Kỹ thuật ấp trứng ngan

Ấp trứng ngan giống như ấp trứng gà, trứng vịt. Tuy vậy ấp trứng ngan có một số yêu cầu về chế độ ấp riêng, do đặc điểm cấu tạo của trứng ngan có khác chút ít so với trứng gà, trứng vịt đó là vỏ dày hơn, ít lỗ khí hơn, số ngày ấp kéo dài hơn (35 ngày).

Ngan ấp trứng tự nhiên

1. Chọn trứng ấp cho ngan

– Trứng để ấp chọn những quả vỏ sạch sẽ không dính phân, bùn, không dập vỡ. Khối lượng trứng từ 65-75 g.

Trứng ngan không tròn quá cũng như không dài quá. Không đứt giây chằng không loảng lòng. Soi trứng lên không có dị vật, vết máu.

2. Bảo quản trứng ngan

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng trứng bảo quản

+ Nhiệt độ: Cần bảo quản trứng ở nhiệt 15-20°C. Khi nhiệt độ bảo quản lên cao sẽ làm cho phôi phát triển, song nên nhiệt độ không thích hợp sẽ gây chết phôi. Trứng ngan bảo quản trong 7 ngày ở nhiệt độ 28-33°C không ánh hưởng đến kết quả ấp nở. Có thể bảo quản trứng ngan đến 14 ngày ở 18-20°C vẫn cho tỷ lệ nở khá. Cần đảo trứng 1 lần/ngày với góc 180°. Tại các hộ gia đình có thể xếp trứng lên khay (để nằm ngang), nơi thoáng mát không bị hấp thụ nhiệt, không để trứng chồng lên nhau

+ Ẩm độ: Ẩm độ thích hợp trong bảo quản là 75-82%. Ẩm độ thấp sẽ làm trứng bốc hơi nước, ẩm độ cao sẽ làm cho nấm mốc phát triển.

+ Sự giảm khối lượng trứng trong thời gian bảo quản: Trứng ngan bảo quản ở nhiệt độ 25-33°C trong 1 ngày giảm khối lượng 0,81%. Nếu khối lượng giảm hơn 1% tỷ lệ nở sẽ giảm rõ rệt.

+ Các chú ý khác: Xếp trứng trong thời gian bảo quản.Trứng xếp trong khay, để nghiêng 30° hoặc nằm ngang, buồng khí xếp lên trên (đầu tủ), đầu nhỏ cho xuống dưới.

3. Ấp trứng ngan bằng ngan mái (ấp tự nhiên)

Chọn trứng tươi mới đẻ được 7-10 ngày để ấp, trứng để lâu hơn 10 ngày, tỷ lệ ấp nở sẽ giảm. Nếu có nhiều trứng cũng chỉ xếp từ 20-25 quả một ổ cho 1 mái ấp, Xếp nhiều trứng 1 ổ, ngan mái không phủ kín trứng, nhiệt độ ấp các trứng không đều ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ nở

Trong 10 ngày đầu ngan mái tự sản ra nhiệt độ khoảng 38°5, sau đó khoảng 37°8, giảm dần xuống 37°2.

Trong những ngày đầu, con mái không rời khỏi ổ lúc nào, vì vậy cần cho ngan mẹ ăn uống ngay cạnh ổ. Những ngày sau ngan mẹ rời ổ ngày 1 đến 2 ỉần, rồi tăng số lần rời ổ để xuống ăn uống nhiều hơn.

Trong ấp tự nhiên không cần sự can thiệp của con người, chỉ cần chăm sóc con mẹ và bảo quản trứng trong ổ ấp.

Trứng ngan ấp 33-35 ngày thì nở. Những ngan con nở từ ngày 36 trở đi thường yếu không nuôi được. Vì vậy đến hết ngày thứ 35 người ta cho xuống ổ để nuôi ngan con. Tỷ lệ nở trên 90% so với trứng có phôi là đạt yêu cầu.

4. Ấp trứng ngan nhân tạo bằng máy

4.1. Xếp trứng

Xếp trứng ngan vào khay ấp bằng gỗ, xếp trứng nghiêng 30°. Tránh rơi trứng trong quá trình đảo trứng.

4.2. Nhiệt độ, độ ẩm trong máy ấp

Ấp trứng ngan nội

Giai đoạn ấp, nở

Ngày ấp

Nhiệt độ

Độ ẩm (%)

Giai đoạn ấp

1-9

38°2-38°3

64-65

Giai đoạn ấp

10-30

37°6-37°7

55-58

Giai đoạn nở

31-35

37°3-37°4

80-85

Ấp trứng ngan Pháp

Giai đoạn ấp, nở

Ngày ấp

Nhiệt độ

Độ ẩm (%)

Giai đoạn ấp

1-11

38°2-38°5

64-65

Giai đoạn ấp

12-25

37°8-38°

55-57

Giai đoạn ấp

26-30

37°6-37°7

55-57

Giai đoạn nở

31-35

37°4-37°5

80-85

 

– Để điều chỉnh chế độ nhiệt và chế độ ẩm có hiệu quả, tiến hành kiểm tra sự giảm khối lượng trứng trong quá trình ấp. Cân tổng thể 50 quả trứng có đánh dấu để 5 ngày sau lại cân số trứng đó, nếu thấy bình quân giảm 0,38g ở giai đoạn 1, 0,47g ở giai đoạn 2 và 0,36g ở giai đoạn 3, tổng cả giai đoạn đến 30 ngày ấp, giảm 13-14% là lý tưởng nhất. Nếu sự giảm lớn hơn 15% hay nhỏ hơn 12% thì tỷ lệ nở sẽ thấp.

4.3. Đảo trứng ngan

Mục đích của việc đảo trứng là tránh cho phôi khỏi sát vào vỏ, làm cho quá trình trao đổi chết được cải thiện và phôi phát triển tốt, nhất là giai đoạn đầu và giai đoạn giữa.

Trứng được đảo một góc 90° nếu xếp nghiêng, đảo 180° nếu xếp nằm ngang, trứng được đảo 2 giờ/lần. Mỗi ngày đảo 10-12 lần. Nếu 6 ngày đầu không đảo, phôi chết, dính vào vỏ và không di động, sau 13 ngày không đảo, túi niệu không khép kín được, lượng albumin nằm bên ngoài túi niệu dẫn đến tỷ lệ chết phôi cao, mổ vỏ không đúng vị trí, phỏi dị hình ở phần mắt, mỏ và đầu.

4.4. Thông thoáng

Trứng vịt và trứng ngan có khối lượng 70-80 g hấp thụ 9169cm3 (Oz) oxy và thải 6607cm3 cacbonic (CO2), trứng gà hấp thụ 4000cm3 O2 và thải 3536cm3 CO2 Chính vì vậy trong máy ấp luôn phải đảm bảo 21% O2 và không quá 0,04-0,1% khí cacbonic. Nếu khí cacbonic lóm hơn 0,4% sẽ có hại tới sự sinh trưởng và phát triển của phôi thai, gây tỷ lệ chết cao, nồng độ O2 cũng không thể thấp hơn dưới 15%.

Vận tốc gió trong máy ấp 77 cm/giây, tốc độ quạt xấp xỉ 300 vòng/phút với máy ấp. Máy nở vận tốc gió 40-45 cm/giây.

Nếu 8 ngày ấp mà không khí lưu thông không đều sẽ làm phôi phát triển cũng không đều, chỗ nhanh, chỗ chậm. Sau 15 ngày, vị trí phôi không đúng, phôi phát triển không đều và sau 28-30 ngày phôi chết, có hiện tượng xuất huyết. Trong máy ấp, lỗ thông thoáng được mở 1/5 ở những ngày đầu, sau đó nới dần, càng tăng ngày ấp, càng mở rộng. Những ngày cuối, mở toàn bộ đặc biệt là mùa nóng. Mùa đông cần quan tâm đến nhiệt độ môi trường và kiểm tra nhiệt độ máy. Nếu nhiệt độ xuống thấp phải đóng bớt cửa lại. Đối với máy thủ công ngày đầu để hở 3 lồng thoáng, sau đó tháo dần lỗ thoáng ra những ngày cuối mở hết các lỗ thông thoáng.

4.5. Làm mát trứng ngan

Không thể thiếu được chế độ làm mát quá trình ấp trứng thuỷ cầm do cấu trúc vỏ và các thành phần dinh dưỡng bên trong quả trứng.

Quy trình về chế độ làm mát trứng

 

Chế độ quy định

Đơn

vị

Chế độ 1

Chế độ 2

Chế độ 3

Số lần làm mát

Lần

1

2

3

Ngày bắt đầu và kết thúc giai đoạn làm mát

Ngày

thứ

9-31

7-20

21-31

1-14

15-24

25-31

Thời gian làm mát

Phút

9 phút ngày đầu, sau 1 ngày + 1 phút tăng đến 25 phút giữ đến khi ra nở

9 phút ngày đầu,, sau 1 ngày + 1 phút tăng đến 25 phút giữ đến khi ra nở

9 phút ngày đầu,, sau 1 ngày + 1 phút tăng đến 25 phút giữ đến khí ra nở

Thời gian đưa ra làm mát

Giờ

11 giờ sáng

9 giờ sáng 16 chiều

9 giờ sáng 16 giờ chiều 22 giờ đêm

Chế độ 3 cho tỷ lệ ấp nở cao nhất.

4.6. Kiểm tra sinh vật học

Cẩn kiểm tra sinh vật học thông qua soi trứng trong các giai đoạn ấp để biết khả năng phát triển của phôi và khả năng nở của mỗi lứa ấp. Lần 1 lúc 9 ngày, lần 2 lúc 17 ngày, lần 3 lúc 30 ngày.

+ Mục đích kiểm tra

– Xác định được chất lượng sinh học của trứng.

– Cho phép lập chế độ ấp trong những điều kiện cụ thể.

– Xác định được nguyên nhân các đợt ấp kém.

– Định ra phương hướng để nâng cao kết quả ấp nở.

+ Phương pháp kiểm tra

Dùng đèn soi để kiểm tra, loại những quả trứng trắng, trứng chết phôi để tiết kiệm chỗ, tránh ô nhiễm và xác định thời điểm phôi chết để có biện pháp cải thiện chế độ áp hay cải thiện chế độ nuôi dưỡng tránh gây thiệt hại không cần thiết, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Góc xếp trứng ngan: xếp nằm ngang (nếu cần diện tích máy có thể xếp nghiêng 30-45°).

Soi trứng kỳ 1: 9 ngày ấp; kỳ 2: 17ngày ấp; kỳ 3: 30 ngày ấp.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi ngan trên sàn

Ngan thuộc loại thuỷ cầm có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh. Thông thường ngan được nuôi theo phương thức chăn thả. Hiện nay nhiều trại chăn nuôi không có chỗ chăn thả do ô nhiễm nguồn nước hoặc hạn chế bãi chăn thả, vì thế để bảo đảm an toàn trong chăn nuôi và hiệu quả trong sản xuất, nuôi nhốt trên sàn là giải pháp tối ưu.

Chuẩn bị con giống:

Con giống là yếu tố quyết định của thành bại trong chăn nuôi, vì vậy phải chọn con giống khỏe, nhanh nhẹn, không dị tật, không hở rốn.
ngan con 1 tuổi

Chuẩn bị chuồng nuôi:

Tùy theo quy mô chăn nuôi để thiết kế chuồng nuôi cho phù hợp. Diện tích cho sàn nuôi được tính 4 – 5 con/m2 không tính hành lang kỹ thuật, một ô sàn nuôi không nên quá 100 con.

Hệ thống quạt thông gió rất quan trọng đối với nuôi nhốt để khống chế độ ẩm và mùi.
Vì là dòng thủy cầm nên ngan luôn cần nước đủ để uống tự do và phun tắm khi cần thiết.

Nguồn điện luôn chủ động để bảo đảm cho quạt lưu thông gió và duy trì nguồn nước.

Chuẩn bị quây úm:

Khi úm ngan nên sử chất độn chuồng là rơm hoặc dạ băm nhỏ, phun thuốc sát trùng và để khô trước khi sử dụng ngoài ra có thể úm ngan trên sàn nhựa lỗ nhỏ tránh cho ngan lọt chân xuống.


Phun sát trùng chuồng trại, rửa sạch dụng cụ chăn nuôi, máng ăn, máng uống có pha thuốc sát trùng, làm sạch phơi khô trước khi nuôi 2 tuần. Chuồng nuôi phải thoáng mát, đủ ánh sáng, không có gió lùa.

Trước khi đưa ngan con vào phải sưởi ấm chuồng.

Nhiệt độ chuồng nuôi:

Để đảm bảo cho ngan mạnh khoẻ nhiệt độ chuồng nuôi khi ngan:

Từ 1 – 3 ngày tuổi phải đạt 31 – 320 C .

Từ 4 – 8 ngày tuổi phải đạt 29 – 300 C.

Từ 9 – 13 ngày tuổi phải đạt 27 – 280 C.

14 – 28 ngày tuổi phải đạt 25 – 260 C

(Nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao ngang đầu ngan).
Trên 28 ngày ngan sống trong điều kiện tự nhiên.

Ẩm độ không khí:

Ẩm độ thích hợp cho ngan con là 60 – 70%, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có khi lên tới 80 – 90%. Khi độ ẩm cao cần phải đảo chất độn chuồng và cho thêm chất độn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan ấm chân và sạch lông.
chuẩn bi chuong nuoi

Mật độ và độ lớn của đàn:

Hai yếu tố mật độ và độ lớn của đàn tác động trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu đàn nhỏ có thể tăng mật độ và ngược lại.

Tuần 1, mật độ từ 20 – 25 con/m2

Tuần 2, mật độ từ 10 – 15 con/m2

Tuần 1, mật độ từ 6 – 7 con/m2

Giai đoạn tuổi hình thức nuôi mật độ tối đa 5 con/ m2 (không tính diện tích hỗ trợ kỹ thuật).

Chế độ chiếu sáng:

Tuần thứ 1 chiếu sáng 24/24 giờ.

Tuần thứ 2 chiếu sáng 20/24 giờ.

Tuần thứ 3 chiếu sáng 16/24 giờ.

Từ tuần 4 trở lên ngan sống trong điều kiện ánh sáng tự nhiên.

Không khí:

Lượng cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng.

Lượng không khí trao đổi phải đảm bảo sạch cho những khí thải của phân được đưa ra ngoài và nhiệt độ cần cho ngan ở mức cho phép.

Trong giai đoạn ngan con 1 – 14 ngày tuổi, tốc độ gió không được quá 0,3 m/s

Nước uống:

Đảm bảo sạch và ngan được uống nước tự do, ở tuần tuổi thứ nhất không cho ngan uống nước lạnh dưới 150 C.

Thức ăn và nuôi dưỡng

Thức ăn cho ngan tốt nhất là dùng thức ăn công nghiệp của các công ty có uy tín cung cấp, chia làm 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1 – 21 ngày tuổi: Thức ăn đạt 20% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.

+ Giai đoạn 22 – 56 ngày tuổi: Thức ăn đạt 16% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 Kcal.

Ngan thương phẩm thức ăn đạt 15% đạm tiêu hoá, năng lượng 3.000 kcal.

Kỹ thuật cho ăn

Trước khi cho ngan ăn phải dọn máng, quét bỏ những thức ăn thừa, hôi, thối và mốc, cho ngan ăn làm nhiều lần trong ngày để tránh rơi vãi và ôi chua, tách những con nhỏ cho ăn riêng để ngan phát triển đồng đều.

Đối với ngan nuôi thương phẩm cho ngan ăn tự nhiên.

11. Kiểm tra ngan

Trạng thái đàn ngan cho phép đánh giá về sức khoẻ ngan, hàng ngày thường xuyên kiểm tra.

– Ngan con phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ đàn ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong chuồng đạt yêu cầu.

– Ngan con dồn đống là do lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.

– Ngan con nằm há mỏ, cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao.

– Ngan không chơi hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.

– Ngan bị bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.

Lịch vaccine

Từ 7 – 10 ngày tuổi tiêm vaccine phòng bệnh viêm gan.

Từ 12 – 14 ngày tuổi tiêm vaccine phòng bệnh dịch tả.

Từ 32 – 35 ngày tuổi tiêm vaccine phòng bệnh dịch tả.

Từ 42 – 45 ngày tuổi tiêm vaccine phòng bệnh viêm gan.

Trước đẻ ngày 3 tuần tiêm vaccine phòng bệnh dịch tả.

Chú ý: Vaccine cúm H5N1 tham khảo ý kiến thú y địa phương.

* Vaccine viêm gan, dịch tả, ngan, vịt: nếu bố mẹ chưa tiêm thì nên tiêm vaccin viêm gan lúc 1 ngày tuổi.

Tiêm, vaccine dịch tả vịt vào 3 – 5 ngày tuổi và nhắc lại sau 2 tuần (loại dùng cho các lứa tuổi vịt).

(Có 2 cách, tiêm dưới da, hoặc bắp ức).

* Vaccine dịch tả vịt: Vịt nuôi đẻ, vaccine dịch tả được tiêm nhắc lại 4 – 5 tháng/lần.

* Có thể tiêm vaccine vào ổ dịch để dập dịch.

* Cần chủ động kiểm soát sức khoẻ vịt khi tiêm vaccine. Làm đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.

* Cần nắm vững và làm đúng hướng dẫn của nhà nhà sản xuất thuốc, vaccine.

Nguồn: Nguoichannuoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn Kỹ thuật chăn nuôi Ngan thịt chất lượng cao

Giống Ngan thịt sinh trưởng và phát triển nhanh, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng thấp. Tỷ lệ nuôi sống cao, bộ lông phát triển bình thường.

So với giá trị kinh tế với các loại thương phẩm khác thì Ngan là loài gia cầm có sự ổn định giá trong nhiều năm liền mà chưa hề rớt giá. Trong bài viết này Fman sẽ hướng dẫn bà con tổng hợp các nguồn kiến thức hữu ích áp dụng trong kỹ thuật chăn nuôi Ngan thịt.

Kỹ thuật chăn nuôi ngan

1. Chuẩn bị dụng cụ chuồng trại

Chuồng nuôi: Chuồng nuôi và dụng cụ phải rửa sạch sẽ, trống chuồng trước khi nuôi 15 – 20 ngày . Cần được xử lý theo qui trình vệ sinh thú y, quét hoặc rắc vôi đặc 40%, khử trùng bằng formol 3% từ 2 – 3 lần. Trước khi xuống ngan con 1 – 2 ngày, phun khử trùng lần cuối cùng (đóng kính cửa để phun sau 5h đến 7h mới mở ra).

Máng ăn: Dùng máng ăn bằng tôn có kích thước 70 cm – 2,5 m sử dụng cho 70 – 100 con 1 máng.

Máng uống:

+ Giai đoạn 1-2 tuần tuổi sử dụng máng uống tròn loại 2 lít.

+ Giai đoạn 3-12 tuần tuổi sử dụng máng uống tròn loại 5 lít, dùng cho 20-30 con 1 máng đảm bảo cung cấp 0,3-0,5 lít nước mỗi con 1 ngày, đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho ngan.

Chụp sưởi: Có thể dùng hệ thống lò sưởi hoặc bóng điện đảm bảo cung cấp nhiệt cho đàn con. Dùng bóng điện 75W 1 quây (60 – 70 ngan). Mùa đông 2 bóng 1 quây, ở nhiều nơi không có điện dùng bếp than lò ủ trấu v.v… Cần hết sức chú ý phải có ống thông khí thải của bếp trấu và lò ủ trấu ra ngoài chuồng. Nếu không hàm lượng khí độc cao gây ảnh hưởng tới sức khoẻ đàn ngan.

Quây ngan: Dùng cót ép làm quây, chiều cao 0,5m; dài 4,5; sử dụng cho 60-70 con 1 quây, từ ngày thứ 5 tăng dần diện tích quây để cho ngan vận động, ăn uống. Từ cuối tuần thứ 3, đầu tuần thứ 4 trở đi bỏ quây để cho ngan vận động, ăn uống được thoải mái.

Rèm che: Dùng vải bạt, cót ép hoặc phên liếp che xung quanh chuồng nuôi ngan con để giữ nhiệt và tránh gió lùa.

Chất độn chuồng: Chất độn chuồng phải đảm bảo khô, sạch, không ẩm mốc sử dụng phôi bào, trấu, nếu không có dùng cỏ rơm khô băm nhỏ v.v…phun thuốc sát trùng bằng formol 2%. Chất độn chuồng nuôi ngan phải thay thường xuyên.

Sân chơi: Cần có sân, hoặc vườn với mương nước sạch cho ngan vận động và tắm từ giữa tuần thứ 3 trở đi. Hàng ngày rửa thay mương nước 2 lần đảm bảo ngan luôn được tắm nước sạch.

Chọn ngan giống: Chọn Ngan nở đúng ngày (từ ngày 34 và 35) khoẻ mạnh nhanh nhẹn. Lông bông, mắt sáng, bụng gọn, chân mập, có màu lông tơ đặc trưng của giống. Nên tách ngan trống, ngan mái nuôi riêng từ lúc 1 ngày tuổi. Ngan R31: lông màu vàng chanh, có phớt đen ở đuôi, ngan R51: lông màu vàng hoặc rơm, chân và mỏ màu hồng, có hoặc không có đốm đen trên đầu. Ngan siêu nặng: Lông màu vàng, vàng rơm có hoặc không có đốm đen trên đầu, chân và mỏ màu hồng.

2. Mật độ

Tuỳ thuộc vào điều kiện chăn nuôi, mùa vụ và khí hậu mà quyết định mật độ chuồng nuôi. Mật độ vừa phải thì Ngan sinh trưởng và phát triển tốt và hạn chế được sự lây nhiễm bệnh tật. Từ 0-4 tuần tuổi: 15-20 con trên m2 nền chuồng. Từ 9-12 tuần tuổi: 5-7 con trên m2 nền chuồng cộng với diện tích sân chơi bằng 2 lần diện tích nền chuồng.

3. Nhiệt độ và chế độ chiếu sáng

Ngan không tự nhiên điều chỉnh được thân nhiệt trong 2 tuần đầu mới xuống chuồng. Do vậy cần được đảm bảo được nhiệt độ cho ngan, nếu nhiệt độ không thích hợp thì tỷ lệ nuôi sống, khả năng sing trưởng bị ảnh hưởng, ngan dễ mắc bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá.

Khi đủ ấm ngan nằm rải đều trong quây, khi thiếu nhiệt ngan nằm chồng lên nhau sát vào nguồn nhiệt. Nếu thừa nhiệt ngan nằm tản ra nguồn nhiệt nhào nhác khát nước. Ngan con cần chiếu sáng 24 trong ngày, ban ngày lợi dụng ánh sáng tự nhiên đảm bảo cường độ chiếu sáng 3W 1 m2 nền chuồng.

4. Thức ăn và phương pháp cho ăn

Thức ăn: Phải bảo đảm được thức ăn luôn mới, thơm, không bị mốc mọt. Thức ăn cần phải cân đối về thành phần dinh dưỡng để đáp ứng đủ về nhu cầu sinh trưởng và phát triển của ngan trong từng giai đoạn, sử dụng nhiều loại nguyên liệu và thức ăn bổ sung động vật, thực vật, premix khoáng và vitamin.

Phương pháp cho ăn:

Với mục đích của người chăn nuôi là ngan lớn nhanh nên lượng thức ăn đảm bảo thoả mãn được nhu cầu của ngan. Như vậy không có nghĩa là cứ cho ăn tự do ở mức lúc nào trong máng cũng có thức ăn, như vậy thức ăn sẽ bị ôi thiu, ẩm mốc. Thức ăn của ngan giảm đi gây ảnh hưởng tới sinh trưởng, thậm chí gây bệnh cho ngan. Để ngan ăn được nhiều, hiệu quả chuyển hoá thức ăn tốt cần cho ăn như sau: Cho ngan ăn theo bữa, hết thức ăn mới cho ăn tiếp. Việc để cám thường xuyên mới và mùi thơm của cám sẽ kích thích được ngan ăn nhiều, đồng thời tránh cho ngan mổ cắn nhau.

Từ 5-12 tuần tuổi có thể cho ngan ăn thêm rau xanh. Để có căn cứ cho các nhà sản xuất lập kế hoạch chuẩn bị thức ăn nuôi ngan. Kỹ thuật chăn nuôi Ngan thịt rất đơn giản nếu các bà con lưu ý được các vấn đề quy trình chăm sóc và giám sát các loại bệnh thường gặp phổ biến ở ngan.

Nguồn: Trangtraivac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vươn lên từ nuôi tằm trứng

Người nông dân không chỉ nuôi tằm bán kén, mà còn nuôi tằm trứng cung cấp giống. Bà Đỗ Thị Hoa, thôn Đức Thành, xã Hoài Đức, Lâm Hà là người chuyên nuôi tằm trứng để bán lấy con.

Bà Đỗ Thị Hoa vốn là người gắn bó với nghề tằm tang từ lâu. Trước đây, người nuôi tằm phải tự mua trứng về cho nở tằm con, rồi nuôi trưởng thành, thời gian lâu và tỷ lệ hao hụt khá lớn. Nghề tằm phát triển, việc ấp nở, nuôi tằm con được chia ra thành từng khâu riêng biệt so với nuôi tằm lớn.

Bà Hoa chính là nông hộ được các đại lý thu mua kén và cung cấp giống “đặt hàng” chuyên nuôi tằm trứng cung cấp giống cho hàng trăm nông hộ trong vùng lân cận. Bà Hoa bảo: “Nuôi tằm trứng cũng như nuôi trẻ, cần kỹ lưỡng, sạch sẽ và cẩn thận, đảm bảo tằm khỏe mạnh, ăn ngủ tốt, đến tay người nuôi với tỷ lệ sống cao, cho kén có sản lượng ổn định”.

Bà Hoa nuôi tằm trứng theo hình thức gối đầu, mỗi tuần nuôi một lứa, mỗi lứa 30-40 hộp trứng. Vậy là mỗi tháng bà nuôi trung bình 140-150 hộp trứng, số lượng tằm con đủ cung cấp cho hàng trăm hộ trong vùng.

Bà Hoa kiểm tra nong tằm con.

Nuôi tằm ăn cơm đứng, nuôi tằm trứng càng vất vả, thời gian rất khắt khe. Bà Hoa chọn nuôi tằm trên nong lớn có trải miếng nilon để giữ ấm tằm và giữ dâu tươi lâu. Mỗi ngày, tằm được cho ăn 4 lần, kích thước lá dâu phụ thuộc vào tuổi tằm, tằm càng nhỏ tuổi lá dâu càng thái nhỏ hơn. Hàng ngày, người nuôi dọn phân, san tằm để đảm bảo sạch, khỏe và phát triển đều. Xử lý tằm ngủ cũng là khâu quan trọng vì đảm bảo tằm ăn, ngủ đều ở các tuổi, sẽ dễ nuôi, chín tập trung, ít bệnh tật.

Khi chuẩn bị ngủ, tằm bóng vàng, đầu ngẩng, ít vận động, ăn ít dần, ngủ rồi lột xác chuyển sang tuổi sau, phải chú ý hạn chế ánh sáng, gió lùa, tiếng ồn để tằm ngủ. Mỗi lứa tằm nuôi từ trứng tới ngủ tuổi ba là 12 ngày. Sau khi tằm ngủ tuổi ba thì giao cho đại lý kén, họ giao lại cho người nuôi tằm.

Người nuôi tằm nhập tằm con về là tằm vào tuổi ăn tư, dễ nuôi, ít chết, 17 ngày sau sẽ kéo kén. Bà Hoa bảo, mình nuôi ra tằm con cho bà con nuôi tằm lấy kén, làm sao để con tằm khỏe, bà con “thắng” là trách nhiệm, đồng thời cũng là mong mỏi của mình.

Hơn 20 năm, bà Đỗ Thị Hoa gắn bó với nghề nuôi tằm trứng. Cùng thời gian, kinh nghiệm ngày càng nhiều, bà Hoa cũng áp dụng thêm nhiều công cụ để công việc bớt vất vả. Vườn dâu nhà bà gồm 7 sào trồng giống S7-CB và VA 201, giống dâu siêu cao sản phục vụ đủ cho nhu cầu của gia đình. Để giảm bớt công lao động, bà Hoa sử dụng máy thái dâu cho tằm ăn. Loại máy này có điểm hay là có thể điều chỉnh lưỡi để dâu được thái to, nhỏ theo ý của người nuôi tằm. Một hộp trứng giống có giá 250.000 đồng, sau 12 ngày tằm ngủ tuổi ba, giao lại cho đại lý với giá 320.000 đồng/hộp.

Mỗi tháng, thu nhập từ nuôi tằm trứng của gia đình bà Hoa cũng đạt mức trên 10 triệu đồng, cao điểm thu trên 20 triệu. Anh Nguyễn Bá Hà, khuyến nông viên của xã Hoài Đức nhận xét, hộ bà Đỗ Thị Hoa là nông hộ có kinh nghiệm nuôi tằm trứng, tằm con đạt sản lượng cao, được đại lý và bà con nghề tằm tín nhiệm. Gia đình bà Hoa cũng tận dụng rất tốt sức lao động trong mùa nông nhàn, phát triển kinh tế gia đình, đồng thời cung cấp tằm giống có chất lượng cho bà con vùng tằm Hoài Đức.

Nguồn: Zing.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nghệ nhân điều khiển để tằm tự nhả tơ, dệt lụa

Gắn bó với nghề tơ tằm hơn 40 năm, trải qua bao thăng trầm, nghệ nhân Phan Thị Thuận – xã Phùng Xá, Mỹ Đức, Hà Nội – đã luôn miệt mài tìm tòi, sáng tạo và ý tưởng bắt những con tằm tự nhả tơ dệt chăn “độc nhất vô nhị” đã giúp sản phẩm của bà được thế giới biết đến.

Trái với xưởng dệt lụa thông thường với những tiếng lạch cạch rộn vang của những chiếc máy, xưởng dệt rộng 500m2 của bà Thuận khá yên tĩnh. Bởi tại đây, trong số nghìn “người thợ” miệt mài làm việc chỉ có 20 con người.

Bán đất, bán xưởng vẫn phải giữ nghề

Sinh ra trong gia đình với nghề truyền thống ươm tơ dệt lụa, nghề tơ tằm đã “thấm vào máu, ươm vào thịt” nghệ nhân Phan Thị Thuận. Chả thế mà sau bao thăng trầm của nghề, khi nhiều người trong làng chuyển sang làm nghề khác thì bà vẫn miệt mài với nghiệp dâu tằm.

Nhớ lại thời kỳ khi Xí nghiệp ươm tơ Mỹ Đức chuẩn bị phá sản, bà không khỏi bồi hồi: Ở Phùng Xá khi đó không còn ai trồng dâu nuôi tằm, ngày nào tôi cũng một mình đạp xe gần 30km lên Nông trường Thanh Hà (Kim Bôi, Hòa Bình) thu mua lá dâu về cho tằm ăn. “Tôi không nhớ mình đã đi bao nhiêu tỉnh, thành, đến bao nhiêu nhà máy, xí nghiệp ươm tơ, ở đâu có nghề trồng dâu nuôi tằm là tôi tìm đến học hỏi, cốt sao giữ được nghề”.

Những tưởng đã vực dậy được nghề khi những năm 1987-1988, cả huyện Mỹ Đức có khoảng 200 máy ươm tơ mini, bà được tỉnh Vĩnh Phúc mời lên để phát triển nghề tơ tằm. Bà cười buồn nhớ lại: “Bao tiền dành dụm, tiền bán đất tôi đầu tư nhà xưởng, vùng nguyên liệu nhưng không phát triển được”.

Nghệ nhân Phan Thị Thuận đang cần mẫn điều khiển tằm tự dệt. 

Quyết định bán nhà xưởng ở Vĩnh Phúc, quay trở về quê hương, gần như bắt đầu lại từ đầu khi tuổi đã gần 60. “Tôi phải đến từng hộ nuôi tằm, thuyết phục họ làm cho mình và phải đảm bảo giá mua tằm ổn định trong 10-20 năm. Nhà nào cần lúa ăn trong một năm, tính ra bao tiền tôi ứng trước để họ yên tâm làm. Có như thế họ mới làm cho mình”.

Từ ý tưởng “gàn dở”…

Quay trở về cũng là lúc nghề tơ tằm bắt đầu đi xuống, hoạt động cầm chừng. Bà nghĩ chỉ có tạo ra được sản phẩm có thể xuất khẩu thì ngành tơ tằm mới tồn tại được. “Nhiều lần ngồi quan sát con tằm làm tơ, đan kén, tôi nghĩ tại sao mình không cho con tằm tự dệt, biến nó thành người thợ cho mình” – bà Thuận nói về ý tưởng “tằm tự đan”.

Lúc bà đưa ra ý tưởng này, không ai nghĩ có thể làm được bởi tập tính của con tằm là làm kén, bây giờ bắt nó tự nhả tơ đan trên một mặt phẳng là điều không tưởng.

“Khi bắt đầu làm, chồng tôi có nói rằng thôi đừng làm nữa. Bây giờ mình già rồi, còn quãng thời gian cuối đời chỉ làm mà ăn chứ không vực nổi nghề tờ tằm đâu” – bà nhớ lại và cho biết đã bỏ ngoài tai mọi điều can ngăn, gạt tất cả mọi người sang bên và vẫn quyết tâm làm.

“Tôi lăn lộn một mình dưới xưởng. Tất cả máy dệt xếp gọn một chỗ. Ai cũng bảo tôi điên, tôi hâm, gàn dở. Chồng giận, con bỏ đi làm nghề khác vì cho rằng tôi đâm đầu vào ngõ cụt; nhưng tôi nghĩ mình không bao giờ đi vào ngõ cụt. Bởi khi tôi làm điều gì tôi phải biết chắc mình sẽ làm được, biết chắc cách đi đến thành công” – ánh mắt bà Thuận bừng sáng khi nhớ lại tháng ngày vượt lên khó khăn của mình.

… Đến sản phẩm độc nhất vô nhị

Trong 2 năm thử nghiệm đầu tiên, gần như mỗi ngày bà chỉ ngủ 1 tiếng vì phải túc trực 24/24h điều chỉnh để tằm nhả tơ tự do mà không tìm tổ để cuộn kén. Cái khó là làm sao để con tằm vẫn nhả tơ trên một mặt phẳng và có thể sắp xếp chúng đúng vị trí vì vốn dĩ tằm sẽ bò lung tung trên mặt phẳng theo bản năng.

“Tôi kiên trì ngồi bắt từng con sao cho khi nhả, tơ con nọ đan vào tơ con kia thành lớp nang dày như những chiếc kén được cán phẳng mà không cần đan, không cần dệt như các phương pháp truyền thống trước đây” – bà nói. Sau nhiều thất bại, tấm nang do con tằm tự đan đã hoàn thành.

Nếu như trước đây khi là con kén thì dùng phương pháp ươm để tách hồ, nhưng khi thành tấm nang vàng thì thật sự là bài toán khó. Bà mất thêm một năm để nghĩ cách làm sao biến tấm nang đó thành sản phẩm tiêu dùng. Bà dùng phương pháp tẩy chuỗi với một công thức bí truyền. Tuy nhiên, với những ai tâm huyết muốn học nghề, bà sẽ truyền dạy.

Nghệ nhân Phan Thị Thuận đang giới thiệu sản phẩm chăn bông tơ tằm tự dệt.

Tấm kén sau khi được đun trong 3-4 giờ để tan hết keo tơ vàng sẽ thành một tấm bông tơ tơi xốp, có độ liên kết bền chắc mà không có máy móc hay bàn tay con người nào có thể làm ra được.

Bà Thuận cho biết, trung bình tằm khỏe mạnh có thể nhả sợi tơ dài 400-500m/con, con yếu hơn thì khoảng 300m/con. Thời gian hoàn thành tấm nang tơ là 4-6 ngày.

“Cứ 30kg tằm sẽ cho ra một tấm mền bông hoàn chỉnh nặng 1kg. Để thu được sản phẩm ruột bông nặng 2kg, chỉ cần 6 nhân công và thời gian tính từ lúc tằm chín đến khi ra sản phẩm chỉ mất 6 ngày, giá trị kinh tế hơn hẳn so với phương pháp truyền thống. Phương pháp này giúp tiết kiệm lượng lớn chi phí thuê nhân công và không mất vốn đầu tư máy móc, chất lượng sản phẩm được cải thiện rõ rệt” – bà Thuận nói.

Hiện sản phẩm chăn bông tơ tằm tự đan đã được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước biết đến như Đức, Bỉ, Australia, Anh, Mỹ… Điều mà nữ nghệ nhân này vẫn đau đáu là nhận được sự ủng hộ của địa phương để có thể mở rộng thêm diện tích và truyền nghề được cho nhiều thế hệ kế tiếp.

Nguồn: Khoa học và phát triển được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tằm ăn lá sắn làm thực phẩm

Hiện nay, trên địa bàn các huyện Tân kỳ,Anh sơn việc nuôi tằm ăn lá sắn (tằm thầu dầu) làm thực phẩm rất phổ biến. Ngoài việc cung cấp thức ăn, cải thiện điều kiện dinh dưỡng hằng ngày thì việc nuôi tằm còn tận dụng thời gian nông nhàn, không phải đầu tư trồng cây làm thức ăn như tằm dâu mà tận dụng nguồn lá sắn sẵn có để làm thức ăn cho tằm. Vì vậy đầu tư cho nuôi tằm sắn thấp, nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Tuy nhiên việc nuôi tằm của bà con chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên hiệu quả thu được còn thấp.Sau đây tôi xin chia sẻ với bà con một số kỹ thuật nuôi tằm thầu dầu như sau:

1.Yêu cầu ngoại cảnh

– Nhiệt độ và ẩm độ : Nhiệt và ẩm độ là hai yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của tằm. Nhiệt độ và ẩm độ quá cao sẽ làm giảm sức đề kháng và tằm dễ bị nhiễm bệnh

-Ánh sáng : ánh sáng buồng tằm tốt nhất là ánh sáng mờ đều. Tằm con yêu cầu ánh sáng yếu do vậy phòng nuôi tằm con cần tối hơn phòng nuôi tằm lớn.

-Không khí : Tằm con không yêu cầu thoáng khí cao, do vậy có thể đậy nilon hoặc giấy báo khi nuôi. Ngược lại, tằm lớn phải đặc biệt chú ý điều kiện thông thoáng, nếu không tằm rất dễ bị các bệnh về đường ruột và bệnh bủng mủ.

2. Các giống tằm sắn và thời vụ nuôi:

Giống tằm sắn ở Việt Nam, hai giống tằm sắn được nuôi phổ biến là giống mình trơn và giống mình có chấm đen.Giống có chấm phù hợp với điều kiện khí hậu của các tỉnh phía Bắc, đang được nuôi phổ biến ở Sơn La, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thanh Hóa,… và Nghệ an,Giống trơn phù hợp với điều kiện khí hậu các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.

3. Kỹ thuật nuôi tằm sắn

– Chuẩn bị trước khi nuôi : Xây dựng nhà nuôi tằm phụ thuộc vào hoàn cảnh và nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi hộ mà có thể xây dựng một nhà mới hoặc tận dụng nhà sẵn có, nhưng phải đảm bảo một không gian thích hợp cho tằm sinh trưởng và phát triển tốt, cho sản lượng kén cao và ổn định. Nhà nuôi tằm phải đáp ứng được một số yêu cầu chính sau :

– Đảm bảo sự đồng đều về nhiệt độ, ẩm độ trong nhà nuôi tằm và thích hợp cho tằm sinh trưởng, phát dục.

– Đảm bảo đầy đủ ánh sáng và ánh sáng đồng đều trong phòng nuôi, tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào phòng tằm.

– Che được mưa, gió và sương mù.

– Đảm bảo độ thông thoáng.

– Tránh được sự lây lan bệnh và dễ sát trùng tiêu độc nhà tằm.

– Nhà nuôi tằm phải chống được nhặng, chuột, kiến và các động vật khác xân nhập.

Vệ sinh sát trùng nhà tằm : Để ngăn ngừa và phòng trừ các bệnh hại tằm, cần phải đặc biệt chú ý đến việc vệ sinh và sát trùng môi trường trước và sau mỗi lứa nuôi. Xung quanh nhà phải thường xuyên quét dọn vệ sinh sạch sẽ, sát trùng nhà và dụng cụ nuôi Sát trùng bằng Clorua vôi ( CaOCl2 ) dùng ở dạng dung dịch với nồng độ 2 – 5%.

Chú ý :Trước khi xông hơi, phun nước lên tường, sàn nhà và dụng cụ, dán kín tất cả các khe hở, giữ nhiệt độ trong phòng trên 25oC. Sau khi xông hơi 24 giờ mới được mở cửa phòng, sau 7 – 10 ngày mới tiến hành nuôi tằm.

– Chuẩn bị trứng giống : Chọn trứng nuôi ở những cơ sở đáng tin cậy

– Băng tằm : Thời gian băng tằm :

                              + Mùa hè, tằm nở sớm, băng vào 8 – 9 giờ sáng.

                              + Mùa thu, băng vào 9 – 11 giờ sáng.

Nếu băng tằm quá muộn, tằm sẽ bị đói ảnh hưởng đến sức sống và sau này tằm thức, ngủ không đều.

+ Phương pháp băng tằm :

Băng tằm đối với trứng bìa : Nếu trứng nở rộ và tập trung, thái nhỏ lá sắn ( hoặc lá thầu dầu ) rắc đều một lớp mỏng lên tờ trứng, sau 30 – 60 phút nghiêng tờ trứng và dùng lông gà quét nhẹ tằm kiến ( cả lớp thức ăn ) sang nong đã lót giấy, dùng đũa san đều tằm và rắc một lớp thức ăn khác lên trên

Nếu tằm nở không tập trung, kéo dài trong 2 – 3 ngày thì phải băng riêng cho từng ngày. Các tờ trứng sau khi đã băng phải rắc đều lên nong để hôm sau băng tiếp. Điều chỉnh cho tằm con phát triển đồng đều giữa các ngày băng bằng cách tăng số lượng và chất lượng bữa ăn đối với các lô tằm nở sau. Tuyệt đối không được giảm số bữa ăn của lô nở ngày hôm trước. Đến tuổi nào mà hai lô đã phát triển đều nhau thì mới nhập lại nuôi chung.

Băng tằm đối với trứng rời :

Băng bằng giấy : Trứng sau khi ghim, được rải đều trên hộp bằng giấy. Khi tằm nở, đặt tờ giấy bản lên trên, rắc một lớp mỏng thức ăn thái nhỏ lên trên tờ giấy bản ( để nhử tằm bám vào mặt dưới tờ giấy bản) . Sau 30 – 45 phút, bỏ lớp thức ăn ra và nhẹ nhàng cầm tờ giấy lên, lật ngược đặt vào nong và cho tằm ăn bữa đầu tiên. Sau đó lại tiến hành lặp lại như trước cho đến khi trứng nở hết.

Băng tằm bằng lưới : Dùng lưới mắt nhỏ hoặc giấy có đục lỗ ( đường kính 0,5cm ) đặt lên trên hộp trứng. Rắc thức ăn thái nhỏ lên tờ giấy, tằm chui qua lỗ lên để ăn. Sau 30 – 45 phút, nhấc tờ giấy đặt sang nong khác và cho tằm ăn. Nếu trứng nở chưa hết thí lại tiếp tục làm như trước.

– Kỹ thuật cho tằm ăn:

Thức ăn cho tằm :Thu hái lá sắn ( lá thầu dầu,… ) phải theo tuổi tằm, về nguyên tắc tằm tuổi nhỏ ăn lá non, tằm lớn ăn lá già dần.

Tằm mới nở : cho ăn lá thứ 3 ( từ búp xuống ), lá có màu xanh lá mạ.
Tằm tuổi 1,2 : cho ăn lá thứ 3, 4.
Tằm tuổi 3 : cho ăn lá thứ 4, 5, 6.
Tằm tuổi 4 : cho ăn lá thứ 6, 7, 8.
Tằm tuổi 5 : cho ăn lá già (trừ lá vàng, lá có nhiều đốm khô)

– Cách cho tằm ăn:

Trước khi cho tằm ăn, quan sát xem lượng thức ăn lần trước còn nhiều hay ít. Nếu mật độ tằm quá dày, cần san đều trong nong hoặc san sang nong khác, nhặt bỏ tằm kẹ, tằm bệnh.

Tuỳ theo tuổi tằm mà thức ăn được thái to, nhỏ khác nhau :
Tằm tuổi 1 có thể thái thức ăn thành sợi, hoặc thái thành hình vuông cạnh dài 1cm.
Tằm tuổi 2, 3 cũng thái dài hoặc thái vuông, nhưng kích thước tăng dần theo độ lớn của tằm.
Tằm tuổi 4, 5 để nguyên cả lá cho tằm ăn ( nếu lá thầu dầu thì phải cắt ba, bốn ).
Khi cho tằm ăn, rắc đều thức ăn thành lớp mỏng trên nong tằm, sau đó lại rắc thêm lần thứ 2. Rắc thức ăn từ xung quanh vào giữa nong, kiểm tra lại và rắc bổ sung những nơi thức ăn còn quá ít.

Khoảng thời gian giữa hai lần cho ăn thường là 3 giờ đối với tằm con và 4 giờ đối với tằm lớn. Đối với nuôi tằm con bằng phương pháp đậy polyetylen thì 5 giờ cho ăn một lần.

– Thay phân, san tằm : Phân tằm và thức ăn thừa trong nong có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt độ và sự bốc hơi nước của cơ thể tằm. Thay phân tằm có tác dụng vệ sinh nong tằm sạch sẽ, loại bỏ tằm kẹ, tằm bệnh và tạo môi trường ( nhiệt độ, ẩm độ ) phù hợp cho tằm sinh trưởng phát triển tốt hơn.Có hai cách thay phân là :

Thay phân bằng lưới : rắc vôi bột hoặc than trấu lên nong tằm. Đặt lưới và rắc lá lên trên cho tằm ăn, sau 2 lần cho ăn thì nhấc lưới tằm sang nong khác để thay phân. Mắt lưới thay phân có kích thước :

Tằm tuổi 1 – 3 : mắt lưới 0,5cm x 0,5cm.
Tằm tuổi 4 – 5 : mắt lưới 2,0cm x 2,0cm.

Ưu điểm của việc thay phân bằng lưới là nhanh, tiết kiệm lao động, lọc được tằm yếu, tằm kẹ, không gây sát thương mình tằm, không bị sót tằm.

Thay phân bằng tay: Thay phân cho tằm con : rắc vôi bột hoặc than trấu lên nong tằm. Rắc lá sắn thái thành sợi dài cho tằm ăn, sau 2 lần cho ăn nhẹ nhàng nhấc từng mảng thức ăn ( có tằm bám ở đó ) sang nong khác, đồng thời san đều tằm ra nong.Thay phân cho tằm lớn : rắc vôi bột hoặc than trấu lên nong tằm. Rắc lá sắn hoặc lá thầu dầu ( còn nguyên cả lá ) lên cho tằm ăn, sau 2 lần cho ăn nhấc từng mảng thức ăn sang nong khác và san đều tằm.Thay phân bằng tay tốn nhiều thời gian, dễ gây sát thương cho tằm, có thể bỏ sót tằm.

– Thời gian thay phân : tốt nhất là vào buổi sáng, trời râm mát, không thay phân vào buổi trưa hoặc vào ban đêm.

– San tằm: tốc độ sinh trưởng của tằm rất nhanh và có quan hệ mật thiết với mật độ nuôi. Mật độ dày, tằm thường bị ăn đói và dễ phát sinh bệnh. Mật độ thưa, tằm ăn không hết gây lãng phí thức ăn. Mật độ thích hợp là cần một diện tích gấp đôi cơ thể của tằm để đảm bảo cho tằm hô hấp, di chuyển thuận tiện.Khi san tằm, nên để mật độ vừa phải như đã nêu ở trên, đồng thời lưu ý san đều tằm và cách cạp nong khoảng 10cm để trong ngày hôm đó tằm lớn lên, dần đầy nong là vừa

– Tằm chín: khi tằm chín sẽ ngừng ăn và bò lên nong nia, bà con cần chuẩn bị xô hoặc chậu, bỏ ít nước lạnh vào dụng cụ rồi bắt tằm chín vào, nên bắt ngay tránh để tằm nhả tơ sẽ làm giảm dinh dưỡng và giảm khối lượng.

Nguồn: Sonnptnt.nghean.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tằm công nghệ mới thu 20 triệu đồng/tháng

Người dân xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng đang chuyển đổi từ nuôi tằm truyền thống (đũi, nong, né bằng tre) sang nuôi trên khay trượt, cho tằm làm tổ tạo kén trên né gỗ, dùng máy thu kén… giúp gia tăng sản lượng, chất lượng và thu nhập cao.

Chị Nguyễn Thị Ry nuôi tằm trên khay trượt

Hiệu quả vượt trội

Anh Nguyễn Văn Nghĩa ở thôn Thanh Trì, xã Đông Thanh cho biết: “Quê tôi ở tỉnh Hà Tây cũ nay là Hà Nội, năm 1985 vào huyện Lâm Hà xây dựng kinh tế mới. Lúc đầu trồng mía, bắp, cà phê, đến năm 1994 chuyển qua nuôi tằm theo cách truyền thống: đóng cũi, nong, né bằng tre. Mỗi lần cho tằm ăn là phải bê nong lên xuống, vệ sinh hàng ngày (phân tằm), chưa kể những ngày cho tằm ăn rỗi, cả nhà tập trung nhân lực chạy đôn chạy đáo đi hái dâu, cho tằm ăn, vất vả nhiều nhưng năng suất kén chỉ đạt 30 – 35kg kén/hộp tằm”.

Năm 2013, anh Nghĩa mạnh dạn chuyển qua nuôi tằm bằng khay sắt (khay trượt) cấu tạo gồm 1 khung sắt cao 1,35 – 1,45m, có 4 bánh xe di chuyển. Trong khung có 4 khay trượt đẩy ra đẩy vô, có hàn lưới B40, ngang 1,5m, dài 3m. Trong khay trải 1 lớp lưới, sau đó thả tằm vào và cho dâu để tằm ăn. Khi tằm chín, anh bắt tằm lên né gỗ, sau 3 ngày tạo kén, chỉ việc dùng máy thu kén rồi bán cho các nhà máy.

Nuôi tằm bằng khay trượt hiệu quả vượt trội so với cách nuôi truyền thống: Không phải bê nong lên xuống, thời điểm tằm ăn rỗi cũng rất nhàn, cứ việc cắt cả cành bỏ vào khay cho tằm ăn và sau một lứa mới phải vệ sinh (thay phân).

Nuôi tằm trên khay trượt còn tiết kiệm được nhiều diện tích, đảm bảo độ thông thoáng, tằm không bị bệnh, phát triển tốt. Hiện gia đình anh Nghĩa trồng 5 sào dâu, mỗi lứa nuôi được 7 hộp tằm giống (nuôi gối đầu) năng suất bình quân đạt từ 45 – 55kg kén/hộp tằm. Với giá bán 195.000 đồng/kg kén như hiện nay, anh Nghĩa thu về 50 – 60 triệu đồng/tháng.

Chị Nguyễn Thị Ry ở thôn Tầm Xá, xã Đông Thanh cũng cho biết: “Trước đây tôi cũng nuôi tằm theo cách truyền thống, nuôi được một lứa mất cả tháng trời. Bởi vì phải nuôi từ giai đoạn trứng, bây giờ có dịch vụ chuyên nuôi tằm con, mình mua về cho ăn 4 ngày, tằm ngủ 2 ngày, dậy ăn rỗi 7 ngày, tằm chín cho lên né gỗ 3 ngày là thu hoạch kén bán được. Như vậy thời gian nuôi một lứa rút ngắn còn 15 ngày. Từ khi chuyển qua nuôi tằm công nghệ mới nhàn lắm, gia đình nuôi 3 hộp tằm năng suất đạt từ 50 – 60kg kén/hộp. Nếu giá bán 195.000 đồng/kg kén, trừ chi phí cũng thu được trên 20 triệu đồng/tháng”.

Liên kết với doanh nghiệp

Ông Nguyễn Thế Nhiệm, PGĐ Cty CP Eco green life chia sẻ: “Cty đã thuê đất xây dựng nhà máy ươm tơ trên địa bàn xã Đông Thanh, với diện tích 7.800m2 nhà xưởng, bước đầu đặt 3 máy ươm tơ dài 24m, 3 máy guồng dài 14m, công suất trung bình từ 500 – 600kg kén/máy/ngày. Nhà máy đã đi vào hoạt động từ đầu tháng 7/2017, thu hút 120 công nhân với mức lương gần 6 triệu đồng/người/tháng. Cty ký kết thu mua toàn bộ số kén của nông dân, các tổ hợp tác nuôi tằm trong địa bàn huyện”.

Tằm làm tổ kén trên khay gỗ theo công nghệ Nhật

Ông Trần Văn Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đông Thanh hồ hởi cho biết, nếu giá kén giữ vững và ổn định như hiện nay thì nông dân chẳng mấy chốc khá lên. Năm 2015, Hội Nông dân xã thành lập 2 tổ hợp tác nuôi tằm theo công nghệ mới, là tổ làng nghề và tổ phụ nữ, mỗi tổ có 100 hội viên, với tổng diện tích dâu của cả xã trên 300ha. Mới đây do nhu cầu nuôi tằm phát triển mạnh, Hội thành lập thêm 1 tổ chuyên nuôi tằm giống do đoàn thanh niên đảm trách để cung cấp giống trong toàn xã…

“Nông dân thay đổi cách sản xuất kén theo công nghệ mới đã giảm nhiều công lao động, chất lượng kén tăng rõ rệt, không có kén đôi. Đặc biệt độ dài của tơ đơn cũng dài hơn. Nếu như loại kén trên né tre dài khoảng 600 – 700m/kén, thì kén trên né gỗ dài 800 – 1.000m/kén. Giá kén thời điểm này bán ra khoảng 195.000 đồng/kg, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây”, ông Thọ chia sẻ.

Ngoài khay trượt, nông dân còn sử dụng né gỗ công nghệ Nhật để tăng năng suất, chất lượng kén. Ông Ngô Ngọc Toàn ở phường 2, TP Bảo Lộc là người đầu tiên đưa né gỗ công nghệ Nhật về nuôi. “Sau một lần đi tham quan mô hình ở Nhật, tôi thấy họ nuôi tằm tạo kén trên né bằng gỗ rất hiệu quả. Tôi chụp ảnh mẫu mang về, liên kết một xưởng mộc ở Nha Trang sản xuất rồi mang về giới thiệu cho các hộ nuôi tằm sử dụng. Qua quá trình chuyển đổi sang né gỗ, người dân thấy hiệu quả hơn, chất lượng kén tốt hơn, tơ dài hơn. Tới nay nhiều hộ sử dụng khay trượt và né gỗ công nghệ Nhật để nuôi tằm mang lại hiệu quả kinh tế cao”, ông Toàn chia sẻ.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tham khảo mô hình nuôi trùn quế hiện đại ở nước bạn

Nước ta còn nghèo, thiếu thốn cơ sở vật chất nên nhiều hộ cũng chỉ đầu tư ngắn hạn để phục vụ cho những mục đích lâu dài, nên chi phí đầu tư nhiều, mất nhiều thời gian và công sức, lại không thể có được những mô hình bài bản đúng kỹ thuật nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.

Đây là một mô hình nuôi trùn quế thu phân bón ở nước bạn, nhìn rất hiện đại và đầu tư rất bài bản, ô nuôi được cách mặt đất một khoảng không gian, thành ô nuôi được gia cố bằng sắt khá chắc chắn, và được áp dụng máy móc vào để tiết kiệm công sức và thời gian chăm sóc thu hoạch.

Các nước bạn không chú trọng vào sản lượng sản phẩm lắm, mà tập trung vào chất lượng sản phẩm với cách sử dụng, họ biết cách sử dụng sản phẩm phân bón từ ô nuôi như thế nào cho hiệu quả nên không cần bón nhiều, mà dùng đúng cách sẽ mang lại hiệu quả lớn.

Chúng ta đang sử dụng phân trùn quế như là một loại phân bón thông thường để bón cho cây, nên phải dùng với liều lượng rất lớn, nhưng nếu chúng ta dùng phân trùn quế như một môi trường sinh khối để cải tạo đất, tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát triển để phục vụ cho đất trồng, thì hiệu quả phân trùn quế mang lại rất cao, mà không cần phải dùng quá nhiều phân trùn quế.

Phân trùn quế có thể ví như là một loại men tiêu hóa cho cây, để cây hấp thu và tiêu hóa tốt dinh dưỡng cung cấp cần bón bổ sung phân trùn quế. Không nên chỉ bón phân trùn quế thôi mà không bón thêm gì khác, vì nếu làm như thế phải bón rất nhiều phân trùn quế cho cây để cây đầy đủ dinh dưỡng. Nên sử dụng phân trùn quế như một loại phân bón bổ sung cho cây, để mang lại hiệu quả kinh tế.

Mô hình nuôi trùn quế hiện đại

Và đây là mô hình nuôi trùn quế có thể dành cho các hộ trồng trọt, có thể thu phân trùn quế để bón cho khu vườn của mình, nếu trồng rau thì chỉ cần 0,5kg/m2 cho mỗi vụ. Nếu trồng cây ăn trái thì mỗi gốc chỉ cần 1kg/3 tháng. Ta có thể nuôi trùn quế từ phụ phẩm nông nghiệp nào có thể phân hủy được và phù hợp với trùn quế, muốn biết phù hợp hay không hãy cho ăn thử.

Các nước bạn đã nuôi khá lâu và đầu tư rất tốt, vì họ biết rằng trùn quế mang lại những giá trị rất lớn cho họ, vậy còn chúng ta thì sao, chỉ vì chưa phát hiện ra giá trị lớn của trùn quế nên chúng ta chưa dám đầu tư bài bản. Thiếu tầm nhìn cũng khiến chúng ta e ngại mà không dám đầu tư lâu dài. Hãy cùng mở rộng tầm nhìn với các nước bạn để có thể đầu tư đúng là đủ hơn giống vật nuôi này.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật thu hoạch giun quế

Thu hoạch là khâu cuối cùng của toàn bộ quá trình nuôi. Tuỳ theo mục đích sử dụng của từng hộ gia đình mà chúng ta có thể lựa chọn những phương pháp thu hoạch sao cho phù hợp và hiệu quả nhất.

Hiện nay, một số tài liệu đã đưa ra rất nhiều phương pháp thu hoạch giun quế khác nhau như: thu hoạch bằng nhử mồi, bằng đe doạ, bằng ánh sáng, bằng điện… nhưng chúng tôi nhận thấy 2 phương pháp thu hoạch đơn giản và hiệu quả hiện nay đang được áp dụng nhiều nhất đó là:

1. Phương pháp thu hoạch bằng ánh sáng

Đây là phương pháp thu hoạch hiện nay đang được áp dụng nhiều nhất. Ưu điểm của phương pháp thu hoạch này là đơn giản và có thể lấy được kiệt giun, tuy nhiên nó có nhược điểm là mất khá nhiều thời gian nếu lượng chất nền lớn và với điều kiện giun đã ăn hết phân trên lớp bề mặt chất nền. Trước khi thu hoạch 1 ngày ta phải kiểm tra xem Trùn đã ăn hết lượng phân trên bề mặt của chất nền chưa. Chúng ta chỉ khai thác khi giun đã ăn hết lượng phân này

Ta có thể sử dụng 1 tấm bạt hoặc tấm ni lông có khổ rộng trải ra trên mặt đất. Lưu ý là nơi thu hoạch cần phải có nhiều ánh sáng nhưng tốt nhất không nên để trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời vì tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời rất có hại cho giun và có thể làm chết giun. Dùng tay mở tấm đậy ra, bới và bóp nhỏ lớp chất nền trong luống nuôi cho tơi xốp vì trong quá trình nuôi lượng phân giun đã đóng thành từng khối, từng tảng. Xúc phân giun và giun ở trong luống ra đổ thành đống trải đều giữa tấm bạt hoặc tấm ni lông (tốt nhất nên dùng các đồ vật bằng nhựa để xúc, không nên sử dụng các vật nhọn và sắc như: quốc, xẻng…vì nó có thể làm chết hoặc đứt giun). Do giun thường tập trung nhiều trên bề mặt của luống nuôi vì vậy để khai thác nhanh, chúng ta nên chia khối chất nền ra làm hai phần: phần chất nền ở phía trên đổ riêng về 1 phía, phần còn lại đổ sang phía đối diện.

Sau khi xúc phân xong, dùng tay bóp nhỏ những phần phân đóng thành tảng xót lại và vun lên thành ngọn. Dưới tác động của ánh sáng, giun sợ sẽ chui xuống bên dưới. Ta dùng tay bới lớp phân giun ở trên ngọn và hai bên thành đống gạt sang hai bên. Giun lại tiếp tục chui xuống dưới, ta lại tiếp tục bới như trên đã làm, cứ làm như vậy sẽ loại hết được phân giun ra và lấy được toàn bộ lượng giun ở dưới đáy.

2 Phương pháp nhử mồi

Phương pháp này cũng cũng áp dụng khá nhiều trong thực tiễn, người ta thường sử dụng phương pháp này khi muốn san ô nuôi để làm giảm bớt mật độ giun và khối lượng chất nền hiện có ở trong luống. Tuy nhiên, nếu muốn lấy sạch giun trong ô nuôi thì không thể sử dụng phương pháp này mà phải dùng phương pháp thu hoạch bằng ánh sáng.

Khi quan sát thấy luống nuôi đã hết thức ăn, ta rải 1 lượt mỏng thức ăn mới lên trên bề mặt của khối chất nền. Giun sẽ lập tức tập trung tấn công vào lượng thức ăn mới này. Theo dõi đến khi Trùn ăn gần hết lượng thức ăn này, mở tấm đậy và hớt lấy lớp phân trên bề mặt ta sẽ thu được rất nhiều giun.

Nguồn: Giun quế Ba Vì được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi cừu mau lớn, ít tốn kém chi phí

Có lẽ ở Việt Nam, Ninh Thuận là vùng khô và nóng nhất. Ở đây nóng đến mức khiến dê và bò còn phải tìm chỗ để tránh nắng. Thế nhưng tại Ninh Thuận, có một loài vật nuôi không biết nóng là gì, đó là con cừu.

Ngay giữa trưa, nhựa trên quốc lộ chảy ra nhem nhép, thế nhưng những chú cừu vẫn tha thẩn tìm những ngọn cỏ hiếm hoi. Cả đàn cừu vẫn lặng lẽ, kiên trì kiếm ăn giữa trời nắng nóng như thiêu, như đốt…

Đàn cừu kiếm ăn giữa trưa

Cừu là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc, ít bệnh tật, chuồng trại lại đơn giản và rẻ tiền. Thức ăn của cừu toàn là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Thậm chí, nó còn ăn cả những loại mà không loài nào ăn được (ví dụ như xương rồng).

Nuôi cừu quay vòng nhanh, lãi cao. Gần đây, giá thịt cừu lên tới trên 100.000 đồng/kg, bà con nuôi cừu rất phấn khởi. Đặc biệt, khách du lịch nhiều nước rất mê thịt cừu vì nó là loại thực phẩm độc đáo, có chất lượng cao và được chế biến thành nhiều món ăn ngon miệng như: Nướng, luộc, xào, xông khói, cari, lẩu, chả…

Cừu nuôi hiện nay có nguồn gốc xa xưa từ những loài cừu núi ở Iran và vùng bắc Ấn Độ. Tới nay, nó được nuôi suốt từ Bắc Âu tới tận các vùng nhiệt đới.

Cừu vào Việt Nam theo các giáo sĩ từ thời Pháp thuộc. Nó được nuôi ở nhiều nơi, nhưng hợp nhất vẫn là vùng khí hậu khô nóng ở Phan Rang. Dần dần, bà con gọi cừu ở đây là cừu Phan Rang. Tới năm 1997, Trung tâm Nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây đã đưa giống cừu Phan Rang ra nuôi thử ở miền Bắc. Tới nay, đã được 5-6 thế hệ mà chúng vẫn sống tốt. Điều đó mở ra hướng, có thể nuôi cừu ngay cả ở miền Bắc.

Cừu rất hiền lành, chịu khó và chịu khổ. Nó rất cần cù đi kiếm ăn, tính bầy đàn cao, nên dễ quản lý. Chúng thường đi kiếm ăn theo đàn.

Cừu đẻ trung bình 1,55 lứa/năm. Mỗi lứa được 1-2 con. Cũng có con đẻ 3 con/lứa. Bà con nuôi cừu chủ yếu là để bán thịt và bán giống. Tùy vào từng khu vực mà mỗi nhà có thể nuôi từ vài chục con đến 500-600 con. Cá biệt có nhà nuôi tới 1.000 con.

So với dê, hàm lượng các chất dinh dưỡng ở thịt cừu không thua kém. Tỷ lệ thịt xẻ của chúng lên tới 41,62% và thịt lọc là 28,62%.

Để nuôi cừu, bà con cần chọn giống cho kỹ càng, cả con đực và con cái. Không nên chọn những con cừu cái đã già. Riêng cừu đực phải nhốt riêng, 8-9 tháng tuổi mới cho chúng phối giống. Nếu phối tự do, một cừu đực có thể đảm nhận cho 20-30 cừu cái. Còn nếu phối giống có kiểm soát thì nó còn có thể phụ trách tới 40-50 cừu cái.

Thức ăn thô xanh cho cừu

Thức ăn của cừu rất đa dạng: Cả thức ăn thô xanh (như các loại cỏ, các loại lá cây…), thức ăn thô khô (như các loại cỏ khô) cùng các loại thức ăn ủ chua, thức ăn củ quả các loại phụ phẩm của công nghiệp thực phẩm… Vào mùa khô, ta có thể cho cừu ăn thêm thức ăn tinh (như cám, bột ngô, bột mì…). Tuy nhiên, thức ăn thô vẫn là chủ yếu.

Bà con cần bố trí nuôi cừu ở nơi khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát và đầy đủ ánh sáng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.