Nuôi gà nòi lai theo mô hình sinh học

Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư (KNKN) Kiên Giang vừa phối hợp với các tổ kinh tế kỹ thuật và nông dân xây dựng mô hình nuôi gà nòi lai theo hướng an toàn sinh học với tổng số 3.000 con.

Mô hình triển khai tại 2 huyện Châu Thành, An Biên và TX.Hà Tiên từ tháng 5/2014. 15 hộ nuôi thử nghiệm áp dụng phương thức nuôi trong chuồng bao lưới kết hợp với thả vườn để giảm chi phí đầu tư thức ăn. Nông dân tham gia được Trung tâm KNKN Kiên Giang hỗ trợ 60% tiền giống, 30% tiền thức ăn.

Nuôi gà nòi lai theo mô hình sinh họcGà nòi lai nuôi theo hướng an toàn sinh học ở Kiên Giang.

Theo kỹ sư Lê Thị Lượt – Trưởng phòng Khuyến nông, Trung tâm KNKN Kiên Giang – các hộ sử dụng thức ăn công nghiệp giai đoạn đầu (nuôi trong chuồng), sau chuyển ra thả vườn và cho ăn kết hợp với lúa. Quá trình nuôi, đến nay chưa xảy ra dịch bệnh do thực hiện đúng quy trình, tiêm phòng theo lịch hướng dẫn. Kết quả ở một số điểm nuôi ban đầu cho thấy, tỷ lệ gà nuôi sống đạt 96%, khi xuất chuồng (2,5 – 3 tháng tuổi) đạt bình quần 1,4 – 1,5kg/con. Ứớc tính sau khi trừ chi phí, mỗi hộ nuôi lãi 3,2 triệu đồng.

Anh Nguyễn Văn Thơm – ngụ ấp Xẻo Rô, xã Hưng Yên, huyện An Biên – cho biết, bước đầu cho thấy nuôi gà nòi lai theo hướng an toàn sinh học dễ nuôi, thích ứng với môi trường. Đàn gà thả nuôi đợt đầu (200 con), gia đình đã thu về gần 6 triệu đồng tiền lãi. Nhận thấy nuôi gà nòi lai theo hướng an toàn sinh học dễ nuôi, hiệu quả kinh tế khá cao, nhiều nông dân tiếp tục nuôi đợt hai với số lượng gấp nhiều lần đợt nuôi đầu.

Theo kỹ sư Lê Thị Lượt, mô hình này sử dụng chế phẩm Balasa trong xử lý môi trường. Nuôi bình thường như mọi khi, nếu không sử dụng chế phẩm này, người nuôi phải thay đệm lót trong vòng từ 2 – 3 tuần vì chuồng sẽ bốc mùi hôi khó chịu. Khi sử dụng Balasa trong đệm lót, gần 3 tháng vẫn không cần phải thay đệm lót, nhưng không hề thấy mùi hôi. Sử dụng Balasa còn giảm được chi phí vì không cần phải thay đệm lót thường xuyên.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ứng dụng công nghệ đệm lót sinh thái trong chăn nuôi

Dự án khoa học công nghệ cấp tỉnh: “Nhân rộng mô hình đệm lót sinh thái trong chăn nuôi gia súc, gia cầm” do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Bắc Giang triển khai từ tháng 4/2011 đến nay trên địa bàn các huyện Yên Thế và Tân Yên đã mang lại nhiều lợi ích.

279 hộ gia đình ở các xã Đồng Tâm, Phồn Xương, Tân Hiệp của huyện Yên Thế và các xã Liên Chung, Liên Sơn của huyện Tân Yên được lựa chọn tham gia mô hình chăn nuôi lợn, gà sử dụng công nghệ đệm lót sinh thái.

Ngoài ra, cơ quan chủ trì dự án còn tổ chức tập huấn kỹ thuật làm đệm lót sinh thái, cấp chứng chỉ cho 30 cán bộ khuyến nông, thú y và các hộ nông dân; tổ chức 10 lớp tập huấn chuyển giao công nghệ đệm lót sinh thái cho 750 lượt người tham gia dự án.

Tại các xã Liên Chung và Liên Sơn Sơn của huyện Tân Yên, có 50 hộ dân đã tham gia mô hình chăn nuôi lợn thịt bằng đệm lót sinh thái với quy mô 1.000m2 chuồng nuôi.

Qua theo dõi, phân tích cho thấy, lợn nuôi trên đệm lót sinh thái tăng trọng tốt hơn, ít bị mắc bệnh và ít bị tái phát bệnh hơn so với lợn nuôi trên nền chuồng láng xi măng.

Nguyên nhân là do chăn nuôi trên đệm lót sinh thái đã tạo một môi trường có tiểu khí hậu tốt, trong sạch, không ô nhiễm; sự tác động của các vi sinh vật có ích trong đệm lót lên men đã gây ra sự ức chế và tiêu diệt đối với các vi trùng gây bệnh trong chuồng nuôi.

