Nuôi cua lột trong hộp

Cua lột là một loại cua thương phẩm đặc biệt. Ở các tỉnh ven biển Nam Bộ sau mùa sinh sản tự nhiên vài tháng có nhiều cua con cỡ từ 25-60g/con. Người ta chọn loại cua đó để nuôi cua lột.

Công trình và thiết bị

– Hộp nuôi cua lột màu đen được làm từ nhựa PP chịu được va đập, nắng nóng.

– Thành hộp dày 1,2 – 2 mm. Phần nắp hộp nằm trên mặt nước cao 5 – 5,5cm

– Mặt trên có cắt lỗ 3x3cm để thuận lợi quá trình cho ăn.

– Đáy hộp có khoảng 12 lỗ, mỗi lỗ 8-10mm cho nước luân chuyển.

– Ngoài ra cần làm thêm hệ thống mái che, hệ thống cung cấp Oxy, máy quạt nước để đảm bảo môi trường tốt cho cua phát triển.

Chăm sóc và quản lý

– Cho ăn 2 lần/ngày, thức ăn là cá tạp, còng, nhuyễn thể 2 mảnh, phụ phẩm sò lông, sò điệp… Thường xuyên kiểm tra cua 2-3 lần/ngày trong suốt quá trình cua lột.

– Cua sau khi nuôi từ 28-30 ngày sẽ tiến hành lột. Cua lột vỏ nhiều nhất từ 34-40 ngày sau khi nuôi sau đó giảm dần. Thời gian cua lột từ 8h-0h. Cua lột sau khi bắt phải tiến hành thả vào nước ngọt 15-20 phút rồi mới đem đi bảo quản.

– Các chỉ số môi trường phù hợp để cua phát triển: Độ mặn: 15-25 ‰, Nhiệt độ: 26-30 ºC, DO: >3ppm, pH: 7.8 – 8.5

Các mô hình nuôi cua trong hộp nhựa

Nuôi cua lột công nghiệp

Nuôi cua lột kết hợp cá rô phi

Nuôi cua lột kết hợp nuôi tôm quảng canh

Nuôi cua lột kết hợp trồng rong biển

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cua (Phần 2)

1. Bệnh rung chân (rũ còng)

Các cơ bị rung hoặc liệt, di chuyển chậm chạp, không phản ứng với các tác động bên ngoài, cua dừng ăn và trở nên bất động, cơ thể đổi màu hơi đen, xám hoặc hơi trắng; cơ thịt có màu đỏ; gan tụy thối rữa.

  • Tác nhân gây bệnh

Do virus và ký sinh trùng rickettsia.

  • Phòng trị

– Giữ gìn môi trường sống trong sạch cho cua nuôi. Ao đầm nuôi phải xây dựng ở nơi có nguồn nước tốt, độ mặn từ 15 – 25 phần ngàn, pH từ 7,5 – 8,2.

– Cải tạo ao thật kỹ trước khi thả nuôi. Phơi đáy từ 5 – 10 ngày, nếu đáy nhiều bùn thì vét bớt bùn, rác.

– Bón vôi khắp đáy và trên bờ ao, quét vôi trong và ngoài đăng chắn, làm tốt khâu cải tạo, sát trùng, loại bỏ các chất cặn bã, chất thải của quá trình nuôi trước; duy trì quản lý chất lượng nước tốt và có chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cua.

– Hiện chưa có biện pháp chữa trị hữu hiệu nên tốt nhất chọn cua đồng đều, khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, tốt nhất nên lấy giống cua sản xuất nhân tạo, ương trong giai đạt kích cỡ 1,5 – 2 cm.

– Trước khi thả nên sát trùng bằng dung dịch formaline 20 – 30 ppm hoặc sunphát đồng 2 – 4 ppm trong vòng 20 – 30 phút. Có thể dùng thuốc phun vào ao trong thời gian kể từ lúc bắt đầu thả nuôi, nồng độ thuốc thấp hơn 7 – 10 ppm so với nồng độ tắm cho cua. Chỉ nên dùng với ao nhỏ, mật độ nuôi cao.

– Để phòng các mầm bệnh trong thức ăn, nhất là thức ăn tươi sống, ta có thể khử trùng thức ăn trước khi cho cua ăn. Thức ăn rửa sạch ngâm trong thuốc tím nồng độ 5 – 10 ppm trong 20 – 30 phút. Rửa lại bằng nước sạch rồi cho cua ăn. Tốt nhất nên cho cua ăn thức ăn được nấu chín.

2. Bệnh hoại tử do vi khuẩn Vibrio

Phần phụ bụng và cơ bị hoại tử, cơ thể biến đổi màu sắc, hình thành các khối u màu trắng bên trong mô cơ thể (đặc biệt là mang); cơ thể yếu và hoạt động chậm chạp, biếng hoặc không ăn.

  • Tác nhân gây bệnh

Vibrio anguillarum, V. alginolyticus, V. parhaemolyticus.

  • Phòng trị

– Thả nuôi với mật độ thích hợp, nên thả 1 con/m², trong quá trình lưu giữ chăm sóc chú ý tránh làm xây xát cua, đảm bảo chất lượng nước tốt; sát trùng bể ương cua bằng dung dịch KMnO4 15 – 20 ppm (mg/l); ngâm dụng cụ ương nuôi trong 50 ppm chlorin trong thời gian 1 giờ; khử trùng nước ngọt bằng 10 ppm chlorin; phun trong ao 1 ppm terramycin.

– Phun trong ao 2 – 3 mg/l terramycin hoặc 1 mg/l norfloxac một ngày một lần, trong 3 – 5 ngày, có thể dùng thức ăn trộn terramycin (0,1 – 0,2 g/kg trọng lượng cơ thể cua) cho ăn ngày 1 – 2 lần trong 7 ngày liên tục.

3. Bệnh thủng vỏ

Ban đầu những đốm màu hơi trắng trên phần bụng giáp đầu ngực và dần chuyển thành các tổn thương loét có màu nâu đen; có thể nhìn thấy vỏ, màng và lớp cơ bên trong. Bệnh thủng vỏ hiếm khi gây chết cua, nhưng nếu vỏ bị bào mòn và đục thủng trên diện rộng có thể tạo điều kiện cho các vi khuẩn thứ cấp cũng như ký sinh trùng xâm nhiễm gây bệnh.

  • Tác nhân gây bệnh

Bệnh thủng vỏ do các tổn thương, xây xát do điều kiện nuôi nhốt không thích hợp, mật độ dày, môi trường nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn Vibrio sp., Pseudomonas sp., Aeromonas sp., Spirillum sp., Flavobacterium sp., Vibrio vulnificus, V. parahemolyticus, V. splendidus và V. orientalis xâm nhập gây bệnh.

  • Phòng trị

– Chăm sóc cẩn thận, tránh gây sốc, xây xát cua, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh gây ô nhiễm môi trường nước.

– Sử dụng vôi bón 15 – 20 ppm; duy trì chất lượng nước tốt và có độ dày lớp bùn đáy thích hợp (5 – 10 cm). Cung cấp một lớp đất cát dày thích hợp cua có thể đào được, tác dụng làm giảm stress cho cua và giảm các chất bẩn bám trên cơ thể cua.

– Định kỳ thông qua quá trình thay nước hoặc bắt mẫu, tiến hành chà và quét rửa phần lưng cho cua bằng bông gòn nhúng trong dung dịch i-ốt nhằm ngăn chặn chất dơ bám trong suốt quá trình nuôi và lưu giữ nhằm hạn chế việc phát triển của nguyên sinh động vật, là nơi cư trú của vi khuẩn phân giải kitin.

– Sử dụng chlorin 2 ppm và cho cua ăn thức ăn có trộn thuốc (sulfonamides 0,1 – 0,2% hoặc 0,05 – 0,1% terramycin) trong 5 -7 ngày liên tục; phun thuốc trong ao với liều 2,5 – 3 ppm terramycin mỗi ngày một lần, liên tục trong 5 – 7 ngày.

4. Bệnh đen mang

Biểu hiện ban đầu là các tơ mang chuyển màu nâu đen, sau đó chuyển hoàn toàn thành màu đen, cua di chuyển chậm chạp, biếng ăn, hô hấp khó khăn. Cua yếu, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh xâm nhiễm, gây chết cua.

  • Tác nhân gây bệnh

Quá trình chuẩn bị ao không kỹ, điều kiện môi trường xấu do thiếu sự trao đổi nước, chất bùn lắng nhiều.

  • Phòng trị

– Thả cua đúng lịch thời vụ, làm tốt khâu cải tạo, giữ lớp bùn đáy có độ dày thích hợp (5 – 10 cm). Trong thời gian thường xảy ra dịch bệnh dùng vôi nông nghiệp CaCO3 2 -3 kg/100m2 hòa nước tạt đều khắp ao; Tăng cường trao đổi nước, định kỳ tiến hành thay nước và cung cấp nước vào ao đảm bảo chất lượng nước tốt. Tránh cho ăn quá nhiều.

– Dùng vôi bón vào ao với liều lượng 15 – 20 mg/l.

5. Bệnh teo cơ (rệp cua)

  • Tác nhân gây bệnh

Do ký sinh trùng Sacculina sp. bám vào phần thịt của khoang mai, có thể thấy qua lỗ thoát ở gốc càng cua. Rệp phát triển nhanh về số lượng và gây cản trở hoạt động của cua, hút chất dịch trong thịt cua, làm cua gầy và chết.

  • Phòng trị

– Sát trùng ao bằng chlorin 10 ppm hoặc 100 ppm formalin và tháo bỏ lớp bùn đáy trước khi thả giống, loại bỏ những con cua bệnh, không thả cua bị nhiễm bệnh, thả cá rô phi 0,1 con/m2 để chúng sử dụng ký sinh trùng này làm thức ăn.

– Giảm độ mặn dưới 1 phần ngàn hoặc chuyển cua qua nước ngọt, tắm cua trong dung dịch formalin 20 – 30 ppm trong 20 – 30 phút hoặc dung dịch CuSO4 8 ppm hoặc KMnO4 20 ppm trong 10 – 20 phút, nếu phun dưới ao thì sử dụng 0,7 ppm của hỗn hợp có tỉ lệ 5:2 CuSO4 và FeSO4.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cua (Phần 1)

Cua hiện đang là một trong những loài hải sản đang được người dân nuôi trồng nhiều nhất, tiềm năng phát triển từ cua khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi cua thường mắc phải các bệnh mà người dân cần đề phòng như sau:

1. Bệnh nổi hạt đốm trắng – đen

  •  Nguyên nhân

Do 4 loài ốc sống ở vùng nước nóng, độ mặn thấp trong vùng triều cửa sông. Các loại ốc này thải vào nguồn nước các ấu trùng của vi khuẩn thường là các vi sinh vật thuộc nhóm lá gan và sau đó lây nhiễm vào cua. Giai đoạn đầu, rất ít khi phát hiện được nếu không có kính hiển vi.

  •  Dấu hiệu bệnh lý

Cua bị bệnh bỏ ăn, yếu, không lột xác được, rêu và tảo bám trên mai, yếu dần rồi chết. Trên thân có những đốm trắng đôi khi có cả những đốm đen.

  • Phòng trị
    – Tắm cho cua bằng Sulfat đồng nồng độ 0,5g/m3 có sục khí, thời gian chữa trị kéo dài 8 – 10 ngày.
    – Rải vôi bột thường xuyên để diệt khuẩn và tiệt trùng.

2. Bệnh đen mang

  •  Nguyên nhân

Do các ký sinh trùng sán lá đơn chủ xuất hiện nhiều sau khi nước có độ mặn thấp hoặc sau khi có mưa lớn, Sán lá đơn chủ trắng nhỏ như sợi tơ đục thủng mang gây hoại tử mang cua. Nấm, vi khuẩn dạng sợi, hay khi nồng độ các khí độc Amoniac và Sulfua hydro cao trong môi trường đầm nuôi.

  • Dấu hiệu bệnh lý

Mang cua có những đốm đen, các tơ và áo mang chuyển màu đen một thời gian mang có mùi rất tanh, thối từng phần cho tới toàn bộ mang cua. Thân cua bị bệnh phần vỏ ngoài có các đốm đen, sau đó gây mù mắt. Xuất hiện cả giai đoạn cua con và cua trưởng thành. Sau khi mắc bệnh cua bỏ ăn, gây yếu, hô hấp kém nằm im không hoạt động.

  • Phòng trị

 – Tắm cho cua bằng Formol với nồng độ 16 – 30ml/m3 nước trong 15 – 20 phút, có sục khí, thời gian điều trị 6 – 8 ngày.

– Tắm cho cua bằng dung dịch Sulfat đồng với nồng độ 0.6g/m3, mỗi lần tắm trong 6 – 8 phút có sục khí. Thời gian chữa trị 6 – 8 ngày.

 – Dùng vôi bột để diệt các ký sing trùng, vi khuẩn.

– Khi có dấu hiệu bệnh hoặc thời tiết xấu, mà kéo dài dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixicacid trộn vào thức ăn với lượng 40 -60g/1kg thức ăn để phòng bệnh. Thời gian phòng bệnh 6 – 8 ngày.

3. Bệnh đốm trắng – vàng trên vỏ

  • Nguyên nhân

Nếu cua có đốm trắng – vàng nhưng biểu hiện vẫn khỏe mạnh vận động và cảm giác bắt mồi nhanh thì đó là dấu hiệu sinh lý bất thường trước khi lột xác. Màu sắc này có thể trong nước giàu canxi và magiê hay vôi bột bám là bình thường. Các đốm trắng – vàng này sẽ hết sau khi lột xác.

  • Dấu hiệu bệnh lý
    Cua gầy yếu, chậm lột xác hoặc lột xác kéo dài, cua bỏ ăn rồi chết. Trên mai và yếm xuất hiện đốm trắng -vàng.
  • Phòng trị
    – Sử dụng thức ăn tươi sạch, cho ăn vừa đủ, thức ăn thừa phải dọn sạch.
    – Trộn thêm kháng sinh như Norfloxacin, Nalidixic acid,… và các vitamin A, C bổ sung vào thức ăn để tăng sức đề kháng.

4. Bệnh teo chân

  •  Nguyên nhân
    Do đáy ao nhiễm bẩn, thức ăn thừa nhiều, vệ sinh ao hồ kém, nhiễm Vibrospp. Ngoài ra do sự biến động thất thường của yếu tố nhiệt độ, cua không tự điều chỉnh cân bằng được nhiệt độ cho mình dẫn đến cua bị nhiễm lạnh
  • Dấu hiệu bệnh lý

Bệnh biểu hiện, cua dùng càng vận động như muốn bò đi nhưng không nhích lên được, người ta gọi đây là bệnh cua vặn mình. Thân gầy yếu, các chân bò, chân bơi teo tóp, cua lười vận động, phản xạ bắt mồi chậm.

  • Phòng trị
    – Đảm bảo độ sâu ao nuôi nhằm ổ định nhiệt độ.
    – Vệ sinh tốt ao hồ nuôi tạo môi trường tốt cho cua.
    – Tắm cho cua bằng dung dịch Oxytetracyline với nồng độ 0.5 – 3 g/m3. Thời gian tắm 20 – 30 phút, điều trị 6 – 8 ngày.
    – Trộn kháng sinh Oxyteraccyline và dầu thực vật vào thức ăn với liều lượng 50mg/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 6 – 8 ngày.
    – Dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixic acid trộn vào thức ăn hàng ngày với liều 40 – 60g/1 kg thức ăn để phòng bệnh.

5. Sinh vật bám trên cua

  • Nguyên nhân

Giáp xác chân tơ sống ở biển, ấu trùng bơi lội tự do trong nước nhưng trưởng thành sống định cư hoặc ký sinh trên con cua.

Cua bị sinh vật bám trên mai

  • Dấu hiệu bệnh lý

Biểu hiện sinh vật bám trên vỏ, thân, mang, phần phụ cua.

  • Phòng bệnh
    Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua gạch

Phương tiện nuôi

Các phương tiện dùng để nuôi cua gạch có thể là ao rào đăng và lồng. Khi nuôi cua trong ao và rào đăng thì diện tích nuôi và các bước chuẩn bị cũng tương tự như nuôi cua con lên cua thịt hay cua ốp thành cua chắc. Nếu nuôi trong lồng, nên làm lồng có kích cỡ 3x 2 x1.5m. Vật liệu sử dụng có thể là tre, đước… Khoảng cách giữa các thanh tre đóng vách lồng cách nhau 1-1.5cm. Miệng lồng rộng 0.5×0.5m và có nắp đậy. Để cua phân bố đều tăng không gian sống và hạn chế gây thương tích hay ăn nhau nên chia lồng ra 2-3 ngăn bằng vách tre. Dùng các thùng nhựa thể tích 20lít hay bó tre để giữ lồng nổi. Mức nước giữ trong lồng phải đảm bảo 0.8-1m. Nước sông nơi đặt lồng phải trong sạch, lưu tốc thích hợp và nhất là độ mặn phải đảm bảo cho cua lên gạch (28 -32‰).

Thả giống và chăm sóc

Mùa vụ nuôi từ tháng 6-12 . Nhưng tháng nuôi chính là từ tháng 7-9 hàng năm. Cua giống có kích cỡ từ 200 – 400g và chỉ chọn cua cái. Cua giống phải có vỏ cứng, màu xanh đậm, yếm tròn phủ giáp mặt bụng của phần đầu ngực và mép vỏ có nhiều lông tơ. Dùng que ấn phần yếm xuống từ bên ngoài nơi giáp yếm với mai cua, cua tốt sẽ có chấm màu vàng nhạt bên trong. Để cua phát triển gạch đồng loạt, cần chọn cua giống đồng đều về chấm gạch. Có thể dùng cua ốp cái để nuôi thành cua gạch nhưng thời gian sẽ kéo dài. Mật độ nuôi từ 3-5con/m2 nếu nuôi trong ao, rào đăng và 30-60kg/lồng khi nuôi trong lồng (khong 15-20con/m3).

Thức ăn và tỉ lệ cho ăn cũng giống như cua thịt. Không nên để cua đói vì chúng rất dễ sát hại nhau nhất là khi nuôi với mật độ cao. Cho cua ăn ngày hai lần, đối với nuôi trong ao và chuồng thì nên cho ăn lúc nước lớn để không gây đục nước, nuôi cua lồng thì cho ăn lúc nước đứng để tránh xây xát.

Dọn sạch thức ăn thừa hàng ngày và cọ rửa lồng để tránh bị nhiễm bẩn. Nuôi cua trong ao hàng ngày thay nước như các trường hợp trên.

Thu hoạch

Theo cách nuôi này, sau 10-14 ngày sau khi nuôi từ cua chắc và chớm gạch hay 20-25 ngày khi nuôi từ cua ốp, cua bắt đầu có đầy gạch và phải kiểm tra hàng ngày. Khi khoảng 60-80% cua đều đạt đầy gạch có thể thu hoạch đồng loạt. Cua đầy gạch có thể tiếp tục nuôi lại thêm một thời gian nữa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua ốp thành cua chắc

Nuôi cua ốp lên chắc là hình thức nuôi cua sau khi lột xác còn mọng nước, vỏ mềm trở thành cua đầy thịt, rắn chắc hơn với giá trị cao hơn.

Có thể nuôi trong các ao nhỏ (300-1000m2), đầm hay bãi triều có rào ví bằng đăng tre (diện tích vài chục đến vài trăm mét vuông hay lớn hơn). Riêng với nuôi trong ao, kết cấu ao và các bước chuẩn bị cũng tương tự như nuôi cua con thành cua thịt.

Khi nuôi cua ốp lên chắc, có thể chọn cả cua giống đực và cái cỡ trên 300g/con để có giá cao. Cua giống đang ở giai đoạn mọng nước, vỏ còn mềm màu nhạt và không bị thương tích. Mật độ nuôi khoảng 2-3con/m2. Mùa vụ nuôi và chăm sóc như cua thịt.

Cua ốp ăn tích cực và chủ yếu là ăn động vật thủy sinh gồm cá, nghêu, móng tay, don, còng, ba khía… Khi nuôi phải chuẩn bị nguồn cung cấp thức ăn đầy đủ và mua thức ăn dự phòng. Cá tạp (cá nhỏ) rửa sạch, cá lớn cắt thành từng miếng nhỏ 2- 3 phân, còng bẻ đôi, rải đều quanh ao, chuồng đăng, vào lồng cho cua ăn; lượng thức ăn dạng tươi sống hàng ngày khoảng 5% – 8% trọng lượng cua. Dùng sàng để kiểm tra sức ăn của cua. Cho thức ăn vào sàng cho xuống ao, ngày hôm sau nhấc lên nếu cua ăn hết thì cho thêm, nếu vẫn còn thừa thì cho giảm. Cua thường bắt mồi vào buổi chiều tối và ban đêm.

Cho cua ăn mỗi ngày một lần vào lúc 17g – 19g. Những ngày không có được thức ăn tươi sống có thể cho cua ăn cá hoặc tép khô. Không để cua đói không cho ăn một ngày. Hàng ngày thay nước cho cua : 30 – 50% lượng nước, ba ngày thay toàn bộ nước. Giữa đợt nuôi thấy ao bị bẩn nhiều thì xả cạn nước, gạn cua và làm vệ sinh, vớt bỏ thức ăn thừa ở đáy. Công việc này có thể tiến hành vào lúc trời mát và sau khi có nước thủy triều lên thì cho nước vào ao. Lúc nước chảy mạnh có thể cọ rửa chuồng đăng, lồng làm cho nước lưu thông tốt cho chuồng đăng, lồng. Thường xuyên kiểm tra bờ ao, chuồng đăng, lồng, không để sơ suất, có lỗ hổng cua có thể thoát ra ngoài. Kiểm tra tình trạng của cua, nếu phát hiện cua bị bệnh thì tìm biện pháp chữa; làm sạch môi trường, dùng kháng sinh hoặc dùng thuốc sát trùng nhẹ, tùy loại bệnh mà cua mắc phải.

Sau khi nuôi 10-14 ngày có thể kiểm tra cua nếu cua có mai cứng, màu sắc đậm và chắc thịt thì thu hoạch. Cua đực dùng bán thịt còn cua cái có thể nuôi tiếp thành cua gạch. Trọng lượng trong quá trình nuôi có thể tăng 30-40%.

Nuôi cua ốp thành cua chắc

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua con thành cua thịt

Ao đầm nuôi

Có thể nuôi cua con thành thịt trong các dạng ao đầm riêng biệt hay nuôi kết hợp trong đầm nuôi tôm nước lợ, trong ruộng lúa với hình dạng và kích cỡ khác nhau. Tuy nhiên, một đầm hay ao nuôi tôm tốt nên có các đặc điểm như :

– Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước.

– Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 20cm).

– Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 7.5-8.5; độ mặn từ 10-25%o và nhiệt độ từ 28-33oC.

Ao nên có diện tích từ 300-1000m2, độ sâu 0.8-1.2 m với bờ có chiều rộng đáy 3m, mặt 1-1.5m và cao 1-1.5m và cao hơn mức triều cường ít nhất 0.5m. Xung quanh bờ phi rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước…và đặt hơi nghiêng vào ao sao cho cua không thoát ra được. Ao có cống cấp và thoát để dễ dàng cấp thoát nước cho ao, trước cống nên có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận, lớp ngoài nên có hình chữ V. Cũng có thể trồng cây như giá, đước hoặc làm giàn bằng lá dừa nước để che mát cho cua.
Nuôi trong ruộng lúa, nên chọn ruộng có diện tích khong 0.5-2 ha. Cách rào chắn giống như nuôi cua trong ao. Tuy nhiên, nên đào nhiều mương dọc ngang trong ruộng để cua trú ẩn. Mương nên rộng từ 1.5-2m và sâu 0.8-1m. Diện tích mương đào chiếm khong 20% diện tích ruộng.

Nuôi cua trong ao

Nuôi cua trong đầm nuôi tôm thì diện tích đầm có thể 2-10 ha hay lớn hơn. Việc rào chắn, quản lý, bảo vệ trong trường hợp này tương đối khó khăn. Tuy nhiên, cần đào nhiều mương sâu trong đầm (mức nước khoảng 1m) cho cua cư trú nhằm giảm sự thất thoát cua do vượt bờ.
Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành chuẩn bị ao như bón vôi với liều lượng 10-15kg/ha, lấy nước sạch.

Thả giống và chăm sóc

Mùa vụ nuôi cua con thành cua thịt có thể quanh năm nhưng phổ biến nhất vào khoảng tháng 2-5 . Lúc này nguồn giống phong phú điều kiện môi trường nước tương đối thuận lợi cho nuôi cua. Những tháng mùa mưa cũng có thể nuôi cua nhưng sự biến động lớn về nhiệt độ, độ mặn, độ phèn,… có thể ảnh hưởng xấu đến nuôi cua.
Hiện nay, nguồn giống nuôi vẫn dựa chủ yếu vào nguồn giống tự nhiên và thường phi vận chuyển rất xa. Phương pháp vận chuyển đơn giản và hiệu qu ở một số nơi là dùng bao chỉ, bao bố,…Khi vận chuyển nên tránh gió lùa, nắng, mưa trực tiếp lên cua và thỉnh thong dùng nước biển tưới cho cua để giữ độ ẩm. Tùy vào kích cỡ cua và loại ao đầm nuôi, mật độ và thời gian nuôi có khác nhau:
Nếu nuôi cua giống cỡ 50 – 100 con/kg thì thả mật độ 3 – 4 con/m² trong ao, 2 – 3 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 5 -6 tháng.

Nếu nuôi cua giống cỡ 20 – 35 con/kg thì thả mật độ 2 – 3 con/m² trong ao, 1 – 2 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 3 -4 tháng.

Nếu nuôi cua giống cỡ 10 – 12 con/kg thì thả mật độ 2 -3 con/m² trong ao, 1 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 2 – 2,5 tháng.

Nuôi cua trong đầm

Khi nuôi cua trong ruộng lúa, có thể nuôi theo dạng luân canh vào mùa nước mặn hoặc ngay cả xen canh trong mùa nước ngọt khi lúa đã tốt. Cua có thể thả nuôi kết hợp trong đầm nuôi tôm quãng canh hay quãng canh cải tiến.
Nên thả cua khi độ mặn, nhiệt độ, độ phèn … nằm trong khoảng thích hợp, tiến hành thả cua lúc trời mát và nên thả trên bãi để cua tự bò xuống nước.
Thức ăn cho cua thịt rất đa dạng bao gồm: cá tạp, tôm còng, nhuyễn thể, rau, ngũ cốc,… Tỷ lệ cho ăn khong 5-10% trọng lượng cua và được chia làm hai lần trong ngày sáng và chiều mát thích hợp nhất là cho cua ăn lúc nước lớn.
Tiến hành thay nước hàng ngày khoảng 30-50% để giữ môi trường trong sạch. Hạn chế sử dụng nông dược khi nuôi cua trong ruộng lúa.

Thu hoạch

Khi cua đạt trọng lượng 200-350 gr/con có thể thu hoạch. Thu cua bằng cách đánh tỉa câu rập hay tháo cạn còn 30cm nước và bắt bằng tay nếu thu toàn bộ.

Nguồn : Đại học Cần Thơ, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Săn cua biển giống

Cua biển khai thác tự nhiên được nhiều hộ chọn để thả nuôi nên giá khá cao. Điều này đã kích thích hàng chục hộ dân sống ven các cánh rừng ngập mặn đầm Nha Phu (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) xuyên đêm săn cua biển giống.

Theo chân ông Nguyễn Văn Phai (thôn Tân Đảo, xã Ninh Ích) đi săn cua biển giống, chúng tôi được ông cho biết: “Nghề săn cua biển giống gần như hoạt động quanh năm, chỉ trừ thời điểm mưa bão. Cua giống xuất hiện dày nhất vào khoảng tháng Chạp năm trước đến tháng 3 âm lịch năm sau. Các tháng khác, tùy theo điều kiện thời tiết mà cua giống có ít hay nhiều”. Nghề săn cua biển gắn liền với những cánh rừng ngập mặn ven đầm. Tuy nhiên, sau “cơn lốc” đìa tôm, rừng ngập mặn mất dần, nghề săn cua biển cũng biến mất. Mấy năm gần đây, khi rừng ngập mặn được phục hồi một phần, các loài thủy sản về trú ngụ, sinh sản, nghề săn cua biển dần phục hồi. Ban đầu chỉ có 5 – 7 người, hiện nay mỗi đêm có đến 30 – 40 người dân các địa phương: Ninh Ích, Ninh Hà, Ninh Lộc đi bắt cua biển giống.

Gặp chúng tôi trên bãi triều ngập nước, ông Nguyễn Văn Tuấn, một người săn cua chia sẻ: “Dụng cụ của người đi săn cua chỉ có chiếc xuồng nhỏ, bình ắc quy, đèn pha, vợt… Việc bắt cua giống diễn ra khi thủy triều rút hoặc vừa chớm lên, độ sâu mực nước chừng 0,3 – 0,4m, còn sâu hơn rất khó phát hiện bởi cua nằm lẫn trong đám rong, bùn đất. Chúng tôi thường bơi xuồng ra đầm lúc chập tối đến 1 – 2 giờ sáng mới quay về”.

Sau 6 giờ lướt ghe trên bãi triều ven rừng ngập mặn, căng mắt theo ánh đèn soi đến tận đáy đầm, ông Phai bắt được 120 con cua giống. “Tùy theo ngày và con nước mà lượng cua bắt được khác nhau, ít thì mỗi người bắt được từ 70 đến 100 con/đêm, may mắn gặp hôm cua nhiều thì bắt được 200 – 300 con/đêm. Cách đây vài ngày, tôi bắt được gần 300 con. Nhiều đêm tôi còn bắt được cua thịt kích cỡ chừng 0,3 – 0,4kg/con”, ông Phai cho hay.

Nghề săn cua biển giống

Cua giống bắt được, người dân bán cho các chủ đìa nuôi, trung bình 1 con giá 4.000 đồng. Với mức giá này, nhiều người dân ven đầm Nha Phu có một khoản thu hấp dẫn, thậm chí có người kiếm tiền triệu mỗi đêm.

Lý giải về nguyên nhân cua giống được bán với giá cao như hiện nay, ông Trần Văn Thừa (phường Ninh Hà), một người săn cua giống cho hay: “Khoảng 5 năm trở lại đây, khi cua biển ngày càng được giá, phong trào nuôi cua biển, nhất là nuôi cua biển kết hợp nuôi tôm được nhiều hộ dân triển khai. Điều này dẫn đến nhu cầu mua cua giống ngày càng cao. Nhiều hộ nuôi không mua cua giống từ các cơ sở sản xuất giống (giá 600 đồng/con) mà đặt mua cua giống từ chúng tôi. Nguyên nhân chủ yếu là cua giống tự nhiên, săn trên đầm Nha Phu có kích cỡ lớn hơn, thích nghi tốt, tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi thấp”.

Ông Phạm Ngọc Khánh – Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Ích cho biết, nghề săn cua biển giống mang lại thu nhập khá cao cho một số hộ dân địa phương. Nghề này gắn liền với sự phục hồi của những cánh rừng ngập mặn ven đầm Nha Phu. Những năm gần đây, người dân thấy được lợi ích từ rừng ngập mặn nên đã tích cực tham gia trồng và bảo vệ rừng, nhờ đó, diện tích rừng ngập mặn trên địa bàn xã đã phát triển lên hơn 50ha.

Theo lãnh đạo Phòng Kinh tế thị xã Ninh Hòa, hiện nay, nghề nuôi cua biển trên địa bàn thị xã đang phát triển nhanh, diện tích hiện có hơn 145ha. Nguồn giống chủ yếu là cua giống khai thác từ đầm Nha Phu, một phần được người nuôi mua từ các trung tâm sản xuất giống cua. Nghề săn cua giống đã giúp các hộ nuôi cua trên địa bàn chủ động được phần lớn nguồn giống thả nuôi.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam