Kinh nghiệm trồng cây mía đường – Phần 1

Trồng cây mía đường nếu thiếu ánh sáng, cây sẽ kém phát triển, và cho lượng đường thấp. Cách trồng cây mía đường hiệu quả nhất là phải đảm bảo cây được nhận nắng hơn 2.000 giờ.

Chuẩn bị đất trồng mía:

Chọn đất:

Cây mía không yêu cầu chọn đất khắt khe, nhưng để có điều kiện thâm canh đạt năng suất cao, yêu cầu đất có độ dốc < 10°. Tầng canh tác sâu, tơi xốp, giàu dinh dưỡng, pH trung tính và thoát nước tốt.

Làm đất:

– Đất bãi và đất ruộng: Cày sâu 30-35 cm và bừa từ 2 đến 3 lần, rạch hàng 1 lần sâu từ 25-30 cm.

+ Để đạt năng suất cao, chất lượng tốt bà con nên áp dụng theo quy trình cày ba chảo (1-2) lần + (1-2) lần bừa + (2-3) lần cày 7 chảo. Độ sâu phải đạt trên 30 cm (sử dụng các loại máy công suất lớn). Hướng cày lần sau phải vuông góc với hướng lần trước để tránh bị lõi (chú ý để lần cày sau cùng trùng với hướng cày rạch hàng). Vùng đất thấp nhiều phèn chú ý không rạch hàng sâu đến lớp đất phèn và chủ động làm kênh mương thoát nội đồng.

– Đất đồi: Thiết kế hàng mía theo đường đồng mức (nơi có điều kiện áp dụng cây không lật với độ sâu từ 40-50 cm) nên làm đất trước khi trồng 40-60 ngày để cho đất có thời gian phơi ải, diệt nguồn sâu bệnh.

– Đất trũng đồng bằng sông cửu Long phải lên liếp rộng 6,0 – 20,0m, cao 25 -35 cm. Rãnh trồng mía sâu 20-25 cm, đáy rãnh phủ lớp đất xốp dày 5-10 cm.

– Đất bị nhiễm phèn thì liếp rộng 4,5-5,0m, cao 25cm -35cm. Đấy rãnh phủ lớp đất xốp dày 5-10 cm.

– Có thể áp dụng công nghệ cày sâu không lất (độ sâu > 35cm): Với các ưu điểm cày rất sâu, không lật đất giúp giữ ẩm tốt cho đất. Bừa quay trục đứng (làm tơi đất ở độ sâu 10-15cm) giúp đất đạt độ tơi cao, ít lượt giúp giảm độ nén đất. Tuy nhiên chỉ nên áp dụng khi đất không có gốc cây, ít đá, độ ẩm đất phải phù hợp, không áp dụng với nền đất chai, cứng hoặc độ ẩm cao.

Lưu ý: Cần thiết kế hệ thống tưới tiêu nước để kịp thời thoát nước mùa mưa và tưới bố sung khi gặp khô hạn.

Chuẩn bị giống:

Giống mía:

Bộ giống mía đang được sử dụng nhiều ở các vùng như sau:

– Vùng núi phía bắc: Roc 22, Roc 10, Roc 16, VĐ 93-15,My 55-14

– Vùng Bắc Trung Bộ: VĐ 55, VĐ 93-159, Roc 22, My 55-14

– Tây Nguyên: VĐ 93-159, LK 92-11, K84-200, K95-156

– Duyên Hải Nam Trung Bộ: VN 84 K83-29, Suphanburi 7, LK 84-200. K88-92

– Tây Nam Bộ: K88-92, K95-84, Roc 16, VN 84-4137, K84-200

– Đông Nam Bộ: K95-84,K88-92,LK 92-11, Suphanburi 7…

– Đồng bằng Sông cửu long: K88-92, K95-84 (Số liệu được dẫn theo báo cáo của các công ty mía đường tại hội nghị “Định hướng nghiên cứu và phát triển bên vững ở Việt Nam”)

Tùy điều kiện đất đai từng vùng và nhu cầu vùng nguyên liệu cụ thể của từng nhà máy để bố trí tỷ lệ các nhóm giống chín sớm, chính trung bình và muộn cho phù hợp.

Chuẩn bị mía giống:

Hom mía giống phải lấy từ các ruộng đảm bảo các yếu tố sau:

+ Tuổi mía tốt nhất: 6-8 tháng tuổi.

+ Loại mía : Mía tơ hoặc mía gốc 1 là tốt nhất

+ Độ thuần : trên 98%

+ Độ khỏe: Mía sinh trưởng tốt, không bị vống lốp, căn cỗi, dưới 10% cây bị chồi nách, dưới 10% cây đỗ ngã. Chỉ lấy giống ở những ruộng không bị bệnh than, thối đỏ, không có triệu trứng các bệnh virus, vi khuẩn và nấm bệnh…

Hom mía giống phải đạt các yêu cầu sau:

+ Có từ 2-3 mắt mầm

+ Không nhiễm sâu bệnh

Trong trường hợp nắng hạn hom mía nên lấy từ giữa thân lên ngọn và khi trồng cần xử lý hom bằng cách ngâm qua nước vôi hoặc ngâm vào nước lã. Nếu không có điều kiện ngâm thì có thể phun nước trước khi trồng 24h để hom mía phát triển tốt nhất.

Thu hoạch , vận chuyển và bảo quản hom mía giống:

– Thu hoạch mía giống: Dùng dao sắc chặt nguyên cây, giữ nguyên bẹ lá trên thân mía, bó thành bó dưới 15kg và buộc lại thật chặt

– Vận chuyển và bảo quản mía giống: Mía giống cần được vận chuyển nhanh đến nơi trồng, tránh làm lẫn giống, bốc xếp giống nhẹ nhàng, hom giống phải được che mát và bảo đảm thông thoáng.

– Kỹ thuật cắt hom: Nên ra hom ngay sau khi chặt cây giống và trồng càng sớm càng tốt.

– Không nên để hom giống quá 7 ngày kể từ sau khi chặt. Lột bỏ bẹ lá sau đó dùng dao sắc để cắt hom giống, không làm dập nứt thân và mầm. Chỉ ngâm và ủ hom giống trong trường hợp: Giống có đặc tính moc mầm chậm và kém hoặc muốn tranh thủ mùa vu. (Nếu có điều kiên nên xử lý hom giống trước khi trồng bằng cách ngâm trong nước không quá 24 giờ, sau đó xử lý bằng nước nóng 52% trong 30 phút, sau khi ngâm ủ nên trồng ngay).

Cách trồng mía:

Thời vụ:

– Trung du miền núi phía bắc: 1/1 -30/4 (phụ 1/9-30/11)

– Bắc Trung Bộ: 1/1-30/04 (phụ 1/10-15/12)

– Duyên Hải Nam trung Bộ: 1/1-1/3 (phụ 1/6-30/8)

– Tây Nguyên : 1/10-30/11 ( phụ 1/5 – 30/6)

– Đông Nam Bộ 15/10-3012 (phụ 15/4-15/6)

– Tây Nam Bộ 1/4-30/6 (phụ 15/11-30/1)

Mật độ và cách trồng:

Mật độ: Tùy điều kiện đất đai, loại giống để bố trí mật độ, lượng hom giống cần từ 35.000 – 40.000 hom/ha (mỗi hom có 3-5 mắt) tương đương 8-10 tấn

Khoảng cách hàng: Tuy việc canh tác thủ công hay bằng mày để bố trí khoảng cách hàng đơn từ 0,8-1,2 m (canh tác thủ công) hoặc hàng kép 1.2-1,8m x 0,6-0,4m (canh tác bằng máy).

Cách trồng:

Đặt hom theo rãnh hàng đơn cách nhau 1m hoặc hàng kép (1,4m) phủ kín đất từ 3-5 cm (trồng không chính vụ) hoặc 7-10 cm (trồng chính vụ). Đất khô cần nén chặt cho hom tiếp xúc với đất. Trong vụ trồng chính nếu có điều kiện nên tưới ẩm sau khi trồng và sử dụng màng phủ nông nghiệp giữ ẩm và hạn chế cỏ dại cho mía.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ngăn chặn dịch bệnh từ thức ăn và nguồn dinh dưỡng tối ưu cho nuôi trồng thủy sản

Ngành thủy sản phát triển và thay đổi nhanh chóng với sự gia tăng các hệ thống nuôi nước ngọt, nước mặn bằng thức ăn ép đùn. Trong khi, bột cá trở thành vấn đề nóng của ngành thức ăn thủy sản bởi thế giới vẫn đang nỗ lực tìm kiếm nguồn protein bền vững có khả năng thay thế.

Phần 1: Chặn dịch bệnh từ nguồn thức ăn

Nguồn protein động vật dồi dào nhất và có thể trở thành nguyên liệu thức ăn thủy sản chính là những nguồn protein trong ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm; gồm sản phẩm phụ từ gia cầm, bột gia cầm, bột lông vũ, bột huyết, bột xương heo và sản phẩm phụ từ động vật nhai lại. Đây thực sự là nguồn protein vô tận. Ngoài những sản phẩm này, còn có nhiều loại bột protein thực vật có nguồn gốc từ các loại hạt có dầu, hạt ngũ cốc và các loại protein đậm đặc từ đậu Hà Lan, khoai tây, đậu lupin.

Có lẽ, nguồn protein tiềm năng và đáng chú ý nhất chính là nguồn protein vi sinh vật từ nguồn chất thải và chất nền trong ngành nông nghiệp chi phí thấp, gồm protein đơn bào (SCP), nấm men đơn bào, tảo đơn bào. Một nguồn protein là bột protein từ các loại động vật không xương sống (như côn trùng, giun nhiều tơ) cũng đang ngày càng được quan tâm. Thế nhưng chỉ trừ khi chúng ta sản xuất được hàng nghìn tấn sản phẩm này, thì chúng mới được coi là nguồn protein không giới hạn.

Tuy nhiên, dù là nguồn thức ăn nào, chúng đều có thể trở thành hiểm họa gây ra dịch bệnh nếu chất lượng không đảm bảo. Thời gian qua, dịch bệnh AHPND và EMS đã tàn phá các trang trại nuôi tôm. Nguồn thức ăn từ vật sống chưa qua tiệt trùng trong suốt chu kỳ nuôi tôm bố mẹ, tôm giống (gồm cả việc sử dụng các loại giun nhiều tơ sống, Artemia và sinh khối) và một lượng ít các loại thức ăn từ bột đầu tôm trong pha nuôi tăng trưởng đều tiềm ẩn hiểm họa dịch bệnh.

Thật tiếc chưa có nhiều quốc gia quản lý an toàn thức ăn chăn nuôi thủy sản bằng luật pháp, ví dụ như hệ thống quản lý sản xuất các loại thức ăn chăn nuôi tổng hợp. Do đó, việc làm thế nào để đảm bảo người nông dân tiếp cận được nguồn thức ăn chăn nuôi chất lượng, đáp ứng mọi tiêu chí dinh dưỡng của các vật nuôi trong khâu tăng trưởng và khỏe mạnh vẫn còn là vấn đề nan giải.

Để đảm bảo nguồn thức ăn không còn là mầm mống của dịch bệnh cho các trại thủy sản, chúng ta cần vạch ra những bước đi cụ thể cho chuỗi cung ứng thức ăn chăn nuôi. Để làm được việc này, có hai hướng khả thi. Trước tiên, những nguồn nguyên liệu thức ăn từ động vật hay thực phẩm sống khi bán ra thị trường buộc phải đảm bảo sạch bệnh hoặc được khử trùng trước khi vận chuyển. Thứ hai, nguồn thức ăn đó cũng phải được khử trùng trong suốt giai đoạn chế biến dù là chế biến bằng công nghệ ép đùn hay xạ chiếu tia gamma. Ngoài ra, việc cho vật nuôi ăn lại nguồn thức ăn chế biến từ chính nó (ví dụ dùng bột đầu tôm để nuôi tôm) nên bị cấm bằng cơ chế luật pháp cứng rắn; mục đích ngăn chặn sự xuất hiện dịch bệnh từ các nguồn thức ăn chế biến bằng vật nuôi nhiễm bệnh.

Phần 2: Nguồn dinh dưỡng tối ưu

Những vướng mắc lớn nhất trong ngành sản xuất thức ăn thủy sản, cụ thể là ngành thức ăn nuôi tôm hiện nay lại nằm ở các trại nuôi và khâu quản lý. Theo tôi, ngành công nghiệp nuôi tôm phải học hỏi và đi theo ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm ở khía cạnh an toàn sinh học và dứt khoát từ bỏ hệ thống nuôi mở trong ao để phát triển và xây dựng hệ thống nuôi khép kín theo các tiêu chuẩn an toàn sinh học đầy đủ.

Ngoài ra, một nguồn thức ăn nuôi tôm được đánh giá là thành công hay không lại phụ thuộc vào khâu quản lý thức ăn ở trang trại đó, đây chính là nhiệm vụ của người nông dân (những người trực tiếp tham gia sản xuất). Các “vệ tinh” xung quanh là các công ty sản xuất thức ăn và chính phủ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và hỗ trợ người nông dân hoạt động. Hầu hết trại nuôi tôm tại châu Á đều do nông dân làm chủ và hoạt động theo quy mô nhỏ với nguồn lực tài chính và cơ hội tiếp cận kênh thông tin khoa học kỹ thuật chính thống còn rất hạn chế. Ngành tôm nuôi cũng sẽ nối gót ngành cá vây nuôi từ việc tăng cường sử dụng các loại thức ăn ép đùn nhằm cải thiện dinh dưỡng và tăng trưởng cho tôm cho đến gia tăng nguồn thức ăn an toàn sinh học. Cuối cùng là giảm chi phí thức ăn trên mỗi đơn vị sản phẩm, chú trọng sản xuất các loại phụ gia thức ăn nhạy cảm nhiệt, enzymes, vitamin, chất tạo màu và probiotics.

Khi bạn quản lý thức ăn tốt, thì cũng góp phần mang lại thành công cho cả trang trại. Cần phải nhớ rằng, ngành nuôi trồng thủy sản đang được coi là chìa khóa giải bài toán an ninh lương thực, nhất là khi dân số toàn cầu bùng nổ. Cá và các loại thủy sản có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp chất dinh dưỡng cho con người. Đây là một trong 3 nguồn protein chủ lực cho con người sau ngũ cốc và sữa, chiếm 6,5% tổng nguồn cung protein toàn cầu hoặc 16,4% tổng nguồn cung protein động vật. Tuy nhiên, nguồn thủy sản tự nhiên không thể đáp ứng được nhu cầu của thế giới khi dân số gia tăng suốt 2 thập kỷ qua và do đó nuôi trồng thủy sản trở thành tia hy vọng về một nguồn cung protein bền vững. Mặt khác, thủy sản là nguồn dinh dưỡng có giá phù hợp với người tiêu dùng, thậm chí ở những quốc gia châu Phi nơi có thu nhập thấp và ở châu Á. Riêng khu vực châu Á, cá và sản phẩm thủy sản là nguồn protein chủ lực sau ngũ cốc và các loại rau, chiếm 7,5% nguồn cung protein toàn khu vực và 21,9% nguồn cung protein động vật nói riêng.

Từng nghiên cứu sâu về dinh dưỡng thủy sản, tôi luôn mong chờ mọi cá nhân và tập thể trong ngành nuôi trồng thủy sản nhận thức được giá trị thực của từng sản phẩm mà họ đang sản xuất. Đó không chỉ là những sản phẩm chứa hàm lượng dưỡng chất quan trọng hàng đầu như DHA hay EPA, mà tất cả các dưỡng chất khác như các loại protein chất lượng cao, tốt cho tiêu hóa; từ đó đưa thủy sản thực sự trở thành một “siêu thực phẩm” – sự lựa chọn dinh dưỡng tối ưu cho con người.

Nguồn: Tiến sĩ Albert C.J.Tacon được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bảo vệ thủy sản mùa mưa lũ

Đối với những đối tượng nuôi trong ao , đầm, hồ ( ao nuôi vỗ cá bố mẹ, ao ương giống và ao nuôi thương phẩm )

– Kiểm tra và tu bổ lại bờ ao chắc chắn đảm bảo giữ được nước. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi.
– Tại cống xả tràn đặt lưới chắn hình chữ V để tăng diện tích thoát nước nhằm tránh cá thoát ra ngoài khi có lũ lụt lớn xảy ra.
– Tháo bớt nước trong ao, chuẩn bị đăng chắn, dụng cụ cọc tre, cuốc xẻng để gia cố sửa chữa hệ thống bờ, cống, có lưới chắn phòng tràn bờ gây thất thoát thủy sản nuôi khi mưa to, gió lớn. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi.
– Bổ sung vitamin C vào thức ăn để giúp cá, tôm tăng sức đề kháng. Đối với tôm 1 kg Vita – C/ 500 kg thức ăn, đối với cá 2g Vita – C/1kg thức ăn
– Sau mỗi đợt mưa bão cần tiến hành thu dọn kịp thời cành, lá cây trong ao; đồng thời tiến hành kiểm tra chất lượng nước trong ao nuôi để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp như bón vôi (1 – 3 kg/100m2) để ổn định môi trường, điều chỉnh màu nước hoặc có thể thay nước khi cần thiết.
Những ao nuôi đạt cỡ thương phẩm nên thu hoạch để hạn chế thiệt hại.Đối với những ao nuôi tôm thương phẩm bà con cần chú ý theo dõi và bổ xung oxy hợp lý bằng quạt nước hoặc máy bơm đồng thời tránh phân tầng nước trong ao nuôi. Chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng điện lưới bị cắt. Bờ ao phải đắp cao hơn mức nước cao nhất ít nhất 0,4-0,5m trở lên, Ao nuôi cần có hệ thống thu gom nước mưa xung quanh, tránh nước mưa xung quanh đổ dồn xuống ao, làm pH giảm đột ngột, có thể làm cá chết hàng loạt.

Đối với những mô hình nuôi cá lúa

– Gia cố bờ ruộng chắc chắn và đắp bờ cao hơn mực nước 0,5 m để vượt lũ, xung quanh ruộng nuôi phải bố trí nhiều cống thoát nước.
– Phải căng lưới bao xung quanh bờ ruộng và thường xuyên kiểm tra để khắc phục trường hợp lưới rách hoặc nước chảy làm trống dưới chân lưới sẽ thất thất thoát
– Thường xuyên kiểm tra lưới, hệ thống cống, bờ và đắp lại những nơi xung yếu chống tránh tình trạng vỡ bờ. Dọn sạch đăng cống, mương rãnh để nước thoát nhanh.
– Chuẩn bị máy bơm tiêu úng khi cần thiết.( chuẩn bị thêm máy phát điện nếu có để đề phòng điện lưới bị mất )
– Phương án phòng tránh lũ lụt cần phải được tính toán cho cả vùng nuôi.

Đối với những mô hình nuôi lồng bè trên sông và hồ nước lớn

– Kiểm tra lại lồng bè, gia cố lại hệ thống dây neo, phao lồng và di chuyển vào nơi kín gió, có dòng chảy nhẹ để tránh gió bão làm hỏng lồng
– Trong trường hợp lồng không thể di chuyển cần hạ độ sâu của lồng để giảm bớt sóng, gió.
– Thường xuyên vệ sinh lồng sạch sẽ, thông thoáng để thoát nước và treo túi vôi trước dòng chảy để phòng bệnh cho cá.
– Chuẩn bị thuyền máy, phao cứu sinh hỗ trợ khi cần thiết.
– Đối với người nuôi trồng thủy sản.Tuyệt đối không ở lại chòi canh, lồng bè nuôi khi có mưa bão lớn đổ vào nhằm đảm bảo an toàn tính mạng cho người nuôi thủy sản.Có kế hoạch sơ tán dụng cụ thiết bị, vật tư, thức ăn…Theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết: mực nước lũ trên các con sông và tình hình mưa bão trên các phương tiện thông tin đại chúng để chủ động đối phó nhằm bảo vệ thuỷ sản nuôi một cách có hiệu quả.

Đối với nuôi tôm nước lợ

– Những vùng nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh trong vùng đầm hiện nay, người nuôi cần kiểm tra hoạt động của tôm nuôi và môi trường nước trước và sau mưa để có biện pháp xử lý kịp thời, tăng cường gia cố, tu sửa bờ ao, cống lấy nước để hạn chế hư hỏng, sạt lở làm thất thoát sản phẩm.
– Thường xuyên theo dõi, cập nhật dự báo thời tiết để có biện pháp thu hoạch trước khi lũ lụt xảy ra.
– Để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế hoạch điều tiết nước như trước khi mưa to cần phải lấy nước có độ mặn thích hợp vào ao và để mực nước trong ao cao nhất. Trong khi mưa nên tránh các hoạt động làm xáo trộn nước trong ao nuôi và sau khi mưa cần nhanh chóng rút bớt nước ở tầng mặt của ao bằng cách tháo các cánh phai của cống thoát.
– Những vùng nuôi tôm quảng canh cải tiến thân thiện môi trường, nuôi theo hình thức đánh tỉa thả bù, người nuôi khẩn trương tận thu các sản phẩm: tôm; cua; cá, tránh thất thoát sản phẩm khi bão lụt xảy ra
– Đối với các vùng đất bị chua phèn, rắc vôi quanh bờ phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Đồng thời cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi điện lưới bị mất
– Các vùng nuôi tôm trên cát chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão từ biển đổ vào, người nuôi cần phải quan tâm đến việc củng cố ao nuôi vững chắc, chủ động nguồn nước phục vụ cho sản xuất. Tích cực áp dụng các biện pháp phòng bệnh cho tôm khi thời tiết thay đổi bất thường.

Đối với nuôi thủy sản trên biển

Tiến hành thu hoạch trước mùa mưa lũ nếu cá, tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Nếu không thể thu hoạch trước mùa mưa lũ, cần kiểm tra lại lồng bè, tu sửa lại những chỗ xung yếu, củng cố lại các dây neo, tìm vị trí an toàn để di chuyển lồng, bè vào những nơi kín gió, nơi không bị ảnh hưởng nước ngọt, dòng chảy nhẹ để tránh khi bão gió lớn xô đẩy làm vỡ lồng, bè.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ra đời thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P.

Sự ra đời của thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P. trong thời điểm hiện nay không chỉ là niềm vui lớn đối với người tiêu dùng trong nước mà còn mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu thịt heo cho ngành chăn nuôi VN.

Nếu như thịt heo VietGAP đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng ở phạm vi trong nước thì thịt heo GlobalG.A.P. đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt, chứng nhận GlobalG.A.P. chỉ có giá trị trong vòng một năm từ ngày được cấp giấy chứng nhận, và phải được đánh giá lại mỗi năm thông qua các đợt thanh tra định kỳ, đột xuất.

Ông Tôn Văn Tân, Tổng giám đốc Công ty CP Anova Farm – đơn vị cho ra đời heo thịt đạt chuẩn GlobalG.A.P. đã khẳng định giá của công ty sẽ không cao hơn nhiều so với giá heo trên thị trường hiện nay, dù các tiêu chí, yêu cầu của tiêu chuẩn GlobalG.A.P. khắt khe hơn nhiều so với VietGAP. Cụ thể, theo tiêu chuẩn GlobalG.A.P. dành cho trang trại, đơn vị tham gia phải đạt 100% của 143 tiêu chí xếp loại Major Must (tiêu chuẩn cần thiết chính), 95% của 69 tiêu chí xếp loại Minor Must (tiêu chuẩn cần thiết phụ) và 36 Recommendation (tiêu chuẩn khuyến nghị), qua nhiều bước tự đánh giá và thanh tra – kiểm tra từ Tổ chức Chứng nhận quốc tế ControlUnion. Cho nên, sản phẩm heo thịt thương phẩm từ trang trại đạt chuẩn GlobalG.A.P. luôn được kiểm soát nghiêm ngặt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không chứa chất cấm hay dư lượng kháng sinh, thuốc an thần, đảm bảo chất lượng dinh dưỡng trong thịt cao và có thể truy xuất nguồn gốc.

Tổng giám đốc Anova Farm nhận chứng nhận thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P. từ Tổ chức Chứng nhận quốc tế ControlUnion

Đại diện một hệ thống siêu thị lớn tại TP.HCM cũng cho biết: “Chúng tôi sẽ dành vị trí đặc biệt đẹp và to cho thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P. vì chúng tôi muốn khách hàng của mình được ăn thịt heo ngon và đạt độ an toàn vệ sinh thực phẩm cao như ở các nước châu Âu.

Thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P.

Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Phó giám đốc Sở Công thương TP.HCM, hoan nghênh và đánh giá rất cao sự xuất hiện thịt heo đạt chuẩn GlobalG.A.P. của Anova Farm. Đây không chỉ là tin vui với người tiêu dùng mà còn là niềm tự hào đối với ngành chăn nuôi cả nước.
Hiện Anova Farm có hai trang trại tại tỉnh Bình Thuận và Bà Rịa-Vũng Tàu với quy mô 2.400 heo nái và 12.000 heo thương phẩm. Hằng năm, ngoài cung cấp thị trường hơn 55.000 con heo thịt, Anova Farm còn cung cấp hơn 5.000 heo hậu bị đực và cái. Tất cả các loại heo của Anova Farm đều được các chuyên gia đánh giá cao, bởi quá trình sản xuất của Anova Farm khép kín từ nguồn heo giống nhập khẩu trực tiếp từ Mỹ, sử dụng nguồn thức ăn đạt chuẩn GlobalG.A.P. từ Nhà máy Anova Feed, nguồn vắc xin nhập khẩu đạt chuẩn WHO-GMP bởi Anova BioTech, nguồn thuốc thú y sản xuất theo chuẩn WHO-GMP của các công ty thuộc Tập đoàn Anova; đảm bảo heo được chăn nuôi đúng chuẩn quốc tế, được áp dụng quy trình kiểm soát nghiêm ngặt bằng phần mềm quản lý chăn nuôi từ Hà Lan, đúng như cam kết của ông Tôn Văn Tân, Tổng giám đốc Anova Farm: “Anova không chỉ luôn đem đến cho người tiêu dùng nguồn heo an toàn và chất lượng, truy xuất nguồn gốc rõ ràng mà còn hướng đến xây dựng mô hình chăn nuôi và sản xuất bền vững, nâng cao tiêu chuẩn của ngành chăn nuôi và thực phẩm, góp phần củng cố nền nông nghiệp công nghệ cao tại VN”.
Theo thanhnien.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Biện pháp bảo vệ vật nuôi mùa mưa bão

Ở tỉnh ta mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa tập trung vào tháng 9,10,11, tổng lượng mưa trong 3 tháng chiếm gần 70% lượng mưa cả năm. Vũ lượng lớn, lại thường kèm theo bão mạnh, tạo ra các trận lũ quét ở vùng đồi núi và úng lụt thường xuyên ở vùng đồng bằng, từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau có rét và mưa phùn kéo dài.

Bão, lũ là thời điểm đàn gia súc, gia cầm dễ bị dịch bệnh phát sinh và lây lan. Thời tiết khắc nghiệt đã làm thiệt hại lớn đến ngành chăn nuôi ở các địa phương trên toàn tỉnh. Bài viết hướng dẫn cách phòng chống dịch bệnh, bổ sung thức ăn để tăng cường sức đề kháng, vệ sinh chuồng trại cho gia súc, gia cầm mùa bão lũ.

Để chủ động bảo vệ đàn gia súc, gia cầm có hiệu quả người chăn nuôi cần lưu ý  thực hiện những nội dung sau:

Trước mưa bão, lũ lụt

– Thực hiện việc kiểm tra và chằng chống chuồng trại để tăng độ vững chắc nhằm đề phòng bão, lũ. Nếu chuồng nuôi lợp bằng lá, tôn tráng kẽm, fibro xi măng chưa kiên cố thì có thể dằn lên mái các loại thanh nẹp bằng gỗ, sắt, dây kẽm cỡ lớn hoặc các bao chứa cát để hạn chế tốc mái khi có bão.

– Đối với những vùng có nguy cơ ngập lụt, cần chủ động tôn cao nền chuồng, làm chuồng tránh lũ,  làm sàn kê cao và dự trữ thức ăn đầy đủ, làm rèm che chắn, tránh mưa tạt, gió lùa.

– Đối với những vùng bị ngập lụt, bằng mọi cách phải di dời gia súc, gia cầm lên những vùng đất cao, làm chuồng che chắn cẩn thận, dự trữ thức ăn đầy đủ và bảo quản thức ăn khô ráo, không bị ẩm mốc, nhất là không cho gia súc, gia cầm uống nước lũ đã nhiễm bẩn.

Che chắn cẩn thận để bảo vệ vật nuôi

– Tiêm phòng đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh cho gia súc như bệnh tả, tụ huyết trùng, lở mồm long móng… ở trâu, bò, lợn,dê;  bệnh tiêu chảy ở lợn con; bệnh Gumboro, tụ huyết trùng, cầu trùng… ở gia cầm. Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng và  khẩu phần ăn cho vật nuôi để tăng sức đề kháng, dự trữ nước uống cho vật nuôi để vật nuôi có đủ nước sạch để uống.

– Đối với những gia đình có đàn gia súc, gia cầmlớn thì nên xuất bán vì trong thời kỳ này khan hiếm thức ăn và hạn chế khả năng rủi ro do lũ cuốn trôi, chết cũng như dịch bệnh có thể xảy ra.

Trong và sau mưa bão, lũ lụt

Khi lũ lụt, mầm bệnh theo nước lũ sẽ lan đi khắp nơi, mặt khác, trong khi có sự di chuyển đàn gia súc, gia cầm tránh lũ sẽ đem theo các mầm bệnh từ nơi này tới nơi khác. Các khâu chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh tẩy uế chuồng trại không được thực hiện tốt làm suy giảm đáng kể sức chống chịu bệnh tật ở vậtnuôi, khiến cho các bệnh truyền nhiễm như tiêu chảy, dịch tả, thương hàn… dễ lây lan và bùng phát, do vậy người chăn nuôi cần:

– Vệ sinh chuồng trại, môi trường và dụng cụ chăn nuôi thật tốt, thường xuyên quét dọn, tẩy rửa, vệ sinh dụng cụ, chuồng trại, và môi trường xung quanh khu vực chăn nuôi  để vật nuôi được ở sạch. Định kỳ 1 tuần 1 – 2 lần phun tẩy uế chuồng trại và khu vực xung quanh bằng các chất sát trùng. Khi nước rút đến đâu thì dọn vệ sinh, phun thuốc sát trùng, tiêu độc, diệt mầm bệnh đến đó.

Vệ sinh chuồng trại để triệt mầm bệnh

– Sau lũ lụt, nguồn thức ăn cho gia súc, gia cầm khan hiếm do rau màu bị lũ cuốn, hư hỏng, đồng cỏ bị ô nhiễm. Bùn đất và khí hậu ẩm ướt đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của đàn gia súc, gia cầm. Do vậy vật nuôi cần được chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo, không bị bỏ đói hoặc ăn những loại thức ăn thiếu dinh dưỡng, bị mốc, kém chất lượng. Đối với gia súc già yếu và gia súc non cần có chế độ chăm sóc đặc biệt như tăng cường các loại thức ăn bổ sung và các loại thức ăn giàu dinh dưỡng khác để gia súc già mau chóng hồi phục sức khỏe và gia súc non tăng trưởng bình thường. Hạn chế không cho vật nuôi uống nước bẩn, ao, bùn.

– Đối với xác vật nuôi chết: Phương pháp hiệu quả nhất là đốt xác vật chết, phun thuốc diệt côn trùng hoặc thuốc sát trùng hoặc tưới dầu hỏa lên xác vật chết để chống các loài ăn thịt và côn trùng xâm nhập, đợi khi nước rút thì đem chôn lấp.

– Rà soát lại kết quả tiêm phòng định kỳ, tiêm phòng trước mưa, bão. Những nơi tiêm chưa đạt yêu cầu thì tổ chức tiêm phòng bổ sung, nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng bệnh cho cá nuôi mùa mưa lũ

Các dạng bệnh ký sinh trùng trên cá nuôi (đặc biệt là bệnh ngoại ký sinh trùng) thường phát sinh nhiều trong mùa mưa, lũ. Lý do là trong mùa mưa, nhiệt độ môi trường nước thường xuống thấp- nhất là vào những lúc thời tiết âm u, mưa lũ kéo dài và hàm lượng chất hữu cơ thường tập trung cao trong nước do sự rửa trôi của vật chất hữu cơ xuống các ao, hầm, sông, kênh, rạch. Đây là yếu tố tạo điều kiện cho các ký sinh trùng như: Trùng bánh xe, trùng mỏ neo, trùng quả dưa, sán lá … phát sinh và phát triển trong môi trường nước.


Để phòng trị các dạng bệnh ngoại ký sinh trùng trên cá, ngư dân thường sử dụng các loại hoá chất như: Formol, thuốc tím, phèn xanh (sulphat đồng), vôi, muối..
Nhưng hiện nay, trước xu hướng hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước do các hoá chất độc hại cùng với phương châm “phòng bệnh hơn trị bệnh”, rất mong bà con nông dân thực sự quan tâm đến công tác phòng bệnh và chỉ sử dụng các loại hoá chất không làm ô nhiễm môi trường nước (vì hoá chất Formol, thuốc tím, phèn xanh độc hại làm ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng, cần hạn chế sử dụng- đặc biệt là hạn chế trong mô hình nuôi cá bè và cá đăng quần, và việc sử dụng các loại hoá chất trên thường gây sốc cho cá trong quá trình sử dụng).


Hai loại hoá chất nên dùng để phòng bệnh cho cá nuôi (thường gặp nhất là các bệnh ngoại ký sinh trùng) trong mùa mưa lũ, đó là muối (NaCl) và vôi nông nghiệp (CaCO3)
+ Vôi và muối cho vào túi vải treo ở 4 gốc nơi cho cá ăn và nên bắt đầu treo khi cho cá ăn (mỗi loại một túi cho mỗi góc) với liều lượng:
– Nuôi bè và đăng quần: Vôi: 2-5 kg/túi, muối 10-20kg/túi.
– Nuôi ao hầm: Vôi: 1-2kg/túi, muội-10kg/túi
+ Liều lượng trên có thể thay đổi trong phạm vi cho phép tuỳ theo qui mô, diện tích nuôi và thể tích nước của đàn cá nuôi. Định kỳ 10-15 ngày thực hiện một lần. Nếu phát hiện đàn cá nuôi có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ dội, trên da và mang có nhiều nhớt, cá bệnh chết với số lượng ít và tăng không đáng kể thì thực hiện việc treo vôi và muối trong 3 ngày liên tục (trong mô hình nuôi ao hầm thì mỗi ngày thay 10-15% thể tích nước ao). Đồng thời đem mẫu cá bệnh nhờ cán bộ thuỷ sản hỗ trợ trong việc chuẩn đoán bệnh cá.

Bên cạnh đó, có thể sử dụng thêm lá xoan, dây giác, cỏ mực đập giập bọc lại bằng lưới cước treo ở đầu bè hoặc ở chỗ cho ăn với liều lượng mỗi lần treo từ 5-10kg để nâng cao hiệu quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trùng trong mùa mưa, lũ.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nông nghiệp thiệt hại nặng nề sau bão số 12

Cơn bão số 12 đã đi qua, tuy nhiên những hậu quả mà nó để lại vô cùng nặng nề.

Xơ xác, tan hoang, mất mát là những gì có thể chứng kiến được tại những nơi mà bão số 12 Damrey đi qua: Vạn Ninh, Bình Định, Phú Yên,…

Hàng ngàn ngôi nhà bị tốc mái, đổ sập, cây cối ngã đổ sát rạt, đau đớn hơn, một số người vẫn đang mất tích trong sự bất lực của người thân. Bên cạnh đó, những thiệt hại về vật chất, nông nghiệp, thuỷ sản cũng rất nặng nề. Dưới đây là một số số liệu sơ bộ sau cơn bão:

Thiệt hại về nông nghiệp

Tính đến thời điểm này trên địa bàn Bình Định đã có 379ha lúa vụ mùa (vụ 3) chưa kịp thu hoạch bị ngã đổ, 21,6ha lúa giống gieo sạ chuẩn bị cho vụ Đông Xuân 2017-2018 bị trôi, 100 con gia cầm bị chết, 10 lồng bè nuôi trồng thuỷ sản bị cuốn trôi.

Tại Phú Yên, trên 2.000 ha cao su. Hơn 20.000ha mía sắn bị ngã đổ.

Tại Nha Trang, khoảng 1.550 ha lúa, 70 ha hoa màu bị ngập, 5.700 gia cầm và 200 gia súc bị cuốn trôi, 15 ha tôm, 12 ha ốc bị thiệt hại. Tổng thiệt hại ban đầu ước tính khoảng 40 tỷ đồng.

Người dân lao đao vì lúa ngã sau bão

Về thuỷ sản

Bình Định bị thiệt hại nặng nề, đến chiều 4/11 đã có 17 chiếc tàu bị chìm, 2 tàu bị lũ cuốn trôi. Số lượng tàu hàng bị chìm tại khu vực cảng Quy Nhơn cũng tăng từ 6 chiếc vào trưa nay lên 8 chiếc, theo báo cáo của Cảng vụ Quy nhơn, vào lúc 16 giờ ngày 4/11 có 2 thuyền viên bị chết và cứu được 70 thuyền viên khác.

Tại Phú Yên, 104 tàu thuyền bị chìm, 23 lồng tôm hùm bị cuốn trôi mất cùng hơn 2.600 con cá mú bị vỡ bờ thoát ra biển.

Tại Nha Trang, chiều 4/11, lãnh đạo Trạm Biên phòng Hòn Rớ cho biết theo thống kê sơ bộ ít nhất 10 tàu cá (tàu mũi nhọn) có công suất 50 CV trở xuống đang neo đậu xung quanh cảng cá Hòn Rớ bị bão số 12 đánh chìm, chỉ nổi một phần cabin. Hầu hết là những chiếc tàu mũi nhọn, có giá trị hàng chục triệu đồng. Riêng các tàu công suất lớn hiện vẫn an toàn, không bị thiệt.

Tàu chìm sau cơn bão khủng khiếp

Nhiều ngư dân cho biết, mặc dù trước khi bão số 12 đổ bộ vào bờ họ đã neo đậu, buộc dây cẩn thận nhưng do gió to, mưa lớn đã đánh úp tàu. Hiện nay các chủ tàu ở đây đang đợi thời tiết ổn định mới tính đến trục vớt.

Tàu thuyền được buộc dây cẩn thận vẫn không thể chống lại được sức gió từ bão

Theo UBND huyện Vạn Ninh, bão số 12 đã khiến gần 12.400 lồng bè thủy sản của địa phương này bị thiệt hại hoàn toàn.

Tại xã Vạn Thắng (Vạn Ninh) có hàng chục hộ nuôi tôm hùm với hàng trăm lồng bè bị bão nhấn chìm hoàn toàn. Không giấu được nỗi buồn, anh anh Lê Thanh Bình (trú thôn Quảng Hội 2, Vạn Thắng, Vạn Ninh) cho biết: “Vụ tôm hùm vừa qua tôi thả nuôi 1000 con tôm hùm giống. Tôm nuôi được 7 tháng rồi. Cơn bão ập đến đã cuốn đi tất cả. Tính cả tiền giống, tiền chi phí thức ăn, làm lồng bè thì nhà tôi đã mất khoảng 1 tỷ đồng”.

Khung cảnh hoang tàn sau cơn bão số 12

Tương tự như gia đình anh Bình, năm nay, chị Trần Thị Hoài (thôn Quảng Hội 2, Vạn Thắng) cũng bị bão cuối trôi, phá hủy lồng bè nuôi 5000 con tôm hùm lớn nhỏ, thiệt hại lên đến gần 3 tỷ đồng.

Ở khu vực Đầm Môn (xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh) cũng có hàng trăm hộ dân sinh sống bằng nghề khai thác và nuôi trồng thủy hải sản. Trong đó phần lớn là nuôi tôm hùm và cá chim, cá bớp.

Lồng bè bị thiệt hại nặng nề

Chia sẻ với PV, một người dân thôn Đầm Môn cho biết, gia đình chị vay mượn ngân hàng hơn 300 triệu đồng để nuôi tôm hùm, đến nay cũng được hơn 5 tháng tuổi. Bão đến bất ngờ quá, cuốn hết tất cả. Bây giờ cả gia đình chị không biết trông phải trông cậy vào đâu.

Nói trong cay đắng, ông Tư Bụi (Đầm Môn, Vạn Thạnh) cho biết: “Ngay khi có thông tin bão đổ bộ, cán bộ xã và xóm ngay lập tức đã thông báo với bà con để đưa thuyền vào nơi tránh trú. Tuy nhiên toàn bộ tài sản với gần 80 lồng bè nuôi tôm hùm của tôi bão đập nát, ước tính thiệt hại gần 2 tỷ đồng”.

Bao nhiêu tài sản ngư dân dồn vào NTTS lồng bè mất trắng

Theo thống kê sơ bộ của BCH PCTT – TKCN tỉnh Khánh Hòa, ngoài huyện Vạn Ninh toàn tỉnh còn có nhiều địa phương nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng như Nha Trang, Ninh Hòa, Cam Ranh… với 22.700 lồng bè nuôi tôm cá bị trôi hoàn toàn và chưa thể thống kê được mức thiệt hại cụ thể.

Cơn bão đi qua, gây nhiều thiệt hại cho bà con ngư dân ven biển. Tuy nhiên điều họ đang lo lắng là phần lớn gia sản, vốn liếng chìm trong biển đều từ nguồn vay mượn ngân hàng, nợ tiền thức ăn thủy sản chưa trả.

Ngoài ra, có rất nhiều người dân bị mất tích do đi kiểm tra bè nuôi trồng hải sản bị bão quăng quật.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

 

Kỹ thuật trồng hoa Tigon

Cây Ti gôn rất đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta, loài hoa mang hình dáng “trái tim vỡ” nhưng sắc hoa ti gôn thì lại đỏ thắm tươi tắn.Từng “trái tim vỡ” bé nhỏ kết thành chùm , hoa leo quanh hàng rào, hoa đong đưa đón nắng trên cao..thật là một loài cây cảnh đẹp, thêm một lựa chọn cho ta “xanh hóa” hàng rào ngôi nhà mình.

Hoa tigon

Cây Ti gôn có tên khoa học là Antigonon leptopus Hook.et Arn. Cây leo, thân gỗ, có củ mọc sâu trong đất. Thân mềm phân cành nhánh, dài, mềm, dáng rất đẹp. Đỉnh cành non dài, mọc vươn cao do có nhiều tua cuốn mảnh, đôi khi buông xuống. Hoa nhỏ bé xếp sát nhau thành một chùm dài, màu hồng nhạt, tươi, bóng, hoa ít khi nở xòe rộng, vì khi các cánh hoa mở hết là hoa bắt đầu rụng. Cụm hoa lại cho hoa nở dần từ gốc lên đỉnh, nên mùa hoa kéo dài (gần như quanh năm) và chùm hoa luôn có nụ ( hoa đẹp khi còn nụ). Nụ hoa hình tim có 3 cạnh.

Dưới đây là kỹ thuật trồng hoa xin gửi đến bà con.

Đất trồng

Hoa tigon được trồng trong chậu, đất trong chậu phải tốt, nhiều mùn, được xử lý sâu bệnh, nấm bệnh, độ Ph=7. Thành phần đất được cấu tạo như sau: 7 phần đất thịt, 2 phần rác mục, 1 phần cát + Nito, Photpho, Kali. Một loại đất khác có thành đơn giản và phổ biến hơn cũng thường được dùng để trồng hoa tigon bao gồm các thành phần sau: phân chuồng hoai mục 25%, đất màu 50%, tro trấu 25%, phân vô cơ 1%. Người trồng hoa có thể mua các loại thành phần này ở các nhà vườn. Kỹ thuật trồng hoa tigon được chia ra phân biệt làm hai cách.

Cách trồng hoa tigon

Cách thứ nhất là trồng bằng hạt hoặc cây con. Người trồng hoa sẽ cuốc, xới lỗ trên đất rồi gieo hạt hoặc đặt cây con xuống lỗ. Sau đó, lấp kín đất và tưới nước nhẹ làm ẩm. Chưa hết, để bảo vệ cây và để cây vườn đẹp, cần phải làm giàn bảo vệ.

Cách thứ hai là áp dụng phương pháp giâm cành. Người trồng cây cần chọn 1 cành già và um tùm, nếu có nhiều nhánh là tốt nhất đem về nhà. Sau đó chọn chỗ đất ẩm ướt và nhiều chất dinh dưỡng để đào 1 hố nhỏ nhỏ và cắm cành đó xuống. Khâu tiếp theo khá đơn giản, chỉ cần lấp đất lên, vùi hơi cao và tưới nước nhẹ làm ẩm.

Kỹ thuật chăm sóc sau khi trồng hoa tigon

Muốn có một giàn hoa tigon đẹp, người trồng hoa phải lưu ý chăm sóc kỹ, tưới một lượng nước vừa đủ mỗi ngày bởi nếu mới trồng mà tưới quá nhiều nước, hoa sẽ bị thối rễ và thối cành. Mỗi ngày tưới nước cho cây hai lần, cây phải được che mát trong bóng râm. Sau một tháng, mỗi ngày chỉ cần tưới nước cho cây một lần là đủ. Tưới cây trong chậu nên tưới vào buổi sáng hoặc lúc mát trời. Luôn chú ý đừng để cát đất đọng trên lá.

Dàn hoa tigon khi được chăm sóc kỹ

Sau khi trồng 10 ngày, cần xới váng cho gốc cây, vì cây hoa tigon chuộng đất xốp, màu mỡ, thoát nhiệt tốt, nên sau đó 20 – 25 ngày, tiếp tục làm cỏ, xới xáo 1 lần để cây sinh trưởng tốt. Những cây trồng dài ngày trong chậu cần phải bón thúc 2 – 3 lần, phân hoai phải được rải quanh gốc với liều lượng như sau: phân chuồng hoai: 0,5 – 1,5 kg/chậu, phân vô cơ: 2 – 4g/chậu (N-P-K).

Phải luôn chú ý chăm sóc, để ý, khi cây ra hoa, nụ thường có nhiều loại côn trùng phá hoại, cần phát hiện và xử lý ngay. Như vậy, mọi người sẽ có một giàn hoa đẹp, thơ mộng mà không tốn quá nhiều công sức, hoa tigon cũng là một cách để trang trí không gian nhà đẹp và lãng mạn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh

NGUỒN HÀNG

Để kinh doanh cá cảnh, bạn phải đến trại cá giống để mua cá về bán. Cá có giá từ 3.000 đồng đến vài triệu đồng/ cặp tùy loại cá, nên mua nhiều để được hưởng giá gốc.

PHỤ KIỆN

Trước tiên là bể chứa, hồ kính. Giá của bể từ 200.000 đồng/bể tùy loại. Ban đầu, chỉ nên mua 2–3 bể loại nhỏ hoặc vừa, khi nào việc kinh doanh ổn định thì trang bị thêm. Ngoài ra, cần có máy sục khí, bộ lọc nước, cây thủy sinh, vợt bắt, san hô để trang trí bể cá thêm thu hút. Bên cạnh đó còn có thức ăn, kệ để đựng bể cá, dung dịch vệ sinh bể. Có thể dễ dàng mua được những vật dụng này tại các siêu thị, chợ đầu mối.

XỬ LÝ NƯỚC

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh là cần phải chú ý tới nguồn nước. Nếu ở thành thị, chủ yếu dùng nước máy, bạn phải xử lý nước máy vì chúng có nhiều clo (chất tẩy) dễ làm chết cá. Để khử clo, bạn cho nước vào chậu lớn, đặt ở nơi có nhiều ánh sáng trời (có gió càng tốt, ít nhất 9 giờ) để clo mau bốc hơi hơn. Có thể dùng dung dịch khử clo (10.000 đồng/ lọ) song cũng đừng quá lạm dụng vì các thành phần hóa học trong dung dịch cũng có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cá. Đối với nước giếng, khả năng nhiễm phèn hoặc mặn cao, bạn dùng máy sủi để xử lý độ pH trong nước giếng, hoặc dùng than hoạt tính để khử.

TUÂN THỦ NGIÊM NGẶT CÁC QUY TẮC

Nhiệt độ thích hợp cho một bể cá nuôi là 26 – 28°C. Cần dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ thường xuyên. Nếu nước quá lạnh, dùng cây sưởi nhiệt (có bán ở các tiệm phụ kiện cá cảnh) để cân bằng lại.

• Ánh sáng: Ánh nắng trực tiếp hoặc tăm tối, thiếu nắng đều khiến cá dễ bị bệnh. Nên bổ sung đèn chiếu sáng cho hồ, dưới 8 giờ/ngày, với công suất nhỏ. Tốt nhất nên đặt hồ cá ở nơi râm mát.

• Ô-xy: Dùng máy sục khí (có bán ở các cửa hàng phụ kiện) để cung cấp ô-xy, giúp cá thở tốt hơn. Đối với những hồ có diện tích trên 70cm, bổ sung máy lọc nước để làm sạch nước cho hồ.

• Vệ sinh: Khi thay nước hồ cá, giữ lại khoảng 30% lượng nước cũ trong hồ và hòa với số nước mới thay để cá không bị chết do sốc nước, chênh lệch độ pH. Đối với những cặn bã, dùng ống bơm bằng tay để hút.

NẮM BẮT THỊ TRƯỜNG

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh cho thấy, khách chơi cá cảnh theo phong trào, phong thủy. Vì vậy, cần thông qua các kênh thông tin điện tử để biết loại cá nào đang thịnh, hoặc ít nhất những loài nào đang được mọi người nuôi phổ biến để đáp ứng đúng lúc. Bán cá cảnh cũng bám thời sự, cá càng lạ càng hợp thời thì càng bán đắt.

BÍ QUYẾT KINH DOANH

Tổng vốn cần khoảng 40 triệu đồng cho các khoản gồm bể kính, phụ kiện, mặt bằng và những giống cá phổ thông như bảy màu, lia thia, hồng két. Muốn kinh doanh những dòng cá cao cấp la hán, hồng long, cần đầu tư vài trăm triệu đồng và bổ sung thêm kiến thức.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Tập thể hình, ép cân cho cá lăng đen để tạo chất lượng độc đáo

Nuôi cá lăng đen vốn không xa lạ với người dân ở các tỉnh miền Bắc. Tuy nhiên, tuyệt chiêu giảm cân cho cá để chất lượng cá ngon hơn, săn hơn, bán đắt hơn thì quả là mới mẻ. Người đang sở hữu tuyệt chiêu đó là anh Cao Xuân Kiền ở bến phà Phú Hậu, xóm 9, xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Tập thể hình cho cá

Các mô hình nuôi cá với số lồng bè khủng cho sản lượng hàng trăm tấn mỗi năm tôi đã gặp không ít. Nhưng nuôi cá lớn không phải để bán ngay mà phải tập luyện cho con cá làm sao giảm hết mỡ như các vận động viên thể hình 6 múi rồi mới đem đi bán thì quả thật tôi mới gặp lần đầu.

Tôi theo anh Kiền từ TP Phủ Lý đến bến phà Phú Hậu, huyện Lý Nhân để tìm hiểu về những con cá đang được luyện tập giảm cân mỗi ngày. Anh Kiền cho biết, ngày xưa từng đi dọc con sông Kinh Thầy (Hải Dương) nhìn nhiều người nuôi cá trên những cái bè nổi đã khiến anh rất thích thú. Gắn bó với công việc nhà nước gần chục năm cũng không làm giảm được niềm đam mê sông nước, nên anh Kiền bỏ ngang công việc để về bến phà Phú Hậu lập nghiệp nuôi cá.

Khu vực nuôi cá của anh Kiền ở bến phà Phú Hậu 

Bắt đầu khởi nghiệp từ năm 2013, với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 600 triệu đồng, anh tập trung nuôi cá lăng đen với quy mô chỉ  6 lồng. Sau khi nuôi được 2 năm, anh mới nảy ra ý tưởng thử nghiệm các bước để ép cân cho cá.

Chuyện là, trong một lần ngồi taxi, anh Kiền được tài xế mách nước muốn có món cá ngon, trước tiên bỏ cá vào chậu nước pha muối khoảng 15 phút; cá xót, vận động nhiều nên thịt săn chắc, ăn rất ngon.

Về nhà anh làm thử ngay, thấy con cá gặp muối bơi nhanh quanh chậu, sau đó đem nấu lên ăn quả thật thịt cá ngon hẳn hơn mọi hôm. Đêm đó, anh có suy nghĩ khác về cách tìm đầu ra cho toàn bộ số cá mình đang nuôi ở bè. Lúc đầu, anh áp dụng thử 10 con, sau thấy hiệu quả, từ đó mạnh dạn nghĩ đến chuyện ép cân cho cá.

Một con cá lăng đen giống, anh Kiền nuôi khoảng 2 năm đạt từ 3-4 kg, có con đột biến thì được 5kg, với nguồn thức ăn hàng ngày chủ yếu là cá rô phi.

Cá sau khi được ép cân trong 30-40 ngày thì giảm khoảng 8 lạng, lúc đó ruột cá rất sạch, thịt săn, bụng không còn mỡ. Những con cá khi mang đi ép cân hoàn toàn không ăn gì trong những ngày này, thế nhưng đến lúc bán cá vẫn khỏe.

Ngày trước, trong quá trình ép cân vì chưa có kinh nghiệm nên thỉnh thoảng có con bị chết. Thế nhưng, sau 2 năm trau dồi kinh nghiệm, đến nay anh ép cân cho cá không còn nào bị chết nữa.

Để ép cân cho một con cá lăng đen, anh Kiền phải nghiêm khắc luyện tập cho chúng từ 20-40 ngày, gồm 2 giai đoạn.

Đầu tiên bắt cá dưới lồng nuôi lên cho riêng vào một cái lồng ép nhỏ ở bè, lúc này bắt đầu cho cá nhịn trong 5-10 ngày để cá quen với việc nhịn ăn. Vài ngày sau rắc 1kg muối trắng vào bể khoảng 2 khối nước, sau đó dội nước trực tiếp vào cá để chúng vận động thải hết thức ăn từ trong ruột ra và sát trùng để cá không bị lở loét.

Bên cạnh đó, hàng ngày những con cá này đều được đánh dẻo theo đúng số lần và thời gian quy định. Cách đánh dẻo cho cá rất đơn giản, mỗi ngày kéo cá lên lửng 2 lần để cá vận động nhiều hơn. Trước khi đánh dẻo phải cho cá nghỉ ăn 2 ngày để cá vận động nhiều không bị chết, nếu cá ăn no mà kéo dẻo liền thì cá chết ngay.

Anh Kiền đang đánh dẻo cho cá 

Biểu diễn cho tôi xem, anh bước ngay đến bên cái lồng ép, đôi tay anh cầm lưới thật chặt từ từ kéo lên, những con cá đang bình yên dưới nước bất chợt vùng vẫy quẫy mạnh đuôi khi được kéo lên, nước văng tung tóe cả một vùng.

Sau gần nửa tháng huấn luyện, anh tiếp tục vận chuyển những con cá này về bể đặt ở nhà rồi tiếp tục cho cá nhịn ăn trên 10 ngày xong mới đem bán. Cá thả tại bể được dùng bằng nước máy đã khử clo, mỗi ngày anh đều thay nước trong bể 1 hoặc 2 lần.

Cách đây 2 năm, khi nuôi đại trà thì giá bán cá phải theo thị trường. Bây giờ cá lăng đen sau khi được ép cân anh bán với giá 100-120 ngàn/kg, trong khi giá cá bình thường ở chợ chỉ khoảng 80-90 ngàn/kg. Năm ngoái, giá cá lăng xuống thấp nhưng anh vẫn đảm bảo được lợi nhuận, khi giá xuống sâu thì anh vẫn hòa chứ không lỗ nặng như một số hộ nuôi khác. Nhiều người khi thử ăn đều mua cá của anh dù giá cao hơn ở chợ nhưng người dân vẫn chấp nhận mua.

Nơi anh Kiền chuyên ép cân cho cá 

Bây giờ quy mô nuôi đã được anh Kiền phát triển đến 14 lồng, các lồng anh đang nuôi gồm: cá lăng đen, lăng vàng, trắm cỏ. Số cá trắm cỏ khoảng vài tấn đang chuẩn bị thu hoạch sau nửa năm nuôi. Hiện, trung bình mỗi năm anh bán được 40-50 tấn cá lăng đen, ngoài ra anh cũng đang nuôi thử vài chục con cá lăng vàng vì giống này khó nuôi nên không dám đầu tư mạnh.

Thu hút nhiều người tham gia

Anh Kiền tâm sự, mới vào nghề nuôi cá ai cũng gặp khó khăn do chưa có kinh nghiệm nuôi và chọn cá giống chưa chuẩn nên không mang lại lợi nhuận cao. Đợt mới nuôi anh cũng bị dịch bệnh làm thiệt hại nhiều về giống cá như: cá chép, lăng đen.

Do vậy, để giảm thiệt hại cho người nuôi nơi đây khi giá cả lên xuống bấp bênh, anh Kiền đã vận động những hộ nuôi xung quanh thành lập HTX Chăn nuôi thủy sản Phú Phúc với 12 thành viên được nuôi theo mô hình của anh, quy mô HTX hiện tại đạt khoảng 50 lồng. Theo anh Kiền, khi xây dựng HTX sẽ tạo thành 1 chuỗi cho nhiều người tham gia giảm thiểu rủi ro và đảm bảo được nguồn cung cho thị trường.

Để thuyết phục nhiều người làm giống mình và quảng bá thương hiệu cá ép cân cho bản thân, anh mời nhiều người đến ăn thử cá ép cân và một con cá bình thường thì mọi người đều thấy thịt con cá sau khi ép cân ăn dai và ngon hơn nhiều. Từ đó, tiếng lành đồn xa, dân sành ăn ai cũng biết đến chất lượng những con cá mà anh đem bán.

Những con cá đã được ép cân chuẩn bị mang đi bán 

Hiện, anh đang tập trung phát triển mạnh thương hiệu cá ép cân cho bản thân mình. Cách đây 3 tháng, anh đã mở hẳn một trang website chuyên bán cá sạch trên mạng, đồng thời bán tại nhà thêm nhiều loại cá như: cá lăng đen, chép giòn, cá quả, trắm đen. Bây giờ, anh đang có rất nhiều đơn đặt hàng tại nhiều tỉnh trong cả nước như: Huế, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng… Cá khách đặt do tự tay anh làm sạch rồi ướp đá gửi thùng xốp, hoặc ai muốn gửi cá tươi thì anh cho cá vào túi bóng bơm oxy và cho đá lạnh vào trong, rồi bỏ thùng xốp gửi đi.

Anh Kiền cho hay: “Quan trọng nhất là phải tạo chất lượng cá mình bán ra luôn đảm bảo ngon. Một con cá nặng 4kg, nếu không ép cân thì bán được 320 ngàn đồng (giá 80 ngàn đồng/kg). Nếu ép cân, con cá đó chỉ còn 3,2 kg nhưng bán giá 120 đồng/kg. Như vậy, nếu so sánh thì cá ép cân vẫn lời được khoảng 50 ngàn đồng. Khi mình bán lên đến số lượng hàng chục tấn thì lợi nhuận mang về cao hơn nhiều so với bán cá đại trà. Có lúc giá cá lăng lên cao đỉnh điểm, giá cá ở chợ 120 ngàn/kg, còn cá tôi ép cân thì bán được đến 180 ngàn/kg”.

Sau câu chuyện, tôi được anh Kiền mời một bữa cơm thịnh soạn với món cá lăng hấp và nấu chua. Đêm đó, tôi còn được mời ngủ lại trên bè để tận hưởng hương vị cuộc sống vùng sông nước đầy thú vị…

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.