Chăn nuôi lợnChăn nuôi lợn

So sánh cụ thể với đàn lợn đối chứng, đàn lợn nuôi trên nền đệm lót sinh thái đã giảm hơn 1/2 số con bị mắc bệnh tiêu chảy, hầu như không có con nào bị mắc bệnh hô hấp, khả năng tăng trọng cũng tốt hơn.

Trong khi đó, mô hình chăn nuôi gà thịt, gà đẻ bằng đệm lót sinh thái tại các xã Tân Hiệp, Đồng Tâm, Phồn Xương của huyện Yên Thế với quy mô 12.500m2 chuồng nuôi của 229 hộ tham gia cũng cho những kết quả khả quan.

Khi sử dụng nền độn lót lên men vi sinh vật, phân và chất thải được phân hủy thường xuyên, làm cho không khí chuồng nuôi sạch sẽ và khô ráo hơn, từ đó nâng cao tỷ lệ nuôi sống của gà.

So với đối chứng, đàn gà chăn nuôi trên nền đệm lót sinh thái đã giảm khoảng 1/3 mắc các bệnh về hô hấp, tiêu hóa và một số bệnh khác.

Đánh giá về một số chỉ tiêu kỹ thuật và môi trường cũng cho thấy, hàm lượng khí thải NH3, H2S tại các chuồng nuôi gà, lợn bằng đệm lót sinh thái thấp hơn 2,67-3 lần so với chuồng nuôi không sử dụng nền đệm lót sinh thái, nhờ đó đã giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi.

Ngoài những ưu điểm trên, chăn nuôi công nghệ đệm lót sinh thái còn giúp giảm khoảng 80% công lao động do trong suốt quá trình nuôi người chăn nuôi không phải dọn chuồng; giảm chi phí tiền điện, tiền mua thuốc thú y; không gây ô nhiễm môi trường chuồng nuôi cũng như môi trường xung quanh.

Chăn nuôi đệm lót sinh thái còn giúp giữ ấm cho vật nuôi vào mùa đông do vậy sẽ giảm chi phí tiền điện do phải sưởi ấm cho vật nuôi vào mùa đông; phân và nước tiểu của vật nuôi được xử lí ngay tại chuồng nuôi nên không phải xử lí phân mà sử dụng trực tiếp bón cho cây trồng.

Hiện tỉnh Bắc Giang có đàn lợn khoảng 1,2 triệu con và đàn gia cầm gần 16 triệu con.

Từ những kết quả đạt được của mô hình, thời gian tới tỉnh Bắc Giang sẽ tiếp tục ứng dụng rộng rãi công nghệ đệm lót sinh thái trong chăn nuôi gia súc, gia cầm để góp phần nâng cao giá trị ngành chăn nuôi và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cấy truyền phôi động vật trong việc nhân giống bò thịt, bò sữa cao sản

Trước nhu cầu ngày càng cao về nguồn sữa bò của thị trường trong nước và quốc tế, từ tháng 1 – 20016, Trung tâm khuyến nông tỉnh Đồng Nai đã bắt tay vào thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cấy truyền phôi động vật trong việc nhân giống bò thịt, bò sữa cao sản” tại 2 điểm là: Công ty cổ phần bò sữa Đồng Nai và xã Lộc An, huyện Long Thành. Đến nay, đề tài đã cơ bản đạt được các mục tiêu đặt ra và báo cáo sơ kết trước Hội đồng khoa học tỉnh

Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cấy truyền phôi động vật trong việc nhân giống bò thịt, bò sữa cao sản

Cấy truyền phôi (CTP) được xem là biện pháp đặc biệt, áp dụng công nghệ cao trong việc sớm tạo ra những con giống tốt làm hạt nhân của đàn bò sữa. Công nghệ CTP giúp nâng cao khả năng chống bệnh cho bò, nhân nhanh các giống tốt, quý hiếm ra thực tế sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng di truyền của những cá thể cái cao sản; nâng cao khả năng sinh sản, tăng năng suất sữa, thịt, làm ngắn thời gian tuyển chọn giống vì một con bò cho phôi có thể tạo ra nhiều bê chất lượng cao trong một năm, dành kinh phí đầu tư chuồng trại, thức ăn và nhân công. Thực tế, CTP bò đã được nghiên cứu, ứng dụng vào Việt Nam từ những năm 1980 tại Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, tuy nhiên số lượng còn hạn chế. Hơn nữa ở Việt Nam nói chung và ở Đồng Nai nói riêng, việc nhập nhiều bò sữa ngoại làm bò nền rất khó thực hiện, một phần vì tốn kém, một phần vì bò ngoại rất khó thích nghi với khí hậu nước ta.

