Bệnh hại sâu và thuốc trừ sâu vi sinh áp dụng cho ruộng trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Bệnh hại sâu là một thành phần chính trong thiên địch tự nhiên. Thiên địch tự nhiên gồm loài ăn thịt và loài ký sinh. Loài thiên địch đóng vai trò rất quan trọng, nó luôn giữ sâu hại ở dưới ngưỡng tổn thất kinh tế. Bệnh hại sâu đặc biệt rất hiệu quả trong phòng trừ sâu bộ cánh vảy (Lepidoptera).

Nấm ký sinh rất phổ biến trên diện tích trồng đậu tương, trong đó Nomuraea rileyi (Farlow) là loại phổ biến nhất. Nấm này thường ký sinh gây dịch hại đối với sâu non của sâu xanh, sâu đo, sâu xanh hại ngô và sâu róm. Sâu bị chết lúc đầu có màu trắng sau đó chuyển sang xanh với nhiều bào tử. Nấm Entomophthora gammae Weiser ký sinh trên sâu non của sâu đo. Sâu bị chết có hai dạng, một dạng mất màu, nhăn nheo, một dạng màu đen và cứng.

Phòng bệnh hại cây đậu tương là một trong những yếu tố quan trọng để bảo vệ, chăm sóc đậu tương phát triển tốt

Vi khuẩn Bacillus thuringiensis:

Berliner là một loại thuốc trừ sâu vi sinh (microbial insectiside) có ích, dùng để phòng trừ sâu xanh, sâu đo và sâu róm. Tuy nhiên sau khi phun thuốc từ hai hoặc nhiều ngày sau mới chết, cho nên nông dân ít dùng. Một vài loại virus như virus đa diện (Nucleo polyhedrosis NPVS) có hiệu quả trong phòng trừ các loại sâu bọ cánh vảy: sâu đo, sâu róm, sâu đục quả.

Thiên địch ăn thịt và ký sinh:

Thiên địch tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ mật độ sâu ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Không có chúng ta phải dùng thuốc nhiều lần để kiềm chế sâu ở dưới ngưỡng gây tổn thất kinh tế. Những năm gần đây, nhiều nước đã quan tâm đến sử dụng thiên địch tự nhiên, hạn chế sử dụng thuốc hoá học. Ở nước ta ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu và sử dụng ong mắt đỏ trong phòng trừ sâu hại và gần đây là các loại thuốc trừ sâu vi sinh.

Loài ăn thịt ở đậu tương là loài đa thực, nó ăn nhiều loại sâu khác nhau. Nó thường ăn trứng và sâu non trước khi chúng gây hại. Reed và cộng sự (1984) thấy rằng 25% trứng sâu xanh ngô bị loài ăn thịt ăn sau khi đẻ trên lá đậu tương ở ngoài đồng một ngày (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Loài ăn thịt chủ yếu là con trưởng thành của Notoxus monodon (F) và Lebia analis (Dejean) và sâu chưa trưởng thành của một số loài thuộc bộ cánh cứng.

Biện pháp canh tác cây đậu tương (đậu nành):

Nhiều biện pháp canh tác như thời gian gieo trồng, sinh trưởng của cây, khoảng cách mật độ cây…có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng trừ sâu hại. Ở Mỹ gieo trồng sớm các giống thuộc nhóm V, có thể tránh được sâu xanh ngô hại đậu tương ở vùng Bắc Carolina. Ngược lại ở Nam Carolina, gieo trồng giống thuộc nhóm V hoặc Vi thường bị sâu xanh ngô hại nặng. Trong khi đó, những giống gieo muộn thì ít khi đùng thuốc. Khoảng cách trồng có tác dụng điều khiển sâu xanh ngô bởi vì sâu trưởng thành thích đẻ trứng ở trong ruộng đậu tương tán thoáng. Như vậy, trồng dày sẽ hạn chế sâu xanh ngô. Mật độ sâu xanh tăng nếu trồng xen ngô với đậu tương, bởi vì thế hệ đầu sâu ăn ngô, sau đó chuyển sang đậu. Sâu đo đậu tương thường không gây hại nghiêm trọng đối với đậu tương ở vùng không có bông, nếu có bông bướm sâu đo do hút mật ở hoa bông và đẻ trứng tới mức tối đa. Sâu nở ra sẽ sang hại đậu tương trồng bên cạnh. Giảm cày bừa tăng vụ có thể ảnh hưởng tới bọ cánh cứng Mêhicô, châu chấu chân đỏ và các loại sâu khác. Dùng bẫy bằng giống dễ mẫm cảm có tác dụng thu hút sâu bệnh và hạn chế ảnh hưởng với giống chính.

Dùng giống đậu tương (đậu nành) kháng sâu bệnh:

Dùng giống kháng sâu bệnh là biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất trong quản lý sâu hại đậu tương. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định mức đề kháng nhiều loại sâu hại đậu tương. Lông đậu tương có tác dụng chống bọ nhảy (Empoasca fabae). Lông gây khó khăn cho đẻ trứng và ăn hại của sâu. Lông cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của loài chân đốt trên đậu tương.

Chương trình chọn giống chống sâu gần đây được đẩy mạnh hơn, các nguồn gen chống sâu xanh ngô, cánh cứng, sâu đo đậu tương, sâu đo bắp cải hại đậu (Trichoplusiani Hubner), rệp và ruồi trắng khoai lang (Bemisia tabaci) đã được xác định để phục vụ cho chương trình chọn tạo giống.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) trên cây Đậu Tương (đậu nành)

Quản lý sâu hại tổng hợp là kết hợp các phương pháp hoặc chiến thuật vào chiến lược phòng trừ thích hợp cho từng vùng. Hiện nay, chương trình phòng trừ sâu bệnh ở đậu tương chủ yếu là vào diệt trừ tạm thời việc bùng nổ của sâu hại mà nó đã đạt được hoặc vượt ngưỡng gây hại kinh tế. Điều này có thể thực hiện hoặc sử dụng thuốc trừ sâu.

Đậu tương (đậu nành)

Phương pháp này yêu cầu xác định mật độ sâu trên đồng ruộng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây và đồng thời đánh giá mức hại do sâu đã gây ra. Thông tin này có được qua các phương pháp theo dõi. Dựa trên kết quả theo dõi, người quản lý dùng ngưỡng và sơ đồ quy định để xác định việc phun thuốc hay không. Thuốc trừ sâu phải dùng ở mức độ thấp nhất và chỉ khi mật độ sâu đến mức gây thiệt hại kinh tế. Để có biện pháp phòng trừ sâu thích hợp, thì phương pháp theo dõi, phương pháp dự đoán và kế hoạch rất cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra quyết định trong việc phòng trừ sâu hại.

Theo dõi cây ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Để xác định được lịch theo dõi hợp lý, ta cần hiểu đặc điểm phát sinh và gây hại của chúng. Thí dụ nếu sâu hại chính trong vùng là rệp thì chú ý theo dõi từ giai đoạn hình thành quả, vì rệp ít khi xâm nhập vào đồng ruộng trước giai đoạn hình thành quả. Theo dõi để cung cấp một số thông tin sau:

– Mật độ của sâu hại và trạng thái của tác nhân tự nhiên phòng trừ chúng (ký sinh, loài ăn thịt, bệnh, khí hậu, thời tiết).

– Số liệu về trạng thái cây trồng và mức độ gây hại hiện tại.  Cần phải đánh giá quần thể sâu hại:

Có nhiều phương pháp để đánh giá mật độ sâu, nhưng không một phương pháp nào cho hiệu quả như nhau đối với tất cả các loại sâu ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng cây. Có nhiều tài liệu nói về các phương pháp lấy mẫu đối với sâu hại đậu tương, nhưng phương pháp thực tế nhất áp dụng trong chương trình IPM là theo dõi trực tiếp, để xác định trực tiếp và mức độ gây hại từ khi cây mọc tới giai đoạn bốn lá (V4) hoặc năm lá (V5) sau đó dùng phương pháp lưới vét để đánh giá chính xác mật độ.

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

 

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

Trong kế hoạch cần có thông tin về thiên địch tự nhiên và đặc biệt khả năng bị bệnh. Công việc này có thể khó khăn bởi vì nó cần xác định thiên địch tự nhiên hoặc ở ngoài đồng ruộng, hoặc ở trong phòng thí nghiệm.  Để có kế hoạch phòng trừ cần có những số liệu về cây trồng. Mức hại trên đồng ruộng là chỉ tiêu cuối cùng khó theo dõi nhất. Chẳng hạn khó đánh giá mức độ lá rụng. Phương pháp mang tính thực tiễn nhất là đánh giá bằng mắt. Tuy nhiên, phương pháp này biến động nhiều giữa những người đánh giá. Những người đánh giá phải được huấn luyện kỹ. Để làm được việc này, cây hoặc từng lá chết, với mức độ rụng lá được đo trước một cách cẩn thận và dùng để so sánh bằng mắt với mẫu lấy ngẫu nhiên ngoài đồng ruộng.

Dự báo tình hình sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Theo dõi là biện pháp quan trọng quản lý sâu ở đậu tương. Tuy nhiên cuối cùng việc chấp thuận chương trình quản lý của người nông dân tuỳ thuộc vào hiệu quả của các biện pháp theo dõi, đánh giá và sự đơn giản của phương pháp. Ở hầu hết các diện tích trồng đậu tương, sâu hại xuất hiện rải rác cả về thời gian, không gian và có nhiều năm không cần dùng thuốc sâu. Nhìn chung, cải tiến khả năng dự báo cung cấp cho người trồng ngay từ đầu vụ những thông tin về khả năng sâu hại, sẽ thúc đẩy người nông dân chấp nhận các phương pháp theo dõi và quản lý sâu bệnh. Dự báo dựa trên mô hình nhưng bắt đầu xây dựng mô hình cần thu thập số liệu về mật độ diễn biến sâu hại theo vùng.

Xác định biện pháp phòng trừ sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Sau khi theo dõi, người ta có thể đưa ra một số tiêu chuẩn để xác định chiến lược phù hợp cho phòng trừ sâu hại ở điều kiện nào đó. Hầu hết các chương trình quản lý sâu bệnh này sử dụng mức độ tổn hại kinh tế và áp dụng liều lượng và thuốc trừ sâu tối thiểu có ích, qua cái gọi là mô hình quyết định tĩnh, nó thường gồm sơ đồ sử dụng dễ dàng cho nông dân.

Tuy nhiên, nếu nông nghiệp hiện đại ngày nay yêu cầu xác định một cách chính xác các thông số cần thiết cho việc đưa ra một quyết định kinh tế đúng. Điều này có thể được qua sử dụng một mô hình cơ động gồm quần thể sâu bệnh và giai đoạn sinh trưởng cây.

Mô hình bao gồm tác dụng tổng hợp của thuốc sâu, bệnh và thiên địch tự nhiên. Thông tin càng nhiều, mô hình càng trở nên hiện thực, và sẽ giúp cho việc xây dựng một kế hoạch thực hiện tốt hơn. Phòng trừ sâu hại đậu tương hiện nay chủ yếu là ngăn chặn tạm thời sự bùng nổ của sâu bệnh khi chúng đạt tới mức hoặc vượt ngưỡng kinh tế. Để có kết quả, việc phòng trừ cần kết hợp tất cả các thông tin về mật độ sâu.

Thuốc hoá học phòng trị sâu hại đậu tương (đậu nành):

Thuốc hoá học chỉ là phương tiện tạm thời ngăn chặn sự bùng nổ của sâu lá, việc dùng thuốc đúng liều lượng, theo đúng hướng dẫn của chuyên môn thì nó không có hại tới người dùng và môi trường. Hiện nay, thuốc sâu là xương sống của hệ thống phòng trừ tổng hợp và nó vẫn tiếp tục như vậy cho tới khi một phương pháp phòng trừ mới ra đời.

Mặc dù, hầu hết thuốc hoá học được sử dụng hợp lý và an toàn. Song cũng có một vài trường hợp lạm dụng thuốc quá nhiều, ở liều lượng cao gây ảnh hưởng đến môi trường và con người, đôi khi còn tăng thêm mật độ sâu do quen thuốc. Những kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở nồng độ thuốc thấp cũng đủ để phòng trừ sâu hại và cho phép các thiên địch tự nhiên có lợi sinh sống bình thường.

Nghiên cứu thuốc trừ sâu đậu tương phải khuyến khích nghiên cứu về loại mới và phương pháp sử dụng trong hệ thống phòng trừ tổng hợp để bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên địch tự nhiên. Hiện nay có rất nhiều loại thuốc trừ sâu hại đậu tương như: Dipterex, Ofatox, Sutin 5EC, Tanggo 800WG, Azodin, Basudin, Dimecron, Match 050EC, để phun phòng trừ (Bộ NN & PTNT, 2002; Trần Văn Hùng, 1992).

Thông thường sau khi cây mọc được 5 ngày, nên dùng Dipterex 2‰ cộng với l‰ Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex +lg Padan) phun kỹ để chống đối đục thân. Khi cây có 7 – 8 lá thật để trừ sâu hại lá phun kép lần 2 thuốc Dipterex 2‰ cộng với 1‰ Padan 95SP. Lần phun này có thể phun thêm các chế phẩm phân bón và chất kích thích qua lá để tăng năng suất hạt. Khi cây tắt hoa phun thuốc trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox hoặc Regent với nồng độ 2‰.

Nguồn: camnangcaytrong.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Xác định thời vụ gieo trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Đậu tương (đậu nành) là một trong những cây trồng lý tưởng trong việc luân canh, xen canh và gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhằm khai thác một cách hiệu quả tiềm năng của đất đai, lao động vật tư, công cụ lao động… lại vừa góp phần cải tạo và bồi dưỡng đất, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Nhiều bà con dân tộc vùng núi từ lâu đã có tập quán trồng nhiều cây đậu nành (đậu tương) xen canh với cây sắn, nhãn, vải và các cây khác như cây ngô vừa giải quyết được lương thực vừa có đậu nành (đậu tương) cung cấp dinh dưỡng lại có tác dụng bảo vệ và cải tạo đất rất tốt, chống xói mòn, rửa trôi.

Đậu tương (đậu nành)

Những vùng có tập quán canh tác hai vụ lúa, một vụ đậu nành (đậu tương) đông thì vụ lúa mùa sớm cần thu hoạch trước 15 – 20/9 để bà con kịp thời vụ đậu nành (đậu tương) đông. Ngược lại những vùng có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa hai vụ lúa cần thu hoạch lúa xuân sớm để có thể gieo trồng đậu nành (đậu tương) vào cuối tháng 5 đầu tháng 6.

Các thời vụ trồng đậu tương (đậu nành):

1. Vụ xuân

* Vùng đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc

Gieo trồng từ 15/1 đến 15/3 không nên gieo muộn để tránh khi đậu nành (đậu tương) làm quả gặp mưa và nắng to.

* Vùng khu 4 cũ

Do nhiệt độ thường ẩm hơn nên gieo từ 20/1 đến 10/2 để tránh gió Tây cuối tháng 4.

* Vùng Tây Bắc Bắc Bộ

Thường bị rét kéo dài và kết thúc muộn hơn nên gieo từ 1/3 đến 20/3

* Vùng từ Quảng Bình đến Bình Thuận

Có thể gieo từ 10/1 đến 30/1

* Vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Gieo cuối tháng 2 đầu tháng 3

2. Vụ hè

* Ở các tỉnh phía Bắc

– Trên đất màu gieo từ 25/5 đến 20/6 đối với giống ngắn ngày. đối với một số tỉnh có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa 2 vụ lúa thì thời vụ gieo phải gieo từ 15/5 đến 15/6, nên sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn như: ĐT12, DT99…

* Các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Gieo từ 25/4 đến 10/5.

3. Vụ hè thu

* Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc

Đây là vụ đậu nành (đậu tương) chính gieo từ 10/7 đến 25/7 vì không ảnh hưởng đến cây trồng sau.

* Đối với các tỉnh Quảng Bình, Quảng trị, Thừa thiên- Huế

Gieo từ 15/6 đến 10/7

* Đối với các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Tranh thủ gieo trong mùa mưa gieo từ 1/8 đến 15/8 thu hoạch cuối tháng 10 đầu tháng 11, ở thời điểm này trùng với thời tiết khô hanh nên rất thuận lợi cho việc thu hoạch.

* Vùng Tây Nguyên Nam Bộ

Gieo từ 15/5 đến 31/5

4. Vụ đông

* Đối với các tỉnh đồng bắng sông Hồng

Gieo từ 20/9 đến 5/10, nếu sử dụng các giống trung ngày chịu rét có thể gieo đến 10/10. Gặt lúa mùa xong tranh thủ gieo đậu nành (đậu tương) ngay để tận dụng những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, ẩm độ của đầu vụ. Đậu nành (đậu tương) đông càng gieo muộn cây sinh trưởng càng kém và năng suất càng thấp.

* Các tỉnh Duyên hải miền Trung

– Đối với đất chuyên trồng màu và đất bãi ven sông sau khi nước rút có thể trồng sớm từ 15/9 đến 20/9.

– Trên đất ruộng cao nên gieo kết thúc trong tháng 10.

* Vùng đồng bằng sông Cửu Long

Gieo chủ yếu vào mùa khô gieo trong thàng 12 thu hoạch vào tháng 2.

Căn cứ vào đặc điểm và cơ cấu cây trồng xác định mùa vụ trồng thích hợp để cây đạt được năng suất tối ưu. Chúc bà con thành công!

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Đậu Tương ở miền núi

Cây đậu tương được trồng rộng rãi ở các vùng sinh thái khác nhau. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, cây đậu tương được trồng với diện tích lớn như Bắc Giang (8.700 ha), Sơn La (8000 ha), Cao Bằng (7.500 ha). Tuy nhiên, diện tích trồng cây đậu tương có thể phát triển nhiều hơn nữa trên nhiều loại đất khác nhau của miền núi (đồi, gò, nương rẫy…) có thể trồng xen với cây ăn quả, cây rừng chưa khép tán, cây công nghiệp ngắn ngày như mía và trồng luân canh với cây lương thực như  ngô, lúa nương.

Đậu tương

Một số giống đậu tương có khả năng phát triển tốt ở miền núi:

Giống đậu tương ĐT80

Giống đậu tương ĐT80 có thời gian sinh trưởng 90-100 ngày, hoa màu tím, chống đổ tốt, ít phân cành, chịu hạn khá. Khối lượng 100 hạt đạt từ 12-13 kg, có thể đạt năng suất 21,0-22,5 tạ/ha, thích hợp cho vụ Hè ở miền núi.

Giống đậu tương ĐT84

Giống đậu tương ĐT84 có thời gian sinh trưởng 80-85 ngày, cây sinh trưởng khoẻ, cây cao 40-50 cm, ít phân cành, hoa màu tím, khối lượng 1.000 hạt 180-220 g màu vàng sáng, năng suất trung bình từ 13-18 tạ/ha, năng suất cao có thể đạt 25 tạ/ha. Thích hợp cho vụ Xuân muộn và Hè-Thu ở miền núi.

Giống đậu tương VX9-3

Giống đậu tương VX9-3 có thời gian sinh trưởng 90-95 ngày, cây cao 40-45 cm, thân to khoẻ phân cành mạnh, khối lượng 1.000 hạt đạt 150-160 g, năng suất đạt 18-25 tạ/ha. VX93 chịu hạn, úng và bệnh trung bình, chịu rét khá, ưa thâm canh. ở Trùng Khánh, Cao Bằng cho năng suất từ 2,5-3,0 tạ/ha.

Giống đậu tương AK05

Cây sinh trưởng khoẻ, cây cao 50-60 cm, thời gian sinh trưởng 90-95 ngày, hoa màu trắng, hạt vàng sáng đẹp, khối lượng 1.000 hạt đạt 130-140 g, năng suất trung bình 13-15 tạ/ha. Khả năng chống bệnh trung bình, chịu rét khá, chịu hạn trung bình.

Giống đậu TL57

Thời gian sinh trưởng vụ Xuân 100-110 ngày, vụ Hè, Đông 95-100 ngày, cây cao 40-70 cm, bản lá to, xanh đậm, cây cứng có khả năng chống đổ tốt, hoa màu trắng, hạt vàng sáng, rôn hạt màu nâu nhạt, số quả trên cây 20-30 quả. Khối lượng 100 hạt đạt 15-16 g. Năng suất trung bình 15-20 tạ/ha, nhiễm nhẹ bệnh gỉ sắt.

Giống đậu tương ĐT93

Giống ĐT93 sinh trưởng tốt trong cả 3 vụ Xuân, Hè, Đông, cây cao 45-60 cm, thời gian sinh trưởng 75-85 ngày. Hoa màu tím, hạt dạng tròn hơi bầu, màu vàng sáng, khối lượng 1.000 hạt đạt 130-140 g, năng suất trung bình 12-14 tạ/ha. ĐT93 là giống nhiễm gỉ sắt trung bình, có khả năng chịu nhiệt, chịu hạn và chịu lạnh khá.

Quy trình kỹ thuật sản xuất chung cho các giống đậu tương:

Thời vụ

Vụ Xuân: Gieo hạt khi có mưa xuân thường từ ngày 15/2-15/3.

Vụ Hè-Thu: Gieo hạt từ ngày 10/6 đến 5/8, tuỳ thuộc từng vùng để có thời vụ thu hoạch vào lúc nắng ráo.

Phân bón và cách bón

Bón lót: 350-400kg supe lân ủ với 5-6 tấn phân chuồng để bón cho 1 ha.

Bón thúc lần 1: 60-70kg đạm urê và 100-120kg kali cho 1 ha vào lúc cây có 2-3 lá kép kết hợp xới lần 1 và vun nhẹ.

Bón thúc lần 2: 200kg vôi bột cho 1 ha lúc cây chớm ra hoa, vun đất cao 10-12cm.

Chuẩn bị hạt giống và mật độ gieo

Lượng giống cần cho 1 ha: Do không có sự chênh lệch lớn về kích cỡ hạt giữa các giống nên lượng giống khuyến cáo chung đủ trồng cho 1 ha là 60kg.

Về chất lượng giống: Trước khi gieo phải kiểm tra lại tỷ lệ nảy mầm, ít nhất phải đạt 85%, hạt đồng đều về kích cỡ và màu sắc, đảm bảo độ thuần, hạt không bị mọt và sâu bệnh.

Chọn hạt giống có khả năng nảy mầm tốt

Vụ Xuân: Mật độ gieo 35-40 cây/m2 (hàng cách hàng 35-40cm, cây cách cây 7-8cm).

Vụ Hè-Thu: Đảm bảo mật độ 30-35 cây/m2 (hàng cách hàng 35-40cm và cây cách cây 7-10cm).

Chăm sóc

Xới cỏ lần 1 khi cây có 2-3 lá kép kết hợp bón thuốc đạm và kali. Vun nhẹ đất vào gốc.

Xới cỏ lần 2 khi cây chớm ra hoa, kết hợp bón bổ sung vôi bột và vun cao đất.

Tưới nước: Ngoài độ ẩm cần thiết khi gieo hạt, vào mùa khô nếu có điều kiện thì tưới vào hai thời kỳ chính là trước khi ra hoa và làm quả.

Phòng trừ dòi đục lá, thân, quả, sâu cuốn lá, sâu khoang, rệp bằng Sumicidin 0,2%, trừ bọ xít bằng Bassa 0,1% + Dipterex.

Phun định kỳ lúc cây 2 lá đơn, 4-5 lá kép (lá thật), trước ra hoa, khi làm quả, phun thuốc có hiệu quả tốt nhất vào lúc chiều mát.

Thu hoạch và bảo quản

Thu hoạch khi 2/3 số quả chuyển sang mầu nâu sẫm. Thu hoạch vào những ngày nắng ráo, sau đó phơi khô đến khi tách hạt thì đập lấy hạt, làm sạch hạt, phơi khô đến khi cắn tách dọc hạt được dễ dàng.

Hạt sau khi phơi để nguội rồi vào bảo quản trong chum kín hay bao nilon 2 lớp.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Đậu Tương

Đậu tương hay đỗ tương, đậu nành (tên khoa học Glycine max) là loại cây họ Đậu (Fabaceae), là loài bản địa của Đông Á. Loài này giàu hàm lượng chất đạm protein, được trồng để làm thức ăn cho người và gia súc.

Cây đậu tương

Cây đậu tương là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành, okara… đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.

1. Cơ cấu giống

Căn cứ trình độ thâm canh và đặc điểm sinh thái của mỗi vùng để lựa chọn bộ giống thích hợp cho từng địa phương.

– Các giống chín sớm và trung bình như: DT84, DT92, DT96, DT99….Lượng giống sử dụng 50-60 kg/ha.

– Tất cả các giống trước khi gieo phải thử sức nảy mầm (hạt giống đủ tiêu chuẩn phải có tỷ lệ nảy mầm trên 70%).

2. Thời vụ

– Căn cứ đặc điểm thời gian sinh trưởng của từng giống mà bố trí thời vụ thích hợp để đậu tương sinh trưởng phát triển thuận lợi (lưu ý đến yếu tố thời tiết vào thời kỳ ra hoa – đậu quả). Tại ĐBSCL, cây đậu nành có thể trồng trên nhiều vùng đất khác nhau và được sản xuất quanh năm, nhưng thời điểm xuống giống thuận lợi nhất là vụ Đông Xuân và Xuân Hè, phổ biến nhất là trong vụ Xuân Hè. Thông thường, vào khoảng giữa tháng 2 dương lịch, sau khi thu hoạch xong vụ lúa Đông Xuân, bà con tiến hành dọn sạch cỏ, cắt gốc rạ và dọn đất để xuống giống đậu nành.

– Nên luân canh, xen canh đậu tương với cây trồng khác họ (không trồng đậu tương qua nhiều vụ trên cùng một chân đất hoặc vụ trước đã trồng cây họ đậu).

3. Đất trồng

– Đậu tương là cây không kén đất, nhưng để có năng suất cao nên ưu tiên đất có thành phần cơ giới nhẹ hoặc trung bình, giữ ẩm và thoát nước tốt: đất thịt nhẹ, đất cát pha, phù sa ven sông,…

– Đất phải được cày bừa kỹ, sạch cỏ dại; Đất dốc phải thiết kế thành băng chống sói mòn. Đất phải lên luống tạo rãnh thoát nước kịp thời khi mưa to (mặt luống rộng 1,0-1,2 m, cao 15-20 cm, rãnh rộng 25-30 cm).

4. Mật độ, khoảng cách trồng

– Lượng giống gieo/ sào (360m2): Đậu tương 2,0 – 2,2kg.

– Khoảng cách gieo: Hàng cách hàng 60 – 65cm. Cây cách cây 15cm. Mật độ 3.600 – 4.000 khóm/sào.

– Cách gieo: Chọc lỗ sâu 1,5 – 2cm, bỏ hạt, lấp đất; gieo 2 hạt/hốc, khoảng cách hốc 15cm. Thông thường có 03 cách gieo hạt giống:

+Phương pháp gieo vãi: Thông thường gieo vãi áp dụng với ruộng cao, đất chỉ cần cày lên là có thể gieo vãi. Mật độ gieo 3kg/sào gieo đều là đảm bảo.

+Phương pháp tra rạch: Gặt sát gốc rạ, sau gặt tạo rãnh thoát nước bằng cày, cuốc, các rãnh cách nhau 1,5m (bằng bề ngang luống). Sau đó dùng nông cụ tạo rạch ngang luống sâu 2-3cm, các rạch cách nhau 30-35cm và tra hạt vào rạch, hạt cách hạt 3-5cm.

+Phương pháp tra gốc rạ: Thu hoạch lúa xong tạo rãnh thoát nước như trường hợp gieo vãi. Dùng tay gạt nghiêng gốc rạ, tra mỗi gốc rạ 1-2 hạt vào kẽ, tiếp xúc giữa đất và gốc rạ, tuyệt đối không tra vào giữa gốc rạ hạt đậu sẽ không hút được ẩm để nảy mầm

Chú ý: Không gieo hạt vào những ngày mưa to, hạt bị trương nước làm giảm sức nảy mầm; Phơi lại hạt giống trước khi gieo, phơi trên nong, nia, dưới nắng nhẹ để kích thích nảy mầm.

5. Chăm sóc

Trừ cỏ:

– Trước gieo đậu 5 – 7 ngày, cần làm sạch cỏ dại, cắt bỏ các lá khô, lá vàng, lá sâu bệnh và lá già khuất sáng trên cây ngô, gom hủy tàn dư thực vật, tạo sự thông thoáng trong ruộng ngô, kết hợp phun thuốc phòng trừ cỏ dại. Có thể sử dụng 1 trong các loại thuốc trừ cỏ như Cariza 5EC, Gromoxone 20SL, Wisdom 12 EC…

– Khi cây có 1 – 2 lá thật, kiểm tra tỉa bỏ các cây còi cọc, cây sâu bệnh… chỉ để lại 1 – 2 cây đậu khỏe/khóm.

Bón phân:

– Bón đủ phân hữu cơ hoai mục (nếu không có phân chuồng hoặc phân rác hoai mục có thể thay thế bằng phân hữu cơ vi sinh), bón cân đối N-P-K và đủ lượng canxi.

Toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, vôi bột nên trộn đều, rồi ủ vài ngày trước khi bón để tăng hiệu quả sử dụng phân.

– Không cần bón phân qua rễ. Vì, cây đậu dưới 3 lá thật, có thể sinh trưởng, phát triển tốt nhờ dư lượng phân bón trong đất từ cây trồng trước đó. Đậu tương từ 4 – 5 lá thật trở lên, sẽ tự tổng hợp được dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng của cây thông qua hệ vi khuẩn nốt sần hình thành trên rễ.

– Phun bón lá kết hợp với chế phẩm tăng ra hoa đậu quả 6 lần: Trước, trong thời gian ra hoa. Sau đó, cứ 7 ngày 1 lần phun nhắc lại. Có thể sử dụng một số phân bón lá, chế phẩm đậu quả như: Atonik 1.8 DD, Grow more, Agriseed-Mg, thuốc đậu quả Bo TRS-108…

Lưu ý:  Những vùng đất chua nên bón phân lân nung chảy.

Phòng trừ sâu bệnh:

– Sau khi gieo, cần kiểm tra để lấp kín toàn bộ hạt.

– Các lần bón thúc cho đậu tương, cần kết hợp với xới xáo làm cỏ, tạo độ thoáng khí để vi khuẩn nốt sần hoạt động tốt, đậu tương phân cành sớm. Đặc biệt sau khi mưa rào phải xáo phá váng ngay, giúp bộ rễ phát triển thuận lợi.

– Khi cây đậu tương bắt đầu ra hoa có thể phun các loại phân bón qua lá để bổ sung vi lượng cho cây.

– Giai đoạn từ khi cây mọc đến khi đậu tương phân cành cần chú ý sự xuất hiện và gây hại của sâu xám, dòi đục thân, bệnh lở cổ rễ.

– Giai đoạn từ khi cây ra hoa đến cuối vụ cần chú ý: dòi đục hoa, sâu đục quả, sâu cuốn lá, bệnh gỉ sắt,…

+ Phòng trừ dòi đục thân, sâu khoang, sâu xám…: Rải Regent 3G trên mặt luống 2 lần (khi gieo đậu và sau cây mọc 5 – 7 ngày)

+ Phòng trừ sâu cuốn lá, đục quả: Sử dụng thuốc Sherpa 2%, Motox 5 EC… Phun 3 lần (kết hợp với phân bón lá): Trước ra hoa 5 – 7 ngày, trong giai đoạn cây ra hoa, sau hoa rộ lần đầu 5 – 7 ngày (cây đậu tương sau hoa rộ 5 – 7 ngày). Nếu sâu hại phát sinh gia tăng, cần tăng số lần phun thuốc.

6. Thu hoạch

– Thu hoạch khi có 2/3 số quả trên cây chuyển màu nâu, bộ lá chuyển màu vàng và rụng dần từ dưới lên (sau trồng 80 – 90 ngày). Nên thu hoạch vào ngày thời tiết nắng ráo để tiện vận chuyển và phơi. Không thu đậu vào lúc mưa, hạt dễ bị thối, mốc.

– Cắt gom cây rải phơi trên sân gạch/bê tông 3 – 4 nắng, tuốt lấy hạt trên máy tuốt lúa đạp chân, sàng, sảy.

– Phân loại: những cây chín nhiều (khô) phơi riêng, cây còn nhiều quả xanh có thể ủ thêm 2-3 ngày cho chín tiếp. Cây khô đập tách lấy hạt, phân loại để bảo quản hoặc tiêu thụ.

– Nếu bảo quản dài ngày, cần phơi khô hạt trên nong, nia, cót, bạt,… tới thủy phần 14% (cắn hạt không dính răng, nghe tiếng kêu giòn cốp là được). Không phơi hạt trực tiếp trên nền xi măng, nền gạch. Gom lại hạt đậu, để nơi thoáng mát 4 – 6 giờ cho nguội, đóng bao bì, bảo quản nơi khô ráo và chủ động biện pháp phòng trừ mọt đục hạt.

7. Để giống

– Chọn những ruộng tốt, không bị bệnh, năng suất cao, đúng giống thu riêng và phơi riêng cho đến khô (đến khi độ ẩm của hạt ≤12%), quạt sạch vỏ, loại bỏ hạt xấu, hạt bị sâu bệnh. Bảo quản trong chum, vò, lọ sành, sứ, đáy và miệng lọ lót một lớp lá xoan khô hoặc tro bếp dày 2 – 3cm, đậy nắp kín, cất nơi khô ráo, thoáng mát.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Nghệ nhân Chè búp tím

Gần cả đời gắn bó với cây chè ở vùng chè nổi tiếng thuộc xã Tức Tranh (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên), kỹ năng làm chè của ông Phạm Văn Dung đã được người dân phong vào hàng nghệ nhân.

Ông Phạm Văn Dung giới thiệu về quy trình chăm sóc, chế biến đặc biệt đối với chè búp tím

Gần đây, việc nhân giống và phát triển thành công cây chè tím của ông Dung lại được người dân gán cho ông tên gọi “Tể tướng chè tím”.

Dù đã ngoại thất thập nhưng ngày ngày, ông vẫn lặn lội trên đồi, dưới bãi chăm lo cho từng cây, từng luống chè. Chè Tức Tranh vốn đã nổi tiếng nay lại càng nức hương bởi loại chè được coi là biệt dược này.

Say nghề

Gia đình ông Dung có gần 10.000m2 đất chè thuộc làng nghề chè truyền thống xóm Minh Hợp. Trong đó, ông có 4.000m2 chè Tri 777, 3.000m2 chè Trung du. Diện tích còn lại, ông làm vườn ươm các loại chè giống bán cho người dân.

Ông kể, khi chăm sóc cho hàng nghìn mét vuông chè trung du, nhận thấy có cây chè khác lạ, ngọn non và lá có màu tím, phát triển mạnh hơn với những cây chè khác. Qua tìm hiểu trên sách báo, tivi rồi mạng xã hội, cùng với sự giúp đỡ của giảng viên, sinh viên ĐH Nông lâm Thái Nguyên, biết được cây chè tím có nhiều tác dụng chữa bệnh khác nhau, ông đã quyết định nhân giống để trồng.

Đưa chúng tôi lên thăm vườn chè tím, cẩn thận nâng một cây giống còn trong bầu lên cao, ông Dung giới thiệu, ngọn chè tím có màu tím giống như màu mận chín, cuống lá non màu đỏ, có khi búp lá cũng đỏ hoặc tím.

Ban đầu, chỉ từ một vài cây mọc xen kẽ với những cây chè trung du trong vườn chè giống, ông bắt đầu tìm hiểu và nhân cành ra để trồng. Sau hơn 5 năm kiên trì nhân giống trồng và chăm sóc, đến nay diện tích vườn chè tím của gia đình ông Dung đã lên đến gần 2.000m2. Chè tím được bán với giá gấp 2, gấp 3 lần so với chè thông thường được làm tại đây. Ông Dung không giấu diếm bí quyết, trái lại, ông đã tiếp tục nhân ra hàng vạn hom giống để cung cấp cho người làm chè cùng trồng.

Thành quả từ nỗ lực phục tráng và phát triển giống chè tím được ông Dung khoe không phải là giá trị từ nương chè mà chính là việc sản phẩm chè tím đã góp phần chữa được căn bệnh hiểm nghèo cho chính người anh ruột của mình.

Năm 2013, ông Phạm Văn Đúp (xóm Bái Xuyên, Minh Tân, Phú Xuyên, Hà Nội – anh trai của ông Dung) được Bệnh viện U Bướu chuẩn đoán bị bệnh ung thư xương. Sau xạ trị và truyền hóa chất xong về nhà, ông Đúp được ông Dung gửi chè tím xuống.

Uống thuốc của bệnh viện kết hợp với uống chè tím được một thời gian, ông Đúp đi xét nghiệm lại, thì tình trạng bệnh tình của ông đã dần ổn định, các chỉ số máu đã trở lại bình thường, tế bào ung thư không còn phát triển. Từ đó, ông duy trì uống chè hàng ngày và kết hợp theo chỉ dẫn của các bác sỹ trong bệnh viện. Cứ 3 tháng đi tái khám một lần, các chỉ số đều đảm bảo.

Phát triển vườn chè thuốc

Rót chén chè tím mời khách, ông Dung giải thích, chè búp tím nước vàng sóng sánh, vị đượm, được nước. Ngon nhất là nước thứ hai, sau 5 – 7 lần châm nước, chè vẫn giữ được vị. Chè búp tím mới uống có vị chát, sau thì ngọt và lưu lại vị ngọt đặc trưng sau khi uống từ 20 – 30 phút. Chỉ cần pha một ấm thì có thể nhâm nhi cả ngày.

Coi chè tím như một vườn thuốc biệt dược, ông Dung đã thay đổi phương thức sản xuất, chế biến chè. Năm 2014, ông đề nghị hình thành nhóm hộ sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP. Ông được bầu làm tổ trưởng tổ sản xuất chè VietGAP. Hơn 5.000m2 chè kinh doanh của gia đình ông được đưa vào thực hiện theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt.


Bên căn nhà cấp 4 đã được xây dựng từ lâu của gia đình ông là khu vực chế biến với các máy móc, thiết bị vào loại hiện đại bậc nhất của xã Tức Tranh cũng như của huyện Phú Lương hiện nay. Trang thiết bị để sản xuất chè an toàn bằng inox gồm 3 tôn quay và 2 máy vò chè; hệ thống quạt hút khói bụi tại khu chế biến rộng cả trăm mét vuông; hệ thống máy sấy, tủ sấy hương, máy hút chân không, máy gắn mép, máy dập chữ số và hạn sử dụng.

Ông Dung cho đào và xây một ao trữ nước với diện tích khoảng hơn 300m2, tạo nguồn nước mạch sạch liên tục và hệ thống máy bơm nước tự động để tưới cho chè. Sản phẩm chè của gia đình ông Dung đã được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Giá bán được nâng cao, sản phẩm làm ra đến đâu được tiêu thụ hết đến đó.

Riêng vườn chè tím, ngoài đáp ứng theo tiêu chuẩn VietGAP, ông Dung còn đảm bảo theo quy trình sản xuất hữu cơ. Ông cho hay, sản xuất chè tại Tức Tranh chính là cái nôi đầu tiên cho nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Theo đó, việc thực hiện là không khó, cái khó là người làm chè có nhận thức được sự cần thiết, tất yếu phải làm hay không.

Nghĩ thế, ông cho mua một máy nghiền đỗ tương. Hạt đỗ tương mua về được xay thành bột để bón cho những gốc chè búp tím. Theo khuyến cáo của các nhà khoa học thuộc ĐH Nông lâm Thái Nguyên, bột đỗ tương có chứa rất nhiều đạm, có thể sử dụng làm phân hữu cơ bón cho cây ăn quả, rau màu các loại, đặc biệt nguồn dinh dưỡng có trong bột đỗ tương không bị bay hơi, khi gặp mưa sẽ ngấm dần xuống đất làm cho đất tơi xốp, cây trồng tốt hơn.

Trong khi đó, giá thành để làm phân hữu cơ từ bột đỗ tương còn thấp hơn so với phân vô cơ. Cái chính là tạo ra được sản phẩm an toàn. Ông Dung triết lý, chè có thể chưa sạch nhưng chè thuốc thì phải an toàn tuyệt đối!


Ông Phạm Bình Công, Chủ tịch UBND huyện Phú Lương cho biết, trong lễ hội chè huyện Phú Lương lần thứ Nhất năm 2017 vừa được tổ chức, cá nhân ông Phạm Văn Dung cũng như sản phẩm chè tím của ông đã được BTC lễ hội vinh danh.

Hiện tại, sản phẩm chè búp tím của gia đình ông đã được nhiều khách hàng trong cả nước đặt mua. Mô hình phát triển chè búp tím của ông Dung không chỉ khẳng định vị thế mũi nhọn của cây chè nói chung trên địa bàn huyện mà góp phần làm phong phú, đa dạng các sản phẩm từ chè.

Mô hình cũng có sức lan tỏa và ông Dung cũng sẵn sàng là người hướng dẫn, cung ứng giống để nhân rộng, phát triển cây chè búp tím.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyêt bởi Farmtech VietNam.

Cầu kỳ trang trại nuôi Gà hướng tới đẻ trứng Omega 3

Cơ thể con người không thể tự sản xuất ra Omega 3 mà phải nhờ nguồn thực phẩm bên ngoài bổ sung vào. Đây cũng chính là lý do và mục tiêu mà HTX Chăn nuôi tổng hợp Thạch Tiến hướng tới nuôi gà đẻ trứng Omega 3.

Chuồng nuôi giống gà Brown Nick đẻ trứng Omega 3

Được thành lập năm 2015, HTX Chăn nuôi tổng hợp xã Thạch Tiến, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh có tổng diện tích đất SX 4.500 m2 được quy hoạch 3 khu chuồng trại nuôi gà tập trung.

Đến cuối năm 2015, HTX nuôi tổng cộng 19.000 con gà, trong đó có gần 10.000 gà Ai Cập đẻ trứng, còn lại là gà ri lai thương phẩm và gà con. Mỗi ngày HTX thu được 6.000 – 7.000 quả trứng, đưa về nguồn thu gần 10 triệu đồng/ngày, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 6 lao động.

Có được kết quả đó, HTX đã đầu tư trên 5 tỷ đồng để xây dựng hệ thống chuồng trại theo tiêu chuẩn VietGAP đồng thời đào tạo đội ngũ kỹ thuật, công nhân bài bản.

Không chỉ dừng lại ở đó, giữa năm 2016, sau khi tìm hiểu thị trường về trứng gà Omega 3, chị Lê Thị Hiền, Giám đốc HTX quyết định đầu tư nuôi 5.000 con gà Brown Nick, là giống có nguồn gốc từ dòng gà trứng cao sản của Mỹ được nhập về Việt Nam từ năm 1993. Bằng việc bổ sung thêm các chất dinh dưỡng qua đường thức ăn của gà mái kết hợp công nghệ nuôi tiên tiến chính là cách mà HTX Chăn nuôi tổng hợp Thạch Tiến đã áp dụng đối với gà Brown Nick để hướng tới gà đẻ trứng Omega 3.

Đầu tiên phải kể đến chế độ dinh dưỡng của gà đẻ trứng Omega 3, khá cầu kỳ và tốn kém. Khẩu phần thức ăn của gà chứa loại axit béo này gồm những nguyên liệu cơ bản được phối trộn với nhau theo tỷ lệ thích hợp, có thêm thảo dược, tảo biển, dầu cá…

Điều khác biệt nữa là HTX không sử dụng chất kháng sinh, thay vào đó là cho gà uống vitamin C để tăng sức đề kháng. Ngoài chế độ ăn cám như gà đẻ trứng thông thường, chị Hiền cho công nhân đi lấy bèo tây về, xay nhỏ, trộn thêm mật mía và men vi sinh. Sau khi trộn đều, đem ủ hỗn hợp trên 4 – 5 ngày rồi mới cho gà ăn.

Xay bèo tây ủ mềm làm thức ăn cho gà

Khi cho gà ăn, trộn thêm dầu cá biển, tảo biển vào để mùi vị hấp dẫn. Với thức ăn chế biến thêm này, gà được ăn 1 ngày 1 lần vào buổi trưa. Cho ăn như vậy để vừa tăng thêm chất xơ cho gà, tiêu hóa tốt, phân không hôi và quan trọng nhất là tăng thêm hàm lượng Omega 3 trong trứng gà.

Bên cạnh đó, yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trứng cũng quyết định bởi điều kiện sinh sống của gà mái. Để đảm bảo cho đàn gà khỏe mạnh, dãy chuồng được HTX thiết kế hệ thống hút đẩy không khí tuần hoàn luân chuyển khiến chuồng trại luôn sạch sẽ, thoáng mát, nhiệt độ giữ ổn định ở mức 25 – 26 độ C, sử dụng bóng điện thắp sáng thường xuyên. Phân gà thải ra được tưới thêm men vi sinh, mỗi tuần dọn một lần nên phân khô và không hôi thối.

Theo anh Nguyễn Thái Học, kỹ sư phụ trách kỹ thuật của HTX: “Một tháng trung bình một con gà đẻ khoảng 20 – 24 trứng gà. Thông thường, gà đẻ suốt một năm khoảng hơn 250 quả, có sổ ghi chép theo dõi vì nếu con nào một tuần đẻ từ 5 – 6 trứng nhưng giảm còn khoảng 3 – 4 trứng sẽ bị loại”.

Sau khi thu hoạch, trứng gà Omega 3 được làm sạch, đóng dấu và đóng vỉ. Do cách bảo quản phải theo đúng quy trình kỹ thuật như vậy nên HTX chỉ sản xuất cung cấp cho siêu thị Metro tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An và một số cửa hàng thực phẩm sạch chứ không bán ra thị trường chợ, tránh tình trạng bị trứng thường trà trộn hoặc không bảo đảm chất lượng do cách bảo quản kém.

Thu hoạch trứng gà

Vì áp dụng quy trình chăn nuôi phức tạp và chi phí đầu vào cao nên giá trứng gà Omega 3 bán đắt hơn so với trứng thường, trứng gà bình thường được nhập với giá 3.000 – 3.500đ/quả, trứng gà Omega 3 nhập với giá 4.500 – 5.000đ/quả. Tuy nhiên, nếu so về giá trị dinh dưỡng thì trứng gà Omega 3 không quá đắt vì hàm lượng của nó mang lại gấp 2 – 3 lần so với trứng gà ta. Và chỉ bằng cách đem xét nghiệm mới phân biệt được trứng gà Omega 3 và trứng thường cũng như để biết hàm lượng chất dinh dưỡng trong quả trứng. Theo cảm quan, người mua có thể cảm nhận trứng gà này qua mùi vị ăn thơm, ngon, béo và lượng lòng đỏ trong trứng gà Omega 3 nhiều hơn trứng thường, đặc biệt là khi bể trứng cũng không tanh.

Mô hình nuôi gà đẻ trứng theo hướng Omega 3 của HTX Chăn nuôi tổng hợp Thạch Tiến đã làm phong phú, đa dạng các mô hình sản xuất ở nông thôn, kích thích cho nhiều nông dân mạnh dạn đầu tư tìm hướng làm ăn mới, góp phần không nhỏ giải quyết việc làm cho số lao động nông nhàn.

Là HTX nuôi gà tập trung lớn nhất ở Hà Tĩnh áp dụng công nghệ cao để sản xuất ra sản phẩm tiên tiến, trong thời gian tới HTX sẽ không ngừng đầu tư cải tiến kỹ thuật hơn nữa để nâng cao hàm lượng Omega3 trong trứng gà, đảm bảo chất lượng, số lượng cung cấp cho thị trường.

Nguồn: Trung tâm khuyến nông Hà Tĩnh được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Các tỉnh phía Bắc còn hơn 300.000 ha chưa gieo cấy

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), kế hoạch vụ đông xuân 2017- 2018, đến nay, diện tích gieo cấy toàn vùng 772 nghìn ha (67.8%).

Nông dân Bắc Giang xuống đồng cấy lúa

Tổng diện tích chưa gieo cấy các tỉnh phía Bắc (gồm các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ, ĐBSH và Trung du, miền núi phía Bắc) đến 21/2/2018 khoảng 367.000 ha chưa gieo cấy.

Tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, tổng diện tích gieo cấy khoảng 337.000 ha trong tổng số 541.000ha kế hoạch (tương đương 62,2%), diện tích chưa gieo cấy khoảng 204.000ha. Dự kiến các địa phương kết thúc gieo cấy trong tháng 2.

Còn tại các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc, diện tích gieo cấy đạt 105.000ha trong tổng số 24.000 héc ta kế hoạch (42%), do thời gian qua thời tiết rét đậm, rét hại các địa phương không gieo cấy được; một số địa phương có diện tích gieo cấy nhờ nước trời nên gieo cấy muộn (diện tích chưa gieo cấy 144.000 ha).

Theo ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, tiến độ gieo cấy năm nay bị chậm so với mọi năm. Nguyên nhân là do trước Tết nguyên đán xuất hiện các đợt rét đậm, rét hại, nhiệt độ hạ xuống dưới 15oC, Bộ NN-PTNT chỉ đạo các địa phương tạm ngừng gieo cấy. Rất may là sau ngày 23 tháng Chạp, thời tiết ấm dần, nhiệt độ trung bình khoảng 16 – 17oC, bà con xuống đồng tổ chức gieo cấy.

Ông Trần Xuân Định lưu ý, các địa phương cần khẩn trương làm đất gieo cấy nhanh diện tích lúa xuân trong khung thời vụ tốt nhất; kết thúc cấy trong tháng 2, chậm nhất ngày 5/3. Đồng thời cần bón lót sâu, bón trước lúc bừa chan phẳng ruộng; để lắng bùn mới cấy.

Quan điểm là mạ chờ ruộng; sử dụng phân NPK phức hợp hoặc hỗn hợp chuyên lót. Đồng thời phải giữ nước đều trên ruộng và tích nước ở hệ thống kênh mương phục vụ tưới dưỡng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây Khế ngọt ghép

(Mangifera Indica L)

1. Mô tả giống

* Tên: Cây khế có tên khoa học là Mangifera Indica L, họ Điều (Anacardiaceae).

* Giá trị: Theo Đông y, quả khế vị chua ngọt, tính bình tươi hơi mát, chín thì ôn có tác dụng sinh tân dịch giải khát, lợi tiểu, trị phong nhiệt giải độc.

* Đặc điểm hình thái: Cây khế thuộc dạng cây bụi cao, thân gỗ, có thể vươn tới 8 đến 10m, nhiều cành và phân cành thấp. Cây khế có lá kép dài đến 50 cm.

Hoa khế màu hồng, xuất hiện hoặc tại nách lá, hoặc tại đỉnh cành. Cây khế không cần nhiều nắng. Quả khế thuộc dạng quả táo (dạng quả nạc, có nhiều hạt), màu vàng hoặc xanh, có 5 múi (cho nên lát cắt ngang của quả có hình ngôi sao). Quả khế giòn, có vị chua ngọt, hao hao giống vị của quả dứa. Các hạt nhỏ, màu nâu.

* Đặc điểm sinh thái

Khế thích hợp trồng trên nhiều loại đất, nhưng đặc biệt sinh trưởng tốt trên đất nhiều mùn, dễ tiêu thoát nước, tơi xốp vì rễ khế dễ bị thối khi bị ngập úng.. Cây khế ra lộc nhiều đợt trong năm, riêng ở miền Bắc có mùa đông lạnh kèm gió rét mưa phùn tuy khế phát lộc từ tháng 2-3, song đến tháng 4-5 lá non mới ra nhiều nhất.

2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc

* Thời vụ trồng: Thời vụ trồng thích hợp là vào mùa Xuân, khi có mưa phùn nhỏ.

* Mật độ trồng

– Trồng thâm canh với cự ly cây cách cây 5-6m.

– Trồng xen canh với các loại cây khác thì cự ly cây cách cây 7-8m

* Làm đất, bón lót và trồng cây

– Đào hố: 60x60x60 cm, đào hố trước khi trồng 25-30 ngày.

– Bón lót: Mỗi hố trồng bón khoảng 10 đến 15kg phân chuồng hoai mục + 3kg supe lân + 1kg vôi bột, trộn đều rồi lấp vào hố cùng với đất mặt.

– Cách trồng: Khi trồng cuốc một hố nhỏ bằng cỡ bầu cây khế con, ở chính giữa hố, đặt cây khế vào lấp đất không trồng quá sâu, mặt bầu cao hơn miệng hố 5 đến 6 cm. Nếu đất khô thì phải tưới và che cho cây khế con.

* Kỹ thuật chăm sóc

– Chú ý cắt tỉa sao cho có khung tán rộng, cành phân bố đều trong tán không cho nắng rọi vào thân chính. Khi cây lớn, cành quá dày thì nên tỉa bớt cho tán cây thông thoáng: Bỏ bớt cành già, cành mọc chen chúc, cành sâu bệnh, cành yếu… Thời gian cắt tỉa thích hợp là vào sau vụ thu hoạch quả, trước lúc ra hoa.

– Cây khế to, thân dễ bị ánh nắng trực xạ làm nứt vỏ cho nên chú ý tạo tán đủ lá che phủ cho thân cây. Kinh nghiệm cho biết nêu chôn xác súc vật dưới tán cây khế cũng tạo cho chất lượng quả tốt hơn. Trong thời gian cây khế nuôi quả, không nên bón đạm mà nên bón K, tro bếp, vôi bột để cải thiện chất lượng quả. Nếu gần vườn khế ngọt có những cây khế chua thì có thể xảy ra hiện tượng thụ phấn chéo làm cho quả khế ngọt giảm chất lượng.

– Tưới nước: Trong thời kỳ cây còn nhỏ cần tưới nước quanh năm nhằm cung cấp đủ nước cho các đợt lộc non hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời gian đầu sau khi trồng mới, việc tưới nước cần phải duy trì từ 3-4 ngày/lần. Càng về sau số lần tưới càng ít đi nhưng phải duy trì được độ ẩm thường xuyên cho diện tích đất xung quanh gốc, dùng rơm rác mục, cỏ khô tủ lại xung quanh gốc, tủ phần tán cây có bán kính 0,8-1m, và để trống phần diện tích cách gốc 20cm để hạn chế côn trùng, sâu bọ làm tổ, phá hoại gốc.

– Làm cỏ: Làm cỏ cần tiến hành thường xuyên, tùy theo đặc điểm của từng vùng ta có cách thức xử lý cỏ phù hợp khác nhau, phơi khô cỏ sau đó tủ lại xung quanh gốc cây.

– Bón phân

+ Trong 3 năm đầu cần cắt tỉa, tạo tán cho cây, không để cành la sát mặt đất, mỗi năm cần bón thúc cho khế 200 đến 400g NPK tổng hợp mỗi cây cùng với 5kg tro (nếu có). Sau 3 năm đó, cây cho thu quả, sau mỗi năm thu quả xong bón cho một cây 15 đến 20kg phân chuồng tốt hoai mục + 2kg vôi bột, 3 đến 4kg NPK, riêng lượng NPK nên chia ra 3 đến 4 lần cho một năm.

+ Mỗi năm sau đợt thu quả (cuối năm) bón cho mỗi gốc 20-30kg phân chuồng. Khi còn nhỏ bón cho mỗi cây 400-500g phân NPK (tỷ lệ là 10:12:7 hay 16:16:8). Cây bắt đầu cho quả có thể bón tăng thêm liều lượng 500-800g/cây (15:15:15). Chú ý tăng cường phân kali.

+ Với cây lớn cho nhiều quả bón 3-4kg phân NPK hỗn hợp/cây, chia ra 3-4 lần trong năm. Cách nhau 3-4 tháng bón một lần.

3. Phòng trừ sâu, bệnh hại

– Bệnh thán thư: Bệnh làm thối đen hoa, rụng hoa, thối đen trên quả. Dùng Benlat C hoặc Score 250 EC phun từ khi hoa nở đến 2 tháng sau với 1lần/tuần, sau đó 1lần/tháng.

– Bệnh muội đen: Do bài tiết của rệp, dùng: Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC và có thể phun các loại thuốc trừ nấm có gốc đồng…

– Bệnh cháy lá: Bệnh phát triển trong mùa mưa, gây hại chủ yếu trên lá. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ lá bệnh, phun thuốc Rhidomil MZ 72 WP, Kasumin 2L…

– Sâu đục thân, cành: Dùng bẫy đèn bắt sâu trưởng thành, tiêm vào lỗ những loại thuốc có tính xông hơi mạnh hoặc nội hấp như: Actara 25 WG, Padan 95SP, bịt lỗ bằng đất sét để diệt sâu non.

– Rầy xanh: Rầy tiết dịch gây bệnh mùa nóng, làm Cóc kém phát triển. Thời gian hại mạnh từ tháng 10 năm trước đến tháng 6 năm sau. Dùng Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC, …

4. Thu hoạch

Sau khi hoa nở và đậu quả khoảng hơn 3 tháng thì những quả khế lứa đầu bắt đầu chín. Cần để quả khế chín kỹ trên cây mới hái vì sau khi tách khỏi cây, quả khế không tiếp tục chín nữa. Cuống quả nhỏ, mảnh nên quả khế dễ bị rụng. Chú ý không để khế bị dập nát.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây Khế Chua

Khế là một loài cây thuộc họ Oxalidaceae, có nguồn gốc từ Sri Lanka và được biết đến rộng rãi tại Đông Nam Á. Cây khế cũng được trồng tại Ghana, Brasil và Guyana. Tại Hoa Kỳ nó được trồng với quy mô thương mại tại miền nam Florida và Hawaii.

Việt Nam có nhiều giống khế: khế chua và khế ngọt. Các giống địa phương của ta có quả thường nhỏ. Khế chua dùng ăn như rau sống và nấu nướng. Khế ngọt ăn tươi như các loại trái cây khác, lám mứt, nước quả, … có tính nhuận trường, khích thích ăn ngon miệng và giải nhiệt. Khế giàu vitamin C (25 – 40 mg/100 g thịt quả), carotene (150 (g) và cho khoảng 25 – 35 calo/100 g phần ăn được. Ngày nay ở Malaysia, Đài Loan, Úc và Mỹ đã lai tạo nhiều giống tốt, quả to, đẹp mã, giá trị dinh dưỡng lại cao.

1. Tiêu chuẩn chọn giống:

Khế được nhân giống bằng phương pháp ghép cành, hai kiểu ghép được sử dụng là ghép đeo bầu và ghép đọt. Gốc ghép là khế ngọt Đài Loan và đọt ghép là khế B10 của Malaysia. Cây ghép sinh trưởng rất khỏe, cho hoa sau 3 tháng trồng và sẽ cho quả sau 6 tháng trồng. Sau đó cây sẽ cho liên tiếp nhiều đợt hoa và quả.

2. Thời vụ và mật độ trồng

Ở miền Bắc, vụ xuân là tốt nhất (tháng 2-3) và có thể là vụ thu (tháng 8-10). – Trồng thâm canh với cự ly cây cách cây 5-6m. – Trồng xen canh với các loại cây khác thì cự ly cây cách cây 7-8m

3. Làm đất và đào hố trồng:

– Làm đất cày bừa kĩ, nhặt sạch cỏ Đất trồng khế ngọt nên chọn loại đất tốt, giàu mùn có nguồn nước tưới. Nếu ở vùng đồi thì chọn đất trồng ở chân đồi. Đất tốt đào hố kích thước là 0,6×0,6×0,6 m. Nếu đất xấu 1,0×1,0x0,8 m.

4. Phân bón lót :

Bón lót trước khi trồng, lượng phân cho một hố là: 5 – 10 kg phân hỗn hợp gồm 50 – 60% phân chuồng ủ hoai mục + 20 – 30% phân NPK + 10 – 20% xỉ than lò gạch hay xỉ than tổ ong, có thể kết hợp với lông gà, xác xúc vật (nếu có).

5. Kỹ thuật trồng cây Khế chua:

Cần cắm cọc vào giữa hố để giữ cây. Cuốc một hốc giữa hố vừa với bầu khế. Đặt bầu cây giống vào rồi lấp đất bột xung quanh, nén vừa phải. Buộc cây vào cọc đã cắm sẵn, để cây không bị lay gốc khi có gió bão. Sau khi trồng cần tưới nhẹ nước, độ ẩm trong đất khoảng 60 – 80%. Khế không cần nước nhiều, nhưng cũng không được để đất quá khô. Khi cây cao độ 80 cm đến 1m, cần loại bỏ những cành tăm, khuất tán để tập trung chất dinh dưỡng cho cành ngọn và những cành lộ sáng. Cần lấy cọc chống đỡ cho cành, cây khế. Vì cành, cây khế giòn, dễ gãy (thời kỳ sắp thu hoạch trái).

6. Kỹ thuật chăm sóc cây khế chua:

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

– Chú ý cắt tỉa sao cho có khung tán rộng, cành phân bố đều trong tán không cho nắng rọi vào thân chính. Khi cây lớn, cành quá dày thì nên tỉa bớt cho tán cây thông thoáng: Bỏ bớt cành già, cành mọc chen chúc, cành sâu bệnh, cành yếu… Thời gian cắt tỉa thích hợp là vào sau vụ thu hoạch quả, trước lúc ra hoa.

– Cây khế to, thân dễ bị ánh nắng trực xạ làm nứt vỏ cho nên chú ý tạo tán đủ lá che phủ cho thân cây. Kinh nghiệm cho biết nêu chôn xác súc vật dưới tán cây khế cũng tạo cho chất lượng quả tốt hơn. Trong thời gian cây khế nuôi quả, không nên bón đạm mà nên bón K, tro bếp, vôi bột để cải thiện chất lượng quả. Nếu gần vườn khế ngọt có những cây khế chua thì có thể xảy ra hiện tượng thụ phấn chéo làm cho quả khế ngọt giảm chất lượng.

– Tưới nước: Trong thời kỳ cây còn nhỏ cần tưới nước quanh năm nhằm cung cấp đủ nước cho các đợt lộc non hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời gian đầu sau khi trồng mới, việc tưới nước cần phải duy trì từ 3-4 ngày/lần. Càng về sau số lần tưới càng ít đi nhưng phải duy trì được độ ẩm thường xuyên cho diện tích đất xung quanh gốc, dùng rơm rác mục, cỏ khô tủ lại xung quanh gốc, tủ phần tán cây có bán kính 0,8-1m, và để trống phần diện tích cách gốc 20cm để hạn chế côn trùng, sâu bọ làm tổ, phá hoại gốc.

– Làm cỏ: Làm cỏ cần tiến hành thường xuyên, tùy theo đặc điểm của từng vùng ta có cách thức xử lý cỏ phù hợp khác nhau, phơi khô cỏ sau đó tủ lại xung quanh gốc cây.

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Khế Chua:

+ Trong 3 năm đầu cần cắt tỉa, tạo tán cho cây, không để cành la sát mặt đất, mỗi năm cần bón thúc cho khế 200 đến 400g NPK tổng hợp mỗi cây cùng với 5kg tro (nếu có). Sau 3 năm đó, cây cho thu quả, sau mỗi năm thu quả xong bón cho một cây 15 đến 20kg phân chuồng tốt hoai mục + 2kg vôi bột, 3 đến 4kg NPK, riêng lượng NPK nên chia ra 3 đến 4 lần cho một năm. + Mỗi năm sau đợt thu quả (cuối năm) bón cho mỗi gốc 20-30kg phân chuồng. Khi còn nhỏ bón cho mỗi cây 400-500g phân NPK (tỷ lệ là 10:12:7 hay 16:16:8). Cây bắt đầu cho quả có thể bón tăng thêm liều lượng 500-800g/cây (15:15:15). Chú ý tăng cường phân kali. + Với cây lớn cho nhiều quả bón 3-4kg phân NPK hỗn hợp/cây, chia ra 3-4 lần trong năm. Cách nhau 3-4 tháng bón một lần.

7. Phòng trừ sâu bệnh trên cây khế chua:

– Khế thường bị các loại sâu non (thuộc bộ cánh phấn) và ruồi đục trái phá hoại. Chúng gây hại cả hoa và trái non. Để phòng trừ có thể dùng Trebon 0,2% phun vào giai đoạn trái còn nhỏ, nếu phun vào giai đoạn trái lớn, dễ gây ngộ độc. – Hàng năm, vào mùa khô, dùng nước vôi bão hoà quét vào gốc cây để bảo vệ cây, ngăn ngừa các loài sâu đục vỏ, đục thân… xâm nhập gây hại. – Vệ sinh vườn sạch sẽ, quét dọn lá rụng, trái rụng đưa ra khỏi vườn.

8. Thu hoạch và bảo quản:

Sau khi ra hoa khoảng 100 ngày thì khế chín, tuỳ theo màu sắc quả biết được mức độ chín để thu hoạch cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Khế là loại không chín thêm sau khi thu hoạch, do vậy không nên hái xanh. Quả khế dễ giập chỉ nên thu hoạch bằng tay, nếu trên cao thì thu hoạch bằng sào có gắn rọ ở đầu để hái.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.