Quản lý chăm sóc bê

Quản lý chăm sóc nuôi dưỡng bê là một phần quan trọng trong chăn nuôi bò sữa. Một bê con được chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp sẽ là bò cái tốt trong tương lai.                                                               Bê con

Một bê con được chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp sẽ là bò cái tốt trong tương lai.

Mục đích nuôi bê là để bê phát triển tốt về cơ thể (bộ khung) và dễ dàng đẻ ở lứa đẻ đầu tiên. Để đạt được điều này, người nông dân cần chú ý một số điểm như sau:

Ba ngày đầu sau khi bê đẻ

Nên cho bê uống sữa đầu là sữa được vắt ra từ bò mẹ ngay sau khi đẻ. Cần cho bê bú sớm (trong vòng nửa giờ sau khi sinh), nhiều (ít nhất 4 lít trong 2 ngày đầu) và thường xuyên (4–6 lần/ngày). Người nông dân nên lưu ý dụng cụ cho bê uống phải luôn được vệ sinh sạch sẽ vì đây là giai đoạn bê còn yếu, sức đề kháng kém. Nếu các dụng cụ không được vệ sinh tốt sẽ là cơ hội cho các vi khuẩn tấn công, bê dễ dàng mắc bệnh và tăng trưởng kém.

Từ ngày thứ 4 đến khi cai sữa

Từ ngày thứ 4, ta có thể sử dụng sữa thay thế cho bê ăn thay vì cho bê ăn sữa bò mẹ. Trong giai đoạn này, chúng ta nên tập cho bê ăn cám, cỏ và thường xuyên cung cấp nước sạch. Đối với cám nên có tỉ lệ đạm khoảng 18%. Khi bê đạt 9 đến 10 tuần tuổi, trọng lượng cơ thể từ 75 đến 85kg, chúng ta có thể cai sữa hoàn toàn cho bê và lúc này bê phải ăn được khoảng 1kg cám/ngày.

Từ khi cai sữa đến 6 tháng tuổi

Trong giai đoạn này, sự phát triển bộ khung là quan trọng nhất. Để đạt được điều này, phải cho bê ăn thức ăn có chất lượng tốt nhất, khẩu phần phải cân đối giữa tinh – thô để dạ cỏ của bê phát triển. Trong giai đoạn này, tùy theo chất lượng của cỏ mà số lượng cám cho bê ăn dao động từ 2-3kg/ngày/con. Nông dân nên cung cấp cỏ và nước sạch thường xuyên để bê có thể tự do ăn theo nhu cầu. Nếu đến 6 tháng tuổi, bê đạt 195kg là đạt tiêu chuẩn.

Từ 6 đến 12 tháng tuổi

Trong giai đoạn này luôn cho bê ăn cỏ chất lượng cao và 1kg cám hỗn hợp/bê/ngày. Từ 10 tháng tuổi trở lên cần quan tâm đến điểm thể trạng. Nếu bê quá mập do khẩu phần cung cấp nhiều năng lượng thì bê kém phát triển và sẽ gặp trục trặc về sinh sản. Do đó cần phải điều chỉnh khẩu phần ăn để bê đạt chiều cao 125cm và trọng lượng 340kg là phù hợp.

Từ khi gieo tinh lần đầu và sau khi đậu thai

Bê đạt trọng lượng 400kg (bò HF thuần), 300kg (bò lai HF) ở 16 tháng tuổi là lúc thích hợp để gieo tinh cho bê. Nên lựa chọn tinh đực giống phù hợp để gieo tinh, tránh đẻ khó ở lứa đẻ đầu tiên. Khi bê đã đậu thai nên cung cấp đầy đủ cỏ có chất lượng tốt. Trong thời gian này cần chú ý đến thể trạng của bê. Nếu chuồng nuôi bê tách riêng biệt với đàn thì tốt nhất chuồng nuôi nên có đặc điểm, môi trường giống như chuồng bò vắt sữa, cạn sữa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Những lưu ý khi trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt

Trộn thức ăn cho heo là phương pháp nuôi heo thịt hiệu quả được nhiều hộ chăn nuôi áp dụng thành công và dưới đây là những lưu ý cần nắm rõ để có thể vận hành tốt một vụ chăn nuôi hiệu quả.

Khi tự trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt, bà con cần lưu ý đến nhóm chất dinh dưỡng có trong thức ăn

Đảm bảo đủ nhóm dinh dưỡng thiết yếu

Khi tự trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt, bà con cần lưu ý đến nhóm chất dinh dưỡng có trong thức ăn nhằm đảm bảo cho heo phát triển và tăng trọng đều, nhanh chóng. Các nhóm chất chính là bột đường, chất đạm, béo, chất xơ, muối khoáng và vitamin.

Trộn theo tỷ lệ thích hợp

Sau khi chọn được loại nguyên liệu phù hợp, đảm bảo đủ nhóm dinh dưỡng, bà con cần trộn theo tỷ lệ thích hợp. Tỷ lệ dinh dưỡng phù hợp sẽ giúp heo tăng trọng đều, nuôi heo theo hướng nạc và giá trị dinh dưỡng trong thịt heo thành phẩm cao.

Thức ăn nuôi heo thịt thay đổi tỷ lệ phù hợp với giai đoạn phát triển của heo. Mỗi giai đoạn phát triển của heo cần được điều chỉnh tỷ lệ cho phù hợp, nhằm tối ưu tốt nguồn thức ăn, tăng trọng nhanh và giúp heo khỏe mạnh, tránh những bệnh lý nghiêm trọng.Trộn thức ăn nuôi heo với khối lượng đúng

Heo ở từng thể trạng, cân nặng cần lượng thức ăn khác nhau, đồng nghĩa với việc cần thay đổi khối lượng các nguyên liệu khi trộn cho heo. Trước khi trộn cần tính trước khối lượng cho 1 heo ăn 1 ngày để trộng cho phù hợp.

Cách phối trộn thức ăn cho heo thịt đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cho heo, sẽ giúp bà con tự trộn thức ăn mà có thể thay thế thức ăn công nghiệp.

Lợi ích từ việc cho heo ăn thức ăn tự trộn

Dễ tìm nguyên liệu chăn nuôi, tận dụng được các sản phẩm nông sản có trong gia đình, tối ưu tốt mô hình chăn nuôi kết hợp với trồng trọt, sẽ rất phù hợp với những hộ chăn nuôi vừa và nhỏ.

Tiết kiệm chi phí thức ăn, sử dụng được nguồn nguyên liệu giá rẻ tại địa phương, xác minh được nguồn gốc TĂCN để chọn ra nguồn thức ăn đảm bảo tiêu chuẩn, không bị hỏng, giá trị dinh dưỡng cao.

Phối trộn thức ăn sẽ dễ dàng thay đổi, điều chỉnh tỷ lệ dinh dưỡng cho heo cho phù hợp với giống heo và giai đoạn phát triển của heo hơn.

Nhờ đó, có thể kiểm soát được mức độ tăng trọng của heo. Thức ăn cho heo thịt cần kiểm soát tốt cả về chất lượng và khối lượng nhằm đảm bảo heo tăng trọng tốt và đều.

Nguyên liệu chuẩn bị trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt

Nguyên liệu cần chuẩn bị trước khi trộn cần đảm bảo cung cấp đủ các nhóm chất dinh dưỡng, thức ăn cần mới, tươi và đảm bảo, không sử dụng thức ăn đã biến chất, biến màu, biến mùi, đổi vị hay đã xuất hiện nấm mốc, không nên tận dụng nguồn thức ăn đã bị xuống dinh dưỡng.

Nguyên liệu thức ăn nuôi heo giàu bột đường, bao gồm các thức ăn giàu tinh bột như tấm gạo, cám gạo, bột ngô, khoai, sắn, lúa mì,…

Nhóm thức ăn cho heo thịt giàu chất đạm: Những thức ăn hỗn hợp cho heo thịt giàu chất đạm bao gồm bột cá, tôm, bột thịt, đạm thực vật như đậu tương, các loại khô dầu, lạc, dừa,…

Thức ăn giàu chất béo: Có trong các loại đỗ đậu, khô dầu, bánh dầu thực vật.

Thức ăn giàu vitamin và chất xơ: Các loại rau xanh, ngoài ra, trong các loại cám, tinh bột cũng chứa nhiều vitamin và chất xơ.

Cách chế biến và trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt

Nguyên liệu cần được nghiền nhỏ hoặc cắt nhỏ trước khi trộn thành thức ăn nuôi heo thịt. Thông thường, thức ăn nên được phơi khô và nghiền thành bột nhỏ. Riêng các loại ra xanh có thể cho ăn ngoài dạng tươi sau khi đã cho heo ăn thức ăn hỗn hợp.

Chia khối lượng và tỷ lệ thức ăn theo bảng dinh dưỡng. Bà con cần căn cứ theo các lưu ý phối trộn thức ăn phía trên để trộn thức ăn nuôi heo. Khối lượng nguyên liệu cần được cân theo khối lượng càng chính xác càng tốt.

Cách trộn dựa trên thành phần, tỷ lệ và giai đoạn

Heo tách sữa đến 30kg: Trộn 43% cám gạo, 20% tấm, bỗng rượu 18%, bột cá 8%, khô dầu đậu tương 10%, bột xương 1%. Tổng giá trị dinh dưỡng hỗn hợp là 3100 Kcal và khoảng 15% chất đạm.

Heo từ 30kg tới 60kg: Trộn 42% cám gạo, 40% bỗng rượu, 6% bột cá, khô dầu đỗ tương 6%, bột xương 2%. Giá trị dinh dưỡng tổng bao gồm 3000 Kcal, 15% chất đạm.

Heo từ 60kg tới xuất chuồng: Trộn thức ăn nuôi heo gồm 40% cám gạo, bỗng rượu 46%, khô dầu đậu tương 7%, bột xương 1%. Tổng năng lượng là 2900 Kcal, chất đạm 13%.

Cách trộn thức ăn này đã giúp bà con chăn nuôi tiết kiệm được rất nhiều chi phí TĂCN heo, chăn nuôi heo hiệu quả và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là cách trộn thức ăn hỗn hợp cho heo thịt được áp dụng nhiều tại các hộ gia đình chăn nuôi heo hiệu quả tại các địa phương.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bổ sung sắt cho heo con bao nhiêu là đủ?

Thông tin mới nhất từ A. Kubik thuộc trường Đại học Guelph cho rằng, hiện nay những heo lớn và tăng trưởng nhanh tại thời điểm cai sữa trong cùng một đàn thường bị thiếu sắt và thiếu máu, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến hiệu suất sau cai sữa.

Mở đầu và mục tiêu

Bổ sung sắt là việc làm cần thiết trong thực tiễn chăn nuôi ở trang trại và cần phải được thực hiện từ khi heo con đang bú sữa nhằm ngăn chặn tình trạng thiếu sắt và thiếu máu.

         heo con

Có 4 lý do giải thích tại sao cần bổ sung sắt trong tuần đầu tiên trong quá trình sống của heo con.

– Lúc mới sinh nguồn sắt dự trữ có giới hạn.

– Hàm lượng sắt trong sữa heo nái/sữa đầu thấp.

– Heo con không tiếp cận với những nguồn cung cấp sắt.

– Nhu cầu sắt cao do tốc độ tăng trưởng của heo con rất nhanh.

Bổ sung sắt bằng cách tiêm bắp với liều 200mg trong tuần đầu tiên sau khi sinh đã được công nhận là phác đồ chuẩn trong nhiều năm qua.

Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra xem phác đồ bổ sung sắt hiện hành có đáp ứng đủ nhu cầu của heo con hiện nay qua việc xác định tỉ lệ thiếu máu hoặc thiếu sắt ở heo con tại thời điểm cai sữa và để xác định xem hàm lượng sắt tại thời điểm cai sữa ảnh hưởng đến hiệu suất sau cai sữa.

Phương pháp

Nghiên cứu thực hiện tại 20 trang trại nuôi heo ở Ontario, tất cả những trang trại này đều tiêm sắt bổ sung ở tuần đầu tiên, cụ thể là sử dụng dextran hoặc gleptoferron.

Trong mỗi trang trại, ba loại heo con (nhỏ, vừa, lớn) trong mỗi lứa đẻ được chọn để nghiên cứu, khoảng 60 con heo được lấy mẫu. Thời điểm lấy mẫu là trước khi cai sữa 1 – 2 ngày. Mỗi con heo được cân riêng và lấy mẫu máu. Các mẫu máu được gửi đến phòng thí nghiệm thú y (AHL) trường đại học Guelph để phân tích.

Ba tuần sau đó tiến hành cân lại và lấy mẫu máu lần thứ 2 để phân tích nồng độ haemoglobin. Nồng độ haemoglobin của mỗi heo con được xác định: bình thường > 110g/lit, thiếu săt 90 -110g/lit, thiếu máu <90g/lit.

Các nhà chăn nuôi cũng hoàn thành bảng câu hỏi ngắn về tập quán chăn nuôi cùng các phương pháp bổ sung sắt của họ.

Phân tích thống kê được sử dụng để đánh giá sự liên kết và đánh giá hoạt động của trang trại, tình trạng hemoglobin lúc cai sữa và ba tuần sau cai sữa trọng lượng.

Kết quả

Khi cai sữa tỉ lệ thiếu sắt và thiếu máu hiện hành tương ứng là 28 % và 6%.

Heo bị thiếu máu đã giảm 0,81kg trọng lượng cơ thể trong 3 tuần sau cai sữa so với trọng lượng của heo con bình thường khi cai sữa.

Ngoài ra heo mắc bệnh thiếu máu khi cai sữa đã giảm 0,68 kg trọng lượng cơ thể trong 3 tuần sau cai sữa so với heo thiếu sắt khi cai sữa.

Heo con lớn nhất khi cai sữa có hàm lương hemoglobin thấp hơn so với heo nhỏ. Heo sữa tăng trưởng nhanh nhất sẽ có lượng máu lớn nhất, do đó nồng độ hemoglobin của chúng bị pha loãng, do đó những con heo này đòi hỏi nhu cầu cao nhất trong tất cả các chất dinh dưỡng.

Như vậy heo con tăng trưởng nhanh chóng khi cai sữa có nhu cầu về sắt cao hơn heo con nhỏ.

Các kết quả từ nghiên cứu này khẳng định tiêm 200mg sắt trong tuần đầu tiên không đủ để ngăn chặn tình trạng thiếu máu và thiếu sắt đối với sự phát triển của heo.

Bệnh thiếu máu lúc cai sữa sẽ làm giảm tăng trưởng trong ba tuần đầu sau cai sữa. Điều ngạc nhiên là, heo con thường vẫn bị thiếu máu hay thiếu chất sắt trong thời gian ba tuần sau cai sữa mặc dù khẩu phần giai đoạn khởi động cũng đã được bổ sung thêm sắt.

Hiểu rõ những hậu quả của tình trạng thiếu sắt và thiếu máu là rất quan trọng đối với ngành chăn nuôi heo nói chung và người sản xuất nói riêng để giảm thiểu thiệt hại về kinh tế.

Dự án này đã chứng minh rằng những con heo tăng trưởng nhanh thường thiếu sắt và thiếu máu sau cai sữa và điều này là có ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi sau cai sữa.

Nhà sản xuất thịt heo cần phải đánh giá lại chương trình bổ sung sắt của mình để mang lại hiệu quả chăn nuôi tối đa.

 

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Hiện tượng sinh sản kém ở bò liên quan tới nhiễm sắc thể y

Theo một nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), một lý do tại sao một số con bò không thể mang thai là có thể trong ADN của chúng có đoạn nhiễm sắc thể Y. Hiệu quả sinh sản là đặc điểm quan trọng nhất về kinh tế trong sản xuất giống bê.

Khi một con bò không sinh ra được một con bê thì người chăn nuôi sẽ không có lợi nhuận, nhưng vẫn phải trả chi phí thức ăn, nhân công và các chi phí khác. Với sự giúp đỡ của nhà chăn nuôi bò, nhà di truyền học Tara McDaneld của Cơ quan Nghiên cứu nông nghiệp (ARS) và các đồng nghiệp của ông là Roman L. Hruska – Trung tâm Nghiên cứu Thịt động vật của Mỹ (USMARC) tại Clay Center, Nebraska đã kiểm tra dữ liệu sinh sản ở khoảng 6.400 con bò cái từ đàn gia súc ở Colorado, Florida, Nebraska và USMARC.

trang trại bò sữa

Nhóm nghiên cứu bao gồm: nhà sinh học phân tử John Keele và nhà di truyền học Larry Kuehn sau đó đã lập kiểu gien cho các động vật nuôi này, sử dụng một phương pháp sàng lọc di truyền tiết kiệm chi phí gọi là phương pháp tổng hợp ADN kết hợp ADN của các loài động vật đơn lẻ vào một tổ hợp duy nhất.

Những con bò cái thường kế thừa một nhiễm sắc thể X từ bố mẹ chúng (XX), trong khi những con bò đực lại thừa hưởng một nhiễm sắc thể X và một Y (XY). Trong nghiên cứu này, chỉ có những con bò cái được kiểm nghiệm. Các nhà nghiên cứu tìm thấy các đoạn nhiễm sắc thể đực Y duy nhất trong tổ hợp ADN từ những con không mang thai. Tất cả các kết quả đáng nhẽ phải là XX trong số các con bò cái, McDaneld cho biết.

Để xác minh những phát hiện của mình, các nhà khoa học đã sử dụng một kiểm nghiệm bổ sung được gọi là phản ứng chuỗi polymerase (PCR) – một phương tiện hiệu quả và ít tốn kém để xác định các đoạn nhiễm sắc thể Y. Trong số các con vật có hiệu quả sinh sản thấp, nghiên cứu PCR cho thấy 25% bò cái trong quần thể bò của Florida và 20% trong đàn của USMARC có ít nhất một marker di truyền đoạn của nhiễm sắc thể Y. Không có con vật nào trong số các con vật có khả năng sinh sản cao có các marker này, cho thấy rằng những con bò cái không mang thai bởi chúng mang đoạn nhiễm sắc thể Y.

Các nhà khoa học của USMARC là những người đầu tiên xác định sự xuất hiện của các marker di truyền nhiễm sắc thể Y ở những con bò có khả năng sinh sản thấp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Bí quyết nuôi thỏ sinh sản

Chuồng nuôi thỏ gồm 2 ô liên kết nhau theo chiều ngang, nhiều ô liên kết theo chiều dọc, tạo thành dãy chuồng kép…

* Rắc 4kg muối ăn/1m2 trấu lót nền nuôi, sẽ hết mùi khai từ phân và nước tiểu của thỏ

  1. Thiết kế chuồng

Nhà nuôi thỏ phải cao ráo, kín gió, có ánh sáng tự nhiên, có nhà nuôi thỏ sinh sản riêng, thỏ hậu bị riêng.

Bằng cách nuôi này, chỉ với hơn 100 thỏ sinh sản, mỗi tháng anh Nguyễn Văn Tiền ở huyện Văn Giang, Hưng Yên có lãi ròng hơn 10 triệu đồng.

Nền nhà phải bằng phẳng không thấm nước và dốc đều 15 độ xuôi theo rãnh gom nước thải ra bể xử lý bên ngoài.

Xây các lối đi cao 25cm, rộng 70cm. Khoảng cách giữa 2 lối đi rộng 1,2m là nơi kê đặt cho dãy chuồng nuôi thỏ.

Chuồng nuôi thỏ gồm 2 ô liên kết nhau theo chiều ngang, nhiều ô liên kết theo chiều dọc, tạo thành dãy chuồng kép, đặt cố định trên các cột ống nhựa lõi bê tông cốt thép, cao cách mặt nền 70 – 80cm.

Kích thước ô chuồng đơn, dài x rộng x cao = 80 x 50 x 40cm; ô chuồng kép 160 x 100 x 40cm.

Vật liệu làm chuồng là các nan thép hàn thưa, sao cho thỏ đứng không lọt chân, phân thỏ dễ rơi lọt xuống nền nhà.

Làm máng ăn bán tự động, để thỏ có thể dễ dàng lật máng vào ăn, người nuôi ngửa máng đổ thức ăn hoặc làm vệ sinh thuận lợi.

Tận dụng các vỏ chai nhựa coca cola loại 1,5 lít, lắp thêm van nước tự động cho thỏ uống, mỗi ô chuồng đơn treo 1 chai.

Có thể làm máng lõm trên mặt chuồng để chứa thức ăn thô xanh, khi thỏ ăn sẽ không dẫm đạp lên rau cỏ.

Dùng trấu lót sàn nền để hứng phân. Sau nuôi thỏ nuôi 4 – 5 ngày, rắc đều 4kg/1m2 trấu, sẽ khử hết mùi khai phân, nước tiểu và diệt khuẩn. Thay mới trấu và muối 2 tháng/1 lần.

Dùng rổ nhựa làm ổ cho thỏ đẻ (thỏ sẽ không cắn). Kích thước rổ: dài x rộng x cao là 40 x 30 x 15cm.

  1. Chọn con giống

     nuôi thỏ sinh sản

+ Con đực phải đạt trọng lượng trên 3kg, ngoại hình cân đối, khoẻ mạnh, không khuyết tật, tai rộng và cân, chân săn chắc, 2 tinh hoàn đều. Khi phối giống thỏ đực phải ghì chặt thỏ cái, sau giao phối thỏ đực đổ nằm xuống sàn chuồng, nhưng các chân vẫn ghì chặt thỏ cái đổ nằm theo.

+ Con cái cũng phải có thân hình cân đối, nhanh nhẹn, không dị tật, tai vểnh, lông mượt…

+ Khi phối giống, cho 2 thỏ đực thay nhau giao phối 1 thỏ cái cùng thời gian, sẽ đảm bảo phối giống thành công, rất hiếm khi phải phối lại. Thỏ mẹ sau đẻ 10 – 12 ngày có thể tiếp tục cho phối giống mang thai. Mỗi thỏ mẹ chỉ khai thác 7 – 8 lứa con thì dừng, thay mới bằng giống đã nuôi hậu bị. Cần tránh chọn giống bố mẹ cận huyết. Thỏ bố mẹ phải nuôi riêng, mỗi con 1 chuồng. Tỷ lệ đực cái đàn thỏ nuôi sinh sản là: 8 – 10 thỏ đực/100 thỏ cái, nhưng chỉ nuôi 10 thỏ cái cần 3 – 4 thỏ đực.

Thỏ đực nuôi sau 7 tháng, thỏ cái gần tháng mới cho phối giống. Kiểm tra thấy bộ phận sinh dục cái của thỏ chuyển màu đỏ tía (đã phát dục), thì cho giao phối.

Sau phối giống 28 – 32 thỏ sẽ sinh. Thỏ con sau sinh 25 – 30 ngày thì tách mẹ.

  1. Thức ăn

Thức ăn cho thỏ bao gồm rau củ quả phế thải từ nông nghiệp như, cà rốt, su hào, cỏ voi, thân cây ngô, lá rau các loại… Các loại thức ăn thô xanh phải rửa sạch để ráo nước mới cho ăn.

Tuyệt đối không cho thỏ ăn các loại rau còn dính sương, thỏ sẽ bị tiêu chảy.

Riêng cà rốt giàu dinh dưỡng, thỏ nhỏ chỉ cho ăn 1 củ/1 con/1 ngày, thỏ lớn cho ăn gấp đôi.

Thỏ cái sau sinh, ngoài thức ăn thô xanh, cám công nghiệp, cần cho ăn thêm mía hoặc uống nước đường nhạt 3 ngày liên tục để tăng sữa. Cám công nghiệp cách 1 ngày cho ăn 1 lần vào ban đêm, định lượng 0,2kg/1 con/1 ngày. Thời kỳ mang thai, cho ăn như trên, nhưng lượng cám công nghiệp giảm 1/2, ăn nhiều thỏ sẽ lú, đẻ kém.

Thỏ đực mỗi ngày 1 con cho ăn 0,1kg cám công nghiệp thỏ hoặc gà. Tuyệt đối không dùng cám công nghiệp của lợn và vịt, thỏ ăn sẽ bị tiêu chảy.

Thỏ con tách mẹ chỉ cho ăn công nghiệp, định lượng 0,1kg cám gà mảnh/5 con/ngày. Khi thỏ đạt 1 kg/1 con mới cho ăn rau và cám viên công nghiệp. Tuân thủ cách nuôi này đàn thỏ sẽ bảo toàn 100%.

  1. Phòng ngừa dịch bệnh

Vacxin xuất huyết thỏ cho thỏ sơ sinh, tiêm nhắc lại sau 6 tháng (thỏ hậu bị). Thỏ mẹ ngay sau đẻ tiêm kháng sinh Gentreks + thuốc bổ B12, tiêm nhắc lại 2 thuốc trên 2 tháng 1 lần.

Kiểm tra mỗi ngày, nếu chuồng nào có thỏ không ăn, uống phải cách ly ngay để chữa trị.

 

Hành vi của bò thay đổi cho thấy dấu hiệu của sự suy giảm sức khỏe

Một con bò sữa trở nên bồn chồn trong bốn giờ sau khi bị viêm vú do nhiễm vi khuẩn. Đồng thời, các triệu chứng khác của viêm nhiễm tăng triển như tăng nhiệt độ cơ thể và sưng vú trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, một người chăn nuôi chu đáo có thể phát hiện các dấu hiệu của một tình trạng chớm nhiễm trong sữa hai tiếng đồng hồ trước đó, theo luận án tiến sĩ của Jutta Kauppi, người đứng đầu Nghiên cứu Sản xuất Động vật tại Cơ quan Nghiên cứu Nông phẩm MTT của Phần Lan (MTT Agrifood Research Finland).

“Nghiên cứu cho thấy rằng, triệu chứng đầu tiên của một căn bệnh có thể được phát hiện trong sữa, trong khi những thay đổi trong hành vi của con bò lại được bộc lộ như một chỉ báo cho sự thay đổi về sức khỏe của bò”, Jutta Kauppi cho biết. 

                                                        chăm sóc bò

Tuy nhiên, rất khó để phát hiện những thay đổi hành vi và sự thay đổi trong chất lượng sữa đủ sớm. Tại một chuồng nuôi bò lấy sữa truyền thống, bệnh viêm vú thường được phát hiện muộn, chẳng hạn như trong một đợt vắt sữa, và khi sử dụng một hệ thống robot vắt sữa, trong trường hợp xấu nhất, khi một con bò không kết nối được với robot vắt sữa hoặc khi nó đã có một số thất bại trong nỗ lực vắt sữa trước đây. Luận án tiến sĩ của Kauppi tìm cách xác định các điểm quan trọng trong hành vi của con bò hướng vào sự suy giảm sức khỏe của bò.

“Những thay đổi trong hành vi của con bò, bao gồm bồn chồn, chứng minh cho những chỉ báo về một sự thay đổi mới chớm trong tình trạng sức khỏe của bò. Trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, những thay đổi trong thành phần sữa đã được xác định trước khi các triệu chứng trở nên rõ ràng, trong khi một máy ảnh hồng ngoại có thể phát hiện những thay đổi cho chứng viêm trong bầu vú bốn giờ sau khi tình trạng viêm xảy ra”,Jutta Kauppi nói.

Nghiên cứu cũng khảo sát những thay đổi trong hành vi của con bò liên quan đến hoàn thành các quy trình vắt sữa bằng robot một cách thành công, cũng như trong các hoạt động quản lý sữa và những thay đổi trong phương pháp vắt sữa.

Bên cạnh việc người chăn nuôi phải có quan sát tốt đối với gia súc, chuồng nuôi bò hiện đại hiện đang sử dụng công nghệ cho gia súc ăn, đảm bảo hoàn thành thành công việc vắt sữa, theo dõi sức khỏe và mức độ hoạt động của bò. Bởi vì một số con bò hoạt động nhiều hơn so với những con khác, chỉ riêng công nghệ thôi là không đủ để phát hiện sự suy giảm sức khỏe của một con bò.

“Chúng tôi có một loạt các ứng dụng phần mềm và công nghệ sản xuất hữu hiệu, nhưng chính người chăn nuôi là người hiểu được gia súc của họ và có vai trò quan trọng trong việc giải thích các tín hiệu mà các công cụ kỹ thuật tạo ra và trong việc đưa ra quyết định liên quan đến điều trị”, Jutta Kauppi nói.

“Trong đàn gia súc lớn, các chuồng nuôi bò hiện đại và công nghệ cao, kỹ năng của người chăn nuôi và tương tác chức năng giữa người chăn nuôi, bò và công nghệ trở nên rõ rệt”.

Nghiên cứu về sức khỏe vật nuôi và công nghệ về sức khỏe sẽ hướng mục tiêu vào phát hiện sớm các dấu hiệu dự báo một vấn đề sức khỏe của con vật. Điều này sẽ cho phép đưa ra các biện pháp phòng ngừa ở giai đoạn sớm hơn so với trước đây, gây ảnh hưởng cho quá trình nhiễm bệnh của một con bò và rút ngắn thời gian phục hồi.

“Viêm vú là căn bệnh gây thiệt hại cho người nông dân và bò. Khi tình trạng viêm ở mức nhất định, con bò bị bệnh nặng. Sữa được lấy từ bò bị bệnh cũng không phù hợp cho các dây chuyền sản xuất thực phẩm, gây thiệt hại đáng kể do việc điều trị bằng thuốc kháng sinh. Liên quan đến sức khỏe của bò và tác động tài chính gây ra bởi căn bệnh này, các tín hiệu cảnh báo sẽ giúp ngăn chặn sớm và toàn diện nhất có thể”, Jutta Kauppi kết luận.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Hướng dẫn xây dựng chuồng trại nuôi hươu sao

Việc xây dựng chuồng trại phải đạt được các mục đích sau đây: Có độ bền vững, chắc chắn để hươu không chui ra khỏi chuồng trại. Phải phù hợp với đặc tính sinh lý của hươu. Phải tiết kiệm, không cầu kỳ mà vẫn đảm bảo phù hợp với các yêu cầu về khí hậu và vật nuôi.

Xây dựng chuồng trại phải quan tâm từ vị trí, nền, mặt bằng, diện tích, vật liệu xây dựng, hướng chuồng… không nên bỏ qua một chi tiết nào.

  1. Vị trí chuồng nuôi hươu

Mặc dầu đã được con người nuôi dưỡng từ lâu nhưng hươu sao vẫn rất ít quen người. Trong đó, hệ thần kinh vẫn còn nguyên vẹn các phản xạ tự nhiên của con vật hoang dại yếu hèn, luôn chạy trốn trước những biến động đột ngột. Vì thế, vị trí chuồng phải đảm bảo các yếu tố sau đây:

– Chuồng nuôi phải cách nhà ở một khoảng hợp lý, tránh ô nhiễm, tiếng ỗn.

– Phải đảm bảo kín về mùa đông, mát về mùa hè. Không nằm ở ngay nút giao lưu qua lại của người và các động vật khác thường gây ra tiếng động, mùi vị.

– Phải cao ráo, không có các loại cây thường xuyên rụng lá, rụng cành gây tiếng động tự nhiên (nếu đã có cây cối thỉ phải chặt ngay).

– Cần phải tạo ra một khoảng cách thích hợp giữa chỗ đi lại của con người, gia súc và chuồng, để không làm cho con vật sợ hãi khi có người hoặc vật nuôi xuất hiện…

Tóm lại, tuỳ vào sự bố trí vườn nhà cụ thể mà mỗi gia đình có thể chọn cho mình một vị trí thích hợp theo kinh nghiệm vừa kín vừa hở như nói ở trên.

  1. Hướng chuồng chuồng nuôi hươu

Việt Nam do khí hậu nhiệt đới gió mùa nên ta chọn hướng chuồng là hướng Nam hoặc Đông Nam để mát về mùa hè, ấm về mùa đông và ánh sáng được điều hòa suốt trong ngày, không gây ra chênh lệch cường độ ánh sáng lớn.

  1. Nền chuồng chuồng nuôi hươu

Phải có độ dốc từ 1 – 20 để thoát nước bẩn. Phải cao hơn vùng đất xung quanh.

– Nền đất nện: Đây là loại nền thông dụng có ưu điểm là chi phí ít. Nhưng trong một sộ trường hợp, hươu có thể đào bới, gây ra sự lỗi lõm và tích nước tiểu, phân… làm ô nhiễm chuồng. Khi chưa có điều kiện làm nền gạch, nền đất nện chặt vẫn là loại nền thích hợp.

– Nền gạch: Đây là loại nền tốt nhất, việc đi lại sinh hoạt của hươu rất dễ dàng, không gây tích nước, ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Trong điều kiện thiếu khoáng thì nền gạch cũng có thể bổ sung một phần, con vật liếm gạch để tăng khoáng cho cơ thể.

Cách làm: Dùng gạch đất dung (quá lửa) hay gạch lành tốt xây nằm hay xây nghiêng với vữa xi măng có miết mạch cân thận.

– Nền xi măng: Trước đây có nhiều người nghĩ rằng đây là loại nền tốt nhất. Nhưng trong thực tế, nền xi măng có nhược điểm lớn, lạnh về mùa đông, ẩm ướt về mùa hè, trong thi công nếu làm bóng mặt nền để dễ dọn chuồng thì thường làm cho hươu bị trượt chân, ngã…

Hướng phát triển là làm nền xi măng không nhẵn mặt, trong trường hợp có điều kiện thì làm thành từng tấm bê tông, ghép lại tạo điều kiện chống ẩm tốt hơn.

                                             chuồng trại nuôi hươu sao

– Nền gỗ: ở những nơi có điều kiện thì có thế làm nền bằng gỗ với loại gỗ dai không thấm nước bằng cách ghép các tấm gỗ lại với nhau. Nền đất phía dưới cần được nện kỹ, chống chuột làm tổ.

  1. Diện tích chuồng nuôi hươu

– Với hươu đực ít nhất cũng phải được 6m2/con (theo kích thược 3m x 2m hay 2,5m x 2,5m) và có điều kiện thì nên làm rộng hơn. Những con đực đã được chọn làm đực giống để phối cho các con cái của nhiều gia đình thì chuồng phải đủ rộng để chúng giao phối trong chuồng tốt.

– Với hươu cái: khoảng 5 – 6m2 /con là vừa, ít nhất phải được 4m2 /con.

  1. Vật liệu xây dựng chuồng nuôi hươu

– Gỗ: là vật liệu chủ yếu trong, xây dựng chuồng trại cho hươu. Ngoài việc dùng để làm các ô chuông, cột và róng, các kết cấu còn lại như cột, xà (kết cấu chịu lực mái) đều làm bằng gỗ là tốt nhất. Gỗ từ nhóm 4 trở xuống dùng để làm cột và róng chuồng. Kích thước cột khoảng từ 120 – 150 mm: 120 x 120 hoặc 150 x 150 (mm), róng có kích thước tiết diện khoảng từ 100 x 50 (mm) hoặc 100 x 60 (mm). Liên kết giữa róng và cột tốt nhất là đục lỗ hoặc dùng đinh. Sự liên kết giữa cột và róng phải thật chắc chắn.

Cột và róng nên bào trơn, mặt trong chuồng cân được vát cạnh để phòng gây xây xát cho hươu.

Chuồng nên làm cao 2m và chia làm 2 phần: 1m phía dưới: róng sẽ đóng dầy khoảng từ 50 – 60 (mm) để đề phòng hươu chui ra, nhất là hươu mới sinh, 1m phía trên đóng thưa hơn khoảng 100mm. Tất cả các róng nên đóng ngang (kinh nghiệm cho thấy: đóng róng dọc hươu rất dễ cho đầu ra ngoài, nếu không ra được do mông to hơn đầu thì hươu sẽ đập đầu vào chuồng mà chết (kể cả hươu con và mẹ).

Cửa chuồng cũng không nên làm róng dọc. Khi làm cần chú ý: róng dưới cùng chuồng được thay bằng một thanh giằng to hơn róng (gọi là thanh đà). Khoảng cách từ mặt nền đến mép dưới thanh giằng không vượt quá 50 mm nhằm không cho hươu thò chân ra ngoài khi nằm và hươu sơ sinh chui ra khỏi chuồng.

– Phần đỡ mái: Có thể làm bằng gỗ hoặc bằng tre. Tấm lợp có thể dùng ngói các loại, tôn hoặc fibrô xi măng (không nên dùng tấm lớp dễ cháy).

– Lưới thép: Trong điều kiện có kinh tế thì nên làm chuồng bằng lưới thép B40. Đây là loại chuồng thật sự an toàn. Cách làm là: vẫn dùng cột gỗ, chung quanh bọc bằng lưỡi thép. Dùng thép này làm hàng rào cũng rất an toàn và tiện lợi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cầy hương

I/. Giống và đặc điểm giống:

I/1. Tên gọi:

Tên Việt Nam gọi là cầy hương (có nơi còn gọi là chồn hương, chồn mướp, ngận hương, cầy xạ, cu tỏi).

Tên khoa học là Viverricula indica.Họ: Cầy Viverridae. Bộ: Ăn thịt Carnivora. Nhóm:Ở Việt Nam có 11 loài. Thú.

I/.2. Phân bố, tập tính, sinh thái và môi trường sống:

Cầy hương phân bố chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cầy hương có ở hầu khắp các tỉnh miền núi và trung du.

Trong tự nhiên, cầy hương sinh sống trong các khu vực rậm cỏ hay cây bụi thấp như nương rẫy ven suối, bụi rậm trong rừng, ven đồi… Bản tính tự nhiên của cầy hương hoạt động và kiếm ăn vào ban đêm là chủ yếu (thường từ chập tối đến nửa đêm) và thường sống đơn độc.

I/.3. Vóc dáng:

Cầy hương nhỏ hơn cầy giông. Cầy hương là loài thú ăn thịt, ăn tạp cỡ nhỏ hoặc trung bình. Cầy hương trưởng thành có thân hình thon dài trung bình từ 55-75 cm, cân nặng trung bình từ 2-5 kg. Bốn chân thấp, ngắn, màu đen, có năm ngón. Đầu dài, mõm nhọn. Bộ răng 36-40 chiếc. Bộ lông màu xám vàng, xám đen, nâu thẫm hoặc xám sẫm. Hai tai và mõm hơi đen. Phần hông có các vệt đen hay đốm đen mờ xếp thành hàng chạy dọc từ vai xuống mông (phần mông rõ nét hơn). Đuôi dài từ 35-50 cm (khoảng hai phần ba thân) với các vòng đen trắng hoặc nâu thẫm xen kẽ nhau (thường từ 7-10 vòng tùy theo loài).

I/.4. Sinh trưởng, phát triển và sinh sản:

Mùa sinh sản của cầy hương không rõ ràng nhưng thường tập trung vào tháng 4-6 hàng năm. Chúng là loài thú có nhiều chu kỳ động dục trong năm. Độ tuổi thuần thục sinh lý và chu kỳ mang thai không rõ ràng.

Cầy hương, thường đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa đẻ từ 3-5 con. Thường đẻ trong hang tự đào hoặc các hốc cây, hang động nhỏ. Cầy hương con rất khỏe, ít bệnh tật…Con non sinh trong hang (chưa mở mắt và còn yếu) được con mẹ cho bú.

Tuổi thọ trung bình trong tự nhiên khoảng 8-9 năm, trong điều kiện nuôi nhốt khoảng 22 năm.

I/.5. Thức ăn:

Cầy hương bắt mồi (chim, chuột, rắn…) rất giỏi. Thức ăn chính là các loài động vật. Thức ăn ưa thích của cầy hương là côn trùng, chuột, chim nhỏ, thằn lằn, sâu bọ, trứng… Ngoài ra, chúng còn ăn nhiều loại củ, quả và rễ cây…

I/.6. Giá trị và thị trường:

Thịt cầy hương mềm, thơm, ngọt và ngon, cùng da và xương được dùng như một vị thuốc y học cổ truyền.

Cầy hương đực có tuyến xạ nằm giữa kẽ hai tinh hoàn. Xạ hương là một dược liệu quý, vị cay, tính ấm, mùi thơm, có tác dụng khai khiếu, trấn tâm, chống độc, tiêu viêm, giảm đau, thông kinh, thường được sử dụng trong sản xuất nước hoa… Xạ hương của cầy nuôi không thơm như cầy tự nhiên.

Thịt cầy hương đang là món ăn đặc sản trong các nhà hàng khách sạn, có giá rất cao. Cầy hương trong tự nhiên ngày càng khan hiếm nên người ta đã tổ chức nuôi.

Cầy hương dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao. Trung bình nuôi một đôi cầy hương trong 4-6 tháng là có thể xuất chuồng.

I/.7. Thực trạng và giải pháp:

Cầy hương có giá trị kinh tế cao nên nguy cơ bị tận diệt là rất lớn. Số lượng trong tự nhiên đang giảm mạnh, cần được bảo vệ nghiêm ngặt và tổ chức chăn nuôi để phát triển vững bền loài cầy hương. Lưu ý: Cầy hương là loại động vật hoang dã thuộc Phụ lục III của Cites. Cần phải có giấy phép khi nuôi và vận chuyển.

II/. Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng:

Cầy hương rất dễ nuôi, ít dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao, yêu cầu về chăm sóc nuôi dưỡng rất đơn giản.

                                                   Cầy hương sinh sản

II/.1. Chuồng trại:

Chuồng nuôi cầy hương được thiết kế đơn giản bằng cách xây tường xi măng trên một khoảng sân trống hình chữ nhật. Tường xây cao khoảng 1m bao quanh phía trên tường là lưới B40 và có cửa mở ra vào chắc chắn…

Chuồng nuôi cầy hương làm theo hướng đông nam, mái lợp ngói, cao ráo, thoáng mát, có hệ thống cửa sổ đóng mở thuận lợi, có lắp đặt quạt thông gió, đảm bảo đông ấm, hè mát.

Bên trong chuồng cầy hương sinh sản, được thiết kế mặt bằng xi măng, hoặc bằng đất và được chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn có diện tích khoảng 5-10m2, có lỗ trống để thoát nước dễ dàng… Mỗi ngăn được thả nuôi hai con cầy hương đực và cái.

Trong chuồng có thể thiết kế giàn nhiều tầng (2-3 tầng) bằng bê tông hay tre, gỗ chắc chắn để chứa cũi nhốt cầy, mỗi tầng cao 0,7-0,8 m, các cũi để trên một tầng phải được ngăn kín bằng tấm các tông màu để cầy hương trong hai cũi không trông thấy nhau, nhằm phòng chống hiện tượng stress. Nền từng tầng được làm bằng bê tông hơi dốc (khoảng 5-60) về phía có rãnh thoát nước thải của nền chuồng. Thông thường cũi nhốt cầy được làm kiên cố bằng lưới sắt B40, cửa có then cài chắc chắn, để cầy không chui ra được.

Mỗi cũi hình hộp chữ nhật có thể tích 1 m3 (rộng 1 m, dài 2 m, cao 0,5 m, có 4-6 chân cao 0,2 m), có thể nuôi được 2-3 con. Đáy cũi bằng lưới sắt hay tre, gỗ chắc chắn và thưa (cách nhau 7-10 cm) để phân lọt xuống nền tầng, khi vệ sinh dọn phân được dễ dàng.

II/.2. Chọn giống và thời vụ nuôi thịt:

II/.2.1. Chọn giống nuôi:

Chọn những con khỏe mạnh, không bị thương tật, lông mượt, mắt, mũi nhanh nhẹn, tinh tường… Cầy hương giống có khối lượng từ 1,0-1,5 kg/con thì dễ nuôi.

II/.2.2. Thời vụ nuôi:

Thông thường thả cầy hương vào tháng 2-3. Thu, bán vào tháng 6-8. Cầy hương nếu được chăm sóc tốt, tăng trọng lượng rất nhanh có thể đạt 0,7-1,0 kg/con/tháng. Khi cầy đạt khối lượng khoảng 4-6 kg thì xuất bán theo nhu cầu của khách hàng.

II/.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

II/.3.1. Thuần dưỡng cầy hương:

Trong tự nhiên, bản tính tự nhiên của cầy hương thường hoạt động và kiếm ăn vào ban đêm là chủ yếu, thức ăn chính của cầy hương là côn trùng, chuột, chim, rắn, nhông, kiến, mối, trứng chim và nhiều loại củ, quả và rễ cây… Vì vậy, khi nuôi cầy hương ta nên cho cầy ăn bữa tối là chính, bữa sáng là phụ và tập cho cầy hương ăn thức ăn nhân tạo do con người cung cấp.

Tập cho cầy hương ăn thức ăn nhân tạo:

Muốn nuôi cầy ta phải mất thời gian tập cho chúng ăn thức ăn hoàn toàn mới lạ đối với bản năng tự nhiên của chúng, việc này phải tiến hành từ từ, kiên trì trong 5-10 ngày, cầy mới chịu ăn uống bình thường.

Trước tiên, ta để cầy nhịn đói trong 1-2 ngày, sau đó cho chúng ăn chuối chín bóc vỏ để cả quả (1-2 quả/con/bữa) trộn lẫn với cháo đường (cho tương đối ngọt như nấu chè) nấu nhuyễn. Ban đầu cầy chỉ ăn chuối và liếm cháo đường bám xung quanh, cho ăn như vậy khoảng 4-5 bữa. Sau đó, nghiền nhuyễn chuối chín với cháo đường cho ăn trong 1-2 ngày. Khi cầy chịu ăn, cho ăn cháo đường trước, hoa quả ăn bổ sung sau.

Để tăng khối lượng nhanh cần tập cho cầy ăn cháo đường ninh nhừ với các loại động vật như: Heo, chó, mèo, tôm, cá… và bổ sung thêm B.Complex, vitamin tổng hợp, cám gà đậm đặc (Concentrat)…

II/.3.2. Vệ sinh chuồng trại:

Ngoài việc cho ăn vừa đủ, tránh thức ăn thừa ôi thiu, hàng ngày cần phải dọn vệ sinh và thỉnh thoảng cho phơi chuồng dưới ánh nắng mặt trời để tiêu diệt mầm bệnh, đảm bảo chuồng trại luôn khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát, không gây ô nhiễm môi trường. Phân, nước tiểu được thoát ra ngoài qua hệ thống cống rãnh được bố trí khi thiết kế. Chuồng trại vệ sinh sạch sẽ, giúp cầy hương phát triển nhanh, sinh sản nhiều và không bị bệnh tật.

Có lẽ mang trong mình mùi thơm ngào ngạt nên cầy hương rất kỵ với những chuồng nuôi mất vệ sinh. Chuồng nuôi nào không quét dọn sạch sẽ chúng hay bị bệnh và bỏ đi chuồng khác.

II/.3.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

Cầy hương đã được thuần dưỡng, thường quanh quẩn gần chuồng nuôi và ngoan hiền như mèo, nhưng cần lưu ý, khi đẻ thì chúng rất dữ.

Cầy hương đã được thuần dưỡng, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 2-5 con. Cầy hương con rất khỏe, ít bệnh tật…

Lưu ý, khi cầy hương tìm ổ đẻ, ta có thể dùng bồn sành sứ (loại bồn rửa mặt…) đặt vào chuồng rồi bắt cầy hương mang thai bỏ vào bồn cho chúng đẻ… trong điều kiện nuôi thuần hóa, nếu làm chuồng dưới đất hay đào hang sẵn cho cầy đẻ chúng chỉ nằm ì ở đó. Cầy hương chỉ đẻ khi chủ nuôi đưa chúng đặt vào bồn để đẻ. Lúc vừa mới đẻ xong, nếu bắt chúng đi, cầy mẹ sẽ xù lông cắn. Khi nào cầy con cứng cáp tìm cách ra khỏi bồn chúng mới ngoan ngoãn cho chúng ta bắt nhốt vào chuồng.

Bình quân, cứ đầu tư vài trăm ngàn đồng thức ăn, sau một năm nuôi, con cầy hương sẽ đạt trọng lượng trên dưới 5kg. Cầy hương vài ba tháng tuổi đã có thể xuất bán với giá 10 triệu đồng/cặp.

III/. Phòng và trị bệnh:

Cầy hương trong điều kiện nuôi dưỡng nhân tạo rất mẫn cảm với các loại thức ăn mới lạ. Khi thay đổi thức ăn chúng thường hay bị bệnh tiêu chảy, phân không thành khuôn, loãng, nhiều nước. Nên phòng bệnh tiêu chảy bằng cách, cho cầy hương uống thuốc kháng sinh phòng bệnh hoặc trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn mới cho cầy hương ăn (liều phòng chỉ bằng 1/2-1/3 liều điều trị)…

Cầy hương cũng có thể bị bệnh cầu trùng (phân lẫn máu) hoặc bị bệnh thương hàn (sốt cao, phân lỏng màu vàng) như các loại gia súc gia cầm khác. Ta có thể điều trị bằng các loại thuốc thú y phòng chữa cho gia súc, gia cầm của các hãng sản xuất thuốc thú y có uy tín (trộn lẫn với thức ăn)… Liều lượng tính lượng thuốc/kg thể trọng, tương tự như liều dùng đối với gia cầm. Với thuốc uống theo kinh nghiệm của nhiều hộ nuôi cầy lâu năm, nên tăng gấp 3 lần so với hướng dẫn trên bao bì thì mới nhanh khỏi bệnh…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Vịt mốc, giống thủy cầm quý hiếm

Vịt mốc có nguồn gốc xuất xứ từ Bình Định, đây là loài gia cầm đặc hữu được Bộ NN-PTNT đưa vào danh mục gia cầm quý hiếm cần được nuôi bảo tồn.

Những năm trước đây, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền Trung (Viện Chăn nuôi Quốc gia) đã thực hiện nhiệm vụ nuôi bảo tồn giống vịt truyền thống này. Tuy có nhiều ưu điểm, nhưng giống vịt mốc vẫn bị các loại vịt khác “cạnh tranh” khốc liệt…

Hàng chục năm bảo tồn

Về thị trấn Diêu Trì (huyện Tuy Phước), hỏi ông “Anh vịt mốc” không ai là không biết. Bởi, ông là người gắn cả cuộc đời của mình vào nghề nuôi vịt và là một trong những người đầu tiên ở Bình Định đồng hành cùng Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền Trung trong công tác nuôi bảo tồn giống vịt truyền thống này. Ông là Lê Kim Anh (60 tuổi) ở thôn Vân Hội 1 (thị trấn Diêu Trì).

Theo cho biết của ông Dương Trí Tuấn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền Trung, từ năm 2001, Trung tâm nhận nhiệm vụ nuôi bảo tồn loài vịt mốc, giống gia cầm đặc hữu của Bình Định ngay trên đất Bình Định. Phương thức thực hiện là Trung tâm hợp đồng với những trang trại chăn nuôi gia cầm nhỏ để nuôi bảo tồn giống vịt mốc. Ông Lê Kim Anh là một trong những người tham gia đầy nhiệt huyết.

Ông Anh cho biết, đến nay, ông đã có hơn 40 năm trong nghề nuôi vịt đẻ. Từ năm 1981 ông đã nuôi đàn vịt 200 con giống vịt mốc thuần chủng Bình Định. Đến năm 2001, ông tăng đàn lên 2.000 con và bắt đầu tham gia công tác nuôi bảo tồn giống vịt này.
Ông Anh ký hợp đồng với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền Trung (đóng ở TP Quy Nhơn, Bình Định) nuôi bảo tồn 100 con vịt mốc sinh sản, những con vịt trong đàn của ông đều được mang số. Ngoài ra, ông Anh còn phải liên tục nuôi thêm 150 vịt mái con, đến khi chúng trưởng thành, chọn ra 100 con cho mang số để nuôi bảo tồn thay thế khi 100 nuôi trước đó bán xả xác. 

    giống vịt mốc được nuôi

“Trong thời gian tham gia nuôi bảo tồn giống vịt mốc, tui tuân thủ nghiêm ngặt việc ghi nhật ký mỗi ngày gồm có bao nhiêu con đẻ, thức ăn các loại tiêu tốn bao nhiêu. Đối với vịt con hậu bị từ 1 ngày tuổi đến 7 ngày tuổi tăng trưởng được bao nhiêu lạng, đến 14 ngày tuổi tăng thêm được bao nhiêu lạng, đúng 21 ngày cân lại để xem chúng tăng trọng được bao nhiêu để báo cáo với đơn vị hợp đồng. Định kỳ, tui phải lựa chọn kỹ càng ra 1.000 quả trứng, đóng thùng, gửi theo đường tàu hỏa ra Viện Chăn nuôi để làm thí nghiệm. Mặc dù tiền hỗ trợ không nhiều, nhưng vì “mê” giống vịt này lắm nên tui vẫn vui vẻ làm”, ông Anh nhớ lại.

Theo ông Dương Trí Tuấn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền Trung, từ năm 2001 đến năm 2013, dự án Bảo tồn quỹ gen vật nuôi quốc gia, do PGS.TS Hoàng Văn Tiệu làm chủ nhiệm đã chọn hộ chăn nuôi gia cầm của ông Lê Kim Anh làm nơi bảo tồn giống vịt mốc. Ngoài ra, công tác bảo tồn giống vịt này còn được thực hiện tại huyện Phù Cát.

Nhiều ưu điểm vẫn khó phát triển

Theo đánh giá của ông Dương Trí Tuấn, vịt mốc là giống bản địa có nhiều ưu điểm, dễ thích ứng với điều kiện khí hậu tại địa phương. Tuy nhiên, do nó không chấp nhận kiểu nuôi “ăn xổi ở thì”, mà phải được chăn dắt, chăm sóc kỹ lưỡng, nên vịt mốc đang bị giống vịt Triết Giang nhập về từ Trung Quốc, còn gọi là vịt siêu trứng “lấn sân” dữ dội.

Ông Lê Kim Anh, người trực tiếp nuôi bảo tồn giống vịt mốc, phân tích: So với vịt siêu trứng, vịt mốc đẻ ít hơn. Nếu 1 năm 365 ngày vịt mốc đẻ được từ 250 – 270 trứng với điều kiện nước đầy đủ và chăm sóc tốt, thì vịt siêu trứng đẻ được từ 290 – 320 trứng. Vịt siêu trứng đẻ liên tục 10 tháng/năm, 2 tháng còn lại nếu ai không muốn “xả xác” để chúng đẻ tiếp vẫn đạt từ 40 – 60%, còn vịt mốc khi đã “xả xác” là bỏ luôn, vì chúng làm lông rất chậm không đẻ thêm được. Vịt siêu trứng có thể nuôi khô, chỉ cần ít nước cho chúng tắm là nuôi tốt, còn muốn vịt mốc phát triển tốt thì điều kiện nuôi phải “giàu” nước, nước càng nhiều càng tốt; nước phải chảy, trong, sạch sẽ, nếu sống trong nước đục chúng sẽ “trụ” không được.

Bù lại, trong điều kiện mưa lạnh kéo dài, vịt mốc chịu đựng rất tốt nhờ bộ lông dày, đầu tháng 9 âm lịch hàng năm là chúng làm lông và bắt đầu đẻ, thì vịt siêu trứng sẽ “co ro” vì bộ lông của chúng rất thưa không chịu nổi giá rét. Nếu như trọng lượng trung bình của vịt siêu trứng chỉ từ 9 lạng đến 1,2kg/con thì vịt mốc nặng từ 1,2 – 1,5kg/con; do đó, khi bán xác, vịt mốc luôn có giá cao hơn vịt siêu trứng 1 nửa tiền. Nuôi vịt siêu trứng chỉ 1 năm là phải thay đàn, còn nuôi vịt mốc phải đến 3 năm mới thay đàn.

“Khi bán xác, nếu vịt mốc được 100.000đ/con thì vịt siêu trứng chỉ 50.000đ/con, vì vịt siêu trứng ít thịt, thịt lại dở hơn vịt mốc đến người tiêu dùng không ưng mua. Đặc biệt hơn hết là trứng vịt mốc to hơn nhiều so với trứng vịt siêu trứng; do đó, trứng vịt mốc trên thị trường luôn cao hơn trứng vị siêu trứng 300đ/trứng”, ông Anh chia sẻ.

Bây giờ, người nuôi gia cầm thích “mì ăn liền” nên chọn nuôi vịt siêu trứng, bởi giống vịt này chấp nhận kiểu nuôi “ăn xổi ở thì”. Theo tôi, vịt mốc đẻ có ít hơn, nhưng giá trứng luôn cao và được thị trường ưa mua hơn, bù qua chế lại hiệu quả như nhau. Thêm vào đó, thời gian sinh sản của vịt mốc kéo dài đến 3 năm, trong khi vịt siêu trứng đẻ 1 năm là phải thay đàn, và đến khi bán xác giá vịt mốc cũng cao hơn một nửa. Tính toán chi li thì nuôi vịt mốc ổn định hơn”, ông Lê Kim Anh bộc bạch.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Giống gà lương phượng

Gà Lương Phượng (Lương Phượng hoa) là một phẩm giống mới, nuôi chăn thả lấy thịt đã nhà được các nhà tạo giống gà tại Nam Ninh (Quảng Tây-Trung Quốc) nghiên cứu và chọn lọc trong thời gian trên 10 năm.

Gà Lương Phượng yêu cầu thức ăn không cao, quản lý nuôi dưỡng đơn giản

Về đặc điểm ngoại hình, Gà Lương Phượng rất giống với thể hình gà đia phương: mào, tích, tai đều màu đỏ. Gà trống có mào cờ đứng, ngực rộng dài, lưng phẳng, chân cao trung bình, lông đuôi vểnh lên. Gà mái đầu thanh tú, thể hình chắc, rắn, chân thẳng, nhỏ. Màu lông đa phần ma hoàng, lông cú sẫm, số ít màu sẫm điểm lông đen rất hấp dẫn với người chăn nuôi và tiêu dùng. Gà giết mổ, da vàng, thịt ngon, đậm đà như thịt gà địa phương.
Gà Lương Phượng yêu cầu thức ăn không cao, quản lý nuôi dưỡng đơn giản. Do được chọn lọc theo hướng tăng sức đề kháng, chống đỡ bệnh tật nên gà dễ thích nghi nuôi trong điều kiện sinh thái nóng ẩm. Tỷ lệ gà thương phẩm xuất chuồng đều đạt 95% trở lên. Tốc độ sinh trưởng nhanh, khối lượng cơ thể lúc 70 tuần tuổi đạt 1,5-1,6 kg. Tiêu tốn thức ăn /kg tăng trọng là 2,4-2,6 kg.
Khả năng sinh sản của gà Lương Phượng rất tốt. Tuổi vào đẻ là 24 tuần, khối lượng cơ thể gà mái đạt 2.100 g, gà trống đạt 2.700 g. Sản lượng trứng/66 tuần đẻ đạt khoảng 171 quả, tỷ lệ phôi đạt 92%.
Với phẩm chất ưu việt như trên, gà Lương Phượng hiện nay đang là giống chủ đạo được ưa chuộng và phát triển nuôi rộng rãi khắp mọi vùng ở nước ta.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam