Close

Đăng ký

Close

Thông tin Đăng nhập

Giới tính:

Thông tin chuyên môn

Bạn là:
Lĩnh vực:

Đôi nét về loài hàu.

Thứ 6, ngày 06/10/2017 1300

Hàu là loài động vật nhuyễn thể thuộc nhóm thân mềm 2 mảnh vỏ trong họ hàng nghêu, sò nhỏ sống ở bờ biển, ở các ghềnh đá ven bờ biển hay các cửa sông, sống bám vào một giá thể như bám vào đá thành tảng, các rạn đá, móng cầu ăn sinh vật phù du và các sinh vật trong bùn, cát, nước biển…. Hàu cũng được coi là một loại hải sản sống dưới nướcThịt hàu ngon và ngọt, rất giàu chất dinh dưỡng, có chứa proterin, glucid, chất béo, kẽm, magie, canxi,… Hàu có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái vì chúng lọc tạp chất từ nước và là nguồn thực phẩm cho cộng đồng dân cư ven biển.

Đặc điểm sinh học.

Hàu có kích thước tương đối lớn so với các loài nghêu và sò nhỏ, đặc biệt là mảnh vỏ của hàu lớn hơn nhiều so với cơ thể của chúng. Hàu phân bố rộng trên toàn thế giới, nhưng đa số tập trung ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Hầu phân bố theo độ sâu từ trung triều (intertidal) đến độ sâu 10 m (so với 0 hải đồ). Chúng phân bố ở các thủy vực có nồng độ muối từ 5-35 ‰.

Phương thức sống.

Ở giai đoạn ấu trùng chúng sống phù du. Ấu trùng Hàu có khả năng bơi lội nhờ vào hoạt động của vành tiêm mao hay đĩa bơi. Ở giai đoạn trưởng thành Hàu sống bám trên các giá thể (sống cố định) trong suốt đời sống của chúng.

Thức ăn và phương thức bắt mồi. 

Thức ăn của ấu trùng bao gồm vi khuẩn, sinh vật nhỏ, tảo Silic (Criptomonas, Platymonas, Monax) hoặc trùng roi có kích thước 10m hoặc nhỏ hơn. Ấu trùng cũng có thể sử dụng vật chất hòa tan trong nước và những hạt vật chất hữu cơ (detritus). Giai đoạn trưởng thành thức ăn chủ yếu là thực vật phù du và mùn bã hữu cơ. Các loài tảo thường gặp là các loài tảo Silic như: Melosira, Coscinodiscus, Cyclotella, Skeletonema, Navicula, nitzschia, Thalassiothrix, Thalassionema…


Phương thức bắt mồi của Hàu là thụ động theo hình thức lọc. Cũng như các loài Bivalvia khác, Hàu bắt mồi trong quá trình hô hấp nhờ vào cấu tạo đặc biệt của mang. Khi hô hấp nước có mang theo thức ăn đi qua bề mặt mang, các hạt thức ăn sẽ dính vào các tiêm mao trên bề mặt mang nhờ vào dịch nhờn được tiết ra từ tiêm mao. Hạt thức ăn kích cỡ thích hợp (nhỏ) sẽ bị dính vào các dịch nhờn và bị tiêm mao cuốn thành viên sau đó chuyển dần về phía miệng, còn các hạt thức ăn quá lớn tiêm mao không giữ được sẽ bị dòng nước cuốn đi khỏi bề mặt mang sau đó tập trung ở mép màng áo và bị màng áo đẩy ra ngoài. Mặc dù Hàu bắt mồi thụ động nhưng với cách bắt mồi này chúng có thể chọn lọc theo kích thước của hạt thức ăn.

Chúng không có khả năng chọn thức ăn theo chất lượng nhưng chọn lọc thức ăn rất kỹ theo kích cỡ.

Sinh trưởng.

Nhiệt độ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của Hàu. Ở vùng nhiệt đới nhiệt độ ấm áp nên tốc độ sinh trưởng của Hàu rất nhanh và quá trình sinh trưởng diễn ra quanh năm. Sự sinh trưởng của Hàu còn phụ thuộc vào mật độ, ở Venezuela Hàu trong các đầm nước lợ thì chậm lớn vì độ quá cao nhưng trong điều kiện nuôi thì chúng đạt 6cm trong vòng không đầy 6 tháng. Tốc độ sinh trưởng của Hàu cũng khác nhau tùy theo loài và vùng phân bố do điều kiện môi trường nước của từng vùng khác nhau và do đặc tính riêng của từng loài (yếu tố di truyền).

Đặc điểm sinh sản của Hàu. 

Giới tính: có hiện tượng biến tính (thay đổi giới tính) ở Hàu. Trên cùng cơ thể có lúc mang tính đực, có lúc mang tính cái và cũng có khi lưỡng tính. Tỉ lệ lưỡng tính trong quần thể thường thấp.
Phương thức sinh sản: tùy theo loài mà hình thức sinh sản khác nhau. Nhóm Crassostrea và Saccostrea thì đẻ trứng và tinh trùng ra môi trường nước, quá trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra trong nước. Đối với nhóm Ostrea thì quá trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra bên trong xoang màng áo của cá thể mẹ đến giai đoạn diện bàn hoặc muộn hơn mới ra khỏi cơ thể mẹ.
Mùa vụ sinh sản: ở vùng nhiệt đới sau một năm đã thành thục và tham gia sinh sản. Mùa vụ sinh sản xảy ra quanh năm nhưng tập trung từ tháng 4-6. Mùa vụ sinh sản ở vùng nhiệt đới thường ít tập trung và kéo dài hơn so với vùng ôn đới. Tác nhân chính kích thích đến quá trình thành thục và sinh sản của Hàu là nhiệt độ, nồng độ muối và thức ăn có trong môi trường.

Địch hại và khả năng tự bảo vệ. 

Địch hại của Hầu bao gồm cá yếu tố vô sinh (nồng độ muối, nhiễm bẫn, độc tố, lũ lụt…) và yếu tố hữu sinh bao gồm các sinh vật cạnh tranh vật bám (Balanus, Anomia…), sinh vật ăn thịt (Rapana, Thais, sao biển, cá…), sinh vật đục khoét (Teredo, Bankia…), sinh vật ký sinh (Myticola, Polydora…) và các loài tảo gây nên hiện tượng hồng triều (Ceratium, Peridium…).
Hầu có khả năng tự bảo vệ nhờ vào vỏ, khi gặp kẻ thù chúng khép vỏ lại. Ngoài ra chúng còn có khả năng chống lại các dị vật (cát, sỏi), khi dị vật rơi vào cơ thể màng áo sẽ tiết ra chất xà cừ bao lấy dị vật.

 

Nguồn: Tổng hợp lại bởi Farmtech VietNam.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các chuyên gia về lĩnh vực này:

Trần Anh Ân Tấn Phát Đức Dương Tuấn Dũng