Nấm xanh diệt rầy nâu

Ông Hồ Đắc Thọ, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV TT-Huế cho biết, Chi cục vừa xây dựng thành công mô hình sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa đạt hiệu quả cao, mở ra triển vọng phát triển nền nông nghiệp sạch, bền vững… Trong lúc nhiều diện tích lúa trên địa bàn TT- Huế trong thời gian qua bị sâu bệnh, rầy nâu gây hại, thì những chân ruộng ở HTXNN Phú Đa I, huyện Phú Vang do sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu nên cả ruộng lúa óng vàng, trĩu hạt, hứa hẹn một vụ mùa cho năng suất cao.

Trong quá trình chăm sóc cây lúa, người nông dân ở đây cũng không còn nỗi lo như trước vì chịu tác động của thuốc BVTV làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Đầu vụ HT vừa qua, Chi cục BVTV TT- Huế đã xây dựng mô hình sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa trên diện tích 2 ha ở các xã, thị trấn như: Phú Đa (huyện Phú Vang), xã Thủy Lương (thị xã Hương Thủy), xã Hương Phong (thị xã Hương Trà)và xã Quảng Vinh (huyện Quảng Điền).

Nguyên liệu SX nấm xanh là nguồn nấm cấp I. Trước kia, nguyên liệu phải mua từ ĐH Cần Thơ. Hiện nay, Chi cục BVTV TT- Huế là đơn vị đầu tiên ở khu vực miền Trung đã chủ động SX được nguồn nấm cấp I. Cách làm nấm xanh khá đơn giản. Trước hết, lấy gạo hoặc tấm để ngâm ủ trong nước trong thời gian từ 30 – 40 phút, sau đó vớt ra để ráo và chia vào các túi ni lông, bình quân nửa kg/túi, rồi dùng các nút bông gòn bao bọc các miệng túi để tránh nước vào và tiến hành hấp khử trùng. Nguồn giống cấp I được nuôi cấy trong gạo và tấm từ 7- 14 ngày.

Thực tế, kết quả sử dụng nấm xanh cho thấy nấm phát triển tốt, ký sinh gây hại rầy nâu đạt hiệu quả cao. Theo ước tính ban đầu,việc sử dụng nấm xanh phòng trừ rầy nâu đã tiết kiệm công sức lao động, giảm chi phí phun thuốc từ 700.000 – 900.000 đồng/ha so với dùng thuốc hoá học ở vụ HT này.

ông Nguyễn Duy Bờ, hộ nông dân ở HTXNN Phú Đa I,được chọn làm điểm mô hình này cho biết: “Qua triển khai trên diện tích lúa vụ HT, tôi nhận thấy mô hình nấm xanh mang lại hiệu quả rõ rệt. Nhìn chung đồng ruộng không có rầy đe dọa, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Vì vậy, đề nghị các ngành chức năng địa phương cần nhân rộng mô hình này bởi, ngoài giảm chi phí SX cho bà con nông dân thì còn giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường do sử dụng thuốc BVTV”.

ông Hồ Đắc Thọ đánh giá: “Qua theo dõi thực tế trên đồng ruộng, hiệu quả của nấm xanh trừ rầy đạt tương đối khá cao, từ 70 – 75%. Trước đây, bà con thường sử dụng thuốc hóa học để phun trừ rầy, nhưng phun rất nhiều lần, vừa tốn kém trong chi phí, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như môi trường sinh thái, tuy nhiên rầy vẫn bộc phát ở thời điểm cuối vụ rất lớn.

Qua 2 mô hình sử dụng nấm xanh trừ rầy đối chứng với nông dân làm theo tập quán địa phương ở 4 điểm trên địa bàn toàn tỉnh thì mô hình rất khả quan và mang lại hiệu quả cao”.

ông Thọ cho biết thêm, việc sử dụng nấm xanh để phòng trừ rầy nâu hại lúa là một giải pháp tốt, hạn chế ô nhiễm môi trường, bảo tồn thiên địch có ít trên đồng ruộng, góp phần tạo ra sản phẩm lúa sạch.

Trong những vụ mùa tiếp theo sẽ đề nghị Sở NN-PTNT tỉnh TT- Huế cùng các ngành chức năng trong tỉnh tạo điều kiện để Chi cục chuyển giao kỹ thuật SX nấm xanh và ứng dụng sản phẩm nấm xanh vào SX để quản lý rầy nâu hại lúa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Thêm silic vào đất để tăng cường khả năng phòng vệ thực vật

Để giúp các loài thực vật chống lại sâu bệnh tốt hơn, các nhà nghiên cứu đang trang bị đá cho chúng.

Biểu hiện của lá cây thiếu Silic

Nhà khoa học Ivan Hiltpold từ Đại học Delaware và các nhà nghiên cứu từ Viện Môi trường Hawkesbury từ Đại học Tây Sydney đang tiến hành kiểm tra việc thêm silic vào đất có trồng cây để giúp tăng cường khả năng chống lại những kẻ thù tiềm tàng.

Nghiên cứu đăng trên tạp chí Soil Biology và Biochemistry. Nền tảng của dự án là tiếp cận tác động của nấm arbuscular mycorrhizal đối với chất lượng dinh dưỡng của cây và sâu hại rễ, bổ sung thêm mía và côn trùng ăn rễ, chủ yếu là giòi mía – giòi của bọ cánh cứng trên cây mía.

Silic là nguyên tố dồi dào đứng thứ hai trên thế giới sau oxy trong lớp vỏ Trái đất, nhưng do silic ở dưới dạng đá hoặc khoáng nên không sẵn có cho thực vật sử dụng.

Bằng cách bổ sung cho đất Silic đioxyt, một dạng silic mà thực vật có thể dễ dàng hấp thu, các nhà nghiên cứu đã giúp thực vật xây dựng các phân tử nhỏ bé gọi là phytolith, hay “đá thực vật” để chống lại côn trùng ăn cỏ và có thể là các loài gặm nhấm.

Trong thí nghiệm với hai giống mía trồng trong nhà kính, côn trùng ăn rễ, chủ yếu là giòi mía, ký sinh trên cây. Chức năng miễn dịch của côn trùng được đánh giá bằng cách đo phản ứng miễn dịch của chúng đối với tuyến trùng giun gây bệnh – những sinh vật nhỏ giết côn trùng trong đất – trong khi sự phát triển côn trùng và tiêu thụ rễ được đánh giá trong một thử nghiệm cho ăn.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, ở mức hàm lượng silic cao hơn sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng của côn trùng và tốc độ ăn rễ tới 71%. Do silicon không ảnh hưởng đến gia súc chăn thả, các nhà khoa học cho biết sẽ không ảnh hưởng đến con người.

Việc lựa chọn sử dụng silic để tăng cường khả năng phòng vệ tự nhiên của cây trồng chống lại giòi mía bởi sự thân thiện với môi trường và tiết kiệm về mặt kinh tế đối với người trồng do không phải phun thuốc nhiều để bảo vệ cây trồng.

Kết quả năng xuất khi thử hiện ứng dụng

M.H – Mard, theo EurekAlert, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Làm giàu từ khoai lang tím

Hai bàn tay trắng, dắt díu vợ con chọn vùng đất nhiễm phèn nặng giữa Tứ giác Long Xuyên để mưu sinh, vậy mà bây giờ Phan Thành Tiến, ở ấp Vĩnh Lợi (xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) đã trở thành tỉ phú. Bí quyết gì? Tất cả nhờ vào cây khoai lang tím Nhật.

khoai lang tím

Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở quận Thốt Nốt (TP Cần Thơ), Tiến đã trải qua nhiều năm bám ruộng đồng trồng màu và trồng lúa nhưng thu nhập không cao. Thấy khó làm ăn, Tiến cương quyết bỏ quê nhà cùng vợ con đi làm thuê cho các ông chủ trồng khoai lang ở Bình Tân (Vĩnh Long), Hòn Đất (Kiên Giang)…

Suốt 5 năm trời làm thuê, anh đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nắm bắt kỹ thuật trồng và biết vùng đất nào thích hợp cây khoai lang cho năng suất cao. Năm 2009 anh được một người bạn mời về vùng đất ở xã Vĩnh Phước (huyện Tri Tôn) chơi. Đó là một vùng đất rộng, trồng lúa một năm chỉ 1-2 vụ là tối đa nên người cho thuê đất khá nhiều. Nuôi ý định trồng khoai lang tím Nhật từ lâu nên Tiến thấy vùng đất này thích hợp quá.
Đầu năm 2010 anh quyết định cùng vợ con về Vĩnh Phước thuê đất trồng khoai lang. 5 năm đi trồng khoai lang mướn được 50 triệu đồng cộng thêm 2 chỉ vàng hồi môn lúc cưới, vợ chồng Tiến thuê 5 ha đất. Năm đầu tiên mua giống khoai lang tím Nhật ở Hòn Đất về trồng thử. Chưa đầy 1 tháng, ruộng khoai xanh tốt, ít bệnh. Đến vụ thu hoạch bán trên 200 triệu đồng. Thắng lợi to quá, Tiến đầu tư mở rộng diện tích thành 15 ha và thắng tiếp gần 350 triệu đồng ở vụ thứ hai.

Có đồng vốn kha khá, đầu năm 2011 gia đình anh dồn hết tiền thuê 52 ha để trồng tiếp khoai lang tím Nhật. Chỉ sau một thời gian ngắn, 52 ha đất vốn nhiễm phèn được phủ xanh mơn mởn toàn khoai lang tím Nhật. Bằng kinh nghiệm của mình, anh Tiến đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ cày xới, lên luống, bơm tưới, thu hoạch đều bằng máy. Nhân công chỉ nhặt khoai, chọn khoai và đóng gói nên chi phí rẻ.

Khoai lang tím Nhật có thể trồng quanh năm và cho thu nhập cao, gấp đôi các loại khoai khác. Đây là giống khoai chất lượng cao, dễ trồng, từ 4- 4,5 tháng cho thu hoạch, năng suất từ 13-15 tấn/ha. Bình quân mỗi dây khoai cho từ 3-7 củ, ít bị sùng ăn.

Theo kinh nghiệm của anh Tiến, bón phân đầy đủ và thường xuyên phòng trừ sâu hại, xử lý nước kịp thời, năng suất, chất lượng khoai sẽ cao. Nếu bán theo giá hợp đồng 15.000 đồng/kg, vụ này anh thu về 7-9 tỉ đồng. Trừ hết các chi phí vật tư, tiền thuê đất và nhân công vẫn còn lãi từ 3-4 tỉ đồng. Sang năm 2012 anh sẽ mở rộng diện tích trồng khoai lang tím lên 100 ha.

Ông Nguyễn Văn Vân, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn đánh giá: Anh Tiến là một nông dân giỏi, dám nghĩ dám làm. Anh là người đầu tiên trồng khoai lang làm giàu trên vùng đất lũ của xã Vĩnh Phước này. Góp phần đưa nền kinh tế nông nghiệp ở một xã nghèo vươn lên và tạo công ăn việc làm ổn định cho 40 lao động tại địa phương.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi trùn quế làm giàu

Tình cờ anh Hồ Văn Tây, 39 tuổi, một chủ trang trại ở Diên Xuân (Diên Khánh, Khánh Hòa) học được nghề nuôi trùn quế từ một người bạn Việt kiều ở Úc. Và nghề nuôi trùn quế đã giúp anh làm giàu sau bao lần thất bại trong kinh doanh.

nuôi trùn quế làm giàu

Anh Tây đưa tôi đi xem trang trại nuôi trùn quế của anh trên một ngọn đồi nhỏ, bạt ngàn mía và cỏ voi thuộc thôn Xuân Nam, xã Diên Xuân. Hàng dãy nhà lá nối tiếp nhau chạy dài như một nhà máy lớn. Bên trong từng căn nhà, các ô nuôi trùn xếp bằng gạch, nối tiếp nhau dày đặc một màu đen toàn phân và phân. Một công nhân đang tưới giữ ẩm cho các ô nuôi trùn. Anh Tây chỉ vào một ô nuôi, hồ hởi: “Nuôi trùn rất thú vị, phân bò đưa vào đây chỉ trong 10 – 15 ngày, con trùn đã biến phân sống thành phân vi sinh, bón rất tốt cho cây trồng. Con trùn quả là một nhà máy chế biến tuyệt vời…”.

Được biết, phân trùn là chất dinh dưỡng tuyệt vời đối với cây trồng. Phân chuồng sau khi qua “công đoạn” xử lý của trùn đã trở thành thức ăn bổ dưỡng, rất dễ hấp thụ đối với cây trồng. Chính vì vậy, trang trại của anh bán rất chạy loại phân này. Hiện nay, nguồn thu nhập chính từ trang trại là bán phân trùn. Mỗi tháng trang trại có thể sản xuất từ 15 – 20 tấn phân trùn. Với giá bán hiện tại 2.000 đ /kg, anh Tây thu về một nguồn lợi không nhỏ. Anh Tây cho biết, thị trường tiêu thụ phân trùn rộng khắp, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, hiện nay trang trại không đủ sức cung cấp cho thị trường. Phân trùn có thể bón cho rất nhiều loại cây trồng: từ cây lương thực (lúa, màu), cây ăn quả (thanh long, cam, bưởi…), cây công nghiệp (cà phê, chè, tiêu, cao su…), đến cả cây cảnh; đây cũng là loại phân cao cấp không sợ bị lạm dụng. Dân trồng laghim ở Đà lạt (Lâm Đồng) rất thích tìm mua loại phân này. Để phát triển thị trường, anh Tây mua thiết bị chế biến phân, in bao bì (25 kg) và lập nhà kho để chứa phân.

Nuôi trùn quế rất đơn giản, sau khi đem phân bò về, lượm rác, sỏi đá, tạp chất; dùng thuốc xử lý vi khuẩn, mầm bệnh; đưa vào ô nuôi, tưới giữ ẩm và chờ ngày “ra” thành phẩm. Sản phẩm bao gồm: trùn quế (sinh khối) và phân vi sinh. Cả 2 đều có thể bán. Giá trùn quế sinh khối hiện tại 9.000 đ /kg, là thức ăn cao cấp của các loài tôm, cá, ba ba, heo, gà… Tuy nhiên, hiện nay việc bán sinh khối gặp khó khăn về đầu ra nên trang trại chủ yếu bán phân vi sinh và sinh khối cho các hộ có nhu cầu. Để có thức ăn cho trùn, mỗi tháng anh Tây mua khoảng 20 m3 phân chuồng, chủ yếu là phân bò ở các nơi về với giá từ 40 – 50 ngàn đồng /m3. Anh cho biết, tiền lãi nuôi trùn quế từ đầu năm đến nay đã lên tới 150 triệu đồng. Có thể nói, trùn quế là đối tượng nuôi kinh tế xếp đầu bảng, vượt xa các đối tượng nuôi khác trong nông nghiệp. Đến nay, anh Tây đã xây dựng được 10 trại nuôi, mỗi trại có diện tích 100 m2. Lượng sinh khối lên tới vài chục tấn. Để duy trì sản xuất, anh thuê 12 người giúp việc để nuôi trùn, trồng cỏ voi (1 ha) và chăm sóc đàn bò (70 con), thu nhập mỗi lao động từ 1 – 1,2 triệu đồng /tháng.

Được biết, ở nước ngoài, nghề nuôi trùn quế rất phát triển và con trùn được chế biến thành nhiều sản phẩm cao cấp như: trà trùn, biscuis trùn và phân trùn cũng là phân vi sinh cao cấp. Anh Tây cho biết, tổng vốn đầu tư vào trại trùn quế đến nay đã lên đến 500 triệu đồng nhưng anh rất tin tưởng vào tương lai của nghề này. Hiện tại, nhiều đơn vị trong đó có Công ty Cao su Việt Lào (Gia Lai) đang đặt vấn đề mua phân vi sinh của anh với số lượng lớn nhưng do khả năng còn yếu nên anh chưa dám nhận đơn đặt hàng vì sợ đáp ứng không đủ. Anh dự định sẽ mở rộng trại trùn lên 5.000 m2 để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Thu siêu lợi nhuận từ trồng chanh dây

Nhiều năm nay, hàng ngàn bà con nông dân một số tỉnh như Lâm Đồng, Gia Lai, Đăk Nông… trồng chanh dây cho thu nhập “siêu lợi nhuận”

Chanh dây mang lại hiệu quả kinh tế cao

Tại Lâm Đồng nói chung các tỉnh như Gia Lai, Đăk Nông nói riêng, cây chanh dây được bà con nông dân hồ hởi trồng chủ yếu là loại giống nhập khẩu từ Đài Loan. Giống này nếu chăm sóc tốt cho năng suất bình quân 70 – 100 tấn/ha/năm, với giá cả thị trường từ 15.000 – 17.000 đ/kg, sau khi trừ chi phí thì người trồng chanh dây thu được lãi thuần từ 500 – 700 triệu đ/ha/năm, chu kỳ canh tác hiệu quả nhất không quá 2 năm.

Với việc trồng chanh dây đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, kiểm soát được sâu bệnh hại và chu kỳ từ khi trồng đến khai thác xong không vượt quá 2 năm, sẽ cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với một số loại cây trồng khác, nhất là với những địa phương cần chuyển đổi cơ cấu cây trồng.

Để đưa cây chanh dây trở thành cây trồng chủ lực và đảm bảo nguồn nguyên liệu sạch, chất lượng cao phục phụ chế biến xuất khẩu đi thị trường châu Âu, hơn 5 năm trở lại đây Cty CP Nông Nghiệp Đông Phương – TP.HCM đã ký hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm với bà con nông dân nhằm chuyển giao giống, kỹ thuật giúp bà con nông dân canh tác loại giống chanh dây nhập khẩu từ Đài Loan đạt hiệu quả kinh tế cao.

Tại Đắk Nông, công ty liên kết bao tiêu khoảng gần 100 ha chanh dây tím nhập khẩu từ Đài Loan, được phân bố ở các huyện Đắk R’lấp, Krông Nô, Đắk Glong, Chư Jút, thị xã Gia Nghĩa…

Chi chi phí đầu tư cho một ha chanh dây khoảng 70 – 100triệu đồng gồm tiền mua giống, kẽm gai, trụ… để làm giàn và công chăm sóc cũng khá đơn giản chỉ cần chăm chỉ thăm nom, nếu thấy xuất hiện sâu bệnh thì xử lý kịp thời để phòng trừ và sau trồng 5-7 tháng là bắt đầu cho thu hoạch với năng suất bình quân khoảng 70 – 100 tấn một ha. Có hộ chăm sóc tốt còn đạt năng suất lên tới gần 130 tấn/ha.

Khuyến cáo với bà con nông dân: Rủi ro tiềm ẩn!!

Chia sẻ kinh nghiệm của Ths.Trần Văn An –Giám đốc Trung Tâm Khảo Nghiệm giống chanh dây thuộc CTY Phương cho rằng “Hiện nay, trồng chanh dây đang hấp dẫn nhiều hộ nông dân ở Đắk Nông, Gia lai, Lâm Đồng,  do hiệu quả kinh tế rất cao . Tuy nhiên, chúng tôi khuyến cáo bà con nông dân có ý định trồng chanh dây hoặc đang trồng cần phải lưu ý những vấn đề như “chọn đúng giống, phát hiện sâu bệnh kịp thời , thị trường tiêu thụ và chế biến”.

Bài học làm kinh nghiệm:

“Vào năm 2010 nhiều người trồng chanh dây ở các địa phương đã chạy đôn, chạy đáo mua các loại thuốc về phun trên cây, lá, xịt xuống gốc nhưng dịch bệnh vẫn không hết. Vì vậy, nhiều vườn chanh dây đang xanh tốt thì bị nhiễm bệnh lá chuyển sang màu vàng rồi rụng dần cả lá lẫn trái và chết toàn bộ, nhất là những vùng trước đây đã trồng chanh dây nhưng xử lý đất chưa kỹ, gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho người trồng chanh dây. Nhiều hộ dân đã thiệt hại nặng nề, có hộ đã phá sản vì cây chanh dây.

Nguyên nhân chủ yếu do việc trồng ồ ạt. Nhiều đơn vị, hộ dân tự ý cấy ghép, nhân giống không thông qua đơn vị kiếm soát, bán giống để kiếm lời trước mắt. Bà con nông dân ham rẻ mua phải những cây bị bệnh mà không biết. Diện tích trồng chanh dây tự phát và vượt quá mức kiểm soát, giống cây trồng không bảo đảm chất lượng … Hơn nữa đa số các hộ dân tự phát trồng đều không qua lớp tập huấn kĩ thuật nào, chỉ là dân “tay ngang” thấy người khác trồng có hiệu quả thì làm theo, vườn chanh dây không mắc bệnh cũng sẽ chậm phát triển, năng suất khó đạt như mong muốn”.

Trước thực trạng chanh dây đang được bà con nông dân trồng trở lại. Tránh tình trạng chặt trồng, trồng chặt đã là điệp khúc khi đề cập đến một số cây trồng khác, hay hạn chế dịch sâu, bệnh hại.

Vì vậy, bà con nông dân cũng cần tìm hiểu cặn kẻ trước khi đầu tư , đặc biệt: Chọn giống và nguồn gốc giống là rất cần thiết, phải thường xuyên hiễm tra và phát hiện kịp thời sâu hại , bệnh hại để xử lý kịp thời,

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi gà kết hợp thả cá trê phi

Mô hình nuôi gà kết hợp thả cá trê phi đang được nhiều người dân huyện Anh Sơn áp dụng hiệu quả bởi vừa tận dụng lượng chất thải lớn từ chăn nuôi gà để nuôi cá, tránh gây ô nhiễm môi trường, từ đó tăng thêm thu nhập.

                                           nuôi gà kết hợp với cá trê phi

Áp dụng thành công mô hình này hơn 3 năm nay, ông Nguyễn Hữu Đại ở thôn 4, xã Tường Sơn cho biết: “Với quy mô thực hiện hơn 5.000 con gà và 7 bể nuôi cá trê với diện tích 700 m2, mỗi năm gia đình tôi thu về 1,3 tỷ đồng, trừ chi phí cũng thu lãi 400 triệu đồng/năm”.

Bể nuôi cá được ông Đại bố trí sát với chuồng nuôi để tận dụng nguồn thức ăn thừa và xử lý môi trường. Gia đình thường xuyên sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường cho gà và cá phát triển tốt.

Theo ông Nguyễn Hữu Đại, để thực hiện mô hình gà – cá thành công, phải nắm vững và áp dụng sáng tạo các biện pháp kỹ thuật, đầu tư thật kỹ về cơ sở hạ tầng, chủ động nguồn vốn phục vụ sản xuất.

Ông Đại chia sẻ: Để nuôi gà kết hợp với cá trê trước hết chuồng trại cần xây dựng bằng gạch kiên cố. Đối với nuôi gà, mỗi chuồng có diện tích 50m2. Gà con bố trí mật độ 1.200 con/chuồng, gà trưởng thành 400 con/chuồng. Chuồng nuôi phải thoáng mát, nhận được ánh sáng buổi sáng, tránh nóng bức buổi chiều, tránh được mưa tạt gió lùa, ấm áp mùa đông, mát mẻ mùa hè. Trong quá trình nuôi, thực hiện chế độ chăm sóc hợp lý như: tiêm phòng đầy đủ, nên sử dụng thức ăn công nghiệp kết hợp rau cám và chăn thả tự nhiên. Cùng đó, cần thực hiện tốt các khâu vệ sinh chuồng trại, xử lý môi trường bằng chế phẩm sinh học.

Đối với nuôi cá: Bố trí diện tích ao nuôi phù hợp số lượng đàn gà trong trang trại. Hiện nay ông Đại bố trí 7 bể nuôi có với diện tích mỗi bể là 100m2, trong đó Chọn các đối tượng cá nuôi thích nghi điều kiện tự nhiên, chủ yếu là cá trê phi và một ít cá rô phi; mật độ 10 con/m2 để tận dụng triệt để thức ăn thừa. Cần duy trì mực nước ao 1,2 – 1,5 m và theo dõi chất lượng nước thường xuyên để cải thiện năng suất, chất lượng cá nuôi.

Với quy mô 5000 con gà và 7 bể nuôi cá đã mang lại lãi ròng cho gia đình ông Đại trên 400 triệu đồng/năm.

Ông Đại chia sẻ: Việc nuôi một số lượng gà lớn kết hợp với chăn nuôi cá trê đang là hướng đi rất hợp lý của nhiều hộ trên địa bàn. Hàng ngày ngoài phân gà còn một lượng vỏ trứng từ lò ấp của gia đình cũng sẽ được dùng làm thức ăn cho cá. Mô hình nuôi kết hợp này đạt hiệu quả rất cao. Mỗi năm ông cho xuất chuồng trên 5.000 con gà và 2,1 tấn cá, mang lại thu nhập trên 400 triệu đồng.

Thực tế cho thấy, mô hình nuôi gà thả trê tương đối dễ thực hiện, phù hợp điều kiện sản xuất ở nông thôn, mang lại hiệu quả cao, tùy khả năng nông hộ để chọn hình thức đầu tư phù hợp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Làm giàu từ mô hình nuôi sò huyết trong ao tôm

Mô hình này đã mang lại nguồn lợi lớn, giúp các hộ dân thoát nghèo và hiện tại đang được nhân rộng ở các tỉnh phía Nam, đem lại thu nhập ổn định cho người dân.

                                                sò huyết của bà con nông dân

Hộ anh Nguyễn Quốc Trạng ở ấp Kênh Lớn, xã Đông Thới (Cái Nước, Cà Mau) có hơn 1 ha đất vuông tôm. Đầu năm, anh thả hơn 300 kg sò giống (chi phí 27 triệu đồng). Sau 9 tháng nuôi thu được 137 triệu, trừ chi phí lãi khoảng 100 triệu.

Không riêng gì gia đình anh Trạng, rất nhiều bà con trong vùng có nguồn thu nhập cao nhờ nuôi sò. Có hộ nuôi thành công nhiều năm nay và được bà con địa phương đặt cho cái biệt danh thật thân thương gắn liền với con sò.

Ông Tám “sò” (ông Nguyễn Văn Tám, một trong những người nuôi sò đầu tiên ở Cái Nước) đã xây được nhà cửa khang trang. Cũng nhờ nuôi sò, ông mua thêm được 5 công đất.

Ông Tám chia sẻ, nhiều năm trước, bà con sống chủ yếu dựa vào con tôm, con cua nhưng chỉ đủ ăn. Khi mô hình nuôi sò trong vuông tôm hình thành, nhiều hộ phất hẳn lên. Có của ăn của để, còn mua thêm được đất.

“Hồi đó thấy sò huyết sinh sống và phát triển tốt ở các cửa biển rồi vào cả các tuyến kênh nối biển. Nhiều bà con khai thác kiếm thêm thu nhập. Nhưng những con sò nhỏ bán không ai mua, mang về ăn thì phí quá. Một vài hộ thả đại xuống vuông tôm nhà mình, sống chết mặc bay, không ngờ mang lại hiệu quả”, ông Tám “sò” hồi tưởng.

Từ thành công của bà con ở Cái Nước, Đầm Dơi (Cà Mau) mô hình nuôi sò tràn sang huyện bạn Đông Hải (Bạc Liêu). Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, bà con vùng này còn có nguồn thu nhập cao hơn cả nơi “đất tổ” của mô hình nuôi sò.

Theo số liệu thống kê từ Phòng NN-PTNT huyện Đông Hải, diện tích nuôi sò trong mô hình “Nuôi tôm quảng canh cải tiến kết hợp thả ghép sò huyết” của huyện đã tăng lên 578 ha chỉ hơn 100 ha), chủ yếu tập trung ở xã An Phúc, An Trạch A và Long Điền Tây dọc theo tuyến kênh sáng Gành Hào – Hộ Phòng. Ước lợi nhuận bình quân đạt từ 100 – 200 triệu đồng/ha.

Anh Trang Minh Cảnh, ngụ ấp 2, xã An Trạch A (Đông Hải) cho biết: “Sò rất dễ nuôi, không có quá nhiều rắc rối về kỹ thuật. Chỉ cần mua giống về quăng xuống, trông coi. Sau gần 1 năm trên 4 ha thử nghiệm  tôi thu gần 100 triệu đồng”.

Theo kinh nghiệm nuôi sò của bà con xã An Trạch A không phải vùng nào nuôi sò huyết cũng thuận. Nuôi con sò phải đảm bảo lấy được nước ra vào thường xuyên để cải tạo môi trường.

Đặc biệt cần chú ý vuông tôm nào mà có rong sống dưới đáy thì không thể nuôi sò được, thả giống xuống là chết hết, cũng chưa rõ tại sao sò lại kỵ rong đến như vậy. Còn theo sự tích góp kinh nghiệm cả chục năm nay của ông Tám “sò”.

Sò huyết ăn phù sa, vì vậy chúng phù hợp với nơi có thủy triều lên xuống. Càng gần cửa biển, càng dễ nuôi. Trên địa bàn xã Đông Thới vùng thích hợp nuôi sò, nhất là các vuông tôm dọc theo tuyến kênh Đông Hưng dài khoảng 9 km.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi vịt siêu thịt cho lãi cao

Vịt siêu thịt lớn rất nhanh, nhanh hơn vịt ta nhiều lần. Từ vịt mới nở, chỉ cần nuôi 2 tháng rưỡi là đã nặng tới 3 cân. Nếu trong một gia đình chỉ cần một lao động chăn khoảng 30 con vịt siêu thịt thì sau 3 tháng đã có ngót ngét một tạ thịt vịt. Chỉ 75 ngày tuổi, vịt nặng khoảng 2,8 – 3,2kg.

Vịt siêu thịt có thể đẻ được 200 trứng/năm, nhiều hơn vịt ta khoảng 80 trứng. Vừa nuôi để lấy thịt vừa nuôi để lấy trứng đều tốt. ở đồng bằng, người ta thường nuôi theo phương thức tập trung thâm canh, nhưng ở miền núi, nên tổ chức nuôi chăn thả. Nuôi chăn thả năng suất 80 ngày vịt nặng khoảng 3kg.

                                                            Mô hình nuôi vịt

Muốn nuôi vịt hiệu quả nên tổ chức nuôi theo 2 giai đoạn: Giai đoạn gột vịt con và giai đoạn thả chạy đồng.

  • Giai đoạn gột vịt: từ lúc một ngày tuổi tới lúc 20 ngày tuổi. Giai đoạn này cần chuẩn bị thức ăn cho chu đáo và chúng ở trong chuồng là chính. Thức ăn của chúng là cơm, bún, ngô mảnh nấu trộn với tôm, tép, cua, cá hoặc giun đất. Lúc đầu cho chúng ăn từ 5 – 6 bữa/ngày. Từ ngày thứ 11, cho ăn thưa hơn, khoảng 3 – 4 bữa/ngày.

Chú ý: phải cho chúng ăn đủ lượng và đủ chất, đặc biệt là chất đạm, thiếu đạm vịt chậm lớn. Lúc đầu cho vịt ăn những thức ăn mềm. Dần dần, có thể cho chúng tập ăn cơm, ăn gạo ngâm rồi ăn thóc ngâm. Lúc 7 – 8 ngày tuổi, cho vịt làm quen dần với nước để tập bơi. Chỉ vào hôm sau có thể bơi tốt.

  •  Sau 20 ngày cho vịt ra khỏi chuồng để đi kiếm ăn trên đồng. Nên tính toán để làm sao sau khi gặt xong là có thể lùa vịt ra đồng mót lúa. Nếu vịt chưa no, ta có thể cho ăn thêm thóc và các thức ăn giàu đạm. Dọc các sông, ngòi và các bãi sình là chỗ chăn thích hợp. Tôm, tép, ốc, giun, dế và các loại côn trùng là thức ăn hấp dẫn của vịt. Nếu muốn nuôi để lấy trứng thì lâu hơn nuôi lấy thịt. Khoảng tuần thứ 26 thì vịt bắt đầu đẻ tới tuần thứ 66 thì nghỉ.

Nuôi vịt đẻ cần lưu ý, không nên để quá béo, cũng không nên để vịt còi cọc. Lúc vịt bắt đầu đẻ ta phải duy trì được thời gian chiếu sáng là 17 giờ/ngày. Phải đảm bảo nghiêm ngặt điều kiện này thì vịt mới đẻ tốt.

Vịt con cần giữ chân khô khi vào tới ổ. Có thể cho chúng đi qua mùn cưa, qua trấu hoặc cát khô. Chân vịt khô phòng nhiễm bệnh cho vịt con.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phụ gia chứa zeolit, hiệu quả cao trong chăn nuôi

Các nhà khoa học của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu thành công quy trình chế tạo các chất tạo phức có tên thương mại là BK-DO015 và BK-DO017 từ cao lanh.

Đây là những loại hợp chất đáp ứng tốt cho việc kết tinh tạo ra các hỗn hợp zeolit X, Y trong dung dịch. Trộn hai thành phần zeolit X, Y và đất sét (được khai thác tại huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) vào hợp phần thức ăn chăn nuôi và phân bón sẽ tạo thành các sản phẩm BK-ZCR2, BK-ZAF2a, BK-ZAF3 sử dụng trong chăn nuôi lợn thịt và trồng các cây lúa, lạc mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Qua thử nghiệm trong chăn nuôi lợn thịt quy mô trang trại ở huyện Lạng Giang và trồng lúa, lạc tại huyện Hiệp Hòa từ năm 2007 đến nay cho thấy lạc vụ xuân thu lãi tăng thêm trên 2,6 triệu đồng/ha, lạc vụ đông thu lãi trên 1,3 triệu đồng/ha, năng suất thực thu tăng từ 4 – 6%; lúa xuân thu lãi tăng thêm trên 4,7 triệu đồng/ha, lúa mùa tăng thêm trên 1,4 triệu đồng/ha, năng suất tăng khoảng 2,6% so với khi chưa sử dụng sản phẩm công nghệ trên.

                          Phụ gia chứa zeolit, hiệu quả cao trong chăn nuôi

Đối với lợn thịt, sử dụng BK-ZCR2 như một chất phụ gia trong thức ăn đã làm tăng thêm lợi nhuận từ trên 100.000 đồng đến hơn 330.000 đồng/đầu lợn, tiết kiệm được khoảng 4% tổng lượng thức ăn và điều quan trọng nhất là chất lượng thịt lợn tốt hơn, sạch hơn, an toàn hơn.

Thời gian tới tỉnh Bắc Giang dự kiến sẽ ứng dụng rộng rãi công nghệ này trong chăn nuôi, trồng trọt bằng việc quy hoạch vùng nguyên liệu khoáng sét tại chỗ và xây dựng các dây chuyền sản xuất zeolit và các chất phụ gia chứa zeolit đạt công suất khoảng 3.000 tấn/năm./.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ứng dụng cntt trong nuôi đà điểu

Ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ là những mô hình thương mại điện tử quy mô, những website thiết kế phức tạp. CNTT trong nhiều trường hợp chỉ là việc sử dụng một vài máy tính với những phần mềm đơn giản nhất, nhưng vẫn mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho các doanh nghiệp. Ứng dụng CNTT cũng không chỉ dừng lại trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, trong những toà nhà cao tầng ở trung tâm thành phố mà được áp dụng ngay cả trong trang trại chăn nuôi đà điểu.
                                     Ứng dụng CNTT trong nuôi đà điểu

Khoảng 700 con đà điểu giống được nuôi dưới chân núi Bà Nà. Công việc khó khăn là phải quản lí chặt chẽ loài gia cầm hay chạy và chạy rất nhanh này theo phả hệ, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lai tạo đà điểu đồng huyết thống gây thoái hoá giống. Tuy nhiên, khó khăn đó đã giảm đi nhiều khi việc quản lí bằng tay trên sổ sách được thay thế bằng cách quản lí trên máy tính… 2 chiếc máy tính, máy in và phần mềm Excel thông dụng đã giúp cho ông chủ và các công nhân tại trang trại của doanh nghiệp Minh Hưng ở thành phố Đà Nẵng bớt được nhiều phần việc so với cách làm thủ công.

Ông Trần Minh Đức, Giám đốc công ty cho biết: “Làm thủ công hết 6 người, riêng hệ thống kế toán thôi. Nhưng từ khi áp dụng CNTT vào thì tôi chỉ cần 2 người, mà sự nhầm lẫn lại giảm. Trước muốn tìm số liệu về một con đà điểu rất lâu, mà vẫn bị lộn. Nhưng giờ tra trên máy biết ngay nó ở khu nào, mã số gì, ở đâu, bố mẹ nó tên gì, sinh ngày nào, bấm máy lên là biết ngay”.

Ấp trứng, chăm sóc, quản lí đà điểu con cho đến khi trưởng thành… Sử dụng CNTT để quản lí cả quy trình liên hoàn đó cũng được ông chủ trang trại tính đến. Với đà điểu trưởng thành, việc quản lí càng được đặt ra chặt chẽ hơn, vì chúng thường có những biểu hiện bất thường. Và thế là những chiếc camera được lắp đặt để nâng cao hiệu quả của công tác theo dõi.

Ông Đức bổ sung: “Chúng tôi gắn camera để quản lí từng khu cả ngày lẫn đêm. Trung tâm quản lí sẽ theo dõi và gọi bộ đàm cho cán bộ kĩ thuật bên ngoài để xử lí theo từng ô chuồng. Ví dụ nếu thấy ở ô nào có con đà điểu biếng ăn hay có biểu hiện lạ, người ở trung tâm sẽ kiểm tra và báo cho kĩ thuật bên ngoài”.

Ban đầu, công ty Minh Hưng ứng dụng CNTT với 2 chiếc máy tính để bàn và phần mềm Excel đơn giản. Nhưng khi đàn đà điểu ngày càng gia tăng về số lượng, thì doanh nghiệp cũng nhận thấy phải quản lí phả hệ đà điểu một cách chuyên nghiệp hơn. Đơn hàng đã được đặt, và đàn đà điểu này sắp được quản lí bởi phần mềm chuyên nghiệp do một công ty phần mềm chuyên nghiệp viết.

Ông Harrison Li, Giám đốc thương hiệu các sản phẩm dành cho DN nhỏ, Tập đoàn Intel phân tích lợi ích từ việc ứng dụng CNTT: “Giả dụ tôi là một doanh nghiệp nhỏ, thì việc sử dụng một chiếc máy tính và những phần mềm thông dụng cũng là ứng dụng công nghệ thông tin. Ở mức độ đó, có thể tận dụng chiếc máy tính để quản lí sổ sách chứng từ, bảng biểu tài chính, kế toán. Nhưng nếu điều kiện tài chính cho phép, hay khi việc kinh doanh phát triển, thì nên ứng dụng CNTT sâu rộng hơn để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Ví như với một phần mềm quản lí dữ liệu khách hàng chuyên nghiệp, bạn có thể biết ai là khách mua hàng nhiều nhất, ai là khách hàng lâu năm nhất, rồi nhận ra cả những khách hàng đã không còn mua hàng của mình trong một thời gian dài, từ đó có thể đưa ra những giải pháp một cách dễ dàng. Như với khách hàng tốt nhất thì phải có chế độ đãi ngộ, còn với người đã lâu không mua hàng thì phải tìm đến họ giải thích về những mặt hàng mới, chính sách giá mới, từ đó kéo họ mua hàng trở lại. Như vậy ứng dụng công nghệ thông tin cũng có thể theo nhiều cấp độ, tuỳ theo điều kiện tài chính và quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng ở cấp độ nào, doanh nghiệp cũng có lợi ích từ việc ứng dụng CNTT”.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam