Thức ăn và hướng dẫn cho hươu ăn đúng kỹ thuật

Để có được những con hươu giống bóng mượt, to khỏe cho những cặp nhung chất lượng có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố  tiên quyết đầu tiên chính là khẩu phần thức ăn cho hươu

1. Thức ăn cho hươu

– Thức ăn cho hươu ăn tương đối dễ kiếm đối với bà con nhà nông.

– Hươu chủ yếu ăn các thực phẩm xanh, rau củ quả. Liệt kê một số loại thực phẩm ưu thích và dể kiếm của hươu:

+ Đầu tiên phải kể đến một loại mà gần như là thực phẩm chính quanh năm của hươu được nhiều bà con ưu dùng chính là cỏ voi. Bà con có thể xem cách trồng tại đây: hướng dẫn trồng cỏ voi

+ Cây chuối, thường cây chuối bà con bào nhỏ cho ăn không hoặc trộn ít cám.

+ Rau khoai, rau muống

+ Các loại lá cây như lá mít, chú ý tránh các loại lá độc hại.

+ Gần như các loại hoa quả hươu đều thích ăn.

– Ngoài ra cần bổ xung thêm một số chất khoáng và cám công nghiệp có hàm lượng dinh dưỡng cao cho hươu giống vào mùa sinh sản vào mùa ra nhung hươu.

2. Hướng dẫn kỹ thuật cho hươu ăn

– Mỗi ngày bà con cần dọn chuồng sạch sẽ 2 lần trước bữa ăn, tránh để thức ăn lên vùng chuồng bị bẩn, ẩm ướt dễ nhiễm bệnh cho hươu. Trường hợp bị bệnh bà con có thể thao khảo tại đây: bệnh thường gặp ở hươu

– Hươu chủ yếu hoạt động vào ban đêm, ban đêm hươu ăn tới 60% tổng số thức ăn của khẩu phần, vì vậy mỗi lần cho ăn trong ngày không nhiều, ban ngày hươu ăn ít mà dành thời gian nhai lại thức ăn qua đêm. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng mà người chăn nuôi cần nắm biết. Vì vậy lịch phân bố cho hươu ăn như sau:

Bữa thứ nhất: 6-7 giờ sáng cho ăn 15% thức ăn xanh.

Bữa thứ hai: 9-10giờ sáng cho ăn 15% thức ăn xanh.

Bữa thứ ba: 13-14 giờ chiều cho ăn 10% thức ăn xanh cộng với thức ăn tinh trong ngày.

Bữa thứ tư: 17 – 18giờ tối cho ăn 30% thức ăn xanh.

Bữa thứ năm: 22 giờ tối cho ăn 30% thức ăn xanh.

– Thức ăn tinh không được cho hươu ăn vào buổi sáng vì ăn như vậy sẽ làm cho hươu ăn ít thức ăn xanh và thức ăn củ quả. Nên cho hươu ăn thức ăn tinh vào bữa ăn thứ ba vào lúc 13 – 14 giờ trong ngày. Hàng ngày người chăn nuôi phải thường xuyên theo dõi phân của hươu để điều chỉnh thức ăn cho hợp lý. Thường phân của hươu có dạng viên bóng, cứng hình bầu dục nếu khác với bình thường thì cần xem xét lại thức ăn cho hươu.

– Cho hươu ăn nhiều loại thức ăn xanh, đặc tính của chúng là thích ăn nhiều loại cỏ non, lá non và các loại cây có mủ. Không nên cho hươu ăn độc nhất một loại thức ăn thì sinh trưởng và phát triển, khả năng sản xuất sẽ bị hạn chế.

Nguồn: Naihuou.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi trăn cảnh

Loài trăn cảnh có rất nhiều chủng loại và mỗi loại lại có những đặc điểm riêng. Người ta tìm thấy chúng nhiều nhất ở châu Phi và phân bố rộng tại một số quốc gia trên thế giới như: Senegal, Mali, Guinea-Bissau, Guinea, Sierra Leone, Liberia, Bờ Biển Ngà, Ghana, Benin và Nigeria through Cameroon, Chad…

Trăn thuộc loài động vật hung dữ nhưng những chú trăn cảnh lại thường rất hiền lành, thậm chí đôi khi nhút nhát. Vì vậy, nếu bạn là một người chơi “cừ” và có cá tính”mạnh” thích mạo hiểm thì phải thuần dưỡng để chúng có thể hung dữ hơn.

Cách chăm sóc trăn cảnh

Trăn cảnh cũng được đánh giá là loài động vật dễ nuôi, dễ chăm sóc, ít bệnh tật và thân thiện nên được các bạn trẻ rất yêu thích và ưu tiên lựa chọn làm pet cưng cho mình.

Không cầu kỳ như các loài bò sát khác mà phải phơi nắng, phải làm chuồng đúng kích thước, phải có đèn sưởi ấm ban đêm, loài trăn cảnh chỉ cần 1 chuồng với kích thước nhỏ vừa với chúng, một máng nước và tạo một hang trú đơn giản như vậy thôi là chúng đã có thể sống một cách thoải mái và khỏe mạnh rồi.

Thông thường các loài trăn cảnh không quá to như các loài trăn hoang dã mà chỉ hoảng 1m2, mỗi khi cuộn mình lại bạn có thể dễ dàng bế nó trong lòng bàn tay.

Chăm sóc trăn cảnh

Thức ăn của trăn cảnh:

Trăn cảnh thường ăn các loài vật nhỏ như chim, chuột, đôi khi chúng còn có thể ăn gà con và chuột cống. Tuy nhiên, khi cho trăn ăn bạn nên chú ý không cho tự săn mồi bằng cách thả các động vật sống, điều này không giúp nâng cao khả năng săn mồi của trăn mà còn rất nguy hiểm cho bạn, nhất là những bạn mới nuôi. Ngoài ra, trăn cảnh là loài động vật nhịn đói rất giỏi, chúng có thể nhịn đói đến nửa năm mà vẫn sống vì vậy bạn cũng không cần quá lo lắng mỗi khi đi chơi xa hay cho chúng ăn thiếu bữa.

Chuồng nuôi trăn cảnh:

Điều kiện đầu tiên khi làm chuồng nuôi trăn cảnh mà bạn cần chú ý là không cho chúng có cơ hội để trốn thoát. Bạn có thể sử dụng một chiếc hồ cá đã qua sử dụng,một chiếc thùng nhựa hay bất cứ vật dụng gì tương tự để làm chuồng cho chúng. Chuồng nuôi trăn cảnh thì không cần quá cầu kỳ và đầu tư bởi trăn không phải loài động vật khó tính. Tuy nhiên, bạn phải lựa chọn kích thước chuồng nuôi phù hợp để tránh việc chú trăn của bạn phải sống trong không gian chật hẹp, khó phát triển.

Nhiệt độ phù hợp cho trăn cảnh:

Việc cung cấp nhiệt độ đầy đủ cho trăn cảnh là điều cần thiết. Hãy đặt một cách khéo léo bộ phận cung cấp nhiệt dưới đáy chuồng nuôi với khoảng cách phù hợp sao cho cả khu vực chuồng đều được sưởi ấm. Một điều lưu ý là nên tránh sử dụng đá sưởi bởi rất nguy hiểm cho chú trăn của bạn.

Với đèn sưởi thì bạn có thể dùng loại đèn từ 40-60 w. Tốt nhất khi bạn chọn các loại đèn hay thảm nhiệt thì nên chọn những loại có canh thời gian để tăng hay giảm nhiệt độ khi cần thiết để tránh tình trạng quá nóng trong khu vực chuồng nuôi. Bạn cũng có thể dùng các loại đèn bằng sứ, loại này chỉ tỏa nhiệt mà không phát sáng. Treo các loại đèn ngoài tầm vươn tới của con trăn, nhằm tránh cho trăn bạn bị bỏng

Chăm sóc tốt giúp trăn cảnh nhanh phát triển

Độ ẩm cho trăn cảnh:

Độ ẩm là yếu tố cần quan tâm hàng đầu khi chăm sóc các loài trăn cảnh bởi đặc tính của chúng là thích ẩn náu dưới các hang động, ưa độ ẩm cao. Với trăn cảnh, khi độ ẩm thấp sẽ khiến chúng khó lột da,mất nước và đôi khi còn bỏ ăn. Để tăng độ ẩm cho chuồng nuôi thì bạn nên đặt vào một cái thau nước lớn được đậy kín ngay cạnh lồng nuôi sau đó khoét một lỗ to gấp đôi con trăn để trăn có thể chui vào khi nó cần.

Một số bệnh thường gặp của trăn cảnh

Trăn cảnh thường gặp các bệnh thông thường như bệnh ký sinh dưới da, bệnh rộp da, bệnh thối miệng, viêm phổi,…

Bệnh ký sinh dưới da là bệnh nguy hiểm nhất, loại ký sinh trùng gây là bệnh này có tên thường gọi là ve sinh sống dưới lớp vảy của trăn. Khi trăn sinh sống trong tự nhiên dễ gặp phải chúng hoặc khi điều kiện chăm sóc không tốt, môi trường bẩn cũng dễ sinh ra các loại ký sinh này. Để điều trị và ngăn ngừa loại ký sinh này thì bạn cần phải làm là ngâm nước ấm có pha tí muối, ngâm khoảng 30-45 phút. Làm nhiều lần như vậy thì bạn có thể diệt được chúng dễ dàng. Hoặc bạn cũng cỏ thể sử dụng các loại thuốc xịt chuyên dụng dành cho bò sát.

Bệnh thối miệng có những dấu hiệu như trong miệng có những vết lỡ màu trắng, và lan rộng. Khi bạn banh miệng trăn ra thì thấy có khác nhiều nước nhớt trong.

Bệnh rộp da là kết quả của việc trăn của bạn được nuôi trong một điều kiện không an toàn, không đảm bảo vệ sinh, không đảm bảo điều kiện độ ẩm và nhiệt độ. Kỳ sinh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh rộp da. Con trăn sẽ có những triệu chứng rất đau đớn, da thường bị tróc ở bụng nhưng đa phần là tróc ở phần lưng của trăn. Nếu có dấu hiệu trên thì bạn cần đưa đến bác sĩ có kinh nghiệm. Để hạn chế bệnh rộp da thì chuồng nuôi của bạn phải ấm và sạch. Phải được dọn dẹp định kỳ và thường xuyên.

Một số bệnh khác cũng có khá nguy hiểm như bệnh thối miệng và bệnh viêm phổi. Nếu bạn nghi ngờ trăn cảnh của bạn đang bị bệnh, thì điều bạn cần làm là tìm ngay một bác sĩ có kinh nghiệm để chữa trị.

Nguồn: Vietpetgarden.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn làm chuồng nuôi tắc kè hoa tại nhà

Tắc kè hoa từ lâu đã trở thành thú cưng không chỉ riêng giới trẻ hà thành mà ngày càng được phổ biến rộng khắp. Chuồng là nơi không thể thiếu để cư trú cho tắc kè cảnh.

Có thể bạn bắt gặp ở đâu đó, người ta thả rông những chú tắc kè trong nhà hoặc thậm chí ngay ngoài sân vườn. Tuy nhiên, đó là khi những chú tắc kè của họ đã lớn, đã quen với không gian sống cùng với chủ nhân của mình. Còn đối với những chú tắc kè con hoặc mới được bạn nuôi dưỡng, quan trọng nhất trong cách nuôi tắc kè là việc có một chiếc lồng cho chúng, đây là điều hoàn toàn cần thiết.

Kích thước của chuồng nuôi

Đối với con cái khi trưởng thành, chuồng nuôi có kích thước tối thiểu 16×30 inch, còn đối với con đực kích thước trung bình thường to hơn thì lồng cỡ 18×30 inch với là phù hợp. Tuy những chú tắc kè con thì nhỏ thôi nhưng bạn phải tính trước đến thời điểm chúng trưởng thành. Không nên thay lồng thường xuyên để tắc kè con thích nghi được với tổ ấm của mình một cách tốt nhất. Điều quan trọng trong cách nuôi tắc kè hoa làm cảnh là bạn nên nuôi chúng trong một chiếc lồng rộng rãi, kết hợp trang trí các loại cây thực vật không có hại, các loại cây dây leo.

Tắc kè hoa đổi màu veiled chameleon

Trong chuồng nuôi tắc kè hoa bạn nên làm hộc gỗ tạo chỗ nghỉ ngơi à đẻ trứng vì không phải lúc nào chúng cũng bám trên tường. Làm hộc gỗ bạn cầm dùng 3 miếng gỗ có độ dài 25cm, cao 7cm dùng đinh cố định chúng lại làm thành hộc 3 cạnh tương ứng với chiều dài của tắc kè.

Nên cho thêm các cây gỗ loại vào chuồng cho chúng trèo leo bắt mồi tạo môi trường như ngoài thiên nhiên. Tắc kè hoa là loài bò sát có tập tính ưa bóng tối, mùa hè bạn có thể dùng vải tối màu để tạo độ tối cho chuồng nuôi.

Độ ẩm và ánh sáng

Nhiệt độ được xem là nhiệt độ thích hợp nhất dành cho những chú tắc kè hoa đổi màu là từ 27-35 độ C.

Tắc kè hoa Panthe

Những chú tắc kè thường cảm nhận nhiệt độ ở phần lưng chứ không phải ở phần bụng như chúng ta tưởng. Do đó, nếu bạn quyết định sử dụng máy tạo nhiệt cho chuồng nuôi tắc kè, hãy thiết kế bộ phận cung cấp nhiệt cho chúng ở đáy chuồng. Làm như vậy sẽ khiến tắc kè tránh được bỏng nếu nhiệt độ quá cao. Để giữ đủ độ ẩm cho tắc kè hoa bạn cần tắt đèn cho chúng trước khi chúng đi ngủ.

Ánh sáng và nhiệt độ

Để chú tắc kè hoa của bạn phát triển tốt nhất và biến đổi màu sắc hoàn hảo, hãy cung cấp hai loại ánh sáng cho chúng: một bóng đèn UVB (tôi khuyên bạn nên ReptiSun 5.0) và một bóng đèn sợi đốt có công suất thích hợp. Tắc kè hoa trưởng thành cần một điểm tắm nắng khoảng 100 độ F, nhiệt độ môi trường phù hợp khi đó là từ 75 đến 85 độ; còn đối với những chú tắc kè con nhỏ hơn thì cần khu vực tắm nắng từ 85 đến 90 độ với nhiệt độ môi trường xung quanh thấp hơn khoảng 75 độ.

Để bò sát cảnh luôn khỏe mạnh, không bị stress bạn nên cố gắng tạo cho chúng một không gian sống thật giống với tự nhiên. Giữ yên tĩnh cho bò sát cảnh, để chúng ở nơi an toàn tránh xa các loài động vật có thể đe dọa đến tính mạng chúng.

Nguồn: Vietpetgarden.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chế độ chăm sóc tắc kè cảnh trường thọ

Thú chơi tắc kè cảnh từ lâu đã trở thành “mốt” không riêng gì của giới trẻ hà thành mà ngày càng được phổ biến rộng khắp.

Tuy nhiên, để chơi được loài thú cưng này lâu thì không phải là điều đơn giản. Bạn cần nắm được kĩ thuật nuôi và chăm sóc chúng nhưng điều này thì không phải ai cũng biết. Vậy nuôi tắc kè có khó không và kĩ thuật nuôi như thế nào mới là đúng cách? Hãy cùng tìm hiểu kĩ hơn qua bài viết sau ngay nhé!

Chuồng là nơi không thể thiếu để cư trú cho tắc kè cảnh

Khi mua một loài thú cưng về nuôi, việc đầu tiên bạn cần làm đó là cần kiếm một chỗ ở cho chúng. Vậy đối với loài tắc kè cảnh, làm chuồng như thế nào là đúng cách?

Tắc kè trường thọ

Hướng dẫn cách làm chuồng nuôi tắc kè cảnh:

Theo tập tính sinh hoạt của tắc kè, đặc biệt là tập tính thích sống một hang tổ quen thuộc trên thân cây, không ưa rời chỗ ở cũ chuyển đến nơi ở khác, nên ta đã nuôi được tắc kè trong dạng chuồng nuôi như sau:

– Kích thước chuồng xây: Chiều cao 2m – 2,2m X . Chiều rộng 1,2m – 1,5m X dài 3 mét (tối thiểu) hoặc tùy theo diện tích của từng hộ gia đình tối đa . 1m2 nền nuôi khoảng 30 đến 50 con tắc kè đẻ, khoảng 50 đến 100 con tắc kè con
– 1,2 hoặc 3 mặt chuồng là tường gạch thô để giữ ấm và cân bằng nhiệt độ , mặt còn lại là lưới .Làm cửa ra vào cao trên đầu người để tiện ra vào
– Từ mặt nền xây tường gạch thô cao lên khoảng 50cm để khi rọn rửa chuồng không làm rỉ lưới. Nền láng xi măng
– Phía trên tường quây bằng lưới inox hoặc lưới sắt, đường kính mắt lưới 0,3cm
– Làm khe hở sát nền dài 20cm – cao 1cm, khe hở này chỉ đủ cho phân thoát ra khi rửa chuồng . Sau khi vệ sinh chuồng lấy gạch che kín khe hở tránh các tác động từ bên ngoài
– Trong chuồng nuôi treo dọc các ống tre nứa, ống giấy loại to thông hai đầu để tắc kè chui rúc, treo phía trên cao, tầng trên treo so le với tầng dưới để phân không rơi vào các ống tre phía dưới
– Làm hộc gỗ: Dùng 3 miếng gỗ có độ dài 25cm, cao 7cm dùng đinh cố định chúng lại làm thành hộc 3 cạnh tương ứng với chiều dài của tắc kè .Tác dụng của hộc gỗ tạo chỗ nghỉ ngơi và đẻ trứng vì không phải lúc nào chúng cũng bám trên tường
– Làm kệ gỗ: Dùng 2 cái ke sắt hình tam giác vuông bắn vít vào khung gỗ của mặt trong cùng chuồng nuôi, lưu ý kệ gỗ cách mặt đất khoảng 1m để tránh ẩm thấp, tránh vi khuẩn dưới nền chuồng, gác 2 thanh gỗ dài lên 2 ke sắt chiều ngang cách nhau khoảng 18cm. Buộc hoặc bắt vít chặt 2 đầu thanh gỗ vào ke sắt, rồi xếp các hộc gỗ lên thành nhiều tầng
– Mùa hè: Căng vải mỏng tối màu (màu xanh lá cây) cao khoảng 50 – 60cm chạy theo chiều ngang phía trên cao cách tường 3cm tạo độ tối đảm bảo cho tập tính ưa bóng tối của tắc kè
– Cho thêm các cây gỗ loại to vào chuồng cho chúng trèo leo bắt mồi tạo môi trường như ngoài thiên nhiên
– Nên hướng mặt lưới chuống nuôi về phía có ánh sáng mặt trời

Cách nuôi

– Tắc kè bố mẹ: Bên trong chuồng cho thêm nhiều ống tre nứa loại to, dài khoảng 25cm cho chúng đẻ trứng. Mật độ: 30 đến 50 con/1m2 nền
– Tắc kè con: Chỉ cần cho quần áo, chăn mền cũ, thân cây to là được. Mật độ: 50 đến 100 con/1m2 nền
– Gác máng hoặc đặt các khay nước vào trong chuồng cho tắc kè uống nước, lưu ý máng nước hoặc khay nước phải đặt ở trên cao
– Khi nuôi sinh sản tắc kè bố mẹ nên nuôi chung để tránh hiện tượng sinh sản đơn tính (không cần tinh trùng của con đực) và đảm bảo cho tắc kè sinh sản quanh năm , trứng cất riêng một chuồng tránh tình trạng bố mẹ ăn trứng
– Tắc kè nhỏ ăn mồi nhỏ nên nuôi một chuồng riêng giúp người nuôi định lượng số thức ăn cho chúng, tránh sự cạnh tranh mồi giữa tắc kè to và tắc kè nhỏ giúp chúng phát triển tốt nhất, nhanh thu thương phẩm.

Chú ý

Chọn mồi cho tắc kè ăn là quan trọng nhất để phòng tránh tắc kè nhiễm sán lải, mồi cho ăn phải sạch và có giá trị dinh dưỡng như dế nuôi, thằn lằn các loài côn trùng nuôi .

Không cho ăn côn trùng như Gián, bọ xít, bươm bướm…. đánh bắt ngoài thiên nhiên vì đa số côn trùng thiên nhiên không đảm bảo vệ sinh và nguy cơ nhiễm sán lải rất cao vì một số loài côn trùng khi ký chủ trứng của nó trên loài khác và luôn ký chủ theo các nang trứng sán, nang trứng larvae sán (tức là thể sán còn nhỏ) theo máu đi đến các cơ quan của tắc kè như gan, não bộ, phổi, mắt …. và gây bệnh ở các nơi này.

Một số điểm lưu ý phòng trị bệnh khi nuôi tắc kè

– Luôn vệ sinh giữ môi trường nuôi và nước uống sạch , khu vực đặt chuồng nuôi kín đáo tránh người qua lại và tiếng ồn
– Đặc tính không chịu nổi khi nhiệt độ xuống thấp. Che chắn cuồng nuôi bằng vải tối màu cho kịp thời giữ ấm tắc kè nhằm tránh dịch bệnh bùng phát
– Thả giống với mật độ thưa trung bình 30 đến 50 con/1m2 nền “Bố mẹ” . “tắc kè con” mật độ: 50 đến 100 con/1m2 nền
– Chọn nguồn giống sạch, khỏe ngồn gốc rõ ràng ,kích cỡ đồng
– Áp dụng các giải pháp phòng bệnh ngay từ khi thả giống, Định kỳ diệt khuẩn chuồng nuôi bằng Extra Odyl
– Cho ăn thức ăn sạch , cho uống thêm Vitamine tổng hợp Ascorbric Acid tăng sức đề kháng
– Xổ sán lải định kỳ
– Tắc kè có thân nhiệt thấp và hấp thu nhiệt qua da để điều chỉnh thân nhiệt nên cửa chuồng quay về hướng Đông là tốt nhất để hỗ trợ tắc kè hấp thu nhiệt tốt hơn
– Do thể trạng nhỏ. Khi nhiễm bệnh thường bỏ ăn ,thể trạng suy nhược rất nhanh do mất nước và thiếu dinh dưỡng .Lây lan nhanh qua đường hô hấp và gây chết hàng loạt. Cần theo dõi thường xuyên và bắt buộc phân loại và tách đàn để có biện pháp điều trị thích hợp.

Nguồn: Kỹ thuật nuôi trồng dược kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cách nuôi dưỡng tắc kè hoa đổi màu

Tắc kè hoa đang là thú cưng độc đáo được dân chơi thú cưng Việt săn lùng nhiều nhất trong thời gian qua. Với nhiều màu sắc đa dạng, phong phú cùng khả năng đổi màu liên tục theo môi trường, tắc kè hoa càng được các bạn trẻ yêu thích và ưu tiên lựa chọn hơn .

Cùng tìm hiểu cách chăm sóc tắc kè hoa đổi màu trong bài viết này để tự tin hơn khi chăm sóc thú cưng của mình nhé

Tủ kính hay bể cá là những nơi cần tránh khi nuôi tắc kè hoa bởi sẽ khiến chúng thiếu không khí và dễ mắc các bệnh về hô hấp. Cách tốt nhất là chuẩn bị một chuồng nuôi thoáng khí với nhiều cây, hoa , cành khô để tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cho chú tắc kè hoa của bạn nhé.

Thức ăn của tắc kè hoa đổi màu là gì?

Biết rằng thức ăn chính và khoái khẩu của những chú tắc kè hoa là dế và các loài động vật nhỏ, nhưng để đảm bảo chúng luôn khỏe mạnh cũng như tạo sự hấp dẫn cho bữa ăn bạn nên tạo nên sự đa dạng cho bữa ăn hàng ngày của tắc kè hoa. Bạn có thể tự sáng tạo thức ăn cho chúng bằng những thứ đồ ăn sẵn hàng ngày của con người hay thậm chí rau xanh. Hãy cung cấp đầy đủ lượng canxi và vitamin vào bữa ăn hàng ngày cho tắc kè hoa nếu bạn muốn chúng sống lâu và khỏe mạnh cùng bạn.

Độ ẩm và ánh sáng thế nào là phù hợp cho tắc kè hoa

Nhiệt độ từ 27-35 độ C được xem là nhiệt độ thích hợp nhất dành cho những chú tắc kè hoa đổi màu. Ngoài ra, bạn cũng nên biết rằng những chú tắc kè cảm nhận nhiệt độ ở phần lưng chứ không phải ở phần bụng nên đừng thiết kế bộ phận cung cấp nhiệt cho chúng ở đáy chuồng, điều đó có thể làm chúng bị bỏng nếu nhiệt độ quá cao.Đặc biệt bạn nên chú ý giữ đủ độ ẩm và phải tắt đèn cho tắc kè hoa trước khi đi ngủ

Cách làm chuồng cho tắc kè hoa thế nào

Tủ kính hay bể cá là những nơi cần tránh khi nuôi tắc kè hoa bởi sẽ khiến chúng thiếu không khí và dễ mắc các bệnh về hô hấp. Cách tốt nhất là chuẩn bị một chuồng nuôi thoáng khí với nhiều cây, hoa , cành khô để tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cho chú tắc kè hoa của bạn nhé.

Chú ý chữa bệnh và phòng bệnh cho tắc kè

Tắc kè hoa thường mắc rất nhiều bệnh nếu chăm sóc không tốt. Tuy nhiên, tắc kè hoa thường mắc những bệnh thường gặp là sưng mồm, sưng mắt, là những bệnh dễ phát hiện bằng mắt thường. Bạn hãy thường xuyên quan sát để phát hiện và điều trị kịp thời cho chúng.

Nguồn: Kỹ thuật nuôi trồng được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi bồ câu trên đệm lót sinh học

Nuôi bồ câu trên đệm lót sinh học là một phương pháp hiện đại, giúp chim ít bị bệnh, từ đó ít sử dụng kháng sinh và kéo dài thời gian sinh sản.

Cách chọn giống bồ câu:

Chọn giống: Giống bồ câu Pháp được nhập vào Việt Nam từ tháng 05 năm 1998 phân bố tập trung ở các Trung tâm nghiên cứu giống gia cầm, nay đã được nuôi rộng rãi ở nhiều nơi

– Chọn mua con giống ở những cơ sở bán giống có uy tín, chất lượng, được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh thú y để sản xuất con giống, đảm bảo an toàn dịch bệnh.

– Chọn mua những con mạnh khỏe, lông mượt, không có bệnh tật, dị tật, lanh lợi, con trống to hơn, đầu thô, có phản xạ gù mái (lúc thành thục) khoảng cách giữa 2 xương chậu hẹp hơn, con mái thường có khối lượng nhỏ hơn, đầu thon nhỏ, đuôi nhọn, khoảng cách giữa 2 xương chậu rộng hơn.

– Lông đa màu: Màu xám (chiếm 20%), màu trắng (chiếm 12%), màu nâu (chiếm 12%) và màu đốm (chiếm 4%) còn lại là những màu khác. Chân ngắn, vai nở, chim non mới nở nặng 17gr/con, lúc 28 ngày tuổi chim ra ràng nặng 530-580gr/con, lúc 4-5 tháng tuổi chim bắt đầu đẻ lứa đầu nặng 650-670gr/con và một năm tuổi chim sinh sản nặng 690gr/con, khoảng cách đẻ giữa hai lứa là 40- 45 ngày, trung bình mỗi năm 01 cặp chim đẻ từ 8-9 lứa (mỗi lứa là 02 con).

Chuồng trại nuôi bồ câu:

2.1. Vị trí xây dựng chuồng:

– Chọn khu đất cao ráo, dễ thoát nước

– Cách xa nhà ở và đường đi chung tối thiểu 10 mét

– Cách xa nguồn nước sử dụng gia đình tối thiểu 20 mét

– Cách xa khu công cộng (Khu vui chơi, giải trí, trường học, chợ …) tối thiểu 500 mét

Theo kinh nghiệm chuồng nuôi chim bồ câu phải thoáng mát, yên tĩnh thì chim mới mau lớn và đẻ tốt.

2.2. Thiết kế chuồng: Kiểu chuổng sàn, chuồng nền

2.2.1. Kiểu chuồng sàn (chuồng tầng): Nên làm bằng các vật liệu như cây gỗ, cây tre chẻ thành thanh nhỏ hoặc lưới chì. Đóng thành phên, ghép lại thành từng ô có thể nhiều tầng.

+ Chiều cao: 60cm

+ Chiều sâu: 60cm

+ Chiều rộng: 60cm

Mỗi ô chuồng nuôi 01 cặp chim sinh sản, mỗi ô chuồng cần đạt 02 ổ, ổ đẻ đặt ở trên cao, còn ổ nuôi con đặt ở dưới thấp, mỗi ô chuồng nên đặt thêm 1-2 cây sào đậu

Máng ăn, máng uống cho chim nên dùng bằng các chất dẻo đặt ở ngoài chuồng, không nên dùng bằng kim loại dễ bị gỉ sét.

Chuồng sàn cách mặt đất từ 40-50cm, chuồng sàn phải có mái che lợp bằng tôn hoặc lá, chuồng phải có đầy đủ ánh sáng, khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ, tránh mưa tạt gió lùa và tránh ồn ào.

2.2.2. Chuồng nền:

Chọn vị trí cao ráo, dễ thoát nước không bị ngập úng, nền chuồng tôn cao hơn mặt đất tự nhiên từ 30-40cm, mặt nền bằng đất nện chặt hoặc tráng xi măng.

Vật liệu làm chuồng bằng cây, mái lợp tôn hay lá, chuồng phải có đầy đủ ánh sáng, khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ, tránh mưa tạt gió lùa, tránh ồn ào. Chuồng có thể làm bằng các vật liệu như cây gỗ, cây tre chẻ thành thanh nhỏ hoặc lưới chì. Đóng thành phên ngăn theo từng ô, gạch xây bao xung quanh các ô, các dãy để ngăn chặn các chất độn chuồng.

Chuồng nền dễ làm ít tốn công lao động hơn chuồng sàn, chi phí mua vật liệu cũng rẻ hơn. Đối với chuồng nền có thể làm rộng lớn hơn chuồng sàn. Chiều cao là 1 mét, chiều sâu là 1 mét, chiều ngang là 60cm, được bố trí nuôi cho 01 cặp chim sinh sản, các ổ đẻ và ấp, ổ nuôi con, sào đậu và các máng ăn, máng uống cũng bố trí như chuồng lồng.

Sử dụng nệm lót sinh học nuôi bồ câu:

Bằng bột men chế phẩm Balasa. N01 chế phẩm tạo men vi sinh vật sẽ phân hủy phân chim và các chất thải của chim không gây mùi hôi thối, ảnh hưởng môi trường xung quanh và giảm được công dọn rửa vệ sinh chuồng trại…

3.1. Các nguyên liệu chuẩn bị để làm đệm lót: Chế phẩm Balasa N01 là 01kg, cám gạo loại tốt từ 3-5 kg, chất độn chuồng là cát khô sạch.

– Đối với chuồng sàn lồng tầng phải có bạt lót ở phía dưới sàn lồng, kéo thành bạt cao 12-15cm để hứng phân, các chất thải của chim và giữ cho chất độn không rơi ra ngoài.

– Đối với chuồng nền chỉ cần xây hoặc vây quanh các ô bằng gạch, gỗ ván, tôn … cao 15cm để giữ cho phân và các chất thải của chim, chất độn không rơi ra ngoài.

3.2. Tiến hành các bước và sử dụng nệm lót:

3.2.1. Đổ chất độn (cát) vào các ô có độ dầy từ 5-7cm. Sau khi rải xong tiến hành thả chim vào nuôi

3.2.2. Sau khi thả chim vào nuôi từ 7-10 ngày, khi thấy trên mặt chất độn rải rác có phân chim ta tiến hành các bước ủ gây men (ủ chế phẩm Balasa …)

3.2.3. Trộn đều 1kg bột men balasa N01 với 3-5kg cám gạo loại tốt. Sau đó cho từ 1-1,5 lít nước sạch xoa cho ẩm đều (bột ẩm không quá tơi hay không quá nhũn). Sau đó cho bột men vào túi ni lông hoặc vào thùng đậy kín và để vào nơi khô mát khoảng 2-3 ngày, khi bột men có mùi thơm men rượu là đạt yêu cầu, sử dụng được từ 35-50m2

3.2.4. Rác đều bột men lên toàn bộ bề mặt đệm lót và dùng cào, cào cho bột men chìm sâu xuống bề mặt đệm lót khoảng 2-3cm là được

Sở dĩ làm chất độn chuồng bằng cát để nuôi chim bồ câu là khác với làm chất độn bằng trấu và mùn cưa để nuôi gà, vịt… vì tập tính của chim bồ câu khác với các loại gia cầm khác là chúng hay quạt. cánh. Như vậy nếu sử dụng chất độn chuồng bằng trấu và mùn cưa khi mỗi lần chim quạt cánh, thì chất độn chuồng sẽ bay hết ra ngoài khỏi ô lồng, sẽ gây ô nhiễm, tốn công quét dọn và vệ sinh.

Bảo quản nệm lót khi nuôi bồ câu:Để sử dụng đệm lót được tốt và lâu dài chúng ta cần lưu ý một số điều như sau:

– Tránh không để mưa tạt, dột hay làm đỗ nước. nếu chỗ nào bị ướt phải thay ngay bằng chất độn mới,

– Không được phun xịt các loại hóa chất trực tiếp vào nệm lót sẽ diệt chết vi sinh vật

Nhu cầu dinh dưỡng thức ăn, nước uống cho chim bồ câu:

5.1. Nhu cầu dinh dưỡng:

Các loại thức ăn thường sử dụng nuôi chim bồ câu

– Thông thường chim ăn trực tiếp các loại hạt thực vật: Hạt đỗ, ngô, thóc, gạo … và một lượng thúc ăn cần thiết đã được gia công có chứa đầy đủ các đạm, khoáng và vitamin.

+ Hạt đỗ bao gồm: Đỗ xanh, đỗ đen, đỗ tương … Riêng đỗ tương lượng chất béo nhiều nên cho ăn ít hơn và phải rang trước khi cho chim ăn.

+ Thức ăn cơ sở: Thóc, ngô, gạo lứt, cao lương … Ngoài ra còn trộn thêm cám gà khoảng 20-30%. Yêu cầu thức ăn phải đảm bảo sạch , chất lượng tốt, không bị mốc mọt.

5.2. Nhu cầu thức ăn:

5.2.1. Cách phối trộn thức ăn:

+ Thức ăn cơ bản: Thông thường lượng hạt đỗ từ 25-30%, ngô, thóc, gạo lứt và thức ăn gà: 70-75%

+ Thức ăn bổ sung (chứa vào máng riêng): Khoáng Premix: 85%, muối ăn: 5%, hạt sỏi: 10%.

5.2.2. Cách cho ăn:

+ Thời gian cho chim ăn: – Buổi sáng lúc 8-9 giờ

– Buổi chiều lúc 14-15 giờ

+ Định lượng: Tùy theo từng lứa tuổi của chim mà chúng ta cho với lượng thúc ăn khác nhau, thông thường là bằng 1/10 trọng lượng cơ thể của chim như:

. Chim dò(từ 2-5 tháng tuổi): 40-50gr TĂ/con/ngày

. Chim nuôi con: 120-130gr TĂ/đôi/ngày

. Chim không nuôi con: 90-100gr TĂ/đôi/ngày

5.3. Nhu cầu nước uống:

Nhu cầu nước cho chim bồ không nhiều. Nhưng cần phải có đầy đủ nước sạch để chim uống tự do, không màu, không mùi. Trung bình mỗi đôi chim cần từ 200ml nước/ngày, có lúc tăng lên 300ml nước/ngày vào những ngày nắng nóng và ít nhất là 150ml nước/ngày vào những ngày trời lạnh.

Phòng bệnh khi nuôi bồ câu:

– Thường xuyên quét dọn, thu gom chất thải vệ sinh xung quanh chuồng trại, máng ăn, máng uống hàng ngày

– Định kỳ tẩy uế, sát trùng lối ra vào và những khu vực xung quanh chuồng trại.

– Hạn chế không để các loài động vật như chó mèo và người tham quan, qua lại khu vực chăn nuôi.

Nguồn: Nongdan.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số bệnh thường gặp ở bồ câu và cách phòng trị

Họ Bồ câu (danh pháp: Columbidae) là một họ thuộc bộ Bồ câu (Columbiformes), bao gồm khoảng 300 loài chim cận chim sẻ. Tên gọi phổ biến của các loài trong họ này là bồ câu, cu, cưu, gầm ghì.

Bệnh thương hàn

Bệnh do vi khuẩn Salmonella gallinacerum và S.enteritidis thuộc họ Enterbacteriacae gây ra. ChủngS. Gallinacerum có độc lực mạnh, gây bệnh cho bồ câu nhà, gà, vịt và nhiều loài chim hoang dã khác. Bồ câu các lứa tuổi đều bị bệnh, nhưng bị bệnh nặng và chết nhiều nhất ở bồ câu dưới một năm tuổi.

Triệu chứng chính: bồ câu bệnh lười vận động, kém ăn, uống nhiều nước. Sốt, đứng ủ rũ, thở gấp, tiêu chảy phân màu xanh hoặc xám vàng, lẫn máu.

Bệnh tích: niêm mạc đường tiêu hóa sung huyết, tụ huyết từng đám. Niêm mạc ruột non và ruột già bóc ra từng đám. Niêm mạc ruột già có hoại tử từng đám. Hạch limphô ruột tụ huyết.

Điều trị:

– Cho cả đàn uống 5 ngày một trong các loại kháng sinh sau: Oracin-pharm (1ml/1,5 – 2 lít nước uống); Enroflox 5% (2g/lít nước uống); Pharmequin, Pharamox G, Ampi-col (1g/lít nước uống); Pharcolivet, Ampi-col pharm (10g/2,5 lít nước uống); Pharmequin-max (1g/2 lít nước uống).

– Đồng thời cho uống kèm Dizavit-plus, 2g/lít nước uống.

Sau khi dừng kháng sinh, cho cả đàn uống men tiêu hóa (Pharbiozym, Pharselenzym) để phục hồi sức khỏe.

Bệnh cầu trùng (Pigeon coccidiosis)

Bệnh cầu trùng thường thấy ở bồ câu non 1 – 4 tháng tuổi với các triệu chứng tiêu chảy phân có nhiều dịch nhầy, đôi khi lẫn máu nên có màu sôcôla. Thông thường cầu trùng gây bệnh ở bồ câu nhẹ hơn ở gà, nhưng có ca bệnh nặng làm bồ câu tiêu chảy suy kiệt dẫn đến chết. Bệnh xảy ra vào vụ xuân – hè và thu – đông. Tại cơ sở ô nhiễm nặng bệnh có thể xảy ra quanh năm. Cầu trùng bồ câu có thể lây qua gà và ngược lại.

Điều trị: Bệnh cầu trùng có thể ghép vi khuẩn đường ruột (E.coli hoặc Salmonella…) cho nên cần điều trị cả 2 bệnh này cùng lúc.

– Pharticoc-plus, 10g/7 lít nước, liên tục 3 ngày, nghỉ 2 ngày rồi cho uống tiếp 2 ngày.

Hoặc Pharm-cox G, 1ml/lít nước uống, liên tục 48 giờ hoặc 3ml/lít nước uống, 8 giờ/ngày, liên tục 2 ngày để diệt cầu trùng.

– Cùng lúc cho uống kèm một trong các loại kháng sinh sau: Oracin-pharm (1ml/1,5 – 2 lít nước uống); Pharcolivet, Ampi-coli pharm (10g/2,5 lít nước); Pharmequin, Pharamox G, Gatonic-plus (1g/lít nước uống)…liên tục 3 – 5 ngày.

Các bệnh về giun, sán

Bệnh giun đũa.

Giun đũa Ascallidiosi columbae gây bệnh ở diều, ruột non, đôi khi ở thực quản. Vòng đời phát triển trực tiếp. Từ lúc cảm nhiễm đến lúc trưởng thành giun cần 37 ngày, có nghĩa mổ bồ câu ngoài một tháng tuổi mới thấy giun trưởng thành. Giun tròn như que tăm, màu trắng ngà. Giun cái dài 20 – 95mm, giun đực dài 50 – 70mm. Triệu chứng chính là bồ câu giảm ăn, gầy, lông xù, tiêu chảy, có khi chết do giun làm tắc ruột. Chim nuôi nhốt cũng bị giun nếu cho ăn thêm cát sỏi.

Bệnh giun ở diều bồ câu.

Bệnh do giun tròn Epomidiostomum uncinatum gây ra. Chúng ký sinh ở niêm mạc diều bồ câu. Giun đực dài 6,5 – 7,3mm, giun cái dài 2,0 – 11,5mm. Chúng gây tổn thương diều bồ câu, có khi gây viêm diều do nhiễm khuẩn thứ phát.

Bệnh sán dây.

Sán dây là loài ký sinh trùng nguy hiểm. Chim bệnh giảm ăn, gầy, đôi lúc tiêu chảy. Có con chết do búi sán làm tắc ruột. Bồ câu có thể nhiễm nhiều loài giun tròn khác. Để điều trị các loài này cho bồ câu uống Decto-pharm, 1g/1,5kgP/lần. 3 tháng tẩy một lần.

Sau tẩy giun sán, cho cả đàn uống 7 ngày men tiêu hóa Pharbiozym (2g/lít nước) và liên tục Phar-M comix để bổ sung khoáng vi lượng. Cho bồ câu bố mẹ uống Teramix-pharm (10g/lít nước) để tăng năng suất sinh sản.

Bệnh nấm diều

Bệnh do nấm Candidia albicans gây ra. Mẫn cảm nhất là bồ câu 1 – 2 tháng tuổi. Bệnh có thể lây qua dụng cụ, thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh. Cũng có thể do dùng kháng sinh phổ rộng dài ngày.

Triệu chứng: Đầu tiên xuất hiện những lớp vảy da màu vàng nhạt ở trong mỏ, có thể bóc tách dễ dàng, không chảy máu. Sau đó tạo những mụn loét ăn sâu xuống ngã tư hầu họng và diều. Chim bệnh ăn ít, tăng trọng kém, gầy, tiêu chảy. Thỉnh thoảng nôn ra chất nhầy lẫn thức ăn, mùi hôi. Diều chim bệnh sa, loét miệng. Chim non bị nặng hơn chim trưởng thành, chậm mọc lông.

Hộ lý: Tiêu hủy hết vật rẻ mau hỏng và phân trong chuồng bồ câu, vệ sinh sạch sẽ. Phun sát trùng chuồng và khu vực chăn nuôi bằng dung dịch chứa Iod, CuSO4 1% hoặc formol 2,5%. Loại tất cả thức ăn nghi nhiễm nấm như Ngô, khô dầu đỗ tương. Cho ăn cám gà đẻ với khối lượng = 1/10 trọng lượng bồ câu.

Điều trị:

– Cho cả đàn uống Nấm phổi GVN, 10g/2,5 – 3 lít nước uống hoặc 10g/30kgP/ngày, liên tục 7 ngày để diệt nấm.

– Cho uống chung với một trong các loại kháng sinh sau: Pharamox G, Pharmequin, Enroflox 5%, Orain-pharm… liên tục 5 ngày để diệt vi khuẩn bội nhiễm.

– Cho ăn/uống Phartigum B, 2g/10kgP/ngày hoặc 2g/lít nước uống để giảm đau, tăng lực.

Tốt nhất hòa tan lượng thuốc cần thiết, phun ướt đều vào cám rồi cho ăn, như vậy bồ câu mẹ vừa mớm được thức ăn lẫn thuốc cho bồ câu con.

Bệnh Niu cát xơn (NCX)

Bệnh Niu cát xơn (NCX) do virus gây ra. Triệu chứng chính: Chim bệnh ủ rũ, tiêu chảy phân màu trắng, đột tử, chân khô, diều căng đầy hơi hoặc thức ăn không tiêu hóa. Tỷ lệ chết có thể lên đến 90%. Có con bị vặn cổ, mặt ngửa lên trên, đi xoay vòng theo phía cổ bị vặn. Có khi đứng không vững, lăn quay ra nền chuồng. Những cá thể bị thần kinh thế này lâu chết nhưng thải mầm bệnh ra môi trường rất nguy hiểm, cho nên cần tiêu hủy.

Xử lý ổ dịch như sau:

A/ Dùng ngay vacxin NCX thẳng vào ổ dịch.

– Đối với chim dưới 1 tháng tuổi nhỏ Laxoota hoặc ND-IB 2 lần cách nhau 14 ngày. Lần đầu có thể nhỏ cho chim trong tuần tuổi đầu tiên.

– Đối với chim trên 1 tháng tuổi nếu trước đây đã nhỏ vacxin phòng NCX, nay tiêm ngay 0,3ml vacxin nhũ dầu hoặc các loại vacxin phòng NCX với liều như tiêm cho gà.

Nếu trước đây chưa dùng vacxin nhỏ lần nào thì nhỏ ngay, 7 ngày sau mới dùng vacxin tiêm.

B/ Kết hợp cho uống kháng sinh (Oracin-pharm, Pharamox G, Pharmequin, Gatonic-plus…) diệt vi khuẩn bội nhiễm và thuốc tăng thể trạng (Dizavit-plus). Dùng phác đồ như điều trị bệnh Thương hàn.

Bệnh mổ lông, rụng lông

Bồ câu mổ lông nhau, đặc biệt chim bố mẹ mổ lông chim con hoặc chim bị rụng lông có thể do chim bố mẹ thiếu khoáng vi lượng, vitamin trong thời kỳ nuôi con, cường độ ánh sáng mạnh, mật độ nuôi dày, stress (tiếng ồn, chó mèo đe dọa…), thức ăn không đảm bảo chất lượng (mốc, mọt), đơn điệu làm lông rụng kích thích con khác mổ, ngoại ký sinh trùng…

Điều trị bằng cách loại bỏ các nguyên nhân kể trên và cho uống thuốc như sau:

– Pharotin-K, 10g/2,5 – 3 lít nước uống, liên tục 7 ngày.

– Phar-Calci B12, 10 – 20ml/lít nước uống, liên tục 7 ngày.

Sau đó bổ sung thường xuyên khoáng vi lượng Phar- M comix, 1g/lít nước uống.

Đối với bồ câu sinh sản định kỳ cho ăn/uống Teramix-pharm (10g/lít nước uống hoặc 1g/kgP/ngày), 5 – 10 ngày/đợt/tháng hoặc liên tục tùy điều kiện từng cơ sở.

Lịch phòng bệnh cho bồ câu

– Trong giai đoạn 3 – 10 ngày tuổi nhỏ vacxin Lasota hoặc ND.IB, 2 tuần sau nhỏ nhắc lại lần 2. Sau đó cứ 1 – 2 tháng cho uống một liều vacxin ND.IB (hoặc Lasota) để phòng bệnh Niu cát xơn và bệnh viêm phế quản truyền nhiễm.

Tốt nhất đối với bồ câu ngoài 1 tháng tuổi tiêm vacxin nhũ dầu với liều 0,3ml/con hoặc H1 (M) tiêm liều như cho gà để phòng bệnh Niu cát xơn. Đối với bồ câu sinh sản một năm tiêm nhắc lại một lần vacxin nhũ dầu.

– Qua 10 ngày tuổi chủng đậu cho bồ câu. Cách dùng và liều dùng như chủng cho gà.

– Định kỳ 2 – 3 tuần, đặc biệt khi thời tiết thay đổi cho uống một đợt 3 ngày một trong các loại kháng sinh sau: Pharamox G, Pharmequin, Ampicol, Pharamox (1g/lít nước uống); Enroflox 5% (2g/lít nước uống); Pharmequin-max (1g/2 lít nước uống); Pharcolivet, Ampi-coli pharm (10g/2,5 lít nước uống)… để phòng bệnh tiêu chảy, hô hấp do vi khuẩn.

Các loại thuốc diệt khuẩn, ký sinh trùng, nấm… dùng phòng trị bệnh Bồ câu như dùng cho gia cầm.

– Một năm 2 lần tẩy giun sán bằng cách cho uống Decto-pharm (1g/1,5kg thể trọng để tẩy giun, sán dây), Pharcado (2g/4kg thể trọng để tẩy giun, sán dây) hoặc Pharcaris (10g/25 – 30kg thể trọng để tẩy giun tròn).

Nguồn: Nongdan.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Phòng, trị bệnh đậu cho chim bồ câu

Hiện nay, phong trào nuôi chim bồ câu đang phát triển. Đã có nhiều gia trại nuôi chim bồ câu với số lượng vài chục đôi đến hàng trăm đôi; khi chăn nuôi với số lượng nhiều, vấn đề phòng chống dịch bệnh càng cần được quan tâm.

Thời tiết mùa xuân và mùa hạ, nhiệt độ và độ ẩm cao, muỗi phát triển nhiều, đây là nguy cơ lây lan bệnh đậu trên đàn bồ câu. Bệnh Đậu ( Nổi trái) Bồ Câu do một chủng pigeon pox virus thuộc họ avipoxvirus gây bệnh nghiêm trọng cho khoảng 60 loài chim và gia cầm có ở khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt các loại chim cảnh: chim hót, bồ câu, hải âu, vẹt…rất dễ mắc bệnh.

Các mụn đậu nổi lên nhiều phần không có lông hoặc chưa mọc lông : mỏ, mép, quanh mắt, đùi, chân..thậm chí mụn đậu mọc trong thanh quản, khí quản. Có hai dạng mụn: khô và loét sùi, ướt do các nhiễm trùng kế phát.

Bệnh gây khó chịu cho chim, với chim non tử vong cao do khó ăn, khó nuốt hoặc nhiễm trùng máu do vi khuẩn kế phát. Chim lớn khỏi bệnh giảm khả năng bay và đua.

Đặc điểm của bệnh đậu ở chim bồ câu

  • Do virus gây ra.
  • Tạo thành các mụn đậu, thường ở những phần không có lông (mào, tích, quanh mắt, chân). Các loại gia cầm đều có thể mắc bệnh.
  • Gây tỷ lệ chết cao cho gà con, chim non.
  • Bệnh xảy ra nhiều vào mùa xuân, mùa thu.

    Đường lây lan của bệnh đậu ở chim bồ câu

  • Chủ yếu qua các vết xây xát ở vùng da không có lông.
  • Lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe.
  • Do muỗi đốt và truyền mầm bệnh từ con ốm sang con khoẻ.

    Triệu chứng của bệnh đậu ở chim bồ câu

  •  Mụn đậu mọc ở những vùng da không lông (mào, tích, xung quanh mắt, chân, mặt trong cánh).
  • Mụn có màu sắc khác nhau, từ màu trắng trong, màu hồng thẫm rồi chuyển sang màu xám.
  • Mụn đậu khô dần, đóng vảy, tạo thành nốt sẹo có màu vàng xám.
  • Trường hợp mụn ở mắt làm cho chim bồ câu bị mù.
  • Mụn đậu mọc trong thực quản, chim bồ câu thường không ăn, uống được và chết.

    Bệnh tích * Dạng hầu họng

    Bệnh tích: mụn đậu mọc trên niêm mạc miệng, thực quản

  • Thường xảy ra ở chim bồ câu non.
  • Gây các vết loét ở miệng, họng.
  • Làm cho chim bồ câu khó ăn, khó thở rồi chết.
  • Trong miệng và họng có lớp màng giả màu vàng xám.
  • Chim bồ câu dễ bị nhiễm vi khuẩn kế phát.

    Phòng bệnh đậu ở chim bồ câu

  •  Phòng bệnh bằng chủng vaccine đậu gà.
  • Vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, dùng thuốc diệt côn trùng theo định kỳ.

    Chống bệnh đậu ở chim bồ câu

  • Cạy mụn đậu và cạo hết bã đậu sau đó bôi dung dịch Glyxerin i-ốt, 1% Xanh Metylen lên mụn đậu (bôi hàng ngày), ít ngày sau mụn đậu sẽ khô dần và tự bong.
  • Trường hợp chim bồ câu bị đậu ở niêm mạc miệng, có thể dùng thuốc sát trùng nhẹ như a-xít bô-ríc 3%.
  •  Bổ sung thêm vitamin, đặc biệt vitamin A. Nếu bệnh nặng cần bổ sung thêm kháng sinh phòng vi khuẩn bội phát.
  • Các chất thải của chim bồ câu, ổ đẻ cần đốt hết.
  • Phun sát trùng tiêu độc thường xuyên trong thời gian chim bồ câu bị bệnh.
  • Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng (cho ăn, uống tốt, bổ sung các thuốc trợ sức, trợ lực) để tăng sức đề kháng cho chim bồ câu.

Nguồn: Tiepthinongnghiep.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi lợn sạch kiếm tiền tỉ mỗi năm

Coi vật nuôi như… con đẻ

Khi mà nuôi lợn trang trại đang bước vào giai đoạn cầm chừng, cầm cự thì Phạm Viết Đức, chủ trang trại lợn Đức Anh tại xóm 12, xã Thanh Hương (huyện Thanh Chương, Nghệ An) vẫn không ngại tăng đàn. Đức có bí quyết! Đương nhiên, trong chăn nuôi ai cũng phải có bí quyết riêng cho mình. Ở Đức còn có tình yêu thật đặc biệt với đàn vật nuôi trong trang trại của mình. Chính tình yêu ấy đã giúp anh luôn trăn trở để tìm ra những con đường mới cho riêng mình và có chỗ đứng vững vàng khi ngành chăn nuôi đang lao đao.

Chủ trang trại lợn Đức Anh tại xóm 12, xã Thanh Hương (Nghệ An)

Đức bỏ dở con đường ĐH để đi học nghề thú y và đến năm 2005 bắt tay vào kinh doanh thức ăn gia súc. Cùng thời gian đó, Đức lập gia trại cách trung tâm thị trấn Thanh Chương vài km, mỗi lứa nuôi vài trăm con, mỗi năm lãi ròng chừng 300 triệu đồng.

Có vốn và có chút kinh nghiệm, năm 2014, Đức dời gia trại vào thành lập trang trại tại xóm 12, xã Thanh Hương cách trung tâm thị trấn 30km. Để mua 4ha đất và đầu tư ban đầu, Đức đã bỏ ra gần chục tỷ đồng. Phải nói, đó là một quyết định táo tợn và có phần mạo hiểm của chàng trai 8x. Nhưng rồi Đức thành công giống như một lập trình đã định sẵn mặc cho biết bao khó khăn chung đang bủa vây ngành chăn nuôi.

Nhiều người còn kể về câu chuyện đi tìm giống vật nuôi “thuần chủng” của Đức. Để có đàn gà cỏ địa phương, Đức một mình rong ruổi từ thượng huyện tới hạ huyện Thanh Chương. Hễ thấy nơi nào có gà chân nhỏ, lông xếp sít nhau, mình thấp, thon… còn mang dáng dấp của gà cỏ Thanh Chương là Đức dừng lại “gạ” mua bằng được.

Nhiều lúc, Đức hào phóng đến mức có thể bỏ cả vài ba trăm nghìn đồng để được sở hữu một chú gà cỏ Thanh Chương chính hiệu, nặng chưa đến 1kg. Chẳng vì thế, chỉ sau một thời gian ngắn, Đức có được đàn gà sinh sản như mình mong ước. Tự tay Đức nhặt từng quả trứng, cho vào lò ấp để có được đàn gà thuần chủng địa phương.

Lúc cao điểm, trang trại của Đức có tới vài ba nghìn con gà thịt, hàng trăm con gà đẻ và thường xuyên có lớp gà con kế cận.

Dù là một ông chủ trẻ, đồng vốn hạn hẹp nhưng Đức sẵn sàng bỏ hàng trăm triệu đồng để đón những đàn lợn phẩm cấp ông bà, bố mẹ từ đất nước Đan Mạch về làm giống. Đức lặn lội vào tận Đồng Nai để đấu giá mua bằng được những con lợn đực Duroc Đài Loan có giá lên đến 50 – 60 triệu đồng. Đó là điều mà nhiều trạm giống chăn nuôi các huyện tại Nghệ An cũng phải mơ ước. Nhiều người nghĩ Đức “chơi trội” và rồi chẳng bao lâu sẽ đổ bể. Nhưng với Đức, ngoài kỹ thuật, công nghệ thì con giống là yếu tố then chốt.

“Cùng một mức đầu tư ban đầu về vốn, kỹ thuật, nhân công… như nhau nhưng nếu có con giống chất lượng có nghĩa là bạn đang nắm chắc phần thắng trong tay. Bạn thử nghĩ xem, bình quân một con lợn nái ngoại đẻ mỗi năm 2,2 lứa, mỗi lứa 13 – 18 con và trọng lượng hơn hẳn lợn nội, còn chất lượng phụ thuộc vào cách nuôi thì chúng ta chọn giống lợn nào? Tôi nghĩ, con giống quyết định 50% thành công của người chăn nuôi”, Đức chia sẻ.

Có trong tay giống tốt, Đức đầu tư cả phòng, hệ thống phương tiện thu và lưu trữ tinh dịch lợn đực giống. Đức thuê lao động có tay nghề thú y cao, trả lương hậu hĩnh để phụ trách trang trại. Nhiều chủ trang trại trong và ngoại huyện Thanh Chương tìm đến trang trại Đức Anh để mua tinh dịch lợn…

Lợn đực giống được chăm sóc tốt

Những đàn lợn cơ bắp cuồn cuộn, đàn gà cỏ lớn lên từng ngày cho đến lúc Đức giật mình chững lại. Đó là thời điểm giá vật nuôi xuất trại liên tục lao dốc chưa có dấu hiệu dừng lại. Đó cũng là lúc Đức tìm đến với công nghệ nuôi lợn an toàn sinh học (ATSH), trước mắt chỉ là để tồn tại. Thế nhưng, “chiến dịch” cầm cự của chàng trai trẻ lại đem về thành công giòn dã.

Lãi từ “gốc” đến “ngọn”

Khi người chăn nuôi ở hầu khắp đất nước này đang ở giai đoạn cầm cự và ngần ngại tái đàn, thậm chí buông xuôi thì Đức vẫn ung dung. Mỗi ngày, đàn lợn từ trang trại của Đức vẫn xuất chuống đều đều như thời kỳ hoàng kim mấy năm trước.

Chuyện Đức đến với chăn nuôi ATSH bắt đầu từ năm 2016. Thời điểm đó, Đức được dự án Jica Nhật Bản chọn làm thí điểm để nuôi lợn, gà ATSH. Nếu đáp ứng được các yêu cầu đối tác đặt ra, trang trại của Đức sẽ được Jiaca “ôm” trọn gói đầu ra cho sản phẩm. Nó như một liều doping thúc đẩy Đức lao vào công việc để đạt bằng được thành quả.

Đàn lợn trong các ô chuồng của Đức dường như chẳng tìm ra đâu được tỳ vết. Trăm con như một, lớn đều như nhau, vai, mông nở, cơ bắp cuồn cuộn như những lực sỹ đấu vật. Đức quả quyết: “Nhìn thế chứ chúng nặng cả trăm kg đấy anh! Về lý thuyết, chúng có thể đạt 70% nạc nếu nuôi công nghiệp và nuôi ATSH có thấp hơn chút ít. Nhưng ở trại của em, tỷ lệ nạc ít nhất cũng đạt 60%”.

Để bước vào nuôi ATSH, cả đàn gà và đàn lợn của Đức dường như được nuôi theo một công thức. Thời gian đầu (45 ngày đối với gà, 2 tháng đối với lợn), đàn vật nuôi được nuôi hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp. Thời gian tiếp sau, đàn vật nuôi được làm quen với thức ăn tự phối trộn và đến non nửa chu kỳ nuôi được cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn do chính Đức phối trộn. Nguồn thức ăn này gồm bột ngô + lúa + cá khô nghiền nhỏ. Chúng được trộn đều với sắn đã ủ chua + nước dẫn theo đường ống vào chuồng nuôi. Ăn thức ăn này, đàn vật nuôi ngừa được một số bệnh thông thường, tuy không nhanh lớn bằng nuôi thức ăn công nghiệp nhưng đổi lại chất lượng thịt thơm ngon hơn hẳn.

“Thông thường, lợn, gà tôi phải nuôi 6 tháng mới xuất chuồng. Trọng lượng vẫn đạt mức tối đa nhưng nếu chỉ nhìn vào màu sắc của thịt thì người không sành ăn sẽ kén mua. Thịt nuôi bằng thức ăn công nghiệp nạc nhiều hơn, màu nạc đỏ hơn, trông rất bắt mắt. Nhưng khách hàng của tôi là các siêu thị, cửa hàng lớn, thậm chí là cá nhân mua về làm quà, có bao nhiêu cũng hết”, Đức quả quyết.

Nhưng để có được thành quả như hôm nay, bản thân Đức cũng phải lăn lộn khắp nơi để tìm thị trường. Lúc đầu, những đề nghị của Đức chỉ nhận được những cái lắc đầu. Chỉ khi trực tiếp sử dụng và chứng kiến quy trình nuôi của Đức khách hàng mới tin tưởng. Đầu ra vật nuôi trong trang trại của Đức rộng mở từ đó.

“Lúc đầu, tôi đi chào hàng khắp nơi. Thậm chí, mổ thịt một con lợn chỉ để đi bán rẻ để khách hàng ăn cho biết nhưng vẫn bị mọi người nghi ngờ. Không nản lòng, tôi tiếp tục “đánh” vào những đối tượng sành ăn. Vượt qua được chính mình cũng chính là lúc tôi được người tiêu dùng đón nhận”, Đức tâm sự.

Thời điểm cuối năm 2017, khi giá lợn hơi nuôi bằng thức ăn công nghiệp chưa nổi 30 nghìn đồng/kg thì lợn nuôi ATSH của Đức vẫn cháy hàng với giá 45 nghìn đồng/kg. Tính ra, mỗi con lợn nuôi ATSH, Đức lãi ròng 1 triệu đồng.

Không chỉ bán lợn hơi, Đức còn có một lò giết mổ gia súc tự xây dựng trong trang trại để mổ lợn đóng cấp đông đem đi nhập cho các nhà hàng, siêu thị tại Nghệ An và Hà Nội. Nhiều chủ hàng đến đặt vấn đề tiêu thụ 15 con lợn/ngày nhưng quy mô trang trại chưa đáp ứng nên Đức chưa nhận lời.

Nằm trong chương trình hỗ trợ của Jica, đến nay, lò mổ của Đức đã được đầu tư hiện đại hơn có thể đáp ứng công nghệ mổ treo, đảm bảo ATVSTP.

Với 1,5ha hồ đập, mỗi năm Đức lãi ròng 100 triệu đồng cá thương phẩm. Nhưng Đức đang dự định sắp tới sẽ chỉ nuôi mỗi cá rô phi để làm thức ăn cho lợn nuôi theo hướng ATSH. Từ đàn gà ATSH, mỗi năm, trang trại xuất ra thị trường gần 7 tấn gà thương phẩm, lãi ròng trên 300 triệu đồng.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Ninh Thuận tổng kết mô hình nuôi vịt biển

Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông Ninh Thuận tổ chức hội nghị tổng kết mô hình thử nghiệm nuôi vịt biển tại các xã Hộ Hải, Phương Hải, huyện Ninh Hải.

Huyện Ninh Hải là địa phương bị ảnh hưởng của tình trạng biến đổi khí hậu, nhất là tình hình nước nhiễm mặn do nuôi tôm. Thời gian qua, huyện đã nghiên cứu đưa vào thử nghiệm các loại vật nuôi thích nghi với điều kiện mặn cao nhưng không hiệu quả.

Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, năm 2017 Trung tâm Khuyến nông Ninh Thuận phối hợp với Phòng NN-PTNT huyện Ninh Hải tổ chức triển khai thí điểm “Mô hình nuôi vịt biển sinh sản thích ứng với biến đổi khí hậu” tại 2 xã nói trên với quy mô 400 con (200 con/hộ/xã).

Giống vịt được chọn nuôi thử nghiệm là Vịt biển 15 – Đại Xuyên (do Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên – Viện Chăn nuôi nghiên cứu và chọn tạo) đã được nuôi thử nghiệm thành công ở nhiều vùng biển các tỉnh có độ mặn cao như Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Trà Vinh và 33 điểm ở huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa.

Vịt biển 15 – Đại Xuyên

Thời gian thử nghiệm nuôi từ tháng 4 đến tháng 12/2017, đánh giá kết quả sơ bộ như sau:

– Tỷ lệ sống chuyển lên giai đoạn đẻ đạt 90,25% (kết quả có 361/400 con còn sống), đạt cao hơn yêu cầu của mô hình 10,25% (≥80%), vịt đạt trọng lượng từ 2,3 – 2,6kg/con mái, 2,5 – 2,8kg/con trống. Trong tổng số 361 con, đã bán thịt 191 con trống và mái với giá 75.000 đồng/con, trừ các khoản chi phí lợi nhuận gần 20.000 đồng/con; góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế 15% so với các hộ nuôi giống vịt địa phương.

– Số vịt còn lại là 20 con trống/150 con mái, tiếp tục nuôi lấy trứng để nhân đàn; tuổi đẻ bói đầu tiên (rớt hột) là 115 ngày (16 tuần 3 ngày). Đến nay vịt đẻ trung bình 65 trứng/đêm, chiếm tỷ lệ 43,33% (qua 12 tuần đẻ); trọng lượng trứng trung bình đẻ bói đầu tiên là 50gr/trứng, giai đoạn đẻ trứng rạ là 65gr/trứng với giá trứng bán thương phẩm từ 3.000 – 3.500 đ/trứng (trọng lượng trứng còn tiếp tục tăng).

– Đánh giá về sự thích nghi cho thấy, nước uống của vịt được chuyển dần từ độ mặn từ 2 phần nghìn lên đỉnh điểm 15 phần nghìn, vịt từ 0 – 2 tuần tuổi uống nước ngọt, từ 2 – 6 tuần tuổi uống nước có độ mặn từ 2 – 12 phần nghìn, vịt trên 6 tuần tuổi uống nước có độ mặn từ 12 – 15 phần nghìn, giai đoạn này vịt có thể bơi lội trong môi trường nước có độ mặn 20 – 25 phần nghìn.

Việc đưa vịt biển vào nuôi thành công tại Ninh Thuận được xem là giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu, khắc phục các nhược điểm của vịt nước ngọt nuôi các vùng nước lợ vào những tháng có độ mặn tăng cao như vịt giảm sản lượng trứng, bị quăn lông và thường hay bệnh đường ruột. Từng bước góp phần giải quyết bài toán sinh kế cho các hộ vùng nước lợ, nước mặn, nơi độ mặn ngày càng tăng do tình trạng xâm nhập mặn.

Từ những kết quả đạt được, mô hình đã giúp bà con vùng ven biển, những khu vực bị xâm nhập mặn có thêm một lựa chọn đối tượng nuôi mới, không những có khả năng phát triển kinh tế gia đình mà còn thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.