Tìm hiểu về đặc điểm dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng

Đối tượng Tôm thẻ chân trắng là đối tượng có giá trị kinh tế cao nên việc hiện nay người dân từng ngày chú trọng đến kỹ thuật nuôi đến chúng. Và đặc điểm dinh dưỡng cũng là điều ảnh hưởng lớn đến năng suất,chất lượng nuôi Tôm thẻ.

Trong thiên nhiên thức ăn của tôm thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và có liên quan mật thiết đến sinh vật phù du và sinh vật đáy. Tôm Chân trắng là động vật ăn tạp

1. Giai đoạn Nauplius

Tôm dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ, chưa ăn thức ăn ngoài. Đến cuối N6 hệ tiêu hóa bắt đầu có sự chuyển động nhu động

2. Giai đoạn Zoea

Ấu trùng Zoea thiên về ăn lọc, ăn mồi liên tục, thức ăn là thực vật nổi, chủ yếu là tảo Silic như: Skeletonema costatum, Chaetoceros, Cossinodiscus, Nitzschia, Rhizosolena… Ở giai đoạn này ấu trùng ăn mồi liên tục, thức ăn trong ruột không ngắt quảng, đuôi phân dài cho nên mật độ thức ăn trong môi trường nước phải đạt mật độ đủ cho Zoea có thể lọc mồi liên tục suốt giai đoạn này. Mật độ thức ăn tăng dần từ Z1 đến Z3. Ngoài hình thức ăn lọc là chủ yếu, ở giai đoạn này ấu trùng còn có khả năng bắt mồi chủ động. Khả năng này tăng dần từ Z1 đến Z3­ đặc biệt là cuối Z3 ­­trở đi.

3. Giai đoạn Mysis

Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như luân trùng, ấu trùng Nauplius Copepoda, Nauplius artemia, ấu trùng động vật thân mềm… Tuy nhiên, thực tế sản xuất cho thấy ấu trung Mysis vẫn có khả năng ăn được tảo Silic.

4. Giai đoạn Postlarvae

Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như: Artemia, Copepoda, ấu trùng của giáp xác, ấu trùng của động vật thân mềm,… Cần chú ý ở giai đoạn này, tôm thích ăn mồi sống nên trong sản xuất nếu cho ăn thiếu N- Artemia, Postlarvae sẽ ăn thịt lẫn nhau.

Cho ăn giai đoạn Post-larvae Tôm thẻ chân trắng

5. Thời kỳ ấu niên đến trưởng thành

Từ thời kỳ ấu niên, tôm Chân trắng thể hiện tính ăn của loài (ăn tạp, thiên về ăn động vật). Thức ăn của tôm là các động vật khác như giáp xác, động vật thân mềm, giun nhiều tơ, cá nhỏ.

Trong sản xuất giống nhân tạo ấu trùng tôm Chân trắng còn được cho ăn các loại thức ăn nhân tạo tự chế biến như lòng đỏ trứng, sửa đậu nành, thịt tôm, thịt hầu và các loại thức ăn nhân tạo sản xuất công nghiệp thường gọi là thức ăn tổng hợp.

Thiết kế công trình nuôi thương phẩm tôm càng xanh trong ruộng lúa

Thủy sản là một trong những ngành mũi nhọn trong nền kinh tế của nước ta hiện nay. Vì thế các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao đang được người dân chú trọng đầu tư và phát triển.Tôm càng xanh cũng là một trong những đối tượng đó.

Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberggi sống trong môi trường nước ngọt, có thể nuôi trong ao, ruộng cấy lúa, là sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế, có nhu cầu ở thị trường trong và ngoài nước.

Mô hình nuôi Tôm càng xanh trong ruộng lúa

Việc nuôi Tôm càng xanh trong ruộng lúa cần phải có sự chuẩn bị về mô hình nuôi một cách khoa học và phải đáp ứng các yêu cầu sau:

  • Cơ cấu chất đất phải giữ được nước.
  • Gần nguồn nước ngọt tốt để có thể cấp tiêu nước dễ dàng. Tốt nhất là có thể trao đổi nước theo thuỷ triều.
  • Đất không bị nhiễm phèn, độ pH của nước từ  6,5 trở lên
  • Không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp và nước bẩn
  • Tiện đi lại và chăm sóc quản lý
  • Diện tích ruộng nuôi dao động từ  0,5 – 5,0 ha tuỳ theo từng điều kiện cụ thể.
  • Ruộng nuôi phải có đê bao kiên cố để đảm bảo giữ được mức nước tối thiểu trên mặt ruộng là 0,6 m. Mặt bờ đê rộng 1,2 – 1,5 m, chân bờ rộng 3,0 – 4,0 m, cao 1,2 m. Vào mùa lũ nên chắn lưới quanh bờ để ngăn không cho tôm ra ngoài khi mức nước cao hơn bờ đê.
  • Ruộng phải có mương bao rộng 3,0 – 4,0 m, sâu 0,8-1 m so với mặt ruộng. Mặt đáy của mương bao có độ nghiêng về phía cống thoát nước. Diện tích mương bao chiếm khoảng 20 – 25 % tổng diện tích.
  • Ruộng nuôi nên thiết kế cống cấp và thoát riêng.

Việc chọn nuôi tôm càng xanh của  bà con nông dân mặc dầu gặp khá     nhiều khó khăn tuy nhiên nếu áp dụng quy trình nuôi một cách khoa học, hợp lý chắc chắn sẽ giúp bà con đạt được năng suất nuôi hiệu quả nhất.

Chúc bà con thành công!

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Vai trò của vaccine được dùng trong nuôi trồng thủy sản

Vaccine là một chế phẩm sinh học chứa vật chất của mầm bệnh được gọi là “kháng nguyên”.Khi đưa vào cơ thể người hoặc động vật sẽ kích thích cơ thể tạo ra một trạng thái miễn dịch, giúp cơ thể chống lại mầm gây bệnh.

Vaccine phòng bệnh trong nuôi thủy sản được bắt đầu nghiên cứu và phát triển từ năm 1973 nhưng mãi đến cuối những năm 1987 mới được đưa vào sử dụng (Newman, S, 1993). Cho đến tháng 7 năm 2005, đã có 35 loại vaccine phòng bệnh vi khuẩn và 2 loại vaccine phòng bệnh virut được đăng ký bản quyền và sử dụng cho 6 đối tượng nuôi phổ biến trên 41 quốc gia trên thế giới bao gồm cá hồi, cá chẽm châu âu, cá chẽm châu á, cá rô phi, cá Turbot, và cá bơn đuôi vàng…

Hình ảnh tiêm Vaccine cho cá

Mặc dù chưa được sử dụng phổ biến, tuy nhiên Vaccine có vai trò quan trọng trong nuôi trồng thủy sản như:

  • Phòng bệnh, tăng tỉ lệ sống cho đối tượng nuôi, tăng năng suất nuôi:Theo kết quả thống kê của FAO,2006 thì cho đến năm 2005 có đến 95% tổng số cá được tiêm vaccine trước khi đưa vào nuôi thương phẩm và tỉ lệ sống của cá nuôi thương phẩm đạt trên 90%
  • Giảm thiểu việc sử dụng thuốc kháng sinhDựa vào kết quả thống kê của FAO,2006 là một ví dụ điển hình về ảnh hưởng củasử dụng vaccine đối với hai đối tượng nuôi chính tại châu Âu và Mỹ đó là cá hồi và cá hồi vân.Với thực tế hiện nay, đa số người nuôi thủy sản đều sử dụng đến thuốc, hóa chất trong hầu hết các khâu liên quan, với mục đích xử lý môi trường, phòng trừ dịch bệnh nhằm nâng cao năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên việc lạm dụng thuốc, hóa chất trong quá trình sản xuất đã dẫn đến hiện tượng kháng thuốc, nhờn thuốc cho đối tượng nuôi; dư lượng hóa chất có trong sản phẩm thuỷ sản gây bất lợi đến sức khoẻ người tiêu dùng; sản phẩm làm ra không đảm bảo chất lượng về an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường xuất khẩu và lợi nhuận thu về không cao.  Người ta sử dụng vaccine thay cho các loại thuốc kháng sinh vì tác dụng giống thuốc kháng sinh nhưng  an toàn hơn vì là chế phẩm sinh học.
  • Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm: Vaccine là một loại chế phẩm sinh học nên chúng khác với các loại thuốc, hóa chất. vacine không gây
  • Giảm giá thành sản phẩm: Theo số liệu thống kê của FAO,2006, chi phí sản xuất ra 1kg cá hồi từ năm 1987 là gần 7 euro thì đến năm 2003 đã giảm xuống dưới 2 euro/kg. có nhiều nguyên nhân giúp cho chi phí sản xuất cá hồi giảm trên 300% từ năm  1987 đến 2003 như cải thiện công nghệ nuôi, hoàn thiện thức ăn công nghiệp và đặc biệt là tăng tỉ lệ sống của cá nhờ vào việc sử dụng các loại vaccine phòng bệnh vi khuẩn trên đối tượng này. Chi phí sản xuất giảm nên giá thành sản phẩm cũng giảm.Chính vì những hiệu quả mà Vaccine mang lại mà chúng ta cần quan tâm triệt để đến công tác nghiên cứu vi sinh vật để sản xuất vaccine sử dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Tại sao carrageenan sản xuất từ rong biển được ứng dụng nhiều trong thực phẩm?

Carrageenan là một chất xơ hoà tan trong nước, được tìm thấy trong nhiều loại rong biển.  Tên của loại phụ gia từ rong biển được lấy theo tên của một loại rong biển mọc dọc theo bờ biển Ireland, khu vực gần một ngôi làng có tên là Carragheen

Carrageenan được sản xuất từ rong sụn

Về tính chất của Carageenan là một chất có màu hơi vàng, màu nâu vàng nhạt hay màu trắng. Chúng có dạng bột thô, bột mịn và gần như có mùi. Đặc biệt chất được sản xuất từ rong biển này đóng vai trò là chất phụ gia trong thực phẩm để tạo đông tụ, tạo tính mềm dẻo, đồng nhất cho sản phẩm và cho điểm nóng chảy thấp. Carrgeenan được dùng trong các món ăn trong thực phẩm: các món thạch, hạnh nhân, nước uống.

  • Carrageenan được bổ sung vào bia, rượu, dấm làm tăng độ trong.
  • Trong sản xuất bánh mì, bánh bicquy, bánh bông lan…carrageenan tạo cho sản phẩm có cấu trúc mềm xốp.
  • Trong công nghệ sản xuất chocolate:bổ sung Carrageenan vào để làm tăng độ đồng nhất, độ đặc nhất định
  • Trong sản xuất kẹo:Làm tăng độ chắc, độ đặc cho sản phẩm.
  • Trong sản xuất phomat, sản xuất các loại mứt đông, mứt dẻo
  •   Đặc biệt ứng dụng nhiều trong lĩnh vực chế biến thủy sản:Carrageenan được ứng dụng tạo lớp màng cho sản phẩm đông lạnh, làm giảm hao hụt về trọng lượng và bay hơi nước, tránh sự mất nước của thịt gia cầm khi bảo quản đông…
  • Trong bảo quản đóng hộp các sản phẩm thịt, bổ sung vào surimi và giò chả…
  • Do Carrageenan tích điện âm của gốc SO42+ nên có khả năng liên kết với protein qua gốc amin mang điện tích dương khi pH nằm dưới điểm đẳng điện.Chính nhờ điểm này mà trên 50%tổng lượng Carrageenan được sử dụng trong công nghiệp sữa. Vai trò của Carrageenan là làm cho các sản phẩm sữa có độ ổn định khá cao, không cần dùng đến tinh bột hoặc lòng trắng trứng.

Carrageenan được ứng dụng trong thực phẩm thạch

Việc chiết tách Carrageenan có hiệu quả cao và chất lượng tốt là cơ sở để dẫn tới sản xuất polysaccharide này ở quy mô công nghiệp, từ đó nâng cao giá trị kinh tế của rong sụn, rong hồng vân…nhằm thúc đẩy ỡ rộng quy mô,cải thiện đời sống cho người dân ven biển. Ngoài ra, sự đầu tư phát triển nuôi trồng rong sụn, rong hồng vân còn giảm ô nhiễm môi trường

Vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được môi trường thủy vực. đó là một hướng đi bền vững, tại sao chúng ta lại không dám làm?

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Dưa chuột lựa vụ mang lại thu nhập cao

Trước và sau tết đến nay, trên các vùng trồng dưa chuột tập trung của huyện Gia Lộc (Hải Dương) ngày nào cũng có hàng chục tư thương thu mua tại đầu bờ với giá cao.

                                                ruộng dưa chuột

Thời gian qua, nhiều loại nông sản rớt giá thảm hại, giá bắp cải chỉ còn 1.000 – 1.500 đ/kg, su hào 600 – 700 đ/củ, cà chua 1.000 – 1.500 đ/kg, giá thịt lợn hơi, giá  tăng chậm, nhiều hộ nông dân không có lãi. Trong khi đó, một số hộ rất phấn khởi vì biết vận dụng quy luật cung cầu của thị trường, trồng rau, quả trái vụ, lựa vụ cho thu nhập cao.

Trước và sau tết đến nay, trên các vùng trồng dưa chuột tập trung của huyện Gia Lộc (Hải Dương) ngày nào cũng có hàng chục tư thương thu mua tại đầu bờ với giá cao. Kẻ mua và người bán đều phấn khởi, giá dưa chuột có ngày lên đến 25.000 đ/kg, cuối tháng 2 giá dưa vẫn giữ mức 6.000 – 7.000 đ/kg. Ước tính mỗi sào dưa chuột lựa vụ sau khi trừ hết chi phí về giống, làm đất, phân bón, dóc làm giàn, thuốc BVTV còn thu nhập ngày công và lãi từ 6 – 7 triệu đồng, 1 ha thu nhập trên 160 triệu đồng trong khoảng thời gian trên 3 tháng.

Theo phòng NN-PTNT Gia Lộc, diện tích trồng dưa chuột đông xuân sớm toàn huyện là trên 30ha, ước giá trị sản xuất đạt trên 8 tỷ đồng.

Ông Đỗ Văn Thê ở thôn Đông Thượng, xã Đồng Quang chia sẻ: “Nhà tôi trồng dưa chuột đã nhiều năm. Những năm trước đây trồng giống dưa chuột Yên Mỹ của Hưng Yên. Qua tìm hiểu, tham quan khu đồng trồng trình diễn giống Dưa chuột nếp số 1 của Viện Cây lương thực – cây thực phẩm, tôi trồng 2 sào 3 thước. Dưa chuột nếp số 1 chịu rét khá tốt, phân nhánh khỏe, ít nhiễm sâu bệnh hơn hẳn so với giống dưa chuột Yên Mỹ, sau trồng khoảng 45 ngày cho thu quả lứa đầu.

Về thời vụ, phải gieo cấy kết thúc trước ngày 15/12, thời gian cây trong bầu 12 – 15 ngày. Vụ đông xuân ít nắng, rét nhiều nên làm luống trồng theo hướng Đông Tây, bón lót nhiều phân chuồng hoai mục trung bình 1 sào khoảng 5 tạ, bón phân lân và kali nhiều, giảm lượng đạm so với các vụ khác.

Để chống rét cho cây con dùng khum và nilon trắng. Dùng bạt che hướng Bắc và Đông Bắc cao khoảng 2,5m để giảm bớt hiện tượng táp lá do gió. Mặc dù, trồng vụ đông xuân sớm năng suất có giảm hơn so với chính vụ nhưng thu nhập cao, đặc biệt là năm nay 1 sào dưa chuột thu bằng gần 1 mẫu su hào”.

Ông Đỗ Văn Hồng ở xã Đồng Quang vui vẻ cho biết: “Để trồng dưa chuột đông xuân sớm phải dùng các giống chịu lạnh như Dưa chuột nếp số 1 là rất thích hợp, chịu rét khá tốt, hình thức đẹp, quả dài 18 – 25cm, đặc ruột, ăn giòn, vị đậm, vỏ quả màu xanh và có gai, được thị trường ưa chuộng, dễ bán, giá cao hơn so với các giống dưa chuột khác.

Năm nay, thời tiết ấm, khô nên dưa chuột sinh trưởng khá tốt, ít bệnh cho năng suất khá 8 – 9 tạ/sào. Ở xã tôi mọi nhà đều gieo cấy từ ngày 10 đến hết tháng 11 âm lịch. Nhà tôi gieo đầu tháng 11 nên thu lứa đầu trước tết. Năm nay dưa chuột sớm là nhất, mỗi sào thu 9 – 10 triệu đồng”.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mô hình trồng sơ ri trên đất phèn

Từ khi chuyển qua trồng sơ ri trên đất phèn, hơn 100 hộ dân ở xã Mỹ Thuận (H.Bình Tân, Vĩnh Long) đã từng bước ổn định kinh tế, vươn lên khá giả.

sơ ri trên đất phèn

Nhiều cây sơ ri có thân hình rất đẹp, thích hợp với mô hình du lịch sinh thái

Đến xã Mỹ Thuận hỏi nơi nào trồng sơ ri thì ai ai cũng biết. Vừa rẽ vào đầu con rạch Trà Cuông thuộc ấp Mỹ Trung A, đã thấy toàn sơ ri. Sơ ri vây kín nhà, sơ ri trồng tận mé đường, mé rạch…

Ông Phan Khắc Tài (55 tuổi, ngụ ấp Mỹ Trung A, xã Mỹ Thuận) cho biết người dân nơi đây gắn bó với cây sơ ri khoảng 20 năm nay. Trước kia, nơi đây là vùng đất phèn, trồng nhãn hay bưởi đều không hiệu quả vì cây cứ chết dần. Thấy 2 cây sơ ri của ông Nguyễn Minh Trí (gần nhà) quanh năm cho trái sai oằn, bán được giá, ông Tài xin chiết 16 nhánh đem về trồng. Thật bất ngờ, chỉ hơn 1 năm sau sơ ri đã cho trái, gia đình có nguồn thu nhập mỗi ngày. Nhận thấy trồng sơ ri có hiệu quả kinh tế cao, bao nhiêu tiền bán sơ ri và tiền tích lũy từ chăn nuôi, ông Tài gom hết để mua thêm đất, mở rộng diện tích trồng. Đến nay, gia đình ông có 7 công sơ ri. “Mỗi công trồng khoảng 30 cây, khi cây được 3 – 5 năm tuổi sẽ cho thu nhập khá hơn, bình quân 30 triệu đồng/công. Cây trồng càng lâu năm thì thu nhập càng nhiều”, ông Tài chia sẻ.

Theo ông Tài, sơ ri dễ trồng, cây phát triển nhanh, bung cành sum suê, cho trái quanh năm. Khi muốn nhân rộng diện tích trồng chỉ cần chiết nhánh trong vườn, không phải tốn tiền mua giống. Chính vì vậy nhiều người trong ấp khá lên nhờ có được 2 – 3 công sơ ri. Điển hình như ông Nguyễn Văn Kép (50 tuổi, ấp Mỹ Trung A), nhà có 4 công đất ruộng nhưng làm ăn thất bát, thua lỗ triền miên nên bán hết 3 công, còn lại 1 công ông lên liếp trồng sơ ri và làm lái thu mua sơ ri nên cuộc sống khấm khá lên nhiều. Hay như ông Lê Văn Chính, nhà chỉ có 1 công đất trồng sơ ri và nuôi 1 con bò, đến nay gia đình thoát nghèo với thu nhập sơ ri hằng tháng và được 10 con bò trị giá hơn 100 triệu đồng…

Đặc biệt, nơi đây nhiều người dân không có đất sản xuất nhưng vẫn đổi đời cũng nhờ cây sơ ri với cách thuê vườn sơ ri theo vụ. Cụ thể như ông Nguyễn Văn Dễ thuê 40 gốc sơ ri khoảng 4 năm tuổi với giá 2 triệu đồng/năm. Nhờ đầu tư chăm sóc nhiều nên năng suất cao chỉ cần hái bán 2 lứa là đủ trả chi phí thuê.

Dễ trồng, thu hoạch quanh năm

Theo nhiều hộ nông dân, sơ ri cho trái quanh năm, tầm 2 tháng thu hoạch 1 lứa (mỗi lứa hái liên tục 15 ngày), năng suất khoảng 50 kg/cây. Đây là cây dễ trồng, không đòi hỏi nhiều kỹ thuật. Nhiều gia đình có thể tận dụng khoảng trống trước sân, sau nhà để trồng, có “đồng ra, đồng vô” mỗi ngày.

Ông Tài cho biết hiện nay có nhiều thương lái từ TP.HCM, Cần Thơ, Long An, Cà Mau… đến thu mua nên sơ ri có đầu ra ổn định. Tại ấp Mỹ Trung A, mỗi ngày có đến 4 thương lái thu mua từ 4 – 6 tấn trái, lúc cao điểm lên đến 10 tấn/ngày. Giá dao động từ 7.000 – 10.000 đồng/kg, nông dân rất phấn khởi.

Ông Đồng Văn Út, Phó chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Thuận, cho biết toàn xã hiện có hơn 100 hộ trồng sơ ri với khoảng 20 ha, tập trung nhiều nhất ở ấp Mỹ Trung A với hơn 50 hộ. Trung bình mỗi hộ 2 công, nhiều nhất là 7 công. “Cây sơ ri đã giúp nhiều hộ nông dân đổi đời, từ nghèo khó vươn lên khá giàu. Xã hiện có nhiều vườn cây sơ ri cổ thụ hàng chục năm, cây có thân hình uốn éo rất đẹp mắt. Vì vậy, sắp tới địa phương sẽ thành lập hợp tác xã và đưa vào phục vụ khách du lịch đến tham quan, nâng cao giá trị kinh tế cây sơ ri”, ông Út nói.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng cúc vàng

Cây cúc vàng vụ đông có thêm 2 – 4 nhánh cành lộc, thân cây thẳng mập, bộ lá xanh đẹp, có hoa nở, hoa nụ, sẽ rất dễ bán và bán được giá cao…

1. Thời vụ trồng:

1 – 5/10. Cần theo dõi dự báo thời tiết, nếu vụ đông rét ít thì trồng muộn hơn so với thời vụ 3 – 5 ngày. Nếu vụ đông rét nhiều trồng sớm hơn 2 – 3 ngày.

  1. Đất trồng:

hoa cúc vàng

Cát pha hoặc thịt nhẹ giàu mùn, tưới tiêu thuận lợi.

  1. Tiêu chuẩn cây giống:

Cần mua cây giống từ các cơ sở nhân giống hoa cúc uy tín (Viện Nghiên cứu Rau quả) để có được cây giống trẻ về tuổi sinh lý và mập khỏe, sạch bệnh, tối thiểu có 4 – 6 rễ, cây cao 6 – 8cm.

  1. Phân bón/1 sào Bắc bộ:

800 – 1.000kg phân chuồng hoai; 25 – 30kg lân supe; 4 – 5kg clorua kali; 20 – 25kg vôi bột; 2 – 3kg đạm urê và 6-7kg NPK Đầu trâu xanh 16-16-13

5. Kĩ thuật trồng, chăm sóc:

Ruộng cày phơi ải 7 – 10 ngày, làm nhỏ đất, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 20 – 25cm, rãnh luống 30cm. Rẽ đất mặt luống trồng cây, hàng cách hàng 14cm, cây cách cây 10cm, mật độ 1,5 – 1,7 vạn cây/sào. Trồng chìm toàn bộ phần rễ cây, nén nhẹ gốc cây, tưới nước ngày 2 lần (sáng, tối) tới khi cây bén rễ hồi xanh.

Phân bón lót: Vôi bột bón kết hợp cày lật đất. 50% phân chuồng + 50% phân lân trộn đều với đất mặt luống, san phẳng, tiến hành trồng cây.

Bón thúc lần 1: Khi cây bén rễ hồi xanh phun bón lá Siêu lân 2 lần cách nhau 7 ngày.

Bón thúc lần 2 (sau trồng 10 ngày): 100% lượng đạm urê + 100% lượng clorua kali pha loãng tưới.

Bón thúc lần 3 (sau trồng 25 ngày): 100% lượng NPK Đầu trâu, rắc mặt luống kết hợp tưới nước.

Bón thúc lần 4 (sau trồng 40 ngày): Hết số phân chuồng, phân lân còn lại.

Ngoài ra, từ sau trồng đến cây phân hóa mầm, định kỳ 7 ngày/1 lần phun bón lá Atonik.

Suốt quá trình sinh trưởng, phát triển của ruộng cúc không được xới xáo mặt luống.

Khi cây cao 25 – 30cm tiến hành làm giàn lưới dây nilon ô vuông (mỗi cây hoa trong 1 ô lưới), giữ cho cành hoa thẳng, tránh đổ ngã. Kéo căng các đầu dây lưới nilon buộc níu chặt vào hệ thống cọc tre cắm cố định trong đất ở đầu và mép luống hoa).

Thường xuyên ngắt bỏ các mầm nhánh phát sinh từ lách lá, chỉ để lại 3 – 4 mầm nhánh cho phát triển thành các cành nhánh phụ.

Các cành nhánh phụ cần được chọn từ những mầm nhánh liên tiếp mọc từ lách lá thứ 7 – 11 (tính từ lá cuối cùng ngọn cây). Các cành nhánh phụ này phát triển đến cuối vụ sẽ sinh thêm nhiều nụ hoa – dân dã gọi là cành lộc, có ý nghĩa về phong thủy, được người người tiêu dùng ưa chuộng.

Khi cây cúc chuyển sang phân hóa mầm hoa, chiều cao cây còn thấp dưới 55cm, cần bón bổ sung chế phẩm GA3 kích thích cây tăng trưởng (1 gram GA3 hòa tan trong 40 – 50 ml cồn 70 độ rồi pha loãng với 20 lít nước sạch phun/1 sào). Trước và sau phun GA3 khoảng 4 – 5 ngày, phải bón thêm cho mỗi sào cúc 2 – 3kg NPK Đầu trâu xanh để cây hoa tăng trưởng cân đối.

  1. Điều chỉnh hoa nở đúng thời vụ

Nếu ruộng cúc sinh trưởng khỏe, mà chậm phân hóa mầm hoa, hoa nở muộn hơn so với thời vụ, cần dừng tưới nước, hãm ruộng khô. Trong khi hãm ruộng khô nếu thời tiết có mưa, bón kali hoặc xới xáo nhẹ làm đứt 12 – 15% bộ rễ cây, cây cúc sẽ chuyển sang phân hóa mầm hoa.

Nếu sau trồng 20 – 25 ngày đã thấy các ngọn cúc có dấu hiệu chùn lại, lá nhỏ và xếp mau hơn, nhiệt độ không khí xuống dưới 13 độ C, cần thắp bóng điện 75W từ 17 – 21 giờ tối 20 – 25 ngày liên tục (mỗi tối thắp 3 – 4 giờ). Bóng điện treo cao hơn ngọn cúc 0,8 – 1m. 5 – 6m2 thắp 1 bóng.

  1. Phòng trừ sâu bệnh

Phòng trừ sâu bệnh kịp thời theo khuyến cáo của cán bộ BVTV chuyên ngành. Chú ý 1 số đối tượng gây hại nguy hiểm như bệnh sương mai, sâu xanh, sâu khoang, sâu vẽ bùa, nhện đỏ, bọ trĩ… Có thể phối hợp 1 số loại thuốc Ridomil 72MZ, Pegasus, Sumicidin, Carbamec… Phun định kỳ 15-20 ngày/ 1 lần từ sau trồng đến trước thu hoạch hoa 15 ngày.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mô hình trồng huệ trắng

Mạnh dạn chọn cho mình hướng đi riêng, đến nay, ông Đỗ Văn Bảy đã thu về hơn 100 triệu đồng/tháng nhờ mô hình trồng huệ trắng. Ông Bảy (65 tuổi, ngụ ấp Trường Thạnh A, xã Trường Thành, H.Thới Lai, TP.Cần Thơ) cho biết trước đây, ông từng làm ruộng, trồng rẫy, nuôi tôm… nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong hoàn cảnh đó, ông luôn trăn trở tìm một loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để giúp gia đình vượt qua khó khăn, vươn lên làm giàu.

Năm 2010, một lần đi Đồng Tháp, ông thấy người dân trồng bông huệ trắng bán được giá cao, đầu ra ổn định nên có ý định trồng thử. “Ban đầu tôi cũng băn khoăn không biết cây huệ trắng có thích nghi với vùng đất này hay không, rồi tới lúc thu hoạch biết bán cho ai.

trồng hoa huệ trắng

Nghĩ tới lui tôi vẫn quyết tâm trồng vì mình không có gan thì sao làm giàu”, ông Bảy chia sẻ.

Sau chuyến đi, ông về quê vay vốn cải tạo 3 công đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng huệ trắng. Lúc này ở địa phương chưa có ai trồng huệ trắng nên ông Bảy phải tự tìm mua giống, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc cây. Thời gian đầu, hầu như suốt ngày ông ở ngoài ruộng theo dõi sự phát triển của cây huệ để kịp thời phát hiện sâu bệnh, bổ sung các loại phân bón cho cây. Sau 4 tháng, ruộng huệ của ông phát triển tốt, cho bông thẳng, đẹp. Đợt thu hoạch đầu tiên, ông bán được gần 10 triệu đồng.

Thấy trồng bông huệ đem lại hiệu quả khả quan hơn các loại cây khác, 3 người con trai của ông Bảy cũng theo cha phát triển diện tích trồng huệ. Từ 3 công ban đầu, sau 6 năm, gia đình ông đã mở rộng lên gần 4 ha trồng bông huệ. Ông Bảy cho biết, đối với bông huệ, khâu làm đất rất quan trọng. Đất trồng cần màu mỡ, được lên liếp cao tránh ngập úng; đồng thời phải đào hệ thống mương dẫn để cung cấp nước tưới và thoát nước trong mùa mưa lũ. Trước khi trồng phải cày xới đất cho tơi xốp để tăng lượng ô xy trong đất, giải phóng khí độc và bón lót một số loại phân. Củ huệ trước khi vùi xuống đất được ông phơi khô, khử các mầm bệnh để khi lớn, bụi huệ sẽ nảy nhanh hơn, bông to đẹp, không bị chai cứng. Mỗi bụi huệ ông trồng từ 4 – 5 củ, cách nhau khoảng 40 cm. Trong thời gian trồng bón thêm phân u rê, DAP giúp cây phát triển tốt; đồng thời phun các loại thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ các loại bệnh úng lá, sâu đục bông… Đặc biệt, người trồng cần thường xuyên kiểm tra gốc để tránh bệnh nấm gốc dẫn đến thối củ.

Thời gian trồng huệ tính từ lúc vùi củ đến thu hoạch khoảng 4 tháng. Đặc điểm của huệ trắng là ra bông quanh năm, từ 3 – 4 ngày nhổ bông một lần. Huệ sẽ cho bông liên tục khoảng 3 – 4 năm mới phải trồng lại đợt mới. Hiện huệ loại 1 có giá 3.000 đồng/cành, loại 2 khoảng 2.000 đồng/cành. Vào những ngày rằm, giá huệ từ 4.000 – 5.000 đồng/cành, riêng dịp Tết Nguyên đán giá tăng lên 10.000 – 12.000 đồng/cành. Thay vì đi qua khâu trung gian, ông cùng các thành viên trong gia đình liên hệ trực tiếp với bạn hàng để bán được giá cao hơn. Mối hàng của ông Bảy có ở khắp nơi, từ TP.Cần Thơ đến các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… Trung bình mỗi đợt ông giao khoảng 25.000 cành, riêng dịp lễ tết có thể lên đến 100.000 cành/đợt. Tính ra trung bình mỗi tháng, gia đình ông Bảy thu về hơn 100 triệu đồng.

Mô hình trồng hoa huệ trắng của ông Bảy vài năm qua trở thành điểm tham quan, học hỏi kinh nghiệm của nhiều nông dân trong, ngoài tỉnh. Ông cũng thực hiện được ước mơ thoát nghèo, xây được nhà cửa khang trang và giúp các con lập nghiệp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật thâm canh hoa lay ơn

Lay ơn là cây ưa sáng nhưng không chịu được cường độ ánh sáng mạnh. Trong thời kỳ phân hoá mầm hoa, nếu không đủ ánh sáng thì hoa mù và hoa tự héo, cây rất dễ bị nhiễm bệnh…

  1. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh

Ánh sáng: Lay ơn là cây ưa sáng nhưng không chịu được cường độ ánh sáng mạnh. Trong thời kỳ phân hoá mầm hoa, nếu không đủ ánh sáng thì hoa mù và hoa tự héo, cây rất dễ bị nhiễm bệnh.

thu hoạch hoa lay ơn

Nhiệt độ: Lay ơn ưa khí hậu mát mẻ, không chịu được nắng nóng. Trước khi phân hoá hoa và khi cây phân hóa hoa cần nhiệt độ mát mẻ 15 – 20 độ C (nếu không hoa bị mù, tỷ lệ hoa nở thấp).

Độ ẩm: Lay ơn cần nước trong suốt quá trình sinh trưởng, giai đoạn cây bắt đầu ra lá thứ 3 đến lá thứ 7 là thời kỳ cần nhiều nước nhất, thiếu nước ảnh hưởng đến phân hoá hoa. Độ ẩm đất thích hợp cho layơn từ 80 – 90%, độ ẩm không khí từ 75 – 80%.

Đất: Đất thích hợp trồng layơn là loại đất phù sa, thịt nhẹ, cát pha, pH từ 6 – 7, thoát nước tốt. Lay ơn rất mẫn cảm với muối kim loại nặng, đặc biệt là lượng chì cao. Khi trồng layơn cần chú ý không nên trồng 2 vụ lay ơn liên tiếp trên cùng một mảnh đất.

Không khí: Lay ơn khá mẫn cảm với không khí, đặc biệt là khí Clo và Flo. ở những nơi có nồng độ Clo và Flo cao, layơn bị khô đầu lá. Do vậy, khi chọn địa điểm trồng nên tránh những nơi gần khu công nghiệp, lò gạch…

  1. Kỹ thuật làm đất

Biện pháp thủ công: Ngả đất sớm, bón thêm vôi bột, vừa có tác dụng khử trùng, vừa cung cấp thêm canxi cho cây. Lượng bón: 20 – 25kg/sào, rắc đều trên mặt luống sau đó xới xáo 1 lượt.

Biện pháp hoá học: Dùng CuCl2 phun nồng độ 0,2 – 0,3%.

Lên luống: Chiều cao luống 20 – 30cm, rộng luống 1 – 1,2m, rãnh luống 25 – 30cm.

Đánh rạch: Dùng cuốc đánh rạch theo chiều ngang của luống, độ sâu rạch: 10 – 15cm.

Kĩ thuật trồng: Sau khi rạch hàng, bỏ phân, lấp đất mỏng thì đặt củ giống lên trên, sau đó phủ một lớp đất 4 – 5cm (đất sét lấp mỏng hơn đất thịt, mùa hè nhiệt độ cao lấp dày hơn mùa đông).

Tưới nước: Nếu thiếu nước, cây sinh trưởng yếu dẫn đến chất lượng hoa giảm, do vậy phải thường xuyên giữ độ ẩm đất từ 70 – 75%. Thông thường cứ 2 – 3 ngày tưới một lần, trời nắng khô 1 ngày tưới 1 lần.

Bón phân (lượng bón cho 1 sào Bắc bộ): Phân chuồng hoai mục 500kg, phân lân 20kg, phân kali 20kg, phân đạm 20kg urê, phân vi sinh 20 – 30kg.

+ Bón lót: Toàn bộ phân chuồng + 3/4 lượng lân + 1/2 phân vi sinh. Đánh rạch, trộn đều các loại phân với nhau và bón xuống rạch, sau đó lấp một lớp đất mỏng rồi đặt củ giống lên trên.

+ Bón thúc: Lượng phân còn lại chia đều cho các lần bón, cứ 7 – 10 ngày bón một lần kết hợp với tưới phân chuồng loãng. Riêng phân vi sinh, bón khi cây được 3 lá.

Ngoài ra có thể sử dụng phân bón lá Komix, phun vào giai đoạn cây có từ 2 – 5 lá hiệu quả rất cao.

Vun xới, tỉa mầm: Sau trồng 7 – 10 ngày, mầm mọc khỏi mặt đất, thường 1 củ có 1 mầm, nhưng có những củ mọc ra 2 – 3 mầm, khi đó ta cần tỉa bỏ những mầm phụ, chỉ để lại 1 mầm chính. Khi tỉa, một tay ấn chặt gốc, 1 tay tỉa mầm, tránh làm lay gốc cây.

Khi cây được 3 lá, tiến hành vun đợt 1, sau đó khi cây có 5 lá tiến hành vun đợt 2, đợt này cần vun cao để chống đổ. Sau vun đợt 2 cần cắm cọc định cây, để cây không bị đổ. Nếu loại cây thấp chỉ cần cắm 1 số cọc cắm ở mép luống, mỗi cọc cắm cách nhau từ 1,5 – 2m, sau đó dùng dây chăng và buộc cây. Loại cây cao, trồng những nơi gió nhiều thì khoảng cách cắm cọc dày hơn, khoảng 1m cắm 1 cọc.

  1. Thu hoạch và bảo quản

Thời gian thu hoạch: Trên gốc hoa tự có 1 – 2 hoa nhú màu, nên cắt vào buổi sáng.

Vị trí cắt: Chừa lại 2 – 3 lá hoàn chỉnh trên cây để cây tiếp tục quang hợp nuôi củ. Dùng dao sắc cắt vát 15 độ để tăng khả năng hút nước của hoa. Sau khi cắt hoa xong nên cắm ngay vào nước. Phân loại theo độ tuổi, cấp hoa để thuận tiện cho vận chuyển, tiêu thụ và bảo quản.

Dùng dây cao su hoặc nilon buộc chặt gốc, dùng giấy bao lại để bảo vệ hoa. Hoa xếp thành từng lớp, trở đầu đuôi trong thùng và xếp cách thành thùng 8cm để tránh xây xát.

Bảo quản hoa bằng hóa chất: Sử dụng các dung dịch glucoza, sacaroza 3-5%, AgNO3, Chrysal RVB….

Bảo quản trong kho lạnh: Hình thức bảo quản này hiện đại và hiệu quả nhưng chỉ có ở những cơ sở sản xuất lớn mới có điều kiện áp dụng vì chi phí cho hệ thống bảo quản này là rất lớn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Xử lý chanh ra hoa rải vụ

Giải pháp SX trái cây rải vụ (nghịch vụ) để bán được giá giúp nhà vườn ở ĐBSCL thu về một khoản lợi nhuận rất cao.

Xử lý chanh ra hoa rải vụTrồng chanh xử lý cho ra hoa rải rụ sẽ “hốt bạc”

Điển hình là gia đình gia đình anh Nguyễn Hoàng Vũ, ấp Tân An, xã Tân Hội, TP Vĩnh Long (Vĩnh Long). Nhờ xử lý cho cây chanh ra hoa rải vụ, năm 2014, trên diện tích 3.000 m2 anh Vũ đã thu hoạch 9 tấn chanh với giá bán 12.000 đ/kg cho thu nhập 108.000.000 đ.

Anh Vũ chia sẻ: “Mùa mưa giá chanh thường rất rẻ, thậm chí không đủ chi phí thu hoạch nên người trồng có khuynh hướng điều khiển cho cây ra hoa nghịch vụ để thu hoạch trong mùa khô, nhất là dịp tết sẽ bán được giá. Việc xử lý ra hoa là yêu cầu kỹ thuật rất quan trọng đối với người trồng chanh”.

Nhờ áp dụng thành công kỹ thuật xử lý ra hoa nghịch vụ trên cây chanh 5 năm tuổi, anh Vũ từ khó khăn vươn lên khá giàu.

Anh Vũ cho biết cách thực hiện như sau: Đầu tiên, sau khi thu hoạch tháng 7 – 8 âm lịch khoảng 15 ngày (áp dụng cho cây 5 năm tuổi), cung cấp dinh dưỡng cho cây phục hồi bằng cách: Bón gốc cho cây 1 – 2 kg NPK 20-20-15; 10 kg phân hữu cơ hoai mục trộn với 20 gram nấm Trichoderma. Tiến hành cắt tỉa các đoạn cành đã mang trái, cành già cỗi, sâu bệnh… Quét vôi hay Bordeaux lên thân, cành phòng ngừa nấm; đồng thời kết hợp phun thuốc trừ sâu 2 lần (7 ngày/lần) giúp cây phát triển tốt chuẩn bị sức ra hoa.

Để có được kết quả như hôm nay, anh Vũ cho biết không chỉ áp dụng đúng kỹ thuật, bán được giá cao mà còn phải có tính cần cù chịu khó ham học hỏi.

Khoảng thời gian 1,5 tháng sau khi cây ra đọt non bón 0,5 kg DAP + 0,5 kg kali. Phun F.Bo 2 lần (7 ngày/lần) phun ướt đều 2 mặt lá. Khi lá đủ già (khoảng 3 tháng) bắt đầu xiết nước 1 – 2 tuần tùy theo thời tiết.

Quan sát lá chanh héo (lá gần như cuốn lại) thì bắt đầu tưới đẫm cho ướt đều 3 ngày liên tục. Sử dụng chế phẩm C.A.T + F. Bo xịt ướt đều 2 mặt lá ( 5 ngày 1 lần). Sau đó, hoa nở nhanh và nhiều. Cũng như các loại cây có múi khác, khi xử lý ra hoa nghịch vụ, cây chanh cũng bị một số loại dịch hại tấn công do phải phòng trị kịp thời để bảo vệ tốt năng suất và chất lượng trái.

Ngoài biện pháp xử lý ra hoa bằng cách xiết nước anh Vũ còn áp dụng xử lý hóa chất Thioure làm rụng lá nồng độ 0,5%, 0,3% kết hợp với ure nồng độ 4,6%.

Trên đây là cách làm giàu của anh Vũ các nhà vườn có thể nghiên cứu và áp dụng biện pháp xử lý chanh cho ra hoa nghịch vụ để tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình, đồng thời cũng phục vụ tốt nhu cầu tiêu thụ của thị trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam