Close

Đăng ký

Close

Thông tin Đăng nhập

Giới tính:

Thông tin chuyên môn

Bạn là:
Lĩnh vực:

Các biện pháp kỹ thuật cho mô hình lúa - cá

Thứ 4, ngày 25/10/2017 725

1. Chuẩn bị ruộng nuôi

Trong qui trình nuôi cá thì chuẩn bị ruộng nuôi là khâu quan trọng ảnh hưởng quyết định đến năng suất cá nuôi.

– Nếu nuôi cá – lúa luân canh thì sau khi thu hoạch lúa, có thể bón thêm phân ure để tạo chét lúa hay dọn sạch rơm rạ, cỏ trên ruộng lúa; sên vét lớp bùn đáy ở mương bao, chỉ để lại lớp bùn 20-30 cm. Cho nước vào ngập ruộng ngâm vài ngày rồi xả bỏ. Những ruộng có hệ thống mương bao mới đào thì cần lấy nước vào ngâm vài lần để rửa phèn.

Chuẩn bị ruộng nuôi cá – lúa

– Bón vôi: sử dụng vôi nung (CaO) 10 – 15 Kg/100m². Bón vôi sau khi đáy mương bao đã được tát cạn, vôi được rải khắp mương và bờ ruộng. Bón vôi ngoài việc diệt tạp, tiêu độc đáy mương nó còn tạo điều kiện pH cao thích hợp trong việc tạo thức ăn tự nhiên ban đầu có ích cho cá nuôi giai đoạn nhỏ.

– Phơi mặt ruộng và đáy mương bao khoảng 2 – 3 ngày, tránh phơi quá lâu mặt ruộng bị nứt nẻ làm xì phèn.

– Cấp nước vào ruộng nuôi phải qua lưới lọc (lưới cước a = 0,3 mm) để ngăn chặn địch hại và tép cá tạp vào làm giảm sản lượng nuôi và cạnh tranh thức ăn. Khi mực nước trong mương bao đạt 1,2 m thì có thể bón phân vô cơ DAP từ 100 – 150 g/100 m2 để gây màu nước hoặc phân hữu cơ 7-10 kg/100m2. Lợi ích của việc bón phân là để hạn chế tảo đáy phát triển, tảo sẽ hấp thu các sản phẩm Nitơ và Phospho trong nước hạn chế nguồn gây ô nhiễm và ổn định nhiệt độ, pH.

2. Chọn đối tượng

a. Chọn giống lúa

Mô hình lúa – cá kết hợp là mô hình tận dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên trên ruộng lúa và hạn chế tối đa việc sử dụng hoá chất trên đồng ruộng do đó cần phải chọn giống lúa có thể kháng sâu bệnh tốt như: MTL – 141, MTL – 149, MTL – 159, IR60820-81-2-1, IR64 … Tốt nhất nên chọn phương pháp sạ hàng.

Chọn lúa giống có chất lượng tốt

b. Chọn loài cá nuôi

Mặc dù phần lớn các loài cá nước ngọt đều có thể nuôi chọn nuôi trong ruộng. Tuy nhiên khi chọn loài cá thả nuôi cần lưu ý:

– Đối tượng nuôi phải có khả năng thích nghi, phát triển tốt và ăn các loại thức ăn tự nhiên có sẵn trong ruộng.

– Khả năng đầu tư thức ăn, phân bón của người nuôi.

– Đảm bảo số lượng giống thả.

– Điều quan trọng là thị hiếu của người nuôi và nhu cầu thị trường.

Các đối tượng phổ biến hiện nay được nuôi trong ruộng lúa là: mè vinh, chép, rô phi, sặc rằn, rô đồng,…

Cá rô phi được nuôi trong ruộng lúa

Mật độ thả nuôi tuỳ thuộc vào độ màu mỡ của nước và lượng thức ăn cung cấp. Nếu ruộng nuôi có đầu tư thức ăn thì mật độ thả từ 2 – 5 con/m2.

Chất lượng con giống rất quan trọng, do đó phải chọn cá khỏe, có kích cỡ tương đối đồng đều, màu sắc sáng, bơi lội nhanh nhẹn. Cỡ cá từ 200 – 400 con/kg.

3. Thời gian sạ lúa và thả cá

a. Sạ lúa

Vụ Hè – Thu: bắt đầu từ khoảng giữa tháng 2 đến giữa tháng 6, sau khi kết thúc vụ Đông – Xuân

Vụ Đông – Xuân: bắt đầu sau khi nước rút và thu hoạch cá, tháng 11 đến tháng 3

b. Thả cá

– Nên thả cá sớm hơn sau khi sạ lúa vài ngày (vào khoảng giữa cuối tháng 2)

– Thả cá sớm có lợi: cá dữ ít nên tỷ lệ sống rất cao

– Thời gian nuôi dài, cá lúc thu hoạch lớn lúc đầu cá giống được thả ở ao trữ và mương bao (chưa cho lên mương ruộng)

– Sau khoảng 40 – 50 ngày thì dâng nước lên cho cá vào ruộng, lúc này lúa đã lớn.

4. Vận chuyển và thả cá

Nên vận chuyển cá lúc trời mát để tránh gây tổn thương cho cá. Nên thả cá lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả cá cần ngâm bao trong nước ao từ 20 – 30 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi nhiệt độ bên trong và bên ngoài bao tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào trong bao, sau đó hạ từ từ cho cá bơi ra ngoài.

5. Quản lý cá nuôi

a. Thức ăn

Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi thủy sản là thức ăn. Để cá có thể phát triển tốt cá cần được bổ sung thức ăn đảm bảo chất lượng dinh dưỡng và số lượng cho ăn.

– Thức ăn tươi: bao gồm cá, tép, cua, ốc, hến,… các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn cao.

– Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến: các thành phần dinh dưỡng đã được phối chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ sản xuất thức ăn hiện đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh hưởng đến chất lượng nước trong hệ thống nuôi.

Trong quá trình nuôi nên kết hợp thức ăn viên và thức ăn tinh.

Một số công thức thức ăn được phối trộn như sau

Công thức 1: Cám 70% + Bột cá 25% + Bột gòn 5%

Công thức 2: Cám 70% + Ốc ruột xay nhỏ 25% + Bột gòn 5%

b. Cách cho ăn

– Trong thời gian đầu cá còn nhỏ khả năng bắt mồi kém, yêu cầu thức ăn có chất lượng dinh dưỡng cao, do đó nên sử dụng thức ăn viên nổi (hàm lượng đạm từ 25 – 30%). Cho ăn 3 – 4 lần/ngày.

– Khi cá lớn (30 – 50g/con) nên cho ăn bổ sung thức ăn tinh như tấm nấu chín phối trộn với bột cá hoặc ốc, cua xay nhỏ.

– Lượng cho thay đổi theo tháng nuôi: Hai tháng đầu 10% trọng lượng cá, tháng thứ 3 – 4 cho ăn 7%, tháng 5 – 6 cho ăn 5% và những tháng sau cho ăn 3% (tuy nhiên lượng cho ăn phải được điều chỉnh theo mức độ ăn mồi của cá).

– Để điều chỉnh lượng cho ăn phù hợp cần lưu ý một số yếu tố như:

+ Theo dõi mức độ ăn mồi của cá, nếu sau 30 phút cá ăn hết là đạt yêu cầu. Trường hợp cá ăn hết nhanh trong thời gian ngắn thì phải tăng thêm lượng thức ăn.

+ Khi nước ao bị dơ hay có mùi nên giảm lượng cho ăn.

Thời kỳ sử dụng nông dược trên ruộng. Lúc này cá ở dưới mương 10 – 15 ngày, cho cá ăn bằng cách rãi điều trên mặt hoặc cho ăn vào sàn tập trung ở nhiều nơi trong mương.

6. Chăm sóc quản lý lúa

Sau khi lúa sạ 3 – 5 ngày tiến hành cho nước vào ruộng, sau đó điều chỉnh mực nước theo tốc độ phát triển của cây lúa, nhằm mục đích tạo điều kiện cho cây lúa tăng trưởng tốt, đồng thời ngăn chặn và hạn chế cỏ dại phát triển.

a. Bón phân

– Công việc bón phân cần được xem xét kỷ nhằm tránh thiếu hoặc quá dư không tốt cho cây lúa và tạo kiện cho sâu bệnh phát triển.

Có thể chia làm ba đợt bón phân như sau:

– Đợt 1: Từ 10 – 15 ngày sau khi sạ lúa, bón phân Urea liều lượng 45 – 55 kg/ ha.

– Đợt 2: Từ 25 – 30 ngày sau khi sạ lúa bón phân

+ Urea liều lượng: 65 – 70 kg/ha

+ DAP liều lượng: 45 – 55 kg/ha

– Đợt 3: Từ 40 – 45 ngày sau khi sạ lúa, bón phân

+ Urea liều lượng: 45 – 55 kg/ha

+ NPK liều lượng: 45 – 55 kg/ha

Ngoài sử dụng phân bón nông dân còn xịt các loại thuốc khác để ngừa bệnh, giúp chắc hạt với các loại thuốc như: Regent, Topsin, Alvil…

Đối với thuốc trừ sâu thì áp dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp IPM, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu.

b. Điều tiết nước trên ruộng

– Tuần đầu mới thả cá cũng trùng với thời gian sạ lúa hoặc cấy lúa. Lúc này cần phải giữ cá ở mương, sau khi sạ lúa được 40 – 50 ngày (với ruộng cấy lúa thì 20 ngày) thì dâng nước để cá lên ruộng kiếm mồi. Trong suốt thời gian chăm sóc lúa và nuôi cá nên duy trì mức nước tối đa (thường từ 10 – 15cm)

– Khi sử dụng nông dược hoặc bón phân hoá học, phải rút nước cho cá xuống kênh chờ 5 – 7 ngày thuốc hết độc thì cấp nước trở lại cho cá lên ruộng.

– Sau khi thu hoạch lúa hè – thu, cấp nước lên ruộng đến mức tối đa cho cá mau lớn.

– Khi sử dụng thuốc nông dược cần lưu ý các loại thuốc không được sử dụng như: Furazon, Fastac, Thiodan, Decis, Sherpa …

7. Quản lý chất lượng nước

a. Thay nước

Thay nước khi chất lượng nước xấu đi, nước có mùi hôi,… cá nổi đầu vào sáng sớm, chỉ nên thay nước khoảng 20 – 30% để tránh tình trạng cá bị sốc. Việc thay nước sẽ tăng thêm oxy, giảm các chất độc trong hệ thống nuôi, kích thích cá hoạt động và bắt mồi. Lưu ý khi thay nước phải xác định được nguồn nước cấp có đảm bảo yêu cầu hay không để tránh tình trạng làm xấu đi hoặc ô nhiễm chất lượng nước trong ruộng nuôi.

Vào đầu mùa mưa, mùa lũ thường xuyên kiểm tra đăng, cống,… dọn cỏ quanh bờ bao tránh để nước dâng cao ngập cỏ gây phân huỷ làm thiếu oxy.

b. Nông dược

Trong quá trình nuôi lưu ý việc sử dụng nông dược trong canh tác lúa cũng như hoa màu của các nông hộ kế cận để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng nhiễm sang ruộng nuôi cá.

c. Nhiệt độ

Để nhiệt độ trên mặt ruộng không biến động lớn, mực nước thấp nhất phải đạt được là 40 cm.

d. Oxy

Trong ruộng nuôi lượng oxy hoà tan trong nước có sự biến động giữa ngày và đêm, thấp nhất vào lúc sáng sớm và cao nhất lúc 3 giờ chiều. Để đảm bảo hàm lượng oxy cao trong ruộng nuôi lưu ý thời điểm cải tạo ruộng nuôi phải dọn sạch rơm rạ trên mặt ruộng để hạn chế phân hũy hữu cơ khi cấp nước vào. Biện pháp để tăng cường và ổn định oxy ở mức cao là thay nước khi nước có màu quá xanh hay xám.

e. pH

pH trong hệ thống nuôi biến động theo sự phát triển của tảo. pH tăng khi tảo quang hợp và phát triển mạnh. Những cơn mưa đầu mùa, nhất là đối với những hệ thống nuôi mới xây dựng, sẽ rửa phèn từ bờ xuống hệ thống nuôi làm pH giảm. Ngoài ra sự phân huỷ mùn bả hữu cơ ở đáy ao cũng làm cho pH ở tầng này thấp. Dùng vôi CaO 7 – 10 kg/100m2 rải quanh bờ trước những cơn mưa lớn. Nếu pH nước xuống dưới 7 thì dùng vôi nông nghiệp CaCO3 hoặc Dolomite (đá vôi đen – CaMg(CO3)2) bón với lượng 2 – 3 kg/100m2.

f. Địch hại

Bao gồm cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch, chim,… tấn công trực tiếp đến cá hay gián tiếp cạnh tranh thức ăn. Để hạn chế các đối tượng này bờ bao cần có lưới chắn và nước trước khi vào hệ thống nuôi phải qua lọc.

8. Thu hoạch

Sau 5 – 7 tháng nuôi, bơm nước hạ dần mức nước ruộng để cá tập trung xuống mương bao, sau đó dùng lưới kéo, số còn lại tát cạn và thu hoạch bằng tay.

Năng suất cá nuôi từ 0,5 – 2 tấn/ha. Năng suất cá nuôi dao động tùy thuộc vào đối tượng thả nuôi và mức độ đầu tư thức ăn.

Nguồn tomvang.com được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Các chuyên gia về lĩnh vực này:

Trần Anh Ân Tấn Phát Đức Dương