Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cây Phúc Bồn Tử

1. Điều kiện thổ nhưỡng:

Cây Phúc bồn tử thích hợp phát triển trên nhiều loại đất, nhưng đất phải thoáng, khô ráo, tránh để cây bị úng nước.

Đất phải đạt pH từ 5,8 – 6,8.

Cây Phúc bồn tử phát triển ở nhiệt độ từ 18-300C, nơi có nhiều ánh sáng.

  1. Chuẩn bị đất và cây giống:

Chuẩn bị đất: Đất trồng cần phải đạt những yêu cầu sau:

+ Đất tơi xốp, thoát nước tốt.

+ Đất trồng ít nhất trong vòng 1 năm không canh tác hoặc tránh xa các loại cây khoai tây, cà chua, cà tím vì Phúc bồn tử dễ bị nhiễm một số loại nấm, bệnh từ những loại cây này.

+ Làm đất sạch cỏ dại.

+ Làm luống:

Luống trồng cây cao   25 – 30cm

Bề mặt luống rộng      45 – 60cm

Rãnh rộng                  40 – 50cm

2.1. Làm giá đỡ cho cây:

Làm giá đỡ cho cây trước khi trồng

Giá hình chữ V

Cắm cọc 2 bên của luống, phần sát dưới đất khoảng cách của 2 cọc là 25-30 cm, phía trên của 2 cọc có khoảng cách 50-60 cm.

Mỗi cọc cách nhau 2 m, chiều cao mỗi cọc 2 m

Dăng dây thép thành những ô vuông với kích thước 40 x 40 cm giữa các cọc để cây phát triển bên trong.

2.2. Cây giống:

Cây giống Phúc bồn tử hiện nay được trồng chủ yếu từ hạt nhập từ nước ngoài, lấy ngó từ cây mẹ hoặc bằng phương pháp nuôi cấy mô.

+ Cây con Phúc bồn tử nhân bằng phương pháp nuôi cấy mô: Cây sạch bệnh từ trong vườn ươm, cây sinh trưởng tốt, có chiều cao 10-15cm, có từ 5-7 lá.

+ Ngó tách từ cây mẹ: Cây sinh trưởng phát triển tốt, có chiều cao 10-15cm, có từ 5-7 lá.

2.3.Trồng cây:

Đặt bầu cây vào hố sao cho mặt bầu cách mặt đất 3 – 5 cm,mỗi luống trồng 1 hàng, khoảng cách trồng giữa các cây 30 – 40 cm.

  1. Cách chăm sóc:

Cách chăm sóc loại cây này rất đơn giản

3.1. Trồng dặm: Sau khi trồng 1 tháng trồng dặm lại những cây đã chết hoặc những cây còi cọc

3.2. Tưới nước: Khi trồng nên chú ý tưới nước 1 ngày 1 lần (sáng sớm hoặc chiều mát) sao cho lượng nước vừa đủ tránh để cây không bị úng nước.

3.3. Bón phân: Bón phân cân đối giúp cây phát triển tốt, đạt năng suất cao.

3.3.1. Bón lót:

Bón phân hữu cơ hoặc phân chuồng với tỉ lệ như sau

Tùy theo từng loại đất mà dùng lượng phân cho thích hợp: 1 sào (1.000 m2) bón 100-150 kg Fretilus (phân nở Hà Lan) 4-3-3 hữu cơ 65%.

Hoặc sử dụng 1 số loại phân chuồng như phân bò, dê… Chú ý phải ủ cho hoai mục mới bón cho cây là tốt nhất. Lượng dùng 1.800-2.000 kg hoặc 5.000 kg đối với đất cát.

Ngoài ra còn có các loại phân Lân supper Long Thành hoặc phân lân nung chảy Văn Điển (100-150 kg) + vôi canxi (150-200 kg).

Trước khi trồng nên xử lý một số loại thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu đất, tuyến trùng, sùng, kiến… sử dụng Diazan10H (Diazinon) rải 3 kg/1.000m2; Nokaph10H (Ethophrophos) 4-5 kg/1.000m2.

Cây phát triển tốt ở pH trung tính 5,8 – 6,8.

3.3.2.Bón thúc:

Giai đoạn cây con (1tháng sau khi trồng) thì bón một số loại phân NPK có lượng đạm cao như cò vàng 20-20-15 bón 40-60 kg/1.000m2, 30-9-9 Thái Lan 30-50 kg/1000m2 bón cách xa gốc khoảng 15-20 cm.

Giai đoạn gần có trái (2 tháng sau khi bón thúc lần đầu) thì bón thêm kali như Fruit Ace30% kali + 10% magie + 17% lưu huỳnh bón 30-50 kg/1.000 m2, tím đức 15-5-20 bón 30-50 kg/1.000 m2, 15-9-20 yara bón 40-50 kg/1.000 m2

Tùy theo thời gian cây cho quả mà bổ sung lượng phân cho phù hợp 1 cứ cách 1 tuần nên bón phân có chứa nhiều kali, bo, canxi giúp trái lớn, chín đều, màu sắc tươi…. Một số loại phân bón như: NPK 15-5-20 + TE (Bón 50-75 kg/1.000 m1 lần bón), phân canxi boron (26,5% đạm + 12% canxi + 0.3% bo) bón 50 kg/1.000 m2.

Ngay sau các lần bón thúc thì chúng ta có thể phun thêm một số phân bón qua lá hoặc có thể tưới nhỏ giọt vào gốc giúp cây phát triển mạnh như phân: MAP (12-62-0); MKP (0-32-54) ngâm tưới 1-2 kg/1.000m2; Nutri gold 29-10-10,12-3-43, 15-30-15, 13-40-13, 20-20-20 phun 0,5-1 kg/1.000m2.

Bổ sung canxi Bo, Mg, Mn, Cu, Fe, Mo, một số vi lượng Fertiloncombi. Cuối kỳ sinh trưởng ngưng bón thúc phân đạm, phun thêm phân bón lá như Micracle-Gro (15-30-15), Marter-Gro.

Sau một năm thì ta nên bổ sung thêm lân supper Long Thành  hoặc phân lân nung chảy Văn Điển (150-200 kg) và vôi canxi bón bổ sung khoảng 100-150 kg cho 1.000 m2.

3.4.Tỉa cây:

Mục đích của việc tỉa cây là loại bỏ những cây xấu, già cỗi tạo đều kiện cho cây phát triển và hình thành quả.

Nên tỉa các lá đã vàng úa, tỉa bớt lá để các bụi cây thông thoáng cũng để tránh cho trái cây bị úng  khi cây phát triển quả. Tỉa các cây đã già cỗi và có tuổi thọ 1 năm tuổi tạo điều kiện cho các cây non phát triển. Tỉa bớt cây con nhỏ yếu, số lượng cây con ở các bụi chỉ nên để từ 20-25 cây để các bụi cây có thể phát triển tốt.

3.5.Tưới nước:

Đối với cây phúc bồn tử nếu ẩm độ đất và không khí cao đều bất lợi đến sinh trưởng cũng như sâu bệnh phát triển, tối ưu nhất với cây phúc bồn tử là thiết kế hệ thống tưới ngầm, nhỏ giọt. Khi tưới cho cây phúc bồn tử nên cần tuyệt đối sử dụng nguồn nước sạch, không nên sử dụng nguồn nước mương suối vì dễ gây lây lan nguồn bệnh.

3.6. Dàn che:

Dàn che cần đạt độ cao 3 – 4 m.

Phương pháp sản xuất cây phúc bồn tử trong dàn che có các ưu điểm như:

– Hạn chế bệnh cây trong vụ mưa, tuy nhiên nếu thiết kế dàn che không đảm bảo chiều cao, chế độ thông gió không tốt thì độ ẩm sẽ tăng và bệnh sẽ phát triển mạnh đồng thời nhiệt độ sẽ gia tăng đột ngột tại một số thời điểm trong ngày ảnh hưởng đến sinh lý của cây.

– Hạn chế ngập úng đất, ẩm độ gia tăng và rửa trôi phân bón khi mưa kéo dài hay mưa lớn trong vụ hè thu.

  1. Các loại sâu bệnh hại thường gặp:

4.1. Một số loại bệnh thường găp trên cây Phúc bồn tử: thối rễ, bệnh bạc lá, thối trái, bệnh phấn trắng, bệnh gỉ sắt, mốc quả, thối gốc

4.1.1. Thối trái

Nguyên nhân: Là do nấm Phytophthora cactorum, Phytophthora fragariae hoặc  Phytophthora sp. phát sinh khi cây phát triển quá rậm rạp.

Để phòng tránh bệnh: Cần vệ sinh đồng ruộng cắt tỉa cây, tránh tưới nước lên cao, tỉa hết các phần cuống quả sau khi đã thu hoạch.

Chọn đất trồng cao ráo, thoát nước tốt, lên luống cao.

Ngắt bỏ các trái đem di tiêu hủy xa nơi canh tác.

Bón cân đối NPK, tăng cường kali trong mùa mưa. Xịt định kỳ các loại thuốc bệnh như Aliette 80WP, Vialphos 80BHN, Vilaxyl 35 WP, Ridomil, theo liều lượng khuyến cáo của nhà sản xuất.

4.1.2. Bệnh thối rễ:

Do nấm Pythium spp. và Fusarium spp.

Bệnh thường xuất hiện ngay sau khi cây ra hoa và trong thời gian giao mùa. Biểu hiện của cây bị bệnh: lá vàng, tại gốc cây xuất hiện các rễ tơ phát triển mạnh, sau đó cây sẽ bị chết.

Biện pháp phòng trừ: Tỉa bỏ lá và các bụi cây rậm rạp, đất không được quá ẩm ướt.

Vệ sinh vườn tuân thủ nguyên tắc cắt tỉa lá của cây khỏe trước, cắt tỉa lá của cây bệnh sau đã hạn chế được mức gây hại tối đa của các loại bệnh nhất là bệnh thối đen rễ phúc bồn tử.

Sử dụng các loại thuốc khi bệnh xuất hiện: Viben-C 50 BTN(Copper Oxychloride + Benomyl), Bendazol 50 WP (Benomyl), Biobus 1.00 WP, Anvil 5SC(Hexaconazole)…

4.1.3.Bệnh phấn trắng:

Triệu chứng gây hại: Ban đầu vết bệnh xuất hiện một lớp bột trắng, ở mặt dưới của lá, nhưng mặt trên lá thân, hoa, và trái cũng có thể bị nhiễm bệnh.

Lá bệnh có khuynh hướng cuốn tròn lên phía trên và để lộ sau mặt lá một lớp bột màu trắng, những vùng bị nhiễm bệnh thường sẽ héo khô và chết.

Nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của bệnh

Bệnh do nấm Sphaerotheca macularis gây ra:

Những vùng bị nhiễm bệnh có thể phân tán một số lượng lớn mầm bệnh và theo gió nhanh chóng lây lan qua những cây khoẻ mạnh.

Nấm tự hình thành không phụ thuộc vào ẩm độ trên lá, ngay cả trong điều kiện khô ráo, nấm vẫn có thể xuất hiện. Loại nấm này thường gặp nhiều ở nhà kính và dàn che nilon hơn là canh tác ngoài trời.

– Nấm phấn trắng lây lan rất nhanh và gây thất thu lớn đến sản lượng dâu và chất lượng trái. Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây nhưng ảnh hưởng nhiều ở thời kỳ cây đã ra hoa, kết trái.

Biện pháp phòng trừ:

– Đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây và bón phân cân đối.

– Chọn cây giống khỏe và sạch bệnh.

– Thường xuyên vệ sinh ruộng, dọn những tàn dư cây bệnh mang tiêu hủy cách xa vùng canh tác.

– Thoát nước tốt và giữ cho ruộng thông thoáng.

– Có thể dùng các thuốc Amistar top 325SC (Azoxystrobin + Difenoconazole), Anvil 5SC(Hexaconazole), Daconil 75WP(Chlorothalonil), Nativo 750WG(Tebuconazole+Trifloxystrobin), Aliette 800WG (Fosetyl Aluminium), Manage15WP (Imibenconazole), Bellkute 40WP (Iminoctadine) nồng độ, liều lượng theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

4.1.4. Bệnh g sắt

– Triệu chứng: Lúc đầu vết bệnh là những đốm tròn nhỏ màu vàng, sau vết bệnh lớn dần và có lớp phấn màu vàng da cam rất sáng ở mặt dưới lá.

+ Nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh, phát triển:

Bệnh do nấm gây hại, bào tử nấm phát tán và lây lan nhờ gió.

Bào tử có thể chịu đựng được nhiều tháng trong điều kiện bất lợi cho nẩy mầm.

Nhiệt độ thích hợp cho bào tử nẩy mầm ở 24ºC, ẩm độ 80-90%.

+ Nấm chủ yếu gây hại trên lá bánh tẻ và lá già, chính vì thế mà thường thấy nấm xuất hiện vào cuối vụ. Trong các tháng mưa nhiều (tháng 9, 10 và 11) nấm có thể làm tàn lụi giàn lá trước khi cắt cành. Bệnh làm cho cây giảm diện tích quang hợp từ đó ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.

– Biện pháp phòng trừ: Bón phân đầy đủ và cân đối, tạo hình thông thoáng, tỉa cành hợp lý giúp cây sinh trưởng tốt.

Có thể dùng các loại thuốc sau phun kỹ hai mặt lá như: Score 250 ND, liều lượng 0,15-0,2 lít/ha; Tilt super 300EC; Map supper 300EC; Dithane M45WP; Viben C liều lượng  1,5-2,0 kg/ha.

Chúng ta có thể phun phòng một số loại thuốc như: Topsin-M 75WP; Antracol 70 WP,….

4.1.5. Bệnh mốc quả (mốc xám):

Triệu chứng: Nấm Botrytis cinerea chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn quả chín, nhưng trong điều kiện ẩm ướt bệnh có thể gây hại nghiêm trọng. Biểu hiện đầu tiên là những đốm nâu sáng xuất hiện, sau đó lan rộng cả trái và phủ một lớp mốc xám.

Trong quá trình thu hoạch nấm có thể lây lan từ quả bệnh sang quả không bị bệnh. Sau khi thu hoạch các quả chín rất mẫn cảm với bệnh, đặc biệt các quả bị dập hoặc xây xát. Trong điều kiện phù hợp nấm có thể lây lan và gây thối toàn bộ quả trong vòng 48 giờ.

Hoa và trái non cũng có thể bị nhiễm bệnh và làm cho trái bị khô. Nhiệt độ khi bảo quản trái dâu đã thu hoạch càng cao thì mầm bệnh nhanh chóng lây lan.

Nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của bệnh

Bệnh do nấm Botrytis cinerea gây ra. Bệnh có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau.

Mầm bệnh có thể xuất phát từ lá, trái bị nhiễm bệnh còn sót lại trên ruộng và lây lan bởi gió, ngoài ra mầm bệnh cũng có thể lây lan từ bên ngoài ruộng.

Bệnh mốc xám phát triển rất mạnh trong điều kiện ẩm độ không khí cao và bề mặt luống ẩm ướt trong điều kiện thời tiết mùa mưa.

Biện pháp phòng trừ:

– Chọn cây giống khỏe và sạch bệnh.

– Giữ độ thông thoáng rò rãnh, thoát nước tốt, tránh giữ bề mặt luống ẩm ướt.

– Thường xuyên vệ sinh ruộng, dọn những tàn dư cây bệnh mang tiêu hủy cách xa vùng canh tác.

– Tránh tưới nước lên cao, tỉa hết các phần cuống quả sau khi đã thu hoạch.

– Chọn đất trồng cao ráo, thoát nước tốt, lên luống cao.

– Bón cân đối NPK, tăng cường kali trong mùa  mưa. Xịt định kỳ các loại thuốc bệnh như: Topan 70 WP (0,05 – 0,1%), Fortazeb 72WP, Bendazol 50 WP , Vimonyl 72 BTN, Daconil.

4.1.6. Bệnh do Virus

Bệnh do Virus gây ra ít phổ biến hơn bệnh do nấm gây ra, nhưng đây là loại bệnh nguy hiểm vì nó ảnh hưởng đến chất lượng trái và cả tuổi thọ của cây. Bệnh thường lây lan bởi các loại rệp.

Bệnh do virus gây ra không có thuốc đặc trị vì vậy chỉ hạn chế sự lây lan của bệnh bằng cách: đem thiêu hủy các cây bị nhiễm virus xa nơi canh tác , tiêu diệt các vector truyền bệnh như rệp, tuyến trùng…… Tốt nhất nên chọn những cây giống sạch bệnh để trồng.

4.1.7.Bệnh do vi khuẩn:

Triệu chứng gây hại:

Vết bệnh là những đốm nhỏ và ướt ban đầu xuất hiện dưới bề mặt lá. Lá có màu xanh tái khi đưa ra ánh sáng mặt trời. Sau đó các lá bị bệnh có thể bị khô héo và chết.

Nguyên nhân gây bệnh, điều kiện phát sinh phát triển:

Do vi khuẩn Xanthomonas fragariae gây ra

Bệnh gây hại các giai đoạn sinh trưởng của cây

Vi khuẩn lan từ cây này sang cây khác, từ lá già sang lá non do sự bắn toé nước khi trời mưa hoặc do tưới tiêu nhưng chúng không lan từ tế bào này sang tế bào khác.

Vi khuẩn xâm nhập qua khí khổng của lá. Để nhận biết bệnh, vào sáng sớm lật mặt lá lên, có thể nhìn thấy chất dịch màu trắng như mủ chảy ra từ vết bệnh.

Biện pháp phòng trừ:

Chọn cây giống khỏe, sạch bệnh.

Xử lý đất kỹ trước khi trồng, thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, dọn những tàn dư cây bệnh mang tiêu hủy xa vùng canh tác.

4.2. Các loại sâu hại: tuyến trùng, rệp, sâu, nhện.

4.2.1.  Rệp sáptên khoa học là Pseudococcus sp, thuộc họ Pseudococcidae, bộ Homoptera.

+ Hình thái và cách gây hại:

Đây là loại côn trùng đa ký chủ, loài này được ghi nhận trên nhiều loại cây ăn trái. Trên cây phúc bồn tử  khi con rệp sáp gây hại làm trái phát triển kém, ảnh hưởng đến giá trị thương phẩm của trái. Ngoài ra rệp sáp còn tiết ra chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển làm ảnh hưởng đến trái. Ấu trùng có thể cơ thể rất nhỏ khoảng 1 mm, màu hồng, có chân và có thể di chuyển. Khi trưởng thành rệp sáp không di động, bên ngoài cơ thể có lớp sáp trắng bao bọc.

Cây phúc bồn tử thường có 2 loại rệp sáp gây hại: hại chùm quả, lá và hại rễ.

Loài rệp hại lá và quả bắt đầu đẻ trứng vào mùa mưa ở các kẽ lá, nụ hoặc chùm quả non. Rệp non sau khi nở, nhanh chóng tìm nơi sinh sống cố định. Mùa mưa sinh sản rất nhiều làm quả rụng.

Rệp sáp hại rễ thì sinh sống ở quanh rễ, dưới đất, tạo ra một lớp học không thấm nước ở quanh rễ. Những cây bị hại lá vàng, héo và chết.

+ Biện pháp phòng trừ:

Thu hái những trái bị hại nặng đem tiêu hủy.

Dùng các loại thuốc để phun trừ như Pyrinex, Fenbis, Vidithoate,…

Tạo điều kiện cho ong ký sinh phát triển để hạn chế mật độ rệp sáp.

4.2.2. Rệp vảy: Đặc điểm hình thái,quy luật phát sinh,phát triển: bám vào lá non và cành non hút nhựa cây làm cành lá bị vàng.

– Rệp muội: Đặc điểm hình thái và quy luật phát sinh, phát triển của chúng.

Rệp muội có 2 loại đen và xanh giống nhau về hình dáng.

Trưởng thành có cánh hoặc không có cánh. Rệp đẻ thẳng con.

Rệp non và trưởng thành giống nhau về hình dáng, bụng phình to, cuối thân có 2 ống tiết dịch.

Rệp muội hại nhiều loại cây trồng khác nhau nhưng nó cũng gây hại trên cây phúc bồn tử rệp bám vào các ngọn lá non để hút dịch làm cho lá non cong queo, phát triển không bình thường. Rệp muội phát triển quanh năm nhưng nhiều nhất là khi cây phúc bồn tử ra búp non.

Biện pháp phòng trừ:

– Với loài rệp hại lá có thể sử dụng các loại thuốc sau: Confidor 100 SL, Ascend 20SP, Tasodant 60EC, Actara 25WG, Alika 247SC…

– Với rệp hại rễ một trong các loại thuốc sau: Diaphos 10D với liều lượng vừa phải tránh làm cháy lá.

4.2.3. Nhện đỏ: Họ: Tetranychidae – Bộ: AcariTên khoa học khác: Metatetranychus citri, Paratetranychus citri.

Cách gây hại và chịu chứng

Nhện đỏ tấn công trên lá và trái, chích cạp và hút nhựa lá và trái. Trên lá, vết cạp và hút tạo thành những chấm nhỏ li ti trên mặt lá, khi bị nặng, vết chấm lan rộng, lá có màu ánh bạc, lá sau đổi màu có thể bị khô và rụng. Khi mật độ Nhện cao, cả cành non cũng bị Nhện tấn công, cành cũng trở nên khô và chết. Các lá khô có thể được giữ lại trên cây một thời gian dài sau đó. Trên trái, nhện thường sống tập trung ở phần cuống trái, đít trái và trong các phần lõm của trái. Nếu nhện phát triển nhiều trái non có thể bị rụng sớm. Nhện đỏ gây ra triệu chứng da cám trên trái.

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng (tàn dư cây trồng và cỏ dại) xịt các loại thuốc đặt hiệu như Nissorun 5EC, Comite 73EC, Ortus 5 SC (Fenpyroximate), Secure  10EC(Chlorfenapyr), Benknock 1EC(Milbemectin).

4.2.4. Sâu đục thân, sâu ăn tạp

Triệu chứng: Sâu ăn tạp ký sinh trong phần gốc phá hoại chủ yếu vào ban đêm, ăn lá và phần non của cây.

Sâu đục thân: lá non biến dạng, mép lá hơi xoăn, phiến lá không phẳng phiu, chuyển từ xanh bóng sang xanh đậm màu xỉn. Trên cây đã bị sâu xâm nhập và vũ hóa bay đi phát hiện các lỗ nhỏ tròn. Trên các vết lằn, do nhựa bị tắt nghẽn không nuôi cây, toàn bộ cành lá phía trên điều bị vàng úa, cằn cỗi, trong khi các cành phía dưới vẫn xanh tốt. Trên thân cây xuất hiện những đốm sưng phồng từ những đốm này khiến cây dễ bị gãy đổ ở đoạn sâu đục.

Biện pháp phòng trừ:

– Tạo hình sửa cành, tạo cho cây có hình thù cân đối, thân cây.

– Đối với cây mới bị nhẹ ta có thể dùng thuốc phun kỹ lên thân cây như: Mapy 48EC, Tasodant 60EC,… Marshal 200SC hoặc các thuốc rải gốc như: Regent 800WP, Padan 95SP. Đối với cây bị hại nặng cần cắt bỏ đoạn thân có sâu đem đốt tiêu hủy.

Chú ý: Khi phun xịt không nên sử dụng nồng độ cao và tránh các giai đoạn cây đang ra hoa rộ.

4.2.5. Bọ trĩ

Bọ trĩ thường xuất hiện khi cây ra bông và chúng đẻ trứng ở mặt dưới của lá. Cả ấu trùng và bọ trĩ trưởng thành tập trung ở mặt dưới lá, trên chùm bông chích hút nhựa cây làm lá biến màu và nhăn nhúm, bông đều bị cháy khô màu nâu vàng và rụng, nếu bọ trĩ phát sinh nhiều gây chùn đọt, hại cây không thể phát triển.

Cách phòng trừ bọ trĩ là chăm sóc cho cây  sinh trưởng tốt và ra bông sớm sẽ hạn chế được thiệt hại.

Cách phòng trừ: phun nước rửa cây có thể pha thêm ít xà phòng pha loãng. Khi phát hiện cây bị nhiễm bệnh nặng, nên phun thuốc phòng trừ như: Regent 800 WG, Tungsong 25SL…

4.2.6. Tuyến trùng

Triệu chứng:

– Tuyến trùng là một loại giun nhỏ, sống trong đất, chúng bám vào rễ lông hút của cây phúc bồn tử để sinh sống và làm cây phúc bồn tử bị héo vàng và chết.

– Điều kiện phát sinh và gây hại: Tuyến trùng gây hại trên cây phúc bồn tử là loài giun đất cực nhỏ sống trong đất, chúng thường gây hại trong mùa mưa. Khi đất khô không thuận lợi cho tuyến trùng phát triển thì tuyến trùng tồn tại dạng trứng, trứng theo cát bụi và dòng nước mưa để lây lan.

+ Biện pháp phòng trừ:

– Đất trồng phải được chuẩn bị kỹ, không tàn dư cây trồng khác.

– Luôn giữ cho đất sạch cỏ dại, tơi xốp và bón phân đầy đủ.

– Khi cây mới bệnh có thể dùng thuốc hóa học: Sử dụng Vimoca 10G, Map logic 90WP, Vibam 5H, Regent 3G, Sicosin 0.56SL. Thời gian cách ly 14 ngày sau khi phun thuốc.

Cách phòng, trừ:

Bệnh do virus gây ra không có thuốc đặc trị vì vậy chỉ hạn chế sự lây lan của bệnh bằng cách: đem thiêu hủy các cây bị nhiễm virus xa nơi canh tác, tiêu diệt các loại rệp gây hại trên cây trồng bằng các phương pháp hóa học.

  1. Thu hoạch và bảo quản:

Thu hoạch quả lần trong 1 ngày. Thu hoạch  lúc trái có màu hồng, sau đó nhẹ nhàng xếp trái vào trong hộp và bảo quản nơi thoáng mát, trong tủ lạnh và vận chuyển đến nơi tiêu thụ.

Nguồn: Trung Tâm Khuyến Nông Lâm Đồng, kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Độc đáo chuyên canh mít ruột đỏ thu 400 – 500 triệu đồng/năm

Nhờ chuyên canh mít ruột đỏ, mỗi năm ông Nguyễn Văn Trắng (66 tuổi) ở xã Vị Đông, huyện Vị Thủy, Hậu Giang thu về hàng trăm triệu đồng. Đây là niềm mơ ước của rất nhiều nông dân.


Ông Trắng kể, cách đây hơn 15 năm trong một lần đi hội chợ triển lãm các loại trái cây, ông đã mua 50 cây giống mít ruột đỏ về trồng. Kỳ lạ là có một cây mít cho trái màu đỏ sậm hơn các cây khác, ăn giò, ngọt và thơm hơn nhiều.
Thấy nhiều người khen ngon, ông đốn bỏ hết cây khác trong vườn để nhân giống và trồng hơn 4 công mít ruột đỏ. Sau 2 năm, cây bắt đầu cho thu hoạch lứa trái đầu tiên, bán được 10.000 đồng/kg, rồi 30.000 đồng cao hơn hẳn các loại mít khác. Nhờ đó kinh tế gia đình ông ngày càng khấm khá.
Đến nay, với 4 công mít ruột đỏ 15 năm tuổi cho thu về 400 – 500 triệu đồng/năm. Ông đã tậu thêm thêm được 6 công vườn trị giá gần 700 triệu đồng và mua sắm nhiều vật dụng có giá trị.


Ông Trắng cho biết, giống mít này ngon nên được các thương lái tranh giành mua với giá cố định 60.000 đồng/kg, ông không đủ hàng để bán. Đây là giống mít siêu sớm, trồng sau 24 tháng cho thu hoạch, ít sâu bệnh. Khi trái nhỏ cần đề phòng sâu đục trái, thán thư. Trái lớn thì cần bao trái và không phải phun xịt thuốc bảo vệ thực vật.
Thấy nhu cầu thị trường khá lớn, ông Trắng đang tiếp tục trồng thêm 12 công và nhân giống bán.

Nguồn: Báo Nông Nghiệp, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng Hồng không hạt cho quả sai trĩu cành

Mới đây, các nhà khoa học tại Fukuoka Prefecture, Nhật Bản đã phát triển thành công kỹ thuật trồng cây hồng không hạt cho năng suất rất cao, dễ trồng.

Hồng không hạt

Hồng không hạt có nguồn gốc từ Nhật

Hồng là loại quả giàu dinh dưỡng, với hàm lượng vitamin A & C cao, hồng có màu vàng cam tươi, vị ngọt. Nhờ vào sự phát triển của nền công nghệ hiện đại, mới đây các nhà khoa học Nhật đã phát hiện ra một loại giống hồng mới cho năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.

Việc thu hoạch hồng diễn ra khá muộn, thường là vào cuối mùa thu. Hồng có thể bắt đầu được thu hoạch từ tháng 10-11 vì thời gian đợi hồng chín khá lâu, đặc biệt hồng sẽ không thể chín ở miền Tây, Washington, Mỹ vì thiếu ánh nắng. Trái lại, hồng lại chín vàng và nở rộ ở thung lũng Willamette cùng một số vùng khác có khí hậu ấm áp mùa hè.

Tuổi thọ của cây hồng khá cao từ khoảng 50 tới 75 năm. Khi cây hồng được khoảng 2-3 năm thì nó đã cho vụ thu hoạch quả đầu tiên.

Ở Châu Á, kỹ thuật trồng cây hồng không hạt không cần tới quá trình thụ phấn, nhưng ở Mỹ thì quá trình này rất cần để tạo nên những quả hồng ngon, thơm, và có vị ngọt lịm.

Kỹ thuật trồng cây hồng thực hiện như thế nào?

Hồng mọc lá rất muộn. Đừng quá lo lắng về việc này! Bởi nó cần nhiệt độ nóng thích hợp để đâm trồi. Với những khu vực có thời mát mẻ mùa xuân hay mùa hè thì dường như trồi của cây hồng phát triển nhanh. Để thúc đẩy sự tăng trưởng cho cây, bạn cần ngâm cây hồng vào chậu nước ấm cho đến khi lá của hồng trồi ra.

Tiếp đó, hãy nhấc cây ra khỏi chậu nước, chú ý để lại một chút bùn bọc lấy dễ cây, sau đó trồng cây ở xuống đất, trong suốt quá trình cây ở dưới đất cần tưới nước và giữ độ ẩm ướt cho cây.

Với một cây hồng có dễ trần thì việc trồng ở dưới đất sẽ trở lên đơn giản hơn hoặc nó cũng có thể được trong chậu cây ngay sau khi nó ra lá.

Hồng không hạt có nguồn gốc từ Nhật

Hồng dễ dàng thích nghi với nhiều loại đất. Nó thích hợp với các loại đất có độ ẩm ướt hay đất cát đều được. Sau quá trình đâm trồi và phát triển trưởng thành, hồng có khả năng chịu hạn tốt hơn.

Trong các loại cây ăn quả, thì hồng được coi là một loại cây ăn quả dễ trồng nhất. Bởi chúng hầu như ít bị sâu bệnh hại. Nhưng có một việc mà người trồng phải thường xuyên cắt, tỉa cành và lá cho cây phát triển tốt hơn. Đặc biệt khi cây phát triển cứng, có nhánh trung tâm thì bạn cần cắt tỉa cành thường xuyên để cây hấp thụ ánh sáng giúp sự phát triển và tăng trưởng của cây diễn ra nhanh hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cách phân biệt các loại dây Lạc Tiên

Vị thuốc cây chùm bao hay con gọi là cây nhãn lòng trong y học cổ truyền thường dùng là bộ phận trên mặt đất của cây lạc tiên (Passiflora foetida L.). Ở Việt Nam có tới 15 loài, trong đó chỉ có loài P.foetida được dùng làm thuốc an thần gây ngủ.

Lạc tiên là loại dây leo bằng tua cuốn. Thân mềm tròn và rỗng, có lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, thùy giữa lớn hơn hai thùy bên, mép uốn lượn có lông mịn. Gốc lá hình tim, đầu lá nhọn. Hoa to, đều, lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, 5 cánh, màu trắng hoặc hơi tím. Quả mọng, hình trứng, dài độ 3cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại. Lạc tiên mọc hoang và được trồng ở nhiều vùng nước ta. Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ phận trên mặt đất, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn 3-5cm. Trước khi dùng sao hơi vàng, dùng dần.

Trường hợp ngủ không yên giấc: sắc riêng 20 – 40g lạc tiên khô, uống.

Trường hợp tim hồi hộp, loạn nhịp, mất ngủ, lo âu, đau đầu, choáng váng:

Lạc tiên nấu thành cao lỏng với tỷ lệ 1 phần lạc tiên 1 phần nước, pha thêm chút đường cho dễ uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 50 -100ml, sau mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cũng có thể phối hợp với một số dược liệu an thần khác như lạc tiên, lá vông, lá dâu, lá sen, mỗi loại 20g, tâm sen 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống 2-3 tuần, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.

– Trong dân gian, bà con ta thường thu hái quả, rửa sạch, bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch quả, thêm ít nước đun sôi để nguội và chút mật ong hoặc đường đủ ngọt để uống. Dịch quả lạc tiên thơm, ngon, bổ, mát; thích hợp cho giải nhiệt mùa hè. Hoặc hái phần ngọn và lá non của lạc tiên mỗi lần khoảng 100 – 200g nấu canh ăn giúp ngủ ngon.

Phân biệt các loại lạc tiên:

Ngoài loài lạc tiên nói trên, để tránh nhầm lẫn, cần lưu ý tới một số loài khác cũng mang tên lạc tiên.

– Lạc tiên Nam Bộ (Passiflora cochinchinensis  Spreng) cũng là cây leo nhưng cành hơi dẹt, có khía rãnh. Lá thuôn hẹp, gốc lá và đầu lá hơi tròn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có ít lông. Cụm hoa màu trắng. Quả nhỏ hình trứng nhẵn. Cây này không được dùng làm thuốc an thần như lạc tiên nói trên.

Lạc tiên Nam Bộ

– Lạc tiên tây (Passiflora incarnata L.): là dây leo, dài đến 9 – 10m. Thân có rãnh dọc, vỏ màu xám nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông mịn. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng, thơm, có cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Quả hình trứng. Khi chín có màu vàng. Quả có vị chua, chứa vitamin. Có tác dụng bổ mát, giải nhiệt.

Lạc tiên tây

– Lạc tiên trứng, còn gọi là dây mát (Passiflora edulis Sím): Là dây leo, mảnh, dài hàng chục mét. Thân mềm, hình trụ, có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Lá mọc so le, chia 3 thùy, nhẵn, mép khía răng cưa, gốc lá hình tim, có hai tuyến nhỏ, đầu lá nhọn. Hoa mọc riêng ở kẽ lá, có cuống dài, màu trắng. Quả mọng hình trứng, khi chín màu da cam.

Lạc tiên trứng

Ở  nước ta, dây mát mọc hoang ở vùng Kỳ Sơn, Nghệ An. Dây mát cho quả thơm ngon, vỏ quả chứa nhiều vitamin C, axít hữu cơ, tanin, đường, các nguyên tố vi lượng: Si, K, P… Dịch quả cũng chứa nhiều vitamin C, tinh dầu, axít amin và  β- caroten. Quả lạc tiên trứng được dùng làm thực phẩm, pha chế đồ uống, đồ hộp, bánh kẹo, kem, đồ tráng miệng sau bữa ăn và làm thuốc bổ có tác dụng kích thích thần kinh và giúp cho việc tiêu hóa được tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 2)

B. Bệnh hại

Phòng và trị bệnh cho cây lạc tiên để cây có chất lượng trồng tốt nhất

1. Bệnh do vi khuẩn

* Bệnh đốm dầu do vi khuẩn: (Pseudomonas passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh gây hại trên lá, thân và quả dẫn đến sự mất mùa thậm chí có thể gây chết cây. Trên lá bệnh tạo nên những vết thương từ mầu oliu tới màu nâu, thường bao quanh bởi quầng sáng màu vàng nhạt, bệnh nặng dẫn đến rụng lá, trên thân còn non, dấu hiệu đầu tiên của sự xâm nhiễm là những vết lõm màu xanh đen, mọng nước. Sau sẽ phát triển thành màu nâu sáng, có viền rõ ràng với phần không bị bệnh.

Trên thân gỗ già, triệu chứng ban đầu là những đốm nhỏ hình tròn có màu xanh đen, hơi lõm xuống, sau đó lan rộng ra và có màu nâu tối, những vết bệnh này bao quanh chồi non và gây chết cây. Những dấu hiệu đầu tiên của sự nhiễm bệnh trên trái là trái nhỏ, màu xanh tối, vết bệnh phát triển thành những vòng tròn, thô nhám, mảng lốm đốm mọng nước, làm trái rụng sớm và thối trái. Đốm dầu thường xảy ra vào mùa thu và mùa khô.

* Bệnh héo rũ vi khuẩn: (Pseudomnas syringae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Loài vi khuẩn này có mối liên hệ mật thiết đối với mầm bệnh của vi khuẩn gây bệnh đốm dầu. Triệu chứng của 2 loại bệnh này tương tự nhau, và cách thức phòng trừ cũng giống nhau. Nếu quản lý tốt bệnh đốm dầu thì bệnh héo vi khuẩn sẽ ít có khả năng xuất hiện.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Sau khi thu hoạch, thu gom sạch tàn dư của cây, đặc biệt là những cây bị bệnh và cỏ trên vườn đem tiêu hủy để hạn chế nguồn bệnh ban đầu trên đồng ruộng cho vụ sau. Không nên trồng dày để vườn luôn thông thoáng, giảm bớt độ ẩm trong ruộng. Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali, tăng cường bón thêm phân hữu cơ, vôi bột và phân kali hoặc tro trấu cũng có tác dụng làm giảm tác hại của bệnh. Kiểm tra vườn để phát hiện và nhổ bỏ sớm những cây bị bệnh đem tiêu hủy để tránh lây lan ra cây khác. Sau khi nhỏ bỏ bón vôi bột vào chỗ vừa nhổ để khử trùng đất.

Biện pháp hoá học: Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất: Copper hydroxideCopper  Oxychloride + KasugamycinCopper Oxychloride 50% + Metalaxyl 8%Ningnanmycin phun xịt khi cây chớm bệnh.

2. Bệnh đốm nâu: (Alternaria passiflorae)

–  Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Đây là một bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng đến lá, thân và quả, xuất hiện vào mùa xuân và đầu mùa hè.

Trên lá, đầu tiên xuất hiện những đốm màu nâu nhỏ, sau đó lan rộng ra thành đốm lớn có tâm màu sáng và có hình dạng bất định. Trên thân, vết bệnh có hình thon dài với màu nâu đen, thường xuất hiện gần nách lá hoặc gân lá (do bị tổn thương cơ giới, cây bị chảy nhựa). Khi vết bệnh bao quanh thân cây thì chồi non sẽ bị héo, quả teo lại và rụng sớm. Trên quả, vết bệnh đầu tiên chỉ nhỏ như mũi kim sau lan rộng thành những vòng tròn lớn với vết nâu lõm có tâm màu nâu. Dần dần phần vỏ quả xung quanh vết bệnh bị nhăn nheo và quả bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, loại bỏ lá bệnh và những cành kém hiệu quả để cây thông thoáng.

Biện pháp hóa học: Sử dụng các thuốc hoạt chất Azoxystrobin (Amistar 250SC); hoặc hỗn hợp thuốc Mancozeb + Metalaxyl-M (Ridomil GoldÒ68WP);  Difenoconazole (Score 250EC); Chlorothalonil (Daconil 500SC); hoặc Thiophanate – Methyl (Topsin M 70WP) để phòng trừ.

Chú ý phun vào những đợt lá ra vào đầu mùa mưa.

3. Bệnh đốm xám: (Septoria passiflorae)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Bệnh tấn công các bộ phận lá, thân, và quả, gây hại nặng có thể làm rụng lá, rụng quả sớm dẫn đến giảm năng suất. Bệnh thường xuất hiện trong suốt mùa hè và mùa thu.

Trên lá, vết bệnh thường không có hình dạng cố định, chỉ là những đốm nhỏ màu nâu sáng, nhanh chóng lan rộng và làm lá rụng. Trên thân, vết bệnh xuất hiện tương tự như ở trên lá. Nhưng có đặc điểm vết bệnh thường lõm sâu vào trong thân. Trên quả, vết bệnh đầu tiên cũng là những đốm nhỏ, tương tự như trên lá và thân. Sau đó những đốm này tạo thành những vết thương tổn lớn gây nên hiện tượng rụng lá và quả.

–  Phòng trừ bằng biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc có hoạt chất: Azoxystrobin + Difenoconazole (Amistar top 325SC); Mancozeb + Metalaxyl – M (Ridomil GoldÒ 68WP); Carbendazim (Carbenvil 50SC); Cuprous Oxide (Norshield 86.2WP)

4. Bệnh thối hạch: (Sclerotinia sclerotiorum)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trên thân, vết bệnh lan rộng làm bong lớp vỏ, làm gãy đổ chồi non. Các hạch nấm màu đen, cứng hình thành là nguyên nhân làm cho bệnh lây lan từ vụ này qua vụ khác và thường ảnh hưởng đến chồi ngọn. Loài nấm này cũng có thể gây hại trên trái, vết bệnh lan nhanh và có màu nâu nhạt bao phủ toàn bộ trái, cuối cùng trên trái sẽ hình thành các hạch nấm màu đen có nhìn thấy bằng mắt thường, lúc này trái sẽ bị rụng. Bệnh này phát triển thuận lợi trong điều kiện ẩm ướt kéo dài và nhiệt độ từ 15 -200C.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, tiêu hủy tàn dư cây bệnh. Trồng mật độ hợp lý, tỉa bỏ bớt lá già, lá gốc để tạo độ thông thoáng, tránh ẩm độ cao trong đất.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo dùng một số loại thuốc có hoạt chất IprodioneTrichoderma spp.

5. Bệnh héo rũ: (Fusarium avenaceum, Giberella, baccata, Gibberella saubinetii)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Trong điều kiện thời tiết ẩm ướt, nấm bệnh phát triển nhanh, vết bệnh có thể xuất hiện trên cả cổ rễ và thân. Đầu tiên cây có biểu hiện vàng lá sau đó thân lá và trái héo rũ xuống và chết dần. Ở phần thân, nơi tiếp xúc với mặt đất, các bó mạch dẫn bị nấm tấn công tạo các vết bệnh nâu đen vòng quanh thân làm cho nước và dinh dưỡng không thể truyền được từ rễ lên, gây hiện tượng héo rũ thân lá dẫn đến chết cây.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hạn chế việc tạo vết thương cho cây trong quá trình chăm sóc, bón phân, tỉa cành, làm cỏ, giữ cho vườn luôn sạch sẽ. Phòng trừ tốt các loại bệnh do nấm và các loài sên, nhớt. Phần gốc cây cần được bảo vệ chống lại ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ và đặt các viên thuốc để dẫn dụ sên nhớt đến tiêu diệt. Những cây bị bệnh cần được di chuyển cẩn thận, đem phơi khô và đốt.

Biện pháp hoá học: Sử dụng các loại thuốc Trichoderma 3,2 x 10bao tử/g sử dụng 3kg/1000mtrộn với phân chuồng hoặc phân vi sinh bón vào đất.

6. Bệnh thối rễ:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại:

Gây ra bởi Phytophthora cinnamomi thường hoạt động vào mùa hè và mùa thu và Phytophthora megasperma thường hoạt động mùa xuân. Cả 2 loại nấm này đều tấn công trên cây trưởng thành ngoài vườn lẫn trong vườn ươm gây chết cây, nhưng tác hại chính của chúng là nguyên nhân mở đường cho sự tấn công của nấm Fusarium và chết cây do thối ngọn.

Phytophthora cinnamomi là một loại nấm rễ gây bệnh tắc mạch dẫn và gây chết đối với nhiều loài thực vật. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường ẩm và ký sinh trên rễ và mô thân gần gốc. Bệnh làm suy yếu hoặc giết chết cây vì gây cản trở việc vận chuyển nước và dinh dưỡng trong cây. Trên cây trưởng thành xuất hiện các triệu chứng cháy lá. Lá chuyển sang màu xanh nhạt rồi chuyển sang màu đồng. Trên trái xuất hiện các vết bệnh lớn, màu xám. Hoa và trái xanh của cây bệnh rất dễ bị rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Điều chỉnh chế độ tưới nước cho phù hợp cũng là biện pháp để giảm sự tấn công của bệnh. Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Thuốc gốc đồng, Fosetum aluminium,

7. Virus:

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Các nhà khoa học trên thế giới đã tìm ra 16 loài virus gây hại trên cây Lạc tiên, trong 16 đó có 2 loại nguy hiểm nhất là PWV và CABMV là nguyên nhân gây ra các vết khảm lá, làm lá nhăn nheo, trái bị biến dạng, gỗ hoá, giảm sự sinh trưởng, phát triển của cây.

Tại Lâm Đồng, việc xác định chính xác có bao nhiêu loại virus gây hại cây Lạc Tiên và phân biệt triệu chứng từng loại chưa được thực hiện, hiện tại các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên có thể nhận biết chung các loại vius qua các triệu chứng như sau:

+Trên trái: Các cây bị virus gây hại trái thường có màu sắc nhợt nhạt, chuyển sang trạng thái khô cứng. Bệnh gây hại nặng có thể làm trái sinh trưởng không bình thường, chuyển sang màu vàng, bị biến dạng, méo mó, khô lại, da quả nhăn nheo, bóp không vỡ, héo khô và rụng nhiều.

Ngoài ra một số vườn trên trái xuất hiện các đốm màu nâu nhạt có thể xuất hiện trên trái bình thường hoặc các trái đã bị biến dạng, méo mó, vỏ quả trở nên dầy và cứng hơn bình thường. Các đốm này có thể hình tròn, màu sắc nhợt nhạt với các đám tập trung đường kính khoảng 3 -7mm. Chúng phát triển dần và lan rộng ra, không có hình dạng nhất định, xuất hiện ở tất cả các vị trí trên trái. Ở các trái chín các đốm bệnh thường trở nên đậm và sáng. Nếu xuất hiện trên trái vẫn còn xanh, tâm của vết bệnh có màu xanh xám. Cuối cùng nhiều vết bệnh liên kết với nhau tạo thành các đốm lớn màu xám trắng.

+ Trên lá: Có rất nhiều các vết lốm đốm nhỏ màu vàng loang lổ trên lá, các đốm này có thể xuất hiện rời rạc hoặc lẫn với các đốm bệnh khác trên lá. Lúc đầu có hình dạng tròn, nhưng khi lan rộng thì nó không có hình dạng nhất định. Và thỉnh thoảng có tâm màu vàng. Vết bệnh cũng có thể xuất hiện ở trên dây hoặc trên cuống lá. Triệu chứng biểu hiện rõ nhất là trên lá già. Lúc đầu các vết bệnh màu vàng nhạt về sau chuyển sang màu vàng sáng, mép lá có những nếp nhăn, méo mó. Lóng trên thân ngắn, tán lá mọc thành chùm, cây chậm sinh trưởng. Gân lá phình to. Ngọn bị vàng và không phát triển được.

+ Trên thân: Các đốm màu xanh sáng có thể xuất hiện ở trên thân và cuống lá của những cây bị ảnh hưởng và rất dễ nhận thấy trên đồng ruộng.

– Sự lan truyền bệnh:

Đầu tiên virus lan truyền bởi quá trình ghép, qua các dụng cụ ghép từ cây bệnh vào trong cây khỏe. Ngoài ra quá trình cắt tỉa cành bằng dao, kéo cũng làm cho virus lây lan. Không có sự lan truyền qua hạt giống, mà có thể lây lan trong quá trình vận chuyển.

Các loài rệp như rệp muội Aphis gossypii rệp đào Myzus Persicae, bọ phấn và các loài chích hút là các môi giới truyền bệnh virus gây hại Lạc tiên.

– Biện pháp phòng trừ tổng hợp:

Giống: Hiện tại chưa có giống kháng bệnh rõ rệt, vì vậy cần nghiên cứu cho ra các giống mới ít nhiễm bệnh virus, chống chịu được sâu bệnh, thích nghi với điều kiện địa phương.

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn trồng, cắt tỉa chồi, lá bệnh, quả bệnh đem tiêu hủy, tưới đủ nước, giữ nước trong mùa khô, luân canh cây trồng, không trồng Lạc tiên trên đất đã trồng các cây họ cà: cà tím, ớt, khoai tây, thuốc lá và dưa chuột vì các loại cây trồng này đều là ký chủ của loài virus, bón phân cân đối và hợp lý, tránh bón quá nhiều đạm nhất là trong mùa mưa. Trong quá trình cắt tỉa từng cây cần có biện pháp xử lý tiệt trùng dụng cụ bằng xà phòng hoặc Na2PO4 (3%) để tránh lây nhiễm từ cây cây bị bệnh sang cây khỏe.

Biện pháp khác: Đối với virus hiện tại chưa có loại thuốc hóa học nào có khả năng phòng trừ hiệu quả. Vì vậy biện pháp quản lý tốt các môi giới truyền bệnh có ý nghĩa rất quan trọng.

Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút trưởng thành các loại côn trùng chích hút, dùng giấy bạc, tạo ánh sáng phản xạ xua đuổi côn trùng chích hút, dùng lưới côn trùng quây quanh để bảo vệ vườn trồng.

+ Phòng trừ triệt để ngay từ đầu một số đối tượng trung gian lây truyền virus như các loại rệp, bọ phấn và các loài chích hút bằng các biện pháp như đã hướng dẫn ở trên.

8. Tuyến trùng:

Lạc tiên có 4 loài tuyến trùng gây hại gồm Pratylenchus spScutellonema truncatumHelicotylenchus sp; Meloidogyne javanica. Tuyến trùng không nhìn thấy được bằng mắt thường, kích thước thấy được khi được soi qua kính hiển vi điện tử. 4 loài tuyến trùng đều tấn công bộ phận rễ cây chúng xâm nhập vào rễ theo vết thương cơ giới, hệ thống mạch dẫn của rễ như hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng.

Khi chúng xâm nhập vào bộ phận rễ, chúng hút dinh dưỡng để sống, tuyến trùng tấn công vào rễ làm cho bộ rễ phình to lên ở những đoạn có thành phần Kitin, xenlulo kém, khi bộ rễ phình to sẽ làm tắc hệ thống dẫn nước, dinh dưỡng sẽ làm cho cây Lạc tiên héo một cách bất thường, làm lá vàng, quả non rụng giống như triệu chứng thiếu nước.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Bón phân cân đối, chọn giống tốt, chống chịu với sâu bệnh… vệ sinh vườn trồng ngắt tỉa cành lá, tạo độ thông thoáng cho cây.

Biện pháp hóc học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Carbosunfan, Ethoprophos xử lý theo liều lượng khuyến cáo

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây Lạc Tiên (Phần 1)

A. Đối với sâu hại

Hiện nay, chưa có danh mục thuốc bảo vệ thực vật đăng ký sử dụng cho cây Lạc tiên. Tuy nhiên, đây là cây ăn quả, dư lượng thuốc BVTV có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người sử dụng. Do vậy, khuyến cáo các tổ chức, cá nhân canh tác cây Lạc tiên nên sử dụng các loại thuốc có tên trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên cây ăn quả và cây rau.

Lạc tiên

Lưu ý: Các loại thuốc khuyến cáo sử dụng như trong phần biện pháp phòng trừ chỉ mang tính chất tham khảo, cần phải được thử nghiệm trên diện tích nhỏ trước khi triển khai áp dụng đại trà để tránh gây thiệt hại trong sản xuất.

1. Nhện đỏ

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Nhện đỏ có kích thước cơ thể rất nhỏ, lấm tấm như cám, mắt thường khó phát hiện. Con trưởng thành đẻ trứng rời rạc ở mặt dưới của phiến lá. Trứng hình tròn, lúc mới đẻ có mầu trắng hồng, sau đó chuyển sang hồng. Sau khi đẻ khoảng 4-5 ngày thì trứng nở ra ấu trùng. Ấu trùng có mầu xanh lợt (lúc mới nở chỉ có 6 chân, từ tuổi 2 trở đi cho đến khi trưởng thành chúng có 8 chân), khi lớn chuyển dần sang mầu nâu đỏ. Cả ấu trùng và trưởng thành đều sống tập trung ở mặt dưới phiến lá của những lá  non đang chuyển dần sang giai đoạn bánh tẻ.

Triệu chứng: Nhện đỏ gây hại bằng cách hút dịch của mô tế bào lá làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ, nếu mật độ cao làm lá bị xoăn lại, lá mau rụng và chậm ra lá non. Gặp điều kiện thuận lợi sinh sản rất nhanh, làm cho từng mảng lớn của lá bị vàng, khô, thậm chí toàn bộ lá bị khô cháy và rụng. Hoa bị thui chột không đậu trái được, trái non bị hại lốm đốm vàng và có thể bị rụng, gây thiệt hại lớn cho nhà vườn. Nhện đỏ thường phát sinh và gây hại nặng trong mùa khô nóng hoặc những thời gian bị hạn trong mùa mưa.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt bỏ những lá có mật số nhện quá cao đã chớm bị vàng úa đem tiêu hủy để diệt nhện. Có thể dùng máy bơm nước có áp suất lớn xịt mạnh tia nước vào mặt dưới của lá để rửa trôi bớt nhện.
Biện pháp hoá học: Do nhện đỏ có tính kháng thuốc rất mạnh nên khi phát hiện trên cây có nhiều nhện cần dùng luân phiên nhiều loại thuốc. Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: Abamectin, Emamectin benzoate, Propargite sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

2. Bọ xít(Nezara viridula), (Leptoglossus australis)

– Đặc điểm hình thái và tập tính gây hại:

Bọ xít trưởng thành có cánh màu nâu đen với một vài đốm đỏ ở sau đầu và mặt dưới của cơ thể, mình thon mảnh dài 18mm, rộng 6mm, chân dài, râu dài. Sâu non có hình dáng tương tự con trưởng thành nhưng không có cánh, chúng có màu đỏ ở giai đoạn mới nở, giai đoạn sâu non kéo dài khoảng 50 ngày, trưởng thành sống trong vài tuần.

Bọ xít gây hại bằng cách tấn công (chích hút) vào hoa, đọt non và quả non làm cho quả lốm đốm, nếu gây hại nặng làm cho quả rụng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, dọn cỏ dại, phát quang bờ lô, bụi rậm, bón cân đối N-P-K, dùng vợt tay để bắt bọ xít vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Kiểm tra vườn phát hiện và thu gom ổ trứng của chúng đem tiêu hủy.

Nếu mật độ cao có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: AbamectinAcephateAzadirachtinMatrine, …sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

3. Bọ trĩ(Thysanopterasp)

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành, gây hại trái làm trái méo mó, dị hình, bề mặt trái bị nám.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Hàng năm xới xáo, thu gom tàn dư thực vật trên đất để tiêu hủy, bón phân, làm cỏ… đúng yêu cầu kỹ thuật. Tưới phun trực tiếp vào các bộ phận bị hại khi bọ trĩ rộ có thể giảm đáng kể tác hại của bọ trĩ.

Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như: OxymatrineImidaclopridThiamethoxam.…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo, hạn chế sử dụng thuốc phổ rộng.

4. Bọ phấn(Bemisia tabaci)

– Đặc điểm gây hại: Là loài gây hại dạng chích hút, chúng thường xâm nhập vào bộ phận hoa, lá, quả non để chích hút làm cho hoa khó thụ phấn, quả khó hình thành. Bọ phấn tập trung ở mặt dưới lá, chích hút nhựa làm cây suy yếu, bị héo, vàng lá.

Chất bài tiết của bọ phấn tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Bọ phấn thường gây hại trong mùa khô, chúng phân tán nhờ gió.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp cơ giới vật lý: Dùng bẫy dính màu vàng để thu hút con trưởng thành.

Biện pháp hóa học:  Hạn chế phun thuốc hóa học và bảo vệ các loài thiên địch có ích. Sử dụng một trong các loại thuốc có các hoạt chất:

ThiamethoxamOxymatrineDinotefuranAbamectinPetroleum spray oil,  Citrus oil.

5. Rệp các loại

– Đặc điểm và tập tính gây hại: Có nhiều loại: Rệp sáp (Planococcus citri and P. kenya), Rệp muội (Aphis gossypi), Rệp đào (Myzus persicae) và rệp vừng màu xanh quả đào (Myzus persicae)

Các loài rệp này gây hại phổ biến trên cây Lạc tiên, chúng gây hại bằng cách bám vào các bộ phận như: thân, lá, quả non, các khe cạnh giữa cuống quả, lá chúng hút nhựa để sống, làm giảm sự quang hợp của lá, làm cho lá, quả rụng bất thường. Nguy hiểm nhất là rệp sáp chích hút nhựa cây làm cây chậm phát triển, quả nhỏ. Chất bài tiết của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng đen phát triển, bám đen cả cành lá và vỏ trái làm giảm giá trị sản phẩm. Hai loài rệp đào (Myzus persicae) và rệp muội (Aphis gossypii) đối tượng mang một loài virus rất nguy hiểm đó là woodiness (PWV).

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cắt tỉa những cành sâu bệnh, cành vô hiệu để giảm nơi sinh sống của rệp. Vệ sinh vườn, dọn sạch cỏ rác, lá cây mục ở xung quanh gốc để phá vỡ nơi trú ngụ của kiến, mùa nắng dùng vòi bơm nước phun vào chổ có nhiều rệp đeo bám có tác dụng rửa trôi bớt rệp, đồng thời tạo ẩm độ trên cây làm giảm mật độ rệp. Kiểm tra để phát hiện sự xuất hiện của rệp, nếu thấy có rệp dù với số lượng ít cũng phải diệt trừ ngay.

Tham khảo sử dụng một trong những loại thuốc có hoạt chất như sau: Abamectin, Abamectin+AlphaCypermethrin, Acephate, Chlorantraniliprole + Thiamethoxam, Emamectin benzoate, Etofenprox,  Thiamethoxam.

Không nên sử dụng liên tục một loại thuốc BVTV nhiều lần/vụ, hoặc qua các năm liên tục, để tránh hiện tượng “quen thuốc ” của rệp sáp.

6. Ruồi đục trái

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Có 2 loài ruồi đục trái gây hại trên Lạc tiên: Bactrocera cucurbitae và Ceratitis capitata. Trái non bị hại nhăn nheo và rụng sớm, vết thương do ruồi đục sẽ làm giảm giá trị thương mại của quả, sự tác động và gây hại của ruồi đục trái trên Lạc tiên thường không nghiêm trọng như trên các cây trồng khác vì vậy nếu gây hại ở mức độ nhẹ thì chưa cần phòng.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Vệ sinh vườn, cắt tỉa lá già, bệnh, thu gom những trái rơi rụng đem chôn sâu có khử trùng bằng vôi. Thu hái trái sớm hơn bình thường, không để trái chín quá lâu trên cây. Sử dụng biện pháp bao trái bằng túi giấy hoặc báo trước khi trái chín để hạn chế trưởng thành đẻ trứng trên trái. Có thể dùng chất pheromon dẫn dụ với tên thương mại là Vizubon-D để làm bẫy dẫn dụ và tiêu diệt con trưởng thành đực (con ruồi đực). Biện pháp này muốn có kết quả cao nên vận động nhiều nhà vườn cùng tiến hành đồng loạt trên diện rộng.

Biện pháp hoá học: Sử dụng Protein thủy phân trộn chất độc làm bả diệt ruồi đục trái.

Cách làm như sau: pha 100ml Protein thủy phân với 3-5ml thuốc trừ sâu Regent 5SC, pha loãng với 1 lít nước rồi đem phun cho mỗi cây trên diện tích khoảng 1m2 tán lá với lượng 50ml hỗn hợp. Mỗi tuần phun 1 lần lúc 8-10 giờ sáng, ruồi sẽ đến ăn và chết làm giảm được số lượng nên không gây hại được.

7. Sâu đục thân

– Đặc điểm và triệu chứng gây hại: Sâu trưởng thành tìm những kẽ nứt của thân cây để đẻ trứng, sâu non nở ra đục vào thân cây tạo thành đường vòng quanh thân, dần dần đục sâu vào trong thân làm rỗng thân. Khi cây vừa bị sâu hại, lá non ở đầu nhánh có màu xanh hơi đậm, hơi xoăn và nhỏ hơn lá bình thường. Cây bị hại nặng thì lá vàng và héo, vỏ thân cây Lạc tiên có dấu hiệu nứt nẻ.

– Biện pháp phòng trừ:

Biện pháp canh tác: Cần tạo hình và cắt tỉa nhánh được tiến hành thường xuyên. Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên giàn đã cho trái, để lại thân và các cành từ mặt đất tới giàn.

Biện pháp vật lý: Quan sát kỹ các thân cây nếu có vết đục của sâu đục thân thì dùng dụng cụ rạch phần thân để bắt sâu, sau đó dùng bao nilon sạch buộc lại vết đạ rạch, kể cả vết đục.

Biện pháp hoá học: Sử dụng một trong những loại thuốc có các hoạt chất như Abamectin + MatrineCypermethrinDiazinon Cartap,…sử dụng theo liều lượng khuyến cáo.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Lạc tiên

Giống: Tại Lâm Đồng chủ yếu sử dụng giống Đài nông 1 (quả tím) và một số giống do các công ty nhập khẩu từ Đài Loan. Hiện nay người ta dùng giống quả tím ghép lên gốc ghép giống quả vàng, để tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, tuyến trùng và khả năng sinh trưởng phát triển,

Chuẩn bị đất: Trước khi trồng cây phải xử lý đất để diệt trừ mầm sâu, bệnh bằng cách cày sâu 30-35cm, nhặt sạch cỏ dại và tàn dư thực vật khác.

Thiết kế đường lô, mật độ khoảng cách trồng:

– Thiết kế đường lô: Thích hợp với những nơi đất bằng phẳng, độ dốc <80, vườn trồng có thể thiết kế theo hình chữ nhật hoặc hình vuông diện tích từ 0,2 – 0,5ha/lô, đường lô rộng 3m. Trồng trên đất dốc, hàng cây phải bố trí theo đường đồng mức để thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư, chăm sóc và thu hoạch.

– Tùy theo điều kiện đất đai, địa hình và khả năng thâm canh, có thể trồng các mật độ: 1.660 cây/ha: khoảng cách 3 x 2m; 1.330 cây/ha: khoảng cách 3 x 2,5m; 1.100 cây/ha: khoảng cách 3 x 3 m; 850 cây/ha: khoảng cách 3 x 4m.

Cách trồng: Hố trồng có kích thước 60x60x60cm, đào một hố nhỏ ở giữa bồn có độ sâu bằng bầu, đặt cây và lấp đất phủ kín bằng mặt bầu. Sau đó rắc thuốc xung quanh để tránh mối, kiến, dế cắn phá. Dùng cây chống cắm xung quanh và dùng các vật liệu che chắn nhằm hạn chế gió.

Tưới nước: Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên vấn đề tưới giữ ẩm và tủ gốc là rất cần thiết. Không để nước ngập úng trong mùa mưa nhưng phải đủ nước tưới trong mùa khô đặc biệt trong giai đoạn cây ra hoa. Định kỳ tưới 2 lần/tuần vào mùa khô.

Bón phân: Cây Lạc tiên rất thích hợp với các loại phân hữu cơ, nhất là phân chuồng ủ hoai. Lượng phân bón cho cây theo giai đoạn sinh trưởng, tuỳ thuộc mật độ trồng khác nhau cần điều chỉnh lượng phân bón cho phù hợp.

Giai đoạn kiến thiết cơ bản (1-6 tháng tuổi)

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, như sau:

+ Phân chuồng hoai: 15-20 tấn; vôi bột: 1.000kg.

+ Phân hóa học (lượng nguyên chất): Bón với tỷ lệ N-P-K: 2-2-1,5. Lượng phân hóa học nguyên chất:  170kg N-170kg P2O-145kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 370kg; super lân: 1.062,5kg; KCl: 242kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 850kg; KCL: 29kg.

* Bón theo cách 1:

Bón lót: Đào hố xong xử lý đất bằng vôi, dùng phân chuồng hoai trộn lẫn với phân lân, vôi hoặc dùng phân hữu cơ vi sinh để bón lót. Thực hiện bón trước khi trồng từ 25-30 ngày với lượng: phân chuồng 15-20 tấn/ha + vôi 1.000kg/ha.

Bón thúc: Phân Ure và kali bón sau trồng 20 ngày, các lần tiếp theo cứ 15 ngày bón 1 lần (chia đều 10-12 lần bón) bón 28-32kg urê + 18-22kg KCL.

Phân lân bón riêng và chia hai lần bón, lần thứ nhất sau khi trồng 60 ngày, lần tiếp theo 150 ngày sau trồng. Bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

* Bón theo cách 2:

Bón lót như cách 1.

Bón thúc: Sau trồng 15 ngày bón 29kg KCL + 70kg NPK 20-20-15 và các lần tiếp theo cứ 15 ngày (chia đều 10-12 lần bón) bón 70-85kg NPK 20-20-15 mỗi lần.

Giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên)

Bón tỷ lệ N-P-K: 2-1-4.

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên) như sau:

Phân hóa học bón với tỷ lệ N-P-K: 2-1-4. Lượng phân hóa học nguyên chất:  400kg N-204kg P2O-820kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 870kg; super lân: 1.275kg; KCl: 1.367kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 1.020kg; Ure: 426kg; KCL: 1.112kg.

* Bón theo cách 1:

Phân đạm và kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 30-40kg Urê + 50-55kg Kaliclorua/ha/lần bón.

Phân lân chia làm 3 lần bón, bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

Trong giai đoạn kinh doanh cần bón thêm phân hữu cơ hoặc phân chuồng hoai với lượng 15-20 tấn/năm, bón 2 lần vào đầu và giữa mùa mưa.

* Bón theo cách 2:

Phân NPK 20-20-15 + đạm + kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 50kg NPK 20-20-15 + 20-22kg Urê + 55-60kg Kaliclorua/ha/lần bón.

* Ngoài ra, trong quá trình canh tác cần phun thêm các loại phân bón qua lá có chứa các trung, vi lượng như Ca, Mg, S, B, Mo, Fe,…nhằm thúc đẩy cây sinh trưởng phát triển, kích thích ra hoa đậu trái sau các lần thu họach.

Làm bồn, diệt cỏ dại: Thường xuyên phá lớp váng đất mặt tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển giúp cây sinh trưởng tốt.

Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên việc diệt cỏ dại chủ yếu dùng biện pháp thủ công, hạn chế tối đa việc làm đứt rễ làm cây dễ nhiễm bệnh.

Làm giàn, tạo hình và tỉa cành lá: Kỹ thuật làm giàn có ảnh hưởng lớn đến việc ra hoa và đậu trái của cây Lạc tiên vì cây chỉ ra hoa ở các mặt đầu cành thứ cấp nằm ngoài mặt tán. Làm giàn theo kiểu chữ T để giúp Lạc tiên phát triển tốt hơn do ánh sáng tiếp xúc bề mặt tán lớn, hạn chế nấm bệnh. Nên làm giàn cao 1,8-2,2m với các trụ tre, gỗ hoặc bê tông, khoảng cách các cột nên cắm theo khoảng cách trồng; bên trên căng lưới thép với khoảng cách ô vuông 40 x 40cm cho cây leo.

Cây mới trồng phát triển chiều cao khoảng 1m thì bấm bớt lá gốc. Cây có bộ lá to, dày, xanh tốt, không bị nấm bệnh là biểu hiện cây sinh trưởng mạnh, đồng thời lá to sẽ giúp cây trao đổi chất tốt hơn do vậy cần chú ý bảo vệ.

Khi cây đã lên giàn cần tạo hình, tỉa bớt lá già hoặc những chỗ mật độ lá quá dày, đặc biệt trong mùa mưa, để hạn chế sâu bệnh gây hại, đồng thời nhằm ức chế sinh trưởng, giúp cho cây ra nhiều nụ, đậu nhiều trái, giúp cây sinh trưởng phát triển tốt.

Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên mặt giàn đã cho trái, cây sẽ ra chồi mới, phân cành cấp 2, 3 và các cành quả. Nếu Lạc tiên không được tỉa hoàn toàn vào cuối năm, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển, đặc biệt làm hạn chế đến năng suất các năm sau.

Tạo tầng: Khi cây kín giàn thì kéo các nhánh xuống phía dưới để chủ động tạo nhiều tầng sinh trưởng, nhằm tăng diện tích giàn, tăng năng suất trên một đơn vị diện tích. Tùy theo độ cao của giàn và khả năng sinh trưởng mà ta để nhánh có độ dài, ngắn khác nhau rồi bấm ngọn. Sau khi thu hoạch ta cắt bỏ hết để cho nhú đọt non và tiếp tục tạo tầng mới.

Thu hoạch:  Trái Lạc tiên chín là những trái già tự rụng hoặc khi thấy vỏ trái đã chuyển sang màu tím là thu hái được.

Thu hoạch quả Lạc tiên

Đối với trái ăn tươi bảo quản trong thùng giấy carton hoạc sọt tre theo yêu cầu của người mua hàng.

Đối với trái dùng để múc dịch quả thủ công làm nguyên liệu, đựng trong xô nhựa có lót bịch ny lông, dịch quả được cột chặt trong bịch ny lông và vận chuyển đến nơi chế biến trong ngày. Nếu để lâu phải có kho lạnh bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đặc điểm thực vật học và yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh cây Lạc Tiên

1. Đặc điểm thực vật học

Cây Lạc tiên (còn gọi là cây chanh dây, mác mác), tên khoa họcPassiflora edulis Sims, thuộc họ lạc tiên Passifloraceae, bộ Violales. Chi Passiflora hiện có hơn 400 loài, trong đó có khoảng 60 loài cho trái ăn được.

Lạc tiên

Lạc tiên là một loại dây leo, thân nhỏ, hình trụ có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Cây mọc leo có khi dài tới hàng chục mét, lá mọc xen, mang lá kèm ở mỗi đốt. Cuống lá dài 2-5cm, mang phiến lá có 3 thùy dài, kích thước lá 10-15 x 12-25cm, bìa phiến có răng cưa nhỏ, tròn đầu. Hoa mọc ở kẽ lá, màu trắng hồng, đài 5 cánh màu xanh lục, cánh hoa dài 2-2,5cm, tràng 5 cánh rời nhau, xếp xen kẽ với các lá đài; tràng phụ do 4-5 hàng sợi trắng, gốc tím, cuống nhụy dài 1,5cm.

Trái hình cầu đến bầu dục, kích thước 4-12 x 4-7cm, màu tím sậm hay vàng chanh, tự rụng khi chín. Hạt có nhiều áo, hạt màu cam. Hạt rất mau mất sức sống (chỉ vài tuần), cây con trồng hạt rất yếu, không đồng đều, dễ nhiễm bệnh vì vậy không nên trồng bằng hạt. Nên trồng lạc tiên bằng cây ghép, giâm cành (bằng cành bánh tẻ), dễ cho nhiều nhánh khỏe bò lan.

Lạc tiên cần nhiều ánh sáng để ra hoa và đậu trái, mầm hoa mọc từ các chồi nách, từ khi thụ phấn đến trái chín là 60-70 ngày (giống trái vàng) hoặc 60-90 ngày (giống trái tím). Lạc tiên có loại giống quả tím và quả vàng:

+ Lạc tiên quả tím (Passiflora edulis Sims): Là loại cây leo lâu năm, lá có 3 khía, màu xanh, có răng cưa, gốc hình quả tim, hoa nở vào sáng sớm, trước trưa hoa cụp lại. Cành mới ra mỗi đốt có một hoa, quả hình tròn hoặc hình trứng đường kính khoảng 4-5cm, khi chín quả có màu tím đậm. Vỏ quả cứng, hạt đen, nhỏ nhiều hạt. Thịt quả vàng, thơm dịu, nhiều nước, có vị chua nhưng rất dễ chịu và cho hương vị trái ngon.

+ Lạc tiên quả vàng (Passifalora edulis F.flavicarpa Degener). Tương tự loại quả tím nhưng phát triển mạnh hơn. Thân, gân, lá, râu leo màu hồng, hoa tím hồng. Gốc hoa màu tím thẫm, quả lớn, vỏ màu vàng, vị thịt quả chua. Hạt màu nâu sẫm. Hoa nở vào ban trưa, 9-10 giờ tối thì cụp lại.

2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh

Lạc tiên đòi hỏi khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa trung bình từ 1.600mm trở lên, phân bố đều, trong thời kỳ ra hoa ít bị mưa, nhiệt độ thích hợp từ 16-30oC, không có sương muối; độ ẩm từ 75-80%.

Cây lạc tiên có thể trồng những vùng có khí hậu nóng

Cây Lạc tiên không kén đất, có thể trồng ở những vùng có khí hậu nóng, kể cả đất có pH cao, tốt nhất là chọn đất thoát nước tốt, không để nước đọng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng canh tác sâu >50cm, độ mùn trên 1% và pH 5,5-6. Lạc tiên quả tím thích hợp vùng á nhiệt đới, cao độ 1.000-1.200m so mặt biển cho chất lượng quả tốt. Ngược lại giống quả vàng thích hợp vùng nhiệt đới, độ cao < 600m.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

Hiện nay,  có nhiều nhà vườn đã quen với việc xử lý cho cây trồng ra hoa đậu trái nghịch vụ bằng các loại thuốc kích thích, thuốc BVTV.. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá các loại thuốc này thì chẳng khác nào con dao hai lưỡi do giá thành cao, gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người và làm giảm tuổi thọ của cây.

Quýt nghịch vụ

Để góp phần khắc phục và hạn chế những cách làm cũ, hãy cùng tìm hiểu kỹ các bước xử lý cho cam, quýt ra hoa đậu quả nghịch vụ mà không cần lạm dụng đến hóa chất và thuốc kích thích, thuốc BVTV, mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

► Giai đoạn sau thu hoạch

– Bón vôi: Sau khi cuốc đất làm đứt rễ bà con nên phơi khô từ 5-7 ngày sau đó mới bón vôi. Bón vôi bột 1kg/gốc

– Bón phân: Sau khi bón vôi từ 5-7 ngày thì tiến hành bón phân
+ Phân hữu cơ đã ủ hoai mục với Nấm đối kháng Trichoderma NANO: Bón 10-20kg/gốc
+ Phân Urê: 200g
+ Phân DAP: 100g
+ Đậu tương nghiền nhỏ: 1-2,5 kg/gốc tùy tuổi cây
Lượng phân này cũng sẽ chống lại hiện tượng cây ra trái cách niên (tức năm có, năm không). Việc sử dụng Nấm đối kháng trichoderma là rất quan trọng, để ngăn chặn sự xâm hại của tuyến trùng và nấm bệnh gây thối rễ trên cây trồng.

– Phun sương qua lá bằng chế phẩm sinh học theo tỷ lệ 1:2000

► Giai đoạn xử lý ra hoa

– Hái bỏ trái vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch.
– Vào tháng 6-7 âm lịch tiến hàng xiết nước và ngưng tưới để cho cây có thời gian “ngủ nghỉ”. Đến khi có mưa, “đánh thức” cây dậy bằng cách tưới thêm vào những ngày nắng.
– Bón phân: 200g DAP + 50g KCl hoặc 200g AT2. Nửa tháng sau cây ra hoa khoảng 50%.
– Kết hợp phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt. Đến khi cây ra hoa rộ thì dừng phun.
– Tháng 8 âm lịch bón phân bằng 1/2 đợt vừa rồi cho cam ra hoa đợt hai.
– Tháng 9 bón phân liều lượng bằng đợt vừa bón cho cam ra hoa đợt ba.

► Giai đoạn nuôi trái

– Bón phân: 200g NPK 20-10-15 cho một cây.
– Phun phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt >> Để giúp cây có đủ dinh dưỡng nuôi trái. Hạn chế hiện tượng rụng trái non
– 1 tháng sau bón phân bằng 1/2 đợt bón nuôi trái lần đầu và phun phân bón lá lần hai.
– Neo trái, chống hiện tượng rụng trái: Bón thêm 100g NPK 20-10-15 cho mỗi cây. Đợt này không nên phun phân bón lá vì trái cam không còn lớn và dễ tạo điều kiện cho nấm phát triển trái sẽ bị đen.

► Phòng trừ sâu, bệnh hại

– Nếu có điều kiện, dùng túi chuyên dụng loại 16 x 20cm bao trái lại vào ngày thứ 45 sau đậu trái nhằm bảo vệ trái không bị da lu, da cám do nhện, ngài (bướm), ruồi, bọ xít, nấm… đeo bám.
– Nuôi kiến vàng: Kiến vàng là loài có lợi cho các loại cây có múi vì nó tấn công các loại sâu ăn lá, sâu vẽ bùa, sâu cuốn lá, sâu đục bông, bọ xít, rầy chổng cánh và xua đuổi các loài bướm tới đẻ trứng hoặc ăn ấu trùng của sâu, nhện… Vì vậy nếu có điều kiện nên hốt ổ kiến vàng thả nuôi hoặc giăng dây dẫn dụ chúng từ các cây khác bò sang vườn cây của mình.
– Tưới nước: Tưới bằng mô tơ điện hoặc bơm nước bằng máy dầu ở những nơi không có điện (để đỡ tốn nhiên liệu). Phun trực tiếp vào gốc, lá cây và trái (nếu không bao trái); phun gần sẽ tạo áp lực mạnh làm cho ấu trùng, sâu, nhện đỏ, nhện vàng, nhện trắng… hạn chế rất nhiều do không có khả năng đeo bám.

♦ Lưu ý

– Thu hoạch cam, quýt vụ nghịch vào khoảng tháng 1,2,3 âm lịch là chuyện dễ dàng vì không cần sử dụng phân và thuốc kích thích, cây vẫn ra hoa bình thường, nhưng thời điểm này giá thành cam chỉ ở mức trung bình, khoảng 4.000 – 5.000đ/kg.
– Điều khiển sao cho thu hoạch cam vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch lúc thị trường cần và khan hiếm sẽ bán được giá cao hơn, khoảng 15.000 – 20.000đ/kg, gấp 6 lần so với vụ thuận.
– Nên tuyển chọn hái bỏ bớt trái xấu, giữ lại những trái đẹp, kích cỡ đồng đều sẽ bán được giá cao, cây sẽ kéo dài thêm tuổi thọ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cụ ông trồng Quýt hồng thu tỉ đồng

Những ngày tháng Chạp gần Tết, dọc theo các con đường nhỏ dẫn lên đỉnh núi Cấm, những vườn quýt hồng bạt ngàn sai trĩu quả. Người dân đang chăm sóc, chuẩn bị thu hoạch bán Tết. Bà con cho biết quýt hồng ở đây có vị ngọt thanh, để lâu ngày trái vẫn tươi ngon nên rất được ưa chuộng.

Ông Trần Thanh Tùng tại trang trại quýt hồng trên núi cấm

Thương lái, bạn hàng đến tận nơi đặt mua với giá 26.000 đồng/kg. Trang trại quýt hồng của gia đình cụ ông Trần Thanh Tùng thu hoạch khoảng 70 tấn trái, lợi nhuận bạc tỉ.

Trồng quýt trên núi đá

Ông Tùng kể, trước đây ông luôn trăn trở làm sao để thoát nghèo, vì rằng đất triền núi Cấm vốn ít màu mỡ, lại thiếu nước trong mùa khô, trước kia trồng xoài, mít, dưa, su su… thu nhập chỉ tạm đắp đổi qua ngày. Một lần rảo quanh mấy vách đá, ông phát hiện 5 cây quýt hồng do người vợ rải hạt năm nào nay đang sai trái. Hái ăn thử thấy trái ngọt thanh hơn cả quýt hồng dưới đồng bằng, ông Tùng bàn với vợ con: “Chắc nhờ đất đai, thời tiết ở đây hợp với giống quýt hồng. Mình nên thử trồng đại trà!”.

Ông Tùng lặn lội đến vùng Lai Vung (Đồng Tháp) tìm hiểu cách trồng quýt hồng rồi mua hơn chục cây giống. Từ 15 cây quýt ban đầu, gia đình ông chịu khó chăm sóc, lần lượt chiết nhánh, dâm cành. Đất trên núi nhiều đá sỏi, độ dốc cao, phải đào hàng trăm hố sâu, đưa đất mùn, tủ thêm lá rụng xuống hố rồi mới đem trồng từng cây con.

Suốt mùa khô khe suối cạn trơ đáy, gia đình lặn lội xách nước từ xa về tưới từng cây một, cơ cực trăm bề.

Tết năm 2000, gia đình ông Tùng hái trái từ 150 gốc quýt trĩu cành sum suê, đưa xuống núi bán thu lợi hơn 60 triệu đồng. “Mừng như bắt được vàng, năm đó lần đầu tiên ăn Tết lớn, phấn khởi lắm!” ông Tùng nhớ lại.

Thừa thắng xông lên, gia đình ông Tùng mở rộng diện tích chuyên canh quýt hồng. Từ năm 2010, gia đình ông Tùng sở hữu trên 1.500 gốc quýt hồng, mỗi dịp Tết bán trái thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng.

Thương hiệu quýt hồng

Nhờ chủ động được nguồn nước tưới, nắm vững kỹ thuật, gia đình ông Tùng mở rộng thêm diện tích trồng quýt hồng và trồng thêm 1ha quýt đường. Anh Trần Thanh Thảo, con trai ông Tùng cho hay 2 tháng trước Tết Mậu Tuất đã bán hơn 30 tấn trái quýt đường với giá 14.000 đồng/kg, thu lợi 440 triệu đồng. Riêng 3ha quýt hồng thu hoạch vào dịp cận Tết này cho 70 tấn trái, lợi nhuận 1,4 tỉ đồng.

“Quýt trên núi chủ yếu bón phân hữu cơ, phân chuồng. Từ khi bắt đầu đậu trái không xài thuốc