Vì vậy, việc lựa chọn những con bò cái có năng suất sữa, thịt cao sẵn có tại địa phương để làm bò cho phôi và sử dụng bò nền Lai Sind hoặc bò cái sữa lai Hà Lan F1, F2 năng suất thấp để làm bò nhận phôi bằng cách gây động dục đồng pha với bò cho phôi là rất cần thiết để tăng nhanh số lượng bò sữa, bò thịt có chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau quá trình thử nghiệm, cho thấy: Qui trình gây rụng trứng nhiều trên bò cho phôi có 2 công thức đạt kết quả cao và các loại hoocmon sử dụng dễ tìm trên thị trường, giá thành thấp. Để gây động dục đồng loạt và động dục đồng pha cho bò nhận phôi thì thực hiện quy trình 2 (tiêm PMSG + PG-F2α) là hiệu quả nhất. Kết quả ựanghiên cứu của đề tài cũng cho biết, thời gian thu phôi tốt nhất được chọn vào ngày thứ 7 sau khi phối giống. Ở thời điểm này, phôi ở giai đoạn phôi dâu, phôi nang khá bền vững. Nếu thu sau ngày thứ 8 thì có khả năng phôi đã phát triển tới giai đoạn phôi nang già, chui ra khỏi màng trong suốt, sẽ khó tìm phôi và khả năng phôi bị tổn thương cũng rất cao.

Trong điều kiện chăn nuôi nông hộ, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp thu phôi không phẫu thuật để tiến hành lấy phôi từ bò cho; dung dịch sau khi dội rửa được soi dưới kính hiển vi soi nổi để tìm phôi; sau đó nâng độ phóng đại lên để phân loại. Những phôi điển hình cho giai đoạn phát triển, không có khuyết điểm gì, hoặc phôi đúng với giai đoạn phát triển, màu sắc tế bào đẹp, có một vài tế bào tách rời được chọn để cấy cho bò nhận hoặc đông lạnh bảo quản phôi ở dung dịch Nitơ lỏng – 196oC.

Các sản phẩm đề tài đã thu được là: Phôi bò sữ cao sản từ thu phôi siêu bào noãn là 237 phôi; phôi bò sữa cao sản dông lạnh từ thu phôi siêu bào noãn là 107 phôi; bê con cấy hợp tử tươi cho bò Lai Sind hoặc bò lai F1 là 28 con; bê con từ cấy hợp tử đông lạnh là 25 con.

Hội đồng khoa học cũng đánh giá tính ứng dụng cao cũng như hiệu quả kinh tế mà đề tài sẽ mang lại khi nghiên cứu thành công, đồng thời đóng góp ý kiến cho nhóm tác giả đề tài đó là cần tiếp tục theo dõi bệnh của bò sau khi CTP và sức khoẻ của bê con sinh ra, nhanh chóng mở các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật CTP cho các cán bộ kỹ thuật để kết quả nghiên cứu nhanh chóng được ứng dụng, thực hiện được các mục tiêu mà đề tài mong muốn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nhân giống cây lô hội bằng nuôi cấy mô tế bào

Trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ và công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc vừa ứng dụng thành công công nghệ nuôi cấy mô tế bào để nhân rộng cây lô hội – một dược liệu quý ở địa phương.

Qua 16 công thức thí nghiệm, Trung tâm đã tìm ra được một công thức nhân giống đạt hiệu quả cao nhất: Ngay trong ống nghiệm các chồi đã có chiều cao 3 cm, tỷ lệ ra rễ phát triển 100%, số rễ trung bình từ 5,1-5,3 rễ/chồi.

Sau khi đem trồng ở môi trường tự nhiên, tỷ lệ cây sống đạt trên 81%, chiều cao cây giống sau ống nghiệm đạt 10,5 cm, trọng lượng đạt 16 g, cây sinh trưởng và phát triển khoẻ mạnh, thích hợp với mọi môi trường sống.

Với phương pháp cũ như tách chồi thụ động hoặc giâm cành, mỗi năm một cây chỉ cho từ 10-15 chồi, chu kỳ cây con dài, sau 3 tháng tách khỏi mẹ mới trở thành cây sinh trưởng độc lập.

Mỗi cây lô hội giống sản xuất bằng phương nuôi cây mô tế bào có giá trên 800 đồng, không cao hơn nhiều so với giống sản xuất bằng phương pháp truyền thống.

Lô hội là một loài cây có tác dụng chữa vết thương, tiêu nhanh mụn nhọt, làm thuốc tiêu độc, nhuận tràng; đồng thời lại là loại thực phẩm bổ dưỡng, dưỡng da, tẩy mụn nhọt. Vì thế, việc nhân nhanh giống cây sạch bệnh và đồng đều bằng phương pháp nuôi cây mô tế bào, đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hóa ở địa phương.

Việc ứng dụng thành công công nghề nuôi cây mô tế bào cây lô hội còn giúp cho ngành dược nước ta vừa lưu giữ và nhân nhanh nguồn gene quý.

Hiện nay, Trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ và công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc đang mở rộng quy mô nhân giống, giảm giá thành, cung cấp cho nhu cầu sản xuất trong và ngoài tỉnh.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Thiết kế công trình nuôi thương phẩm tôm càng xanh trong ruộng lúa

Thủy sản là một trong những ngành mũi nhọn trong nền kinh tế của nước ta hiện nay. Vì thế các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao đang được người dân chú trọng đầu tư và phát triển.Tôm càng xanh cũng là một trong những đối tượng đó.

Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberggi sống trong môi trường nước ngọt, có thể nuôi trong ao, ruộng cấy lúa, là sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế, có nhu cầu ở thị trường trong và ngoài nước.

Mô hình nuôi Tôm càng xanh trong ruộng lúa

Việc nuôi Tôm càng xanh trong ruộng lúa cần phải có sự chuẩn bị về mô hình nuôi một cách khoa học và phải đáp ứng các yêu cầu sau:

  • Cơ cấu chất đất phải giữ được nước.
  • Gần nguồn nước ngọt tốt để có thể cấp tiêu nước dễ dàng. Tốt nhất là có thể trao đổi nước theo thuỷ triều.
  • Đất không bị nhiễm phèn, độ pH của nước từ  6,5 trở lên
  • Không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp và nước bẩn
  • Tiện đi lại và chăm sóc quản lý
  • Diện tích ruộng nuôi dao động từ  0,5 – 5,0 ha tuỳ theo từng điều kiện cụ thể.
  • Ruộng nuôi phải có đê bao kiên cố để đảm bảo giữ được mức nước tối thiểu trên mặt ruộng là 0,6 m. Mặt bờ đê rộng 1,2 – 1,5 m, chân bờ rộng 3,0 – 4,0 m, cao 1,2 m. Vào mùa lũ nên chắn lưới quanh bờ để ngăn không cho tôm ra ngoài khi mức nước cao hơn bờ đê.
  • Ruộng phải có mương bao rộng 3,0 – 4,0 m, sâu 0,8-1 m so với mặt ruộng. Mặt đáy của mương bao có độ nghiêng về phía cống thoát nước. Diện tích mương bao chiếm khoảng 20 – 25 % tổng diện tích.
  • Ruộng nuôi nên thiết kế cống cấp và thoát riêng.

Việc chọn nuôi tôm càng xanh của  bà con nông dân mặc dầu gặp khá     nhiều khó khăn tuy nhiên nếu áp dụng quy trình nuôi một cách khoa học, hợp lý chắc chắn sẽ giúp bà con đạt được năng suất nuôi hiệu quả nhất.

Chúc bà con thành công!

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Dưa chuột lựa vụ mang lại thu nhập cao

Trước và sau tết đến nay, trên các vùng trồng dưa chuột tập trung của huyện Gia Lộc (Hải Dương) ngày nào cũng có hàng chục tư thương thu mua tại đầu bờ với giá cao.

                                                ruộng dưa chuột

Thời gian qua, nhiều loại nông sản rớt giá thảm hại, giá bắp cải chỉ còn 1.000 – 1.500 đ/kg, su hào 600 – 700 đ/củ, cà chua 1.000 – 1.500 đ/kg, giá thịt lợn hơi, giá  tăng chậm, nhiều hộ nông dân không có lãi. Trong khi đó, một số hộ rất phấn khởi vì biết vận dụng quy luật cung cầu của thị trường, trồng rau, quả trái vụ, lựa vụ cho thu nhập cao.

Trước và sau tết đến nay, trên các vùng trồng dưa chuột tập trung của huyện Gia Lộc (Hải Dương) ngày nào cũng có hàng chục tư thương thu mua tại đầu bờ với giá cao. Kẻ mua và người bán đều phấn khởi, giá dưa chuột có ngày lên đến 25.000 đ/kg, cuối tháng 2 giá dưa vẫn giữ mức 6.000 – 7.000 đ/kg. Ước tính mỗi sào dưa chuột lựa vụ sau khi trừ hết chi phí về giống, làm đất, phân bón, dóc làm giàn, thuốc BVTV còn thu nhập ngày công và lãi từ 6 – 7 triệu đồng, 1 ha thu nhập trên 160 triệu đồng trong khoảng thời gian trên 3 tháng.

Theo phòng NN-PTNT Gia Lộc, diện tích trồng dưa chuột đông xuân sớm toàn huyện là trên 30ha, ước giá trị sản xuất đạt trên 8 tỷ đồng.

Ông Đỗ Văn Thê ở thôn Đông Thượng, xã Đồng Quang chia sẻ: “Nhà tôi trồng dưa chuột đã nhiều năm. Những năm trước đây trồng giống dưa chuột Yên Mỹ của Hưng Yên. Qua tìm hiểu, tham quan khu đồng trồng trình diễn giống Dưa chuột nếp số 1 của Viện Cây lương thực – cây thực phẩm, tôi trồng 2 sào 3 thước. Dưa chuột nếp số 1 chịu rét khá tốt, phân nhánh khỏe, ít nhiễm sâu bệnh hơn hẳn so với giống dưa chuột Yên Mỹ, sau trồng khoảng 45 ngày cho thu quả lứa đầu.

Về thời vụ, phải gieo cấy kết thúc trước ngày 15/12, thời gian cây trong bầu 12 – 15 ngày. Vụ đông xuân ít nắng, rét nhiều nên làm luống trồng theo hướng Đông Tây, bón lót nhiều phân chuồng hoai mục trung bình 1 sào khoảng 5 tạ, bón phân lân và kali nhiều, giảm lượng đạm so với các vụ khác.

Để chống rét cho cây con dùng khum và nilon trắng. Dùng bạt che hướng Bắc và Đông Bắc cao khoảng 2,5m để giảm bớt hiện tượng táp lá do gió. Mặc dù, trồng vụ đông xuân sớm năng suất có giảm hơn so với chính vụ nhưng thu nhập cao, đặc biệt là năm nay 1 sào dưa chuột thu bằng gần 1 mẫu su hào”.

Ông Đỗ Văn Hồng ở xã Đồng Quang vui vẻ cho biết: “Để trồng dưa chuột đông xuân sớm phải dùng các giống chịu lạnh như Dưa chuột nếp số 1 là rất thích hợp, chịu rét khá tốt, hình thức đẹp, quả dài 18 – 25cm, đặc ruột, ăn giòn, vị đậm, vỏ quả màu xanh và có gai, được thị trường ưa chuộng, dễ bán, giá cao hơn so với các giống dưa chuột khác.

Năm nay, thời tiết ấm, khô nên dưa chuột sinh trưởng khá tốt, ít bệnh cho năng suất khá 8 – 9 tạ/sào. Ở xã tôi mọi nhà đều gieo cấy từ ngày 10 đến hết tháng 11 âm lịch. Nhà tôi gieo đầu tháng 11 nên thu lứa đầu trước tết. Năm nay dưa chuột sớm là nhất, mỗi sào thu 9 – 10 triệu đồng”.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mô hình trồng huệ trắng

Mạnh dạn chọn cho mình hướng đi riêng, đến nay, ông Đỗ Văn Bảy đã thu về hơn 100 triệu đồng/tháng nhờ mô hình trồng huệ trắng. Ông Bảy (65 tuổi, ngụ ấp Trường Thạnh A, xã Trường Thành, H.Thới Lai, TP.Cần Thơ) cho biết trước đây, ông từng làm ruộng, trồng rẫy, nuôi tôm… nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong hoàn cảnh đó, ông luôn trăn trở tìm một loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để giúp gia đình vượt qua khó khăn, vươn lên làm giàu.

Năm 2010, một lần đi Đồng Tháp, ông thấy người dân trồng bông huệ trắng bán được giá cao, đầu ra ổn định nên có ý định trồng thử. “Ban đầu tôi cũng băn khoăn không biết cây huệ trắng có thích nghi với vùng đất này hay không, rồi tới lúc thu hoạch biết bán cho ai.

trồng hoa huệ trắng

Nghĩ tới lui tôi vẫn quyết tâm trồng vì mình không có gan thì sao làm giàu”, ông Bảy chia sẻ.

Sau chuyến đi, ông về quê vay vốn cải tạo 3 công đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng huệ trắng. Lúc này ở địa phương chưa có ai trồng huệ trắng nên ông Bảy phải tự tìm mua giống, học hỏi kinh nghiệm chăm sóc cây. Thời gian đầu, hầu như suốt ngày ông ở ngoài ruộng theo dõi sự phát triển của cây huệ để kịp thời phát hiện sâu bệnh, bổ sung các loại phân bón cho cây. Sau 4 tháng, ruộng huệ của ông phát triển tốt, cho bông thẳng, đẹp. Đợt thu hoạch đầu tiên, ông bán được gần 10 triệu đồng.

Thấy trồng bông huệ đem lại hiệu quả khả quan hơn các loại cây khác, 3 người con trai của ông Bảy cũng theo cha phát triển diện tích trồng huệ. Từ 3 công ban đầu, sau 6 năm, gia đình ông đã mở rộng lên gần 4 ha trồng bông huệ. Ông Bảy cho biết, đối với bông huệ, khâu làm đất rất quan trọng. Đất trồng cần màu mỡ, được lên liếp cao tránh ngập úng; đồng thời phải đào hệ thống mương dẫn để cung cấp nước tưới và thoát nước trong mùa mưa lũ. Trước khi trồng phải cày xới đất cho tơi xốp để tăng lượng ô xy trong đất, giải phóng khí độc và bón lót một số loại phân. Củ huệ trước khi vùi xuống đất được ông phơi khô, khử các mầm bệnh để khi lớn, bụi huệ sẽ nảy nhanh hơn, bông to đẹp, không bị chai cứng. Mỗi bụi huệ ông trồng từ 4 – 5 củ, cách nhau khoảng 40 cm. Trong thời gian trồng bón thêm phân u rê, DAP giúp cây phát triển tốt; đồng thời phun các loại thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ các loại bệnh úng lá, sâu đục bông… Đặc biệt, người trồng cần thường xuyên kiểm tra gốc để tránh bệnh nấm gốc dẫn đến thối củ.

Thời gian trồng huệ tính từ lúc vùi củ đến thu hoạch khoảng 4 tháng. Đặc điểm của huệ trắng là ra bông quanh năm, từ 3 – 4 ngày nhổ bông một lần. Huệ sẽ cho bông liên tục khoảng 3 – 4 năm mới phải trồng lại đợt mới. Hiện huệ loại 1 có giá 3.000 đồng/cành, loại 2 khoảng 2.000 đồng/cành. Vào những ngày rằm, giá huệ từ 4.000 – 5.000 đồng/cành, riêng dịp Tết Nguyên đán giá tăng lên 10.000 – 12.000 đồng/cành. Thay vì đi qua khâu trung gian, ông cùng các thành viên trong gia đình liên hệ trực tiếp với bạn hàng để bán được giá cao hơn. Mối hàng của ông Bảy có ở khắp nơi, từ TP.Cần Thơ đến các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… Trung bình mỗi đợt ông giao khoảng 25.000 cành, riêng dịp lễ tết có thể lên đến 100.000 cành/đợt. Tính ra trung bình mỗi tháng, gia đình ông Bảy thu về hơn 100 triệu đồng.

Mô hình trồng hoa huệ trắng của ông Bảy vài năm qua trở thành điểm tham quan, học hỏi kinh nghiệm của nhiều nông dân trong, ngoài tỉnh. Ông cũng thực hiện được ước mơ thoát nghèo, xây được nhà cửa khang trang và giúp các con lập nghiệp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp

Ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong lĩnh vực nông nghiệp được coi là giải pháp đột phá xây dựng nền nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, việc đầu tư nghiên cứu ứng dụng CNSH vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, đến hết năm 2010, Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực nông nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 đã phê duyệt đưa vào thực hiện được 90 nhiệm vụ khoa học công nghệ (78 đề tài và 12 dự án sản xuất thử nghiệm), trong đó có 35 đề tài kết thúc năm 2010.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định, các kết quả nghiên cứu đã tạo ra hoặc tiếp nhận và làm chủ được một số CNSH hiện đại đưa vào ứng dụng hiệu quả chủ yếu tập trung ở những lĩnh vực chính như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, vật nuôi.

Nhiều địa phương đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử như việc triển khai 14 đề tài chọn tạo giống cây trồng nông, lâm nghiệp bằng phương pháp chỉ thị phân tử đã chọn tạo được 7 giống lúa chịu hạn, 2 giống lúa kháng đạo ôn, 4 giống lúa kháng rầy nâu, 2 giống lúa thơm chất lượng cao, 2 giống chè có triển vọng về năng suất, chất lượng, 8 giống bông kháng bệnh xanh lùn… Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên 250-300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nghiên cứu CNSH đã được ứng dụng vào sản xuất thì vẫn còn một số đề tài CNSH vẫn chỉ là thí nghiệm, nhiều nhiệm vụ chậm triển khai thậm chí không ít đề tài đang nằm lưu cữu trong phòng thí nghiệm.

Theo các chuyên ngành nông nghiệp, nguyên nhân chậm triển khai đưa các ứng dụng CNSH vào sản xuất nông nghiệp, vẫn là lực lượng nghiên cứu CNSH còn mỏng, kinh phí đầu tư quá thấp… Trong khi đó, một số nội dung nghiên cứu thì rộng bao gồm tất cả các lĩnh vực sản xuất của ngành nông nghiệp.Đó là chưa kể đến các nghiên cứu có sự trùng lắp về nội dung với chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước về CNSH và chương trình bảo tồn quỹ gen do Bộ Khoa học & Công nghệ quản lý…

Theo Bộ trưởng Cao Đức Phát o đặc điểm của một đất nước chủ yếu người dân sinh sống bằng nghề nông, vì vậy, chính phủ chỉ đạo tiếp tục thực hiện Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực NN&PTNT giai đoạn 2011-2015 là hết sức cần thiết, nhưng phải có bước đi và cách làm phù hợp. Công tác nghiên cứu nên tập trung vào việc chọn tạo, nhân giống cây trồng, vật nuôi, giống thuỷ sản cho năng suất, chất lượng cao; phòng, trừ dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản; nghiên cứu phát triển các quy trình công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…

Ðể các thành tựu nghiên cứu sớm ứng dụng thành công vào đồng ruộng, tránh tình trạng nghiên cứu xong rồi để lại “ngâm cứu“, Bộ NN&PTNT khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, địa phương tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển CNSH trong khuôn khổ chương trình; phối hợp với các đơn vị quản lý từ Trung ương đến địa phương và doanh nghiệp tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá các kết quả nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất… Cùng với đó, tạo điều kiện cho các cơ sở khoa học mở rộng liên kết, tổ chức đào tạo và nhập khẩu công nghệ, thiết bị của nước ngoài mà trong nước chưa triển khai thực hiện các dự án nghiên cứu ứng dụng.

Các chuyên gia ngành này cho rằng cần có chế độ ưu đãi, hỗ trợ với mức cao cho công tác nghiên cứu khoa học, có như vậy mới kích thích được “chất xám” của đội ngũ cán bộ có trình độ giỏi, tâm huyết gắn bó với nghề nông.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Rắn ri voi

Rắn ri voi là vật dễ nuôi. Con giống hiện chỗ tôi không đủ cung cấp. Nhu cầu bà con cần đến tháng 12 năm nay là 10 triệu con giống, mà khả năng tôi chỉ cung ứng chừng 250.000 – 300.000 con. Bảy tháng rưỡi chúng mới đẻ một lần. Để bán rắn đúng thời điểm nên nuôi từ tháng 5 âm lịch.                                                         rắn ri voi

– Vốn đầu tư cho một ao rắn không nhiều tiền. Nhưng ao không nên quá 2000 m vuông mặt nước, mật độ nuôi có thể từ 10-185cn/ m vuông. Cứ muốn tăng trọng 1kg thịt rắn, chúng ta cần 10 kg thức ăn. Rắn ri voi con sinh ra3-4 giờ đã tự biết tìm thức ăn. Lúc nhỏ, rắn ăn cá trê, nhái, cá chốt đỏ, lúc lớn lên ăn tốt hơn. Rắn này cũng thuộc loại ăn tạp.
– Cách chăm sóc rắn ri voi thật sự cũng không có gì phiền phức, chưa bao giờ thấy rắn bị dịch, chỉ xuất hiện nấm, đẹn khi nước quá dơ. Chúng ta cố gắng giữ nguồn nước sạch. Ao (hồ) nuôi rắn xây âm xuống 1m, cao lên khỏi mặt đất 1,2m; bơm rửa cho sạch, đừng để xi măng xây dựng hòa trong nước nuôi. Nếu chỗ nuôi có cống ra – vào sông nước sạch thì tiện, nếu không, tốt hơn hết, một tháng thay nước 1 lần. Thường bà con hay hỏi làm sao phân biệt rắn ri voi và rắn ri cá.
– Rắn ri cá lưng đen sẫm, bụng trắng, hai bên có hai dãy nút đen chạy dọc theo bụng dài 30-40cm. Thịt rắn ri cá người tiêu dùng cho là ít dinh dưỡng, tanh, lạt; chỉ bán trong nước 1 con 600g bán 70.000 – 80.000 đồng.
– Rắn ri cá bặt một thời gian không xuất hàng được, mới đây Trung Quốc, Đài Loan, Đan Mạch, Nhật Bản đã “ăn” hàng lại. Họ dùng da rắn ri cá làm giày, dép, bóp, dây nịt, còn rắn ri voi họ ăn thịt.
– Rắn ri voi thịt thơm, nhiều dinh dưỡng, dài chừng 20cm, bụng màu vàng, trên lưng vàng sẫm, có một vằn ngang dưới bụng sẫm vàng hơn màu bụng. Bình quân 1kg rắn ri voi con khoảng 10.000 đồng; rắn ri cá chừng 5.000 – 6.000 đồng là cao.
– Với những người mới nuôi rắn ri voi lần đầu, nên nuôi chỗ có nước ra vào hoặc đặt cống dẫn nước từ sông nước sạch vào ao nuôi. Mực nước ao nuôi khi nước lớn chỉ chừng 1m, nước ròng còn 6-7 tấn là tốt nhất. Không phải thay nước. Xung quanh ao, trồng rau cỏ cho rắn núp nắng, đừng để rắn tụ vào một nơi (thí dụ: mỗi mét khối nước có tới 10 kg rắn tụ vào) và chỗ khác trống, nắng thì dễ ô nhiễm…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Nuôi rắn và chăm sóc rắn theo mùa

Lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng khí hậu riêng biệt theo phân loại khí hậu Köppen:

   

     * Miền bắc: mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm ấm, kiểu khí hậu này thông thường xảy ra ở các bờ biển phía đông. mùa đông có thể khô và lạnh hơn so với các khu vực khác, do hệ thống áp cao Siberi, và mùa hè rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió
* Bắc trung bộ: là khí hậu nhiệt đới gió mùa, kiều khí hậu này có tháng khô nhất (diễn ra gần như ngay thời điểm hay chỉ ngay sau khi có đông chí cho nửa đó của đường xích đạo) với lượng giáng thủy ít hơn 60 mm
* Miền nam và nam trung bộ: mang đặc điểm nhiệt đới Xavan, kiểu khí hậu mùa khô rõ rệt, với tháng khô nhất có lượng giáng thủy nhỏ hơn 60 mm
– Thời tiết lạnh hoặc nhiệt đô thay đổi gây ảnh hưởng không tốt hầu hết các loài động thực vật. Rắn là loài chịu nóng, vì vậy nuôi và chăm sóc rắn chịu ảnh hưởng theo từng vùng và nhiệt độ, rắn thường bị nhiễm bệnh và thay đổi tâp tính theo thời tiết như sau:
Mùa nóng:
– Rắn ăn uống bình thường và hay phơi nắng để  tạo hiệu ứng từ nhiệt nhằm thay đổi nhiệt độ cơ thể để hỗ trợ quá trình chuyển hóa thức ăn và khử trùng trên da. Đồng thời bổ sung thêm nguồn Vitamin D dưới tác dụng của ánh nắng mặt trời. rắn cần phơi nắng khoảng 10 phút tự tổng hợp Vitamin D. Vitamin D có vai trò trung gian trong quá trình tổng hợp và tăng canxi máu, phospho máu, tăng thải canxi niệu và tác dụng chủ yếu trên các cơ quan chính. Hiệu ứng từ nhiệt thực chất là sự chuyển hóa năng lượng. Vì vậy nên cho rắn thường xuyên tắm nắng để kích thích rắn ăn nhiều và  nâng cao cao khả năng phòng bệnh.

* Tác động lên ruột: Ở tá tràng và ruột non vitamin D tổng hợp các protein chuyên chở, giúp canxi di chuyển chủ động qua màng ruột. Đó là nguyên nhân mùa lạnh rắn bỏ ăn và bị khô da do tác động thời tiết bên ngòai thiếu độ ẩm và thiếu Vitamin, nên bổ sung sung nhiều Vitamin C,  Men tiêu hóa và dưỡng chất

nuôi rắn

* Tác dụng lên xương: Vitamin D có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, làm xương chắc khỏe phòng chống các bệnh, đặc biệt là lở loét nhiễm trùng đường niệu cấp, bênh lây qua đường hô hấp. Thiếu vitamin D rắn không hấp thu canxi, phospho trong thức ăn, làm giảm lượng canxi và phospho trong máu, xương xốp và giòn, có thể dẫn đến còi xương. Nhất là rắn lớn lọai từ 01 năm trở lên dễ bị loãng và nhuyễn xương

Mùa lạnh: khí hậu nhiệt đới Việt Nam thường xảy ra
– Miền Bắc: từ tháng 10 AL cho đến hết tháng 3 AL
– Miền nam: từ tháng 10 AL hết tháng 12 AL
– Rắn thường giảm ăn và bỏ ăn, da khô, không chỉ tạo tác động từ bên ngoài, nên bổ sung dưỡng chất từ bên trong như các loại dưỡng chất như đạm và dầu cá, chúng là những loại dưỡng chất nhiều chất béo sẽ giúp da hấp thụ thêm dưỡng ẩm và tích nước vừa đủ. Thông thường rắn ăn mồi chết giảm ăn it hơn rắn ăn mồi sống, vì mồi chết được nhúng qua nước nóng, rắn cảm nhận thân nhiệt sẽ bò ra ăn
* Trời lạnh, buổi sáng rắn họat động chậm do đau xương, thậm chí không cử động vì đau giữa các khớp
* Vào thời điểm chuyển mùa, nhất là vào thời tiết lạnh sức đề kháng của rắn giảm rõ rệt khiến cho các yếu tố gây bệnh như vi khuẩn, virus dễ dàng tấn công thường lây qua đường hô hấp. Thời tiết lạnh hàm lượng Lipit trong máu tăng cao làm axit uric trong máu bị kết tủa lắng đọng vào khớp xương gây viêm.
– Để giảm hiện tượng khô da, cứng khớp, các bệnh lây qua đường hô hấp. Giữ ấm và bổ sung thêm đạm thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f Enzyme + Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn cho rắn

Phòng cắn mổ nuốt nhau khi chuyền mùa:
– Rắn có hiện tượng cắn mổ và nuốt nhau có nhiều nguyên nhân do mật độ nuôi dày , thiều dinh dưỡng và thường xảy ra trong giai đoạn chuyển mùa hoặc thời tiết nóng bức. Vì vậy cần có biện pháp tổng hợp cho rắn nhằm phòng chống phân đàn và hạn chế thiệt hại
– Cho ăn no và sử dụng liều cao Vitamine tổng hợp + Bioyeast De200f Enzyme + Hi Protamine

Cách giữ ấm cho rắn
– Nuôi chuồng lưới xi măng: sưởi ấm bằng bóng đèn tròn 75W có mắc bộ điều áp, vị trí ngay giữa chuồng. Nên tắm nắng cho rắn vào lúc 10h sáng. Không thắp đèn buối sáng để giảm thiểu điện năng và mở đèn sưởi bắt đầu từ 5h chiều. Khu vực miền bắc thắp 24/24 vào mùa đông
– Nuôi chuồng lưới trong chuồng xi măng như chuồng heo: che bạt phủ kín tòan bộ mặt chuồng. Bỏ 01 thùng xốp vào bên trong chuồng lưới, đục nhiều lỗ tròn để rắn tự chui vào tránh lạnh
– Nuôi trong phòng lớn: nuôi nhiều như miền bắc nên tập cho rắn ở trong thùng sốp và cho ăn uống bên ngoài, rắn sẽ tự động vào thùng khi thời tiết trở lạnh. Mùa đông thắp bóng đèn hoặc sưởi ấm bằng máy trong phòng

Các điều cần chú ý chăm sóc rắn vào mùa đông
– Bỏ nhiều nước vào chuồng để tránh tình trạng khô da đảm bảo độ ẩm phù hợp cho rắn sinh trưởng
– Bổ thêm đạm cá thủy phân Hi Protamin, men tiêu hóa Bioyest De200f, Vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn, không cho nhiều thức ăn vào chuồng. Đặc biệt rắn cái đang mang trứng nên cho ăn ít tránh tình trạng ruột chèn ép làm trứng nhỏ và không đạt yêu cầu giống

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam