốt trên đất phèn, chỉ cần chú trọng tới hệ thống tưới tiêu và đào rãnh thoát nước để tránh ngập úng.
Hiệu quả kinh tế của mô hình tiêu ôm cừ tràm này chủ yếu đến từ cây tiêu. Bắt đầu từ năm thứ 3 tiêu sẽ bắt đầu cho thu hoạch với năng suất khoảng 1,5 kg/nọc tiêu. Và khi đến năm thứ 5 thì con số này sẽ tăng lên từ 3-4 kg/ nọc tiêu. Thu nhập bình quân sẽ là 40-50 triệu/ ha với tiêu khoảng 2 năm tuổi và khi tiêu khoảng 5 năm tuổi thu nhập sẽ tăng lên khoảng trên 100 triệu/ha. Theo chu kì sinh trưởng mỗi nọc tiêu sẽ cho thu hoạch lên tới 20 năm, khi kết thúc thì đã có nguồn thu không nhỏ từ việc bán gỗ cây cừ tràm.
Giữ và phát triển được diện tích rừng tràm
Do giá cừ tràm lên xuống thất thường nên rất nhiều người đã không chọn loài cây lâm nghiệp này để phát triển kinh tế nữa. Thay vào đó học cải tạo trồng lúa hay nuôi tôm để có nguồn thu ổn định hơn. Do đó diện tích rừng tràm giảm mạnh ảnh hưởng đến độ che phủ rừng nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Việc khuyến khích người dân trồng cừ tràm rất khó khăn cho đến khi có mô hình này xuất hiện.
Với việc kết hợp tiêu với cừ tràm cho hiệu quả kinh tế cao, giúp người nông dân thoát nghèo thì chắc chắn mô hình này sẽ được mọi người hưởng ứng và lan tỏa rộng rãi. Lúc đó độ che phủ rừng sẽ tăng lên đáng kể, vừa giải quyết được vấn đề môi trường đang nhức nhối hiện nay mà kinh tế vẫn phát bền vững.
Có thể nhận thấy mô hình tiêu kết hợp cừ tràm là một mô hình sánh tạo, vừa phát triển kinh tế vừa giữ rừng bảo vệ môi trường. Vì vậy mô hình này cần được khuyến khích nhân rộng hơn nữa trong thời gian tới để nhiều người nông dân sớm thoát nghèo trên chính mảnh đất quê hương của mình.
Nguồn: agriviet.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.
Trồng điều hữu cơ theo tiêu chuẩn Organic đòi hỏi quy trình kỹ thuật khắt khe, do đó bắt buộc người trồng phải có kiến thức sâu.
Vậy nhưng, một HTXNN ở vùng biên giới Bình Phước, với khoảng 85% xã viên là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), vốn được coi là lạc hậu, đang có thành quả tốt với mô hình điều hữu cơ, tiêu chuẩn Organic.
Cuối năm 2016, HTXNN Bù Gia mập (xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập) ra đời với 64 thành viên có tổng diện tích điều 250 ha. Sau khi được thành lập, UBND xã đã chỉ đạo HTX phối hợp Liên hiệp HTX điều Bình Phước hướng dẫn các thành viên về kỹ thuật chăm sóc điều theo tiêu chuẩn Organic.
Đến nay, số xã viên là 136 và diện tích tăng lên gần 544 ha điều, trong đó 495 ha đạt chuẩn Organic, diện tích còn lại đang tiếp tục được đánh giá để cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ trong thời gian tới.
Kết quả, vụ điều 2016-2017, dù SX bị thiệt hại nặng do ảnh hưởng bởi thời tiết, sâu bệnh, nhưng năng suất điều của xã vẫn đạt từ 0,7-1,3 tấn/ha, riêng vườn điều của các thành viên HTX Bù Gia Mập đạt từ 1-1,5 tấn/ha.
“SX điều sạch phải thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình, từ khâu dọn vườn, cắt tỉa, bón phân, chăm sóc, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đến thu hoạch… nên tính trung thực của nông dân phải đặt lên hàng đầu. Các chuyên gia nước ngoài sẽ kiểm tra tại một vườn điều bất kỳ, nếu sản phẩm của vườn nào không đạt tiêu chuẩn sẽ bị ra khỏi HTX và phải làm lại từ đầu. Ban đầu, nhiều hộ ngần ngại vì sợ không theo được, nay họ chủ động trồng điều sạch để được vào HTX”, ông Hà Văn Toản, Phó giám đốc HTX cho biết.
Ông Điểu Hồng Mớt ở thôn Đắk Á, xã Bù Gia Mập đi tiên phong trong SX điều sạch cho biết: “Ngày xưa còn nghèo, cây điều nuôi sống mình, hết mùa thì mua phân bò về bón để cây có sức cho trái vụ sau. Từ 1 ha, nay tôi mua thêm 7 ha. Duy trì bón phân chuồng 2 lần/năm nên vườn điều luôn đạt 1,8-2 tấn/ha và ít sâu bệnh. Tham gia HTX, được kỹ sư nông nghiệp đến tận vườn “cầm tay chỉ việc”, từ bón phân, phun thuốc đúng quy trình đến không xịt thuốc cỏ, đốt lá tại vườn giúp mình có thêm kiến thức, sản phẩm làm ra được công ty đến tận vườn thu mua với giá cao hơn ngoài thị trường”.
Gia đình anh Nghị ở thôn Đắk Á, có 3 ha điều, xưa nay vẫn SX theo kinh nghiệm chứ không biết đến trồng điều sạch. Sau khi cân nhắc, anh quyết định vào HTX. Sau đó, anh được tham gia các lớp tập huấn, hướng dẫn chăm sóc theo quy trình kỹ thuật, năng suất vườn điều tăng từng năm. Niên vụ điều 2017-2018 đạt 2,5 tấn/ha, đây cũng là một trong những vườn điều đạt năng suất cao của xã.
“Mừng nhất là sản phẩm được công ty đến tận vườn thu mua với giá cao. Sau khi hết vụ, còn được công ty trợ giá thêm 500 đồng/kg điều hữu cơ, tổng số tiền nhận được 12 triệu đồng, đủ tiền mua gạo ăn cả năm”, anh Nghị khoe.
Hiện toàn bộ sản phẩm điều của HTX được một số DN bao tiêu với giá cao hơn thị trường 1.000 đồng/kg. Đồng thời, được trợ giá 500 đồng/kg sau khi kết thúc mùa vụ. Bà Trần Thị Yến, Giám đốc HTX nông nghiệp Bù Gia Mập cho biết, vụ điều 2017-2018, HTX bán được 333,35 tấn điều Organic. “Một vườn điều bình thường hằng năm cho năng suất khoảng 2 tấn/ha, nhưng trồng theo hướng Organic thấp hơn nhiều. Nhưng bù lại, giá lại cao hơn. Cho nên, trên cùng diện tích, nông dân vẫn đạt mức thu nhập ngang với phương thức trồng thông thường, đồng thời, không lo đầu ra”, bà Yến nói.
Quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Organic phải tiến hành song song với việc giảm lượng thuốc hóa học và kết hợp bón phân hữu cơ để cải tạo đất. Điều dễ nhận thấy, SX hữu cơ bước đầu nông dân gặp khó khăn, nhưng để tính lâu dài thì đây đang là hướng đi tất yếu.
Ngoài HTXNN Bù Gia Mập, trong Liên hiệp HTX điều Bình Phước còn 3 HTX là Đồng Nai, Thành Phát (Bù Đăng) và Phước Hưng (Đồng Xoài). Trong đó, HTX Đồng Nai đã dán nhãn thương mại công bằng quốc tế. HTXNN Bù Gia Mập sản xuất hữu cơ là bước đi nhanh nhất để sản phẩm được dán nhãn thương mại công bằng của Tổ chức Fair Trade. Qua đó, sản phẩm có thể đi thẳng vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU…
Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.
Chỉ cần diện tích 1.000-2.000m2, mỗi nhà màng trồng dưa lưới có thể thu hoạch được 4 vụ/năm, doanh thu cả trăm triệu đồng/công/vụ. Nếu có hợp đồng liên kết đầu ra ổn định, canh tác dưa lưới sẽ nhanh thu hồi vốn, mang lại lợi nhuận lâu dài cho nông dân.
Từ thành công của chàng kỹ sư trẻ…
Ở huyện đầu nguồn An Phú, nhắc đến Nguyễn Văn Đệ (xã Vĩnh Lộc), những nông dân lớn tuổi còn phải nể phục bởi anh được xem là người đầu tiên thành công với dưa lưới, một loại cây trồng vốn mới mẻ với vùng đất đã “quen” với lúa, rau màu.
Là một kỹ sư nông học (tốt nghiệp năm 2006), anh Đệ đã bắt đầu với những công việc trái ngành trước khi “kết duyên” với cây dưa lưới từ năm 2014. Để khởi nghiệp tại quê nhà, anh đã đến nhiều nơi học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. “Lần đầu trồng, thấy dưa bị nứt tôi cũng hơi lo lắng. Sau khi tìm hiểu, biết đây là giai đoạn nứt trái để tạo lưới nên mới yên tâm. Tôi cố gắng vừa canh tác, vừa rút kinh nghiệm để tìm ra quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng” – anh Đệ chia sẻ.
Nhờ sản phẩm được tiêu thụ nhanh với giá cao, chỉ sau 2 năm canh tác, anh Đệ đã trả hết nợ ngân hàng (vay đầu tư nhà lưới) và bắt đầu có lời. Nhận thấy tiềm năng loại cây trồng này còn lớn nên anh nâng diện tích nhà lưới lên 2.500m2, trồng đa dạng các giống dưa xuất xứ từ Đài Loan và Thái Lan. Anh còn liên kết với nông dân cùng thực hiện quy trình canh tác an toàn và làm đầu mối thu gom sản phẩm của họ. Chàng kỹ sư trẻ đã xây dựng nhãn hiệu dưa “Mr.Đệ”, được ngành chức năng cấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Anh Đệ cho biết, với giá thu mua lại từ 25.000 – 30.000 đồng/kg, đảm bảo nông dân có lời ít nhất 35 triệu đồng/vụ/1.000m2. Nếu mỗi năm canh tác được 4 vụ thì sau khoảng hơn 2 năm, nông dân đã lấy lại được vốn đầu tư nhà màng. “Sau khi liên kết ổn định với 6 nông dân ở An Giang và Cà Mau, phát triển 10.000m2 dưa lưới, tôi đang mở rộng liên kết sang Vĩnh Long, Kiên Giang, TP. Cần Thơ để dần nâng diện tích lên gấp đôi. Bên cạnh dưa lưới, tôi đang thử nghiệm quy trình trồng dưa hấu, cà chua tí hon, dưa lê theo hướng an toàn để chuyển giao cho nông dân, nhằm đa dạng sản phẩm, tăng hiệu quả canh tác” – anh Đệ nhấn mạnh.
…đến thắng lợi của những nông dân chịu thay đổi
Một trong những nông dân đang liên kết thành công với kỹ sư Nguyễn Văn Đệ là anh Dương Hiếu Thảo (ấp Mỹ Phó 3, xã Tân Hòa, Phú Tân). Được anh Đệ tận tình hướng dẫn quy trình canh tác an toàn, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá 28.000 đồng/kg, anh Thảo cùng bạn của mình đã mạnh dạn đầu tư 350 triệu đồng xây dựng nhà màng 1.000m2, thiết kế hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân hữu cơ tự động. Vụ đầu tiên, anh trồng 2.600 gốc dưa lưới trong những chậu nhựa, được nối hệ thống tưới nhỏ giọt vào tận gốc. “Khi dưa lưới được 7 ngày tuổi, cao từ 10-15cm thì tiến hành quấn đọt lên dây. Công việc này cần 2 người quấn liên tục trong 40 ngày. Khi cây được 2,5m thì ngắt đọt. Trồng trong nhà màng nên ít bị sâu bệnh, nhất là không có bọ trĩ, bọ phấn trắng. Trong chiếc bồn chứa 2.000 lít, mình hòa sẵn phân hữu cơ. Mỗi ngày, bật hệ thống tưới tự động trong 1-2 giờ là được” – anh Thảo chia sẻ.
Ngay vụ dưa đầu tiên, mỗi gốc đều cho ít nhất 1 trái, trọng lượng bình quân trên 2kg, đạt yêu cầu về độ đường, tiêu chuẩn thu mua. Với 2.600 gốc dưa, sau 85 ngày canh tác, anh Thảo thu hoạch được hơn 5 tấn trái, giao hết cho anh Đệ giá 28.000 đồng/kg. Tính ra, doanh thu khoảng 140 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí giống, dinh dưỡng hữu cơ, nhân công khoảng 50 triệu đồng, nhóm anh Thảo thu lời 90 triệu đồng. Nếu tiếp tục đà thắng lợi này, chỉ sau 1 năm với 4 vụ dưa, nhóm anh Thảo đã có thể lấy lại vốn đầu tư nhà màng và bắt đầu thu lợi nhuận không dưới 200 triệu đồng/công từ năm thứ 2.
Kỹ sư Nguyễn Văn Đệ cho biết, với hệ thống nhà màng được lắp ráp bằng khung thép vững chắc thì 5 năm sau mới phải bảo trì. Trong thời gian này, người sản xuất đã thu được lợi nhuận khá nên hoàn toàn có thể tái đầu tư mở rộng, tăng diện tích liên kết.
“Dưa lưới là loại cây trồng cho năng suất cao, kỹ thuật sản xuất không khó, thời gian canh tác ngắn, giá trị thương phẩm tốt. Điều quan trọng là khi canh tác, cần có hợp đồng liên kết thu mua nhằm ổn định đầu ra, đảm bảo quy trình sản xuất an toàn, chất lượng” – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư lưu ý.