Những chiếc lỗ kinh hoàng trên bụng bò sữa

Chúng ta vẫn hay thưởng thức những giọt sữa ngon ngọt, béo ngậy từ những hộp sữa đóng hộp. Vậy có bao giờ bạn nghĩ, để có được những sản phẩm như thế con người đã sản xuất như thế nào và hàng triệu con bò sữa đã từng chịu đựng sự đau đớn đó như thế nào không?

Con bò sữa

Trong trí tưởng tượng của nhiều người, bò sữa sẽ được chăn nuôi trên những cánh đồng đầy cỏ. Nhưng thực chất trong suốt cuộc đời mình, bò sữa sẽ được nhốt trong chuồng, liên tục mang thai để cung cấp sữa cho nhà sản xuất.

Không chỉ bị nhốt, những con bò sữa còn phải trải qua những cuộc phẫu thuật khá man rợ nhằm phục vụ cho công việc đánh giá tình trạng sức khỏe để đem lại hiệu suất sữa cao.

Nhân viên trực tiếp tiếp cho tay vào dạ dày bò để xử lý thức ăn

Mỗi con bò sữa đều trải qua ca phẫu thuật gắn một thiết bị dạng ống vào cơ thể cho phép nhân viên có thể trực tiếp tiếp cho tay vào dạ dày bò để xử lý thức ăn. Nếu tình trạng tiêu hóa của bò sữa gặp trở ngại, những người nhân viên sẽ trực tiếp kiểm tra thông qua chiếc ống đó, trong trường hợp cần thiết, họ sẽ trực tiếp đổ thuốc vào dạ dày, giúp đàn bò tiêu hóa dễ dàng hơn.

Thiết bị dạng ống được lắp vào cơ thể bò

Những chiếc lỗ hổng này có kích thước khá lớn, bằng mắt thường con người có thể nhìn thấy nội tạng bên trong con vật.

Nhiều người lo ngại, những con bò này chịu sự áp bức, lạm dụng từ những người nuôi chúng, nhưng cũng không ít người cho rằng có thể chúng mắc căn bệnh nào đó cần được gắn thiết bị này để hỗ trợ chữa trị. Những con bò sữa bị gắn chiếc ống trên cơ thể dù với mục đích khoa học, cơ bản đã giúp người nông dân nâng cao sản lượng lẫn chất lượng sữa bò đi chăng nữa thì phương pháp này là phản tự nhiên và khá tàn nhẫn.

Những chiếc lỗ hổng kích thước khá lớn khá đau đớn đối với bò sữa

Tuy vậy, việc sản xuất này vẫn còn diễn ra khá nhiều cũng chỉ vì mục đích nhằm tạo ra những sản phẩm từ sữa bò tốt nhất.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trị lở mồm long móng cho gia súc

Bệnh lở mồm long móng (LMLM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loài gia súc và một số loài thú hoang, có thể lây từ súc vật sang người. Ở nước ta, hàng năm bệnh thường xảy ra ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi biên giới Việt – Trung, Việt – Lào và Việt – Campuchia, gây nhiều thiệt hại kinh tế cho chăn nuôi trâu bò. Bệnh do virut LMLM gây ra và lây qua đường hô hấp, đường tiêu hóa.


1. Triệu chứng:
Thời gian ủ bệnh từ 2 – 7 ngày. Bò bệnh có triệu chứng:
– Sốt cao 41 – 42 độ C trong 2 – 3 ngày, chảy nước mắt nước mũi khi sốt.
– Nước rãi trắng như bọt xà phòng, chảy liên tục thành sợi từ miệng bò xuống đất.
– Niêm mạc mũi, miệng, lợi răng, trên mặt lưỡi mọc các đám mụn đỏ, sau mọng nước, trắng ra và vỡ loét, để lại các vết sẹo nhiều màu: đỏ, vàng, xám… làm cho súc vật bị bệnh đau đớn, khó ăn uống.
– Quanh các móng chân súc vật cũng mọc mụn loét giống ở miệng, vỡ loét ra, có thể bị nhiễm trùng và bong móng chân làm cho súc vật đi lại rất khó khăn và chỉ nằm một chỗ.
– Một số trường hợp bò bệnh có biến chứng viêm ruột, ỉa chảy, phân có máu và chết nhanh.
– Súc vật non có thể có biến chứng viêm cơ tim cũng chết rất nhanh.
– Bò cái bị bệnh thường có mụn loét ở núm vú, bầu vú giống như ở miệng.
– Bò cái mang thai khi bị bệnh thường sẩy thai.
– Bò trưởng thành bị bệnh chết với tỷ lệ 3 – 5%. Bê non bị bệnh chết với tỷ lệ cao hơn.
2. Điều trị:
Bệnh LMLM hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, người chăn nuôi vẫn dùng các dung dịch thuốc sát trùng như Xanh Methylen 5‰, Lodin 1‰, các dịch lá chát (lá ổi, lá sim) bôi vào các ổ lở loét ở miệng và chân móng, sau 10 – 12 ngày, trâu bò có thể khỏi bệnh về lâm sàng. Nhưng trâu bò này vẫn có thể mang và thải virut sau một thời gian, làm lây nhiễm bệnh sang đàn gia súc khỏe.

– Ở miệng: Dùng chất sát trùng nhẹ như thuốc tím với liều lượng 0,1% hoặc nước quả chua (chanh, khế…) bóp lấy nước xoa vào niêm mạc miệng. Cho gia súc ăn thức ăn mềm, dễ tiêu.

– Móng: Rửa sạch, dùng các loại kháng sinh mỡ, cồn iốt, thuốc nam như lá bàng, lá phèn đen, thanh xoan, lá trầu không… chống nhiễm trùng, kích thích lên da non, chống ruồi muỗi.

– Ở vú: Thường xuyên vắt cạn sữa, sát trùng mụn loét bằng dung dịch sát trùng, nếu bị nặng dùng thêm các kháng sinh Penicillin, Streptomyxin… để tiêm.

Triệu chứng trên heo

3. Phòng bệnh:
* Khi chưa có dịch: Tổ chức tiêm vắc xin phòng bệnh LMLM cho đàn trâu bò ở các ổ dịch cũ và vùng có nguy cơ phát dịch theo định kỳ 12 tháng/lần. Mỗi lần trâu bò phải tiêm 2 mũi, mũi đầu cách mũi thứ 2 từ 4 – 6 tuần tuổi.
– Cách sử dụng vắc xin:
+ Nếu trâu bò có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 3 – 4 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1 vào 4 – 6 tuần sau khi tiêm mũi đầu; tiêm nhắc lại lần 2 vào 4 – 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1.
+ Nếu trâu bò không có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 2 – 3 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1 vào 4 – 6 tuần sau khi tiêm mũi đầu; tiêm nhắc lại lần 2 vào 4 – 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1.
+ Liều tiêm: 2 ml/trâu, bò. Miễn dịch kéo dài 12 tháng.
– Thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày và phun thuốc sát trùng theo định kỳ 2 tuần/lần.
– Nuôi dưỡng chăm sóc tốt đàn trâu bò để nâng cao sức đề kháng với bệnh, đảm bảo khẩu phần ăn đủ chất dinh dưỡng và đủ nguồn nước sạch cho trâu bò.
– Thực hiện kiểm dịch nghiêm ngặt khi phải xuất nhập trâu bò.
* Khi có dịch: Súc vật ốm và chết trong ổ dịch phải tiêu hủy bằng cách đốt hoặc chôn sâu giữa 2 lớp vôi bột theo hướng dẫn của thú y; đồng thời kê khai đúng thiệt hại của chủ gia súc để nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước.
– Thực hiện vệ sinh, tiêu độc triệt để chuồng trại và khu vực có súc vật ốm chết: quét dọn, thu gom rác thải xử lý như đối với súc vật chết; phun thuốc sát trùng mạnh (Lodin 1%, Clorin 3%) 2 – 3 lần/tuần; phun liên tục 3 – 4 tuần.
– Không vận chuyển, giết mổ, phân phối thịt súc vật trong khu vực có dịch theo đúng Pháp lệnh Thú y 2004.
– Tổ chức tiêm vắc xin bổ sung phòng bệnh LMLM ở xung quanh khu vực có dịch và vùng bị dịch uy hiếp; không tiêm vắc xin vào thẳng ổ dịch.
– Chuồng trại đã có súc vật chết dịch phải để trống trong 1 – 2 tháng và nuôi lại trâu bò khi có lệnh công bố hết dịch.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Chế biến thân lá ngô dùng làm thức ăn cho trâu bò

Thân lá ngô khi còn xanh có thể cho trâu bò ăn ngay, song thường khi thu hoạch thì ta có một lượng nhiều nên trâu bò không thể tiêu thụ hết trong một thời gian ngắn.


Chúng tôi xin giới thiệu phương pháp ủ chua yếm khí thân lá ngô với bạn đọc. Thân lá ngô sau khi thu hoạch bắp loại chưa già, lá ngô còn xanh. Thân lá ngô (TLN) lúc này có vật chất khô (VCK) khoảng 25-27%, protein thô (CP) khoảng 9%, vật chất hữu cơ (OM) khoảng 92-94%. Thân lá ngô thu về chặt nhỏ (4-5 cm), chúng được chia ra để ủ theo mấy cách sau:
– TN0: Thân cây ngô đã chặt nhỏ không cho thêm rỉ mật và urê.
– TN1: Thân lá ngô đã chặt nhỏ + 5% rỉ mật.
– TN2: Thân lá ngô đã chặt nhỏ + 2,5% rỉ mật + 0,5% urê.
Ở TN1 và TN2 hỗn hợp TLN, rỉ mật và urê được trộn đều. Tiếp theo từng hỗn hợp của TN1, TN2 và TN0 được cho vào các bao nylon riêng (có thể sử dụng bao với kích cỡ khác nhau, tùy thuộc vào lượng TLN mà ta cần ủ), lèn thật chặt (nếu bao lớn thì cho từng lớp một để dễ nén chặt) cho đến khi gần đầy bao thì thôi, cố gắng lùa hết không khí ra, cuối cùng dùng dây buộc kín và chặt miệng túi. Chú ý khi cho TLN vào túi và lèn tránh không làm bao bị rách. Để bao TLN ủ nơi dâm mát.
Qua kiểm tra để xác định chất lượng khối ủ thông qua các chỉ tiêu pH, hàm lượng VCK, CP và OM tại 0, 7, 14, 21 ngày ủ và thu được kết quả: pH từ 4,9-5,1 (0 ngày) giảm còn 3,54-4,30 (21 ngày), pH như thế này là rất tốt cho tiếp tục bảo quản. VCK gần như giữ nguyên: từ 24,6-26,4% (0 ngày) đạt 25,6-26,2% ở 21 ngày. OM cũng gần như giữ nguyên: từ 93,3-94,0% (0 ngày) đạt 92,1-93,7% ở 21 ngày. Protein thô cũng gần như được giữ nguyên: từ 8,7-12,6% (0 ngày) đạt 8,5-12,0% ở 21 ngày. Đặc biệt, nhờ có bổ sung urê mà CP ở khối ủ TN2 cao hơn hẳn TN0 và TN1, 12,0-12,6% so với 8,5-9,0%. Rõ ràng, quá trình ủ chua yếm khí không làm giảm chất lượng TLN, mà còn bảo quản được lâu dài hơn và nếu có bổ sung 0,5% urê thì cải thiện chất lượng rõ rệt.
Kiểm tra khối ủ TLN ở 21 ngày ủ bằng các chỉ tiêu cảm quan chúng tôi thấy: TN0 có màu sẫm, thơm và chua nhẹ, nhưng bị nhiễm một ít nấm mốc; TN1 có màu vàng, thơm và chua nhẹ, không bị nhiễm nấm mốc; TN2 màu vàng sáng, thơm và chua nhẹ, không bị nhiễm nấm mốc. Về cảm quan khối ủ TN2 tốt nhất, TN0 kém nhất và bị nhiễm nấm mốc nên không bảo quản được lâu.
Kiểm tra đánh giá khả năng tiêu hóa vật chất của các khối TLN ủ tại dạ cỏ của bò đã thu được kết quả: Từ sau khi ăn vào 8 giờ đến 96 giờ, tỷ lệ tiêu hóa VCK, OM và CP trong TLN ủ của TN0, TN1 và TN2 đều tăng dần. Tiêu hóa VCK từ 31,4-44,6% ở thời điểm 8 giờ tăng lên 72,4-76,5% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN1. Tiêu hóa OM từ 30,2-44,4% ở 8 giờ tăng lên 73,6-76,8% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN1. Tiêu hóa CP từ 44,2-67,7% ở 8 giờ tăng lên 86,2-91,9% ở 96 giờ, tốt nhất là khối ủ TN2.


Thân lá ngô còn tươi xanh sau khi thu hoạch bắp, ủ yếm khí có thể bảo quản được trong thời gian khá lâu (21 ngày hoặc dài hơn) vẫn không bị hư hỏng, vẫn sử dụng làm thức ăn cho trâu bò tốt. Nếu có điều kiện nên trộn thêm 2,5 hoặc 5% rỉ mật và 0,5% urê thì chất lượng của thân lá ngô ủ sẽ được cải thiện. Ủ thân lá ngô yếm khí điều quan trọng nhất là phải nến nén chặt, buộc kỹ để bảo đảm điều kiện yếm khí. Mỗi lần lấy TLN ủ ra cho trâu bò ăn, chỉ lấy lượng vừa đủ cho bữa ăn đó, rồi lại phải nén chặt khối ủ và buộc kỹ miệng túi để giữ cho khối ủ yếm khí.

Nguồn : báo Nghệ An, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Sản sinh kháng thể chống virus HIV từ bò

Trên hành trình tìm kiếm phương cách chống lại virus HIV kéo dài hàng chục năm nay trên thế giới. Người ta đã không tưởng khi phát hiện: bò có thể sản sinh kháng thể chống HIV.

Bò có thể sản sinh kháng thể chống HIV

Các nhà khoa học cho biết họ đã tiêm vào 4 con bò một loại protein chứa HIV, sau đó chúng phát triển nhanh chóng một loại kháng thể phản ứng mạnh mẽ với virus HIV.

Kháng thể trên thuộc loại kháng thể trung hòa có tác dụng ngăn chặn quá trình phát triển ở nhiều loại virus HIV. Những con bò có khả năng sản sinh được những kháng thể này chỉ 42 ngày sau khi được miễn dịch.

Trước đây, vấn đề tạo ra vắcxin phòng ngừa HIV vô cùng khó khăn bởi virus HIV thay đổi liên tục, trong khi có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trên khắp thế giới. Virus HIV thậm chí biến đổi ngay trong cơ thể một người.

Thông thường, các nhà khoa học có thể phát triển những kháng thể đặc trị một loại virus nào đó, tuy nhiên lại vô dụng với những loại khác. Vắcxin phòng ngừa HIV được thử gần đây đã thất bại, không thể đưa vào sản xuất rộng rãi.

Chỉ khoảng 1% người bị nhiễm HIV cuối cùng có thể sản sinh ra được kháng thể trung hòa đủ mạnh và có thể chống lại nhiều loại HIV. Các nhà khoa học đã thử phát triển loại kháng thể này, nhưng dường như không giúp được người nhiễm HIV.

Những kháng thể trung hòa có đặc trị virus HIV thì có một số đặc điểm thú vị, trong đó có sự tồn tại của một vùng dài những amino axit trồi lên trên bề mặt của kháng thể. Phần trồi ra này sẽ kết chặt với bề mặt của virus, vì virus cũng cần tìm cánh cổng để vào tế bào.

“Bề mặt dày của virus HIV gây khó khăn cho các kháng thể kết dính với loại virus này. Những đoạn trồi amino axit dài hơn giúp kháng thể dễ xuyên qua lớp này”, Vaughn Smider – nhà nghiên cứu miễn dịch phân tử ở Viện nghiên cứu Scripps ở Califonia.

Ở người bị nhiễm HIV được phát triển kháng thể trung hòa, vùng kháng thể này (gọi là HCDR3) có khoảng 30 amino axit, dài gấp 2 lần so với bình thường, dẫu vậy vẫn rất ngắn so với vùng của bò, Smider cho biết. Đoạn amino axit dài hơn có thể gợi ra phương pháp mới giúp đặc trị virus HIV.

Smider và cộng sự đã lấy huyết thanh từ 4 con bò được miễn dịch và thử chúng với những loại virus HIV khác nhau. Kết quả là, tất cả con bò đều phát triển được những kháng thể trung hòa. Nhóm nghiên cứu sau đó quyết định thử nghiệm bò với một số lượng lớn các loại virus khác.

Sau 281 ngày, kháng thể của nó đã ngăn chặn 96% trong tổng số 117 loại virus HIV từ những tế bào bị lây nhiễm. Phải nói thêm, HCDR3 chứa đến 60 amino axit góp phần ngăn chặn 72% loại virus HIV.

Nếu các nhà khoa học có thể sản xuất ra những đoạn dài HCDR3 ở người, thì đây có thể là bước đi đầu tiên để phát triển vắcxin chống lại “căn bệnh thế kỷ”.

Phát triển vắcxin chống lại virus từ bò

Ngoài ra, cũng có thể tính đến việc sử dụng những sản phẩm từ kháng thể của bò để tạo ra thuốc điều trị HIV nếu kháng thể ở bò có thể ngăn chặn virus HIV trên những động vật khác.

Nguồn tuoitre.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Các phương pháp vỗ béo bò thịt

Vỗ béo bò trước khi giết thịt là rút ngắn thời gian nuôi để đạt tăng trọng cao nhất trong thời gian ngắn nhất nhằm nâng cao số lượng và chất lượng thịt. Trong giai đoạn này các cơ bắp, mô mỡ, mô liên kết phát triển mạnh nên cần nuôi dưỡng tốt và thức ăn phải giàu năng lượng (thức ăn tinh), giàu glucid (cỏ, rơm,..).

Để vỗ béo bò đạt hiệu quả cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến việc vỗ béo bò như sau:
– Giống: các giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng, phát triển, tạo nạc và mỡ khác nhau. Trên bê đực lai hướng sữa thì mức tăng trọng bình quân của bê đạt từ 500 – 600 gram/con/ngày.
– Tuổi: tuổi giết mổ khác nhau sẽ cho chất lượng thịt khác nhau. Cụ thể như:
+ Dưới 1 năm tuổi: sự phát triển của cơ thể chủ yếu là kết quả của sự tích luỹ các mô cơ và xương, còn mỡ và mô liên kết tương đối thấp.
+ Đến 1,5 tuổi: sự tích luỹ mô cơ cao, còn mô xương tương đối thấp.
+ Sau 18 tháng tuổi: tốc độ sinh trưởng của tế bào cơ giảm xuống thấp, hàm lượng nước giảm, sự tích luỹ mỡ tăng lên, kèm theo là hàm lượng calori cũng tăng lên, còn mô liên kết giảm. Thời gian này do sự trao đổi chất thay đổi, làm giảm khả năng tích luỹ nitơ, cường độ hình thành protein giảm thấp và sự sinh trưởng của tế bào bị kìm hãm, đồng thời tốc độ tích lũy mỡ tăng lên. Cụ thể là khi sơ sinh thành phần protein là 18,25%; đến 18 tháng là 17,18%. Trong khi đó, mỡ tăng tương ứng là 3,64% lúc sơ sinh; 26,74% lúc 18 tháng tuổi. Nếu giết thịt lúc 18 tháng tuổi mỡ tích luỹ trong cơ bắp cao hơn mỡ nội tạng. Trong điều kiện chăn nuôi ở nước ta, vỗ béo bò ở giai đoạn 22 – 24 tháng tuổi là hiệu quả kinh tế nhất.
– Chăm sóc, nuôi dưỡng: sức sản xuất thịt của bê phụ thuộc trước hết vào mức độ dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao sẽ đạt được khối lượng thịt gấp 2 lần so với mức độ dinh dưỡng thấp, thành phần thân thịt ở gia súc nuôi dưỡng kém đạt tỷ lệ xương và dây chằng tương ứng là 25 – 30% thân thịt, năng lượng của thịt giảm 40 – 45%. Thông thường, khẩu phần nhiều thức ăn thô thì tỷ lệ nội tạng cao, tỷ lệ thịt xẻ thấp; ngược lại, khẩu phần nhiều thức ăn tinh thì tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ nội tạng thấp.
– Stress môi trường: Trong môi trường càng nóng ẩm thì việc thải nhiệt càng khó khăn. Do vậy, khi bò bị stress nhiệt sẽ làm hạn chế khả năng thu nhận thức ăn và năng suất giảm.


Trong điều kiện chăn nuôi gia đình, hiện nay có 3 cách vỗ béo bò thường được áp dụng như sau:
(1) Nuôi chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng: bò cần được chăn thả 8 – 10 giờ/ngày ngoài bãi chăn để tận dụng được nhiều cỏ tươi mà không phải tốn công thu cắt cỏ và vận chuyển về chuồng. Sau khi chăn thả, bò được bổ sung thêm một ít thức ăn tinh và muối ăn.
Cách vỗ béo này thường áp dụng ở những nơi có diện tích đồng cỏ lớn và năng suất đồng cỏ tương đối khá mới đảm bảo mỗi ngày bò gặm được từ 20 – 25 kg cỏ. Tuy nhiên, để tăng năng suất đồng cỏ chăn thả thì đồng cỏ phải được cải tạo, diệt trừ cỏ dại, trồng cây bóng mát, giữ ẩm đất bằng cách tưới nước hay đắp đập ngăn nước để cỏ có năng suất cao.
Dành cho đàn bò vỗ béo ở những bãi cỏ gần nguồn nước, gần chuồng để chăn thả được nhiều giờ ngoài bãi. Nếu khoảng cách từ chuồng đến bãi chăn quá 2 km thì phải làm lán trại ngoài đồng cho bò ngủ qua đêm trong suốt thời gian chăn thả.
(2) Nuôi tại chuồng kết hợp với chăn thả: hình thức vỗ béo này thường áp dụng ở những hộ có diện tích đồng cỏ giới hạn, bò vừa gặm được một phần cỏ ngoài bãi chăn vừa được cung cấp thêm thức ăn tinh tại chuồng. Có thể bổ sung thêm phụ phẩm công nông nghiệp làm thức ăn vỗ béo cho bò như:
+ Bã mía, lá và ngọn mía: cho ăn tươi hoặc ủ chua, 2 – 3 kg/con/ngày
+ Vỏ và mắt dứa: ủ chua, 3 kg/con/ngày, khi ăn thường trộn với thức ăn tinh.
+ Hèm bia: 5 – 10 kg/con/ngày, kết hợp với cỏ họ đậu.
(3) Nuôi nhốt hoàn toàn: đây là phương thức nuôi thâm canh tại chuồng để giảm vận động, nhằm làm cho bò đạt mức tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn để có tỷ lệ thịt xẻ cao, tạo ra các vân mỡ trong các sớ cơ nên phẩm chất thịt được nâng cao, giảm chi phí sản xuất đồng thời tăng hiệu quả chăn nuôi. Sau thời gian vỗ béo khối lượng cơ thể bò tăng từ 15 – 20% so với trước khi vỗ béo.
Những ngày đầu vỗ béo không cho bò ăn khẩu phần vỗ béo ngay, thời gian làm quen khẩu phần vỗ béo có thể kéo dài từ 2 – 3 tuần. Thức ăn của bò nuôi vỗ béo gồm cỏ tươi, rơm khô, thức ăn tinh (cám hỗn hợp, khoai lang, khoai mì, bắp). Tuần đầu tăng dần thức ăn tinh lên tối đa 1,5kg để tránh rối loạn tiêu hóa; Tuần thứ 2 tăng lên 3kg; Tuần thứ 3 tăng thức ăn tinh tối đa là 6 – 7kg; tiếp tục duy trì lượng thức ăn tinh này cho đến khi xuất thịt. Nên kích thích cho bò ăn càng nhiều càng tốt, cho vận động ít hoặc không cho vận động để bò tăng trọng nhanh, đạt khoảng 1,0 kg/con/ngày.


Lưu ý:
– Trước khi đưa vào vỗ béo bò, người chăn nuôi cần phải tẩy giun, sán cho bò bằng các loại thuốc như: levamisol, albendazole, biomectin…
– Nước uống phải cung cấp thường xuyên và đầy đủ.
Hiện nay, trên thị trường đã có 1 sản phẩm có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả việc vỗ béo bò thịt đó là Microplex 1000, là sản phẩm đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT đưa vào danh mục thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu dùng chế biến thức ăn chăn nuôi, có tác dụng kích thích tăng trọng, giảm tiêu tốn thức ăn, tăng trọng lượng xuất thịt, tạo sản phẩm thịt đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

9 bí quyết nuôi heo nái sinh nhiều, tỷ lệ sống cao

Tình hình chung hiện nay của các hộ chăn nuôi heo nái là sinh ít con, số lứa trên năm thấp, tỉ lệ sống đến lẻ bầy không cao. Để giúp người chăn nuôi giảm bớt khó khăn trên, Fman xin chia sẻ 9 bí quyết nuôi heo nái sinh nhiều, cho tỷ lệ sống cao.

1. Không cho phối lại: Tỉ lệ phối lần đầu thành công lên tới 96%, đạt năng suất rất cao. Khi đưa hậu bị lên phối, nếu phối lần đầu bị thất bại thì có thể đào thải không cần quan tâm đến sẽ giảm hiệu quả kinh tế.

2. Phối lúc sáng sớm: Phối rất sớm (lúc 5 giờ). Lúc đó trại rất yên tĩnh. Hệ thống cho ăn tự động 7 giờ mới làm việc lúc đó tỉ lệ đậu thai cũng cao so với những nái phối thời điểm khác.

Nái sau khi chịu đực 24 giờ thì bắt đầu cho phối. Nái ở “trạng thái chịu đực” là khi đã hội tụ đủ đồng thời 3 đặc điểm: hoa (âm hộ lợn cái) đã chuyển sang trạng thái thâm và nhăn; dịch đã chuyển sang trạng thái đặc và dính, nái đang ở trạng thái “mê ì”. Cần dựa vào đó chúng ta mới xác định thời điểm phối giống thích hợp.

Còn đực trước khi phối cho ăn sẽ kích thích mạnh hơn.

Lấy tinh heo đực chuẩn bị phối

Đưa tinh vào heo nái

Nái sau khi cai sữa 4, 5, 6 ngày thì bắt đầu đưa vào phối. Mặt khác, nái hậu bị nếu lên giống sẽ đưa vào phối. Khi phối nái phải được giám sát kỹ lưỡng, mỗi lần chỉ phối 1 con. Sau khi cai sữa đến trước khi phối phải cung cấp thức ăn đầy đủ 3 lần / ngày. Một ngày sau khi phối, lượng thức ăn cho nái ăn giảm xuống còn 1,8 kg trong vòng 84 ngày đầu. dựa vào thể trạng của heo mà điều chỉnh lượng thức ăn cho thích hợp. Nếu heo có thể trạng bình thường (không liên quan tuổi heo) điều chỉnh tăng từ 2,0 kg trở lên tùy thể trạng, từ ngày thứ 85 đến trước đẻ 1 tuần cho ăn 2,8- 3,0 kg/ngày, trước đẻ 1 tuần giảm lượng thức ăn như lúc heo mới phối giống

3. Chuyển nái: Trong trang trại sau khi phối từ 10 đến 35 ngày tuyệt đối không được chuyển heo. Bởi vì đây là thời kỳ hình thành thai nhi, ảnh hưởng đến việc đẻ nhiều, hay ít con

Nái đang mang thai

4. Vệ sinh và ánh sáng: Phải quan tâm đến vấn đề vệ sinh trong chuồng trại, phải vệ sinh định kỳ. Không có thức ăn rơi vãi ở khu vực máng. Cần phải vệ sinh cào phân mỗi ngày để tránh nhiễm khuẩn phần âm hộ khi nái nằm xuống. Mỗi tuần phải dành 40 tiếng cho việc vệ sinh sát trùng. Các thiết bị trước khi sát trùng phải tiêu độc và phơi khô trước 24 tiếng.

Đèn huỳnh quang và các trang thiết bị không để cho bám bụi vì heo rất dễ không lên giống. Chiếu sáng mỗi ngày 18 giờ từ 4 giờ sáng tới 10 giờ đêm để mỗi khi nái thức dậy có thể lên giống dễ dàng.

5. Duy trì chất lượng thức ăn: Trại tuân theo hướng dẫn các nhà cung cấp thức ăn cho nái mang thai và nái chờ phối. Cho ăn sau khi phối tới khi sắp đẻ, rồi đổi loại  khác. Heo hậu bị có thể ăn thức ăn heo giống (ta hay gọi là thức ăn kích dục) từ lúc heo đạt 100 kg. Mọi loại thức ăn dành cho nái rạ, để đề phòng táo bón đều được bổ sung chất xơ vào thức ăn. Trang trại kiểm tra lượng dinh dưỡng và độc tố nấm mốc. Luôn luôn cung cấp thức ăn tốt cho nái, bảo quản thức ăn nơi khô mát… thức ăn phải còn hạn sử dụng

6. Sử dụng heo đực lai: Sử dụng đực giống tốt để đàn heo con có phẩm chất tốt về sau như tỷ lệ nạc, tiêu tốn thức ăn, ít bệnh tật… nên sử dụng các giống như Yorshire, Landrac, Duroc…Con của những con đực này khỏe mạnh, tỉ lệ chết trước cai sữa không quá 4%. Trang trại tự thiết kế các chuồng nái đẻ để bảo vệ nái và con không bị đè tổn thương. Bề rộng của chuồng nái là 1,83 m để khi đẻ nái có thể đứng dậy. Theo quy cách này thì phần heo con 2 bên rộng 46 cm/1 bên để dự trù trường hợp heo bị mẹ đè và số lượng heo con đẻ ra nhiều.

7. Bấm răng: Việc bấm răng heo con giúp nó không cắn vú mẹ và không làm tổn thương các con khác. Việc này phải được thực hiện hết sức chính xác hiện nay cắt răng sau đẻ 24 giờ. Dụng cụ cắt thay ba tuần một lần. Để hạn chế chảy máu phải cắt sát chân răng.

Heo con mới sinh được bấm răng

Cắt đuôi heo con nhằm tránh những vấn đề tiềm ẩn phát sinh về sau do heo cắn đuôi nhau.

Để chống nhiễm trùng và viêm khớp dùng kềm nhiệt để cắt đuôi

8. Hệ thống bú sữa: Theo kinh nghiệm của trại đẻ nếu nái đẻ trên 11 con thì sử dụng hệ thống bú bổ sung rất tốt. Nếu bú bổ sung nái sẽ đỡ mất sức bởi vì nái nuôi càng nhiều con thì phải sản xuất ra càng nhiều sữa. Hệ thống này còn được sử dụng khi có nhiều heo con trọng lượng nhỏ. Cần phải vệ sinh trang thiết bị thường xuyên.

9.An toàn dịch bệnh: Khách khi tham quan trại phải có sự đồng ý trước của người quản lý trại. Đa số khách vào được giới hạn tại khu vực xung quanh văn phòng, hạn chế cho xuống trại. Mọi cửa trại phải được khóa kỹ. Khi xuống trại phải sát trùng ủng. Mọi người làm trong trang trại khi tiếp xúc với heo phải sử dụng găng tay. Một số trường hợp cần phải sử dụng mặt nạ phòng bụi. Kiểm tra huyết thanh bầy heo. Mỗi tháng kiểm tra định kỳ một lần xem có bị PRRS hay Mycoplasma không.

Với những biện pháp như trên, nghề chăn nuôi heo nái sinh sản mang lại hiệu quả thiết thực như: ít dịch bệnh, heo nái chậm loại thải, thời gian đẻ 2,2-2,4 lứa/ năm, heo con sinh ra nhiều trên lứa, tỉ lệ heo con sống đến cai sữa cao, trọng lượng cai sữa lớn. Tăng thu nhập cho các hộ chăn nuôi, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giúp ngành chăn nuôi dần dần theo hướng an toàn trong chăn nuôi và sản xuất thịt sạch…

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Vì sao xuất hiện “Heo lai”?

Từ xưa đến nay, lai giống luôn được xem là một phương pháp nhân giống trong chăn nuôi, nhằm kết hợp những đặc trưng, đặc tính của bố mẹ vào cơ thể mới; nhằm để tái tổ hợp các kiểu gen của bố mẹ với mục đích tạo ra tổ hợp mới, từ đó chọn lựa, bồi dưỡng để tạo ra giống mới. Trong đó, heo lai là một trong những vật nuôi được lai giống từ nguồn nội địa và ngoại nhập tạo được ưu thế lai có giá trị kinh tế cao đáng kể.

Thị trường giống khan hiếm

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tăng giá lợn giống như hiện nay, như: Giá thịt lợn đang tăng, nhu cầu tái đàn, thiếu lượng lợn giống… và khả năng có cả yếu tố “làm giá”.  Khi nguồn nhu cầu thị trường tăng cao, yêu cầu sản xuất cải tiến heo lai càng đòi hỏi tăng theo. Vào thời điểm khủng hoảng giá, giá lợn giống loại 8 – 9kg/con tụt xuống thảm hại và chỉ còn 150.000 – 200.000 đồng/con, bằng 30% giá lợn giống so với giữa năm 2016 nhưng cũng khó tìm được người mua. Nhiều hộ nuôi heo nái vì thua lỗ nhiều đã bán đổ bán tháo đàn heo nái với giá rẻ mạt. Tại các trang trại chuyên sản xuất heo giống, đầu ra cũng bị ứ đọng số lượng lớn.

Ông Nguyễn Đức Thuận (xã Đá Bạc, huyện Châu Đức) cho biết, mấy tuần nay ông phải ra tận Bình Định để tìm nhập giống nhưng đều không có. Ông Thuận cho biết, lấy giống từ các tỉnh khác mức chi phí sẽ cao hơn 30%, tỷ lệ rủi ro cũng nhiều hơn so với lấy giống heo trong tỉnh nhưng vì nguồn cung không đáp ứng đủ cầu nên ông vẫn phải đi mua từ nơi khác.

Chăm sóc lợn nuôi

Các giống heo (lợn) lai nổi trội

Nhằm giúp người chăn nuôi lợn lựa chọn được giống heo tốt, phù hợp với hướng phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại, xin giới thiệu một số loài heo lai nổi trội sau:

Lợn Ba Xuyên

Lợn Ba Xuyên hay heo bông là giống lợn đen đốm trắng xuất phát vùng Ba Xuyên nay thuộc tỉnh Sóc Trăng. Giống lợn này được hình thành từ các giống lợn địa phương lai với lợn Hải Nam, lợn Craonnaise và lợn Berkshire. Lợn Ba Xuyên có khối lượng trưởng thành đạt 120–150 kg, đẻ bình quân 8-9 con/lứa, nuôi con khéo. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc chỉ đạt 39-40%. Lợn Ba Xuyên thường được dùng làm nái nền để lai với đực ngoại tạo con lai nuôi thịt thương phẩm.

Lợn Ba Xuyên

Lợn Thuộc Nhiêu

Đây là con lai giữa lợn Bồ Xụ và lợn Yorkshire ở vùng Thuộc Nhiêu, huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Lợn Thuộc Nhiêu có lông màu trắng, có thể có vài đốm đen nhỏ. Giống lợn này chịu đựng được nhiều điều kiện chăn nuôi kham khổ, có khả năng sử dụng tốt thức ăn nghèo protein, nuôi con khéo, chống chịu bệnh tốt, phù hợp với chăn nuôi gia đình. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc đạt 40-42%. Hiện nay giống lợn này chỉ còn ở vùng sâu, vùng xa, các vùng khác được cải tiến bằng cách lai pha máu với lợn Yorkshire.

Lợn Thuộc Nhiêu

Ưu điểm nổi trội của heo lai

Như vậy câu hỏi đặt ra là: Heo lai có gì nổi trội hơn heo thuần chủng nội địa hoặc nhập ngoại ?

Một xu hướng không thể tránh khỏi là các giống heo nội đang dần được thay thế bởi các heo ngoại cao sản, đặc biệt ở nhiều trại quy mô lớn có trình độ chăn nuôi thâm canh và đầu tư cao. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất nông hộ ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, đại đa số nông dân nuôi con lai giữa nái địa phương và đực ngoại, với các ưu điểm:

  • Khối lượng tăng cao hơn
  • Tỷ lệ phần trăm nạc trong thịt nhiều hơn
  • Chịu đựng được điều kiện nuôi khắc nghiệt
  • Có khả năng sử dụng tốt thức ăn nghèo protein, đặc biệt phù hợp với các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn trên toàn quốc.
  • Nuôi con khéo, chống chọi lại bệnh tật tốt, phù hợp với chăn nuôi gia đình
  • Thường dùng để tạo con lai nuôi thịt thương phẩm.

Như vậy, Các giống heo nái nội có tầm vóc nhỏ bé, nhiều mỡ, ít nạc, nhưng có nhiều đặc tính ưu việt: Chịu kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tận dụng tốt nguồn thức ăn địa phương, mắn đẻ, nuôi con khéo, đề kháng cao với bệnh tật và đặc biệt thích nghi với môi trường khí hậu nước ta. Trong khi đó các giống ngoại lớn nhanh cho nhiều nạc. Lai tạo giữa các giống heo nội với các giống heo ngoại sẽ kết hợp bổ sung những đặc tính tốt của cả 2 giống. Con lai có tầm vóc cải thiện, tăng trọng cao và giữ được năng suất sinh sản tốt.

Vì thế, chúng ta cần phải bảo tồn nguồn gen các giống gia súc, gia cầm địa phương nói chung và các giống heo nội nói riêng và cải thiện tiềm năng di truyền để lai tạo với các giống nhập nội cung cấp con lai phù hợp với điều kiện sản xuất nông hộ trong từng vùng đất nước.

Tổng hợp từ Farm tech Viet Nam

Ngăn chăn bệnh tiêu chảy ở heo con.

Với hệ đường ruột còn non yếu. Các bệnh đường ruột như heo đi phân lỏng, tiêu chảy cấp tính ở heo con… có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân.

  Các nguyên nhân làm heo con bị tiêu chảy thường gặp. 

Do nguồn lây nhiễm chéo từ heo bệnh sang heo lành qua phân, virus, từ ruồi bọ, chuồng trại, máng ăn, lớp độn chuồng hay do nguồn nước nhiễm bẩn làm vi khuẩn gây tiêu chảy xâm nhập hệ tiêu hóa của heo.

Do hàm lượng đạm thô cao hoặc có quá nhiều chất béo trong khẩu phần ăn, làm cho bộ máy tiêu hóa của heo con quá tải.

Cho heo ăn quá nhiều lần, số lượng ăn quá nhiều làm đường ruột xử lý kém hiệu quả.

Do một số loại độc tố nấm mốc như Fumonisin B1, DON… có trong nguyên liệu thức ăn hay máng ăn không được vệ sinh sạch sẽ.

Do chất lượng nước: nước cứng, nước chứa nhiều sắt, nước nhiễm phèn chứa hàm lượng sunfat cao.

  Ngăn ngừa tiêu chảy và cải thiện sức khỏe đường ruột ở heo con.

Để ngăn ngừa tiêu chảy hiệu quả, điều cơ bản là người chăn nuôi cần nâng cao quản lý chăn nuôi bằng các biện pháp an toàn sinh học, giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ. Ngoài ra việc cải thiện sức khỏe đường ruột cho heo con cần phải được đặt làm trọng tâm, nhất là giai đoạn nuôi con cai sữa và bước đầu tập làm quen với thức ăn.

Một số phụ gia thường được sử dụng giúp nâng cao sức khỏe đường ruột, giảm bệnh tiêu chảy khi nuôi nuôi con một cách tự nhiên là:

Chất chống oxy hóa: Bảo vệ tính toàn vẹn, gia tăng chức năng của đường ruột, nâng đỡ nhung mao ruột còn non nớt của heo con trước những tác động làm hao mòn nhung mao.

Chất hấp phụ độc tố nấm mốc: Giúp ngăn ngừa, ức chế tác hại của độc tố nấm mốc gây ảnh hưởng đến thành ruột và khả năng tiêu hóa của heo con.

Hỗn hợp Axit hữu cơ: Cân bằng vi khuẩn đường ruột, ổn định pH nhằm ngăn ngừa và tiêu diệt vi khuẩn gây hại, kích thích hấp thu dinh dưỡng tốt hơn.

Hỗn hợp tinh dầu thiết yếu: Có tác dụng kìm khuẩn và diệt khuẩn rất tốt, tăng cường chuyển hóa chất dinh dưỡng và giảm rối loạn tiêu hóa thông qua kích thích tiết enzyme nội sinh.

  quản lý chăm sóc.

Quản lý tốt nguyên liệu,nắm rõ thành phần dinh dưỡng trong từng loại, từng đợt nguyên liệu, phòng ngừa nguyên liệu kém chất lượng làm các chất dinh dưỡng bị biến chất, hoặc nhiễm độc tố nấm mốc gây hại cho đường ruột của heo con. Hiện tại, nhiều loại máy móc và phương pháp tiên tiến như NIR, HPLC, Quick scan… cho phép người thu mua và người làm công thức ngày nay có thể nắm rõ thành phần, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu, thiết kế những công thức cám heo con hữu hiệu và tối ưu nhất về chi phí, lại ngăn ngừa được những rủi ro gây ảnh hưởng sức khỏe đường ruột của heo con.

Khẩu phần cám heo con là loại có nhiều rủi ro khi thực  hiện việc tổ hợp công thức do hệ tiêu hóa của heo con rất nhạy cảm. Bên cạnh cân bằng thành phần các nguyên liệu thô làm cơ sở cho việc cung cấp năng lượng và dinh dưỡng cho chúng, vai trò của các thành phần bổ trợ như axit béo, vitamin, khoáng, men tiêu hóa… là không thể thiếu.

 

 

Nguồn: Tổng hợp lại bởi Farmtech VietNam.

 

Kỹ thuật chăn nuôi heo thịt quy mô công nghiệp.

Hiện nay chăn nuôi heo thịt theo quy mô công nghiệp đang được bà con chăn nuôi áp dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình nuôi heo công nghiệp

Hiện nay, phong trào chăn nuôi lợn công nghiệp đang ngày càng phát triển ở nước ta. Để tạo ra năng suất vật nuôi, hiệu quả kinh tế thì phải xác định được phương hướng, hình thức chăn nuôi, quy mô, cách chế biến thức ăn, cách phòng và điều trị bệnh hiệu quả. Vậy kỹ thuật chăn nuôi heo công nghiệp là như thế nào?

  Xây dựng chuồng trại chăn nuôi.

Khi xây dựng chuồng trại nên chọn khu đất cao, khô ráo. Chuồng trại phải đủ độ ấm vào mùa đông, độ thoáng mát vào mùa hè.

Chọn hướng chuồng thích hợp, không nên chọn hướng ánh nắng trực tiếp mặt trời, hướng gió lùa mưa tạt.

Thiết kế chuồng cho heo công nghiệp thuận tiện trong việc cung cấp thức ăn, nước uống để không làm mất thời gian, lãng phí nguồn chất dinh dưỡng.

Chuồng trại phải đảm bảo an toàn vệ sinh khử trùng sạch sẽ. Không nên nhốt lợn vào chuồng đã chăn nuôi heo có bệnh để tránh tình trạng lây nhiễm các dịch bệnh.

  Con giống.

Chọn con giống có năng suất và chất lượng cao, phù hợp điều kiện chăn nuôi, có lý lịch rõ ràng, khỏe mạnh, có ngoại hình đặc trưng của giống. Ngoài ra:

Heo đực: Bụng thon, gọn, chân sau thẳng, cứng. Hai tinh hoàn to đều, treo không quá cao hoặc quá thấp, da tinh hoàn trơn láng, không nhăn nheo. Người chăn nuôi thường chọn giống heo Duroc, Pietrain.

Heo nái hậu bị: Bụng tròn,  gọn, mông nở, mình thon, không quá béo hay quá gầy. Có số vú từ 12 – 16 vú, các vú to đều, khoảng cách các vú đều nhau, nên chọn hậu bị có hàng vú từ 1 tầng đến 2 tầng. Âm môn hình quả đào, to, mẩy…

Xu hướng chăn nuôi hiện nay thường chọn các giống nái siêu nạc như: Heo Yorkshire, heo Landrace.

  Cách chăm sóc nuôi dưỡng. 

Heo mang về nuôi thì để tránh việc xô xát nên cho tách riêng heo cũ. Tắm rửa cho heo sạch sẽ, thời gian đầu cho heo ăn lượng thức ăn ½ với nhu cầu hàng ngày, khi nuôi heo được 3 ngày tuổi thì cho heo ăn no. Sử dụng cùng một loại thức ăn. có 2 phương pháp phổ biến cho heo thịt siêu nạc ăn.

Cung cấp đầy đủ lượng thức ăn hàng ngày đáp ứng cho nhu cầu phát triển, sinh trưởng của heo tốt nhất. Chính vì vậy mà lượng thức ăn hàng ngày cao với khẩu phần chia thành nhiều bữa.

Kết hợp giữa nguồn thức ăn công nghiệp và nguồn thức ăn tự chế biến như các loại bột cám, ngô, khoai, các loại rau như khoai, muống..các loại củ quả..để heo tăng tỷ trọng cao.

Vệ sinh sạch sẽ nguồn thức ăn cung cấp cũng như nguồn nước sạch cho heo.

Để mọi hoạt động của heo không bị xáo trộn cũng như ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng, sức khỏe của đàn heo cần vệ sinh chuồng trại, các vật dụng chăn nuôi cũng như khu vực xung quanh sạch sẽ, đảm bảo độ thoáng mát, đầy đủ ánh sáng, oxy cho heo.

Quan sát, kiểm tra định kỳ mọi hoạt động diễn biến bất thường của từng con heo để có biện pháp phòng chống kịp thời. Kiểm tra tất cả số lượng đầu vào, đầu ra, thành phần, hàm lượng thức ăn…để có sự điều chỉnh thích hợp.

Nguồn chất dinh dưỡng trước khi cho heo sử dụng cần kiểm tra đầy đủ đảm bảo tiêu chuẩn.

  Phòng điều trị bệnh. 

Để đảm bảo heo phát triển khỏe mạnh việc đầu tiên chính là phải vệ sinh sạch sẽ mọi vật dụng chăn nuôi, khu vực chăn nuôi và chuồng trại.

Nguồn thức ăn nước uống cũng cần được đảm bảo. Không nên cho những thức ăn ôi thiu, bị mốc hoặc quá hạn sử dụng để tránh tình trạng dịch tả.

Nên theo dõi định kỳ, ghi chép sổ sách về số lượng heo đầu vào, đầu ra, tỷ trọng heo tăng trưởng theo chu kỳ, số lượng thành phần thức ăn cũng như các loại vacxin tiêm phòng.

Quan sát nếu có biến chứng khác thường để đưa ra biện pháp phòng tránh kịp thời. Theo chu kỳ tiêm đầy đủ các loại vacxin phòng chống bệnh dịch tả, giun sán, lở mồm, long móng, thương hàn…đảm bảo cho đàn heo khỏe mạnh, năng suất cao.

 

 

Nguồn: Tổng hợp lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi lợn trên đệm lót – cách để bảo vệ môi trường

Ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi lợn đang là nỗi bức xúc đối với các cơ quan chức năng và cả người chăn nuôi. Để xử lý vấn đề này, Trung tâm thông tin và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ Bình Thuận đã triển khai mô hình chăn nuôi lợn trên đệm lót lên men tại huyện Đức Linh. Mô hình này bước đầu được người dân quan tâm thực hiện vì hiệu quả thiết thực của nó.

Ông Trương Văn Hòa, xã Đức Hạnh, Đức Linh, Bình Thuận, hộ đầu tiên thực hiện mô hình cho biết trước đây, với đàn lợn khoảng 100 con, gia đình ông gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý chất thải. Nhiều biện pháp xử lý đã được thực hiện nhưng hiệu quả không như mong muốn. Từ khi sử dụng nền chuồng lợn là đệm lót lên men, mùi hôi không còn, tiết kiệm được nước do không phải rửa chuồng và giảm đáng kể công quét dọn phân lợn. Đệm lót từ 1-2 ngày mới đảo một lần để vi sinh vật phân hủy phân và nước tiểu gia súc…

Với cách làm này, chi phí cho mỗi con lợn nuôi thịt giảm khoảng 400.000 đồng. Lứa lợn đầu tiên khi áp dụng mô hình khiến gia đình rất phấn khởi vì xử lý được vấn đề quan trọng nhất là chất thải và công quét dọn.

Chăn nuôi lợn

Làm đệm lót rất đơn giản, nguyên liệu là bột bắp, mùn cưa, trấu… thay cho ximăng. Người nuôi chỉ cần tưới nước cho nền ướt, tưới dịch men và rắc phấn cám trộn với men vi sinh, sau đó trộn cho đều, dùng nilon đậy lại; sau 2-3 ngày, lấy tấm nylon ra và xới lên, để 1 giờ sau thì thả lợn vào nuôi.

Với diện tích chuồng nuôi khoảng 20m2, chi phí làm đệm lót khoảng 3 triệu đồng.

Đệm lót có thời gian sử dụng khoảng 4 năm cho nhiều lứa lợn. Sau giai đoạn nuôi, đệm lót trở thành phân bón cho cây trồng.

Cách làm này còn giúp giữ ấm cho vật nuôi do đệm lót luôn luôn ấm bởi nhiệt từ hoạt động của hệ men vi sinh.

Ông Huỳnh Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm thông tin và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ Bình Thuận cho biết chăn nuôi lợn trên đệm lót là giải pháp hiệu quả, góp phần hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí cho chăn nuôi do tận dụng được một lượng lớn phế phẩm nông nghiệp như mùn cưa, vỏ trấu, thân cây bắp…

Đây là lần đầu tiên ngành chăn nuôi Bình Thuận áp dụng một phương pháp mới. Cách làm này đơn giản, chi phí thấp nhưng hiệu quả mang lại cao, đặc biệt là giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. Thời gian tới, trung tâm sẽ hỗ trợ để nhân rộng mô hình này cho đông đảo người chăn nuôi trong tỉnh thực hiện.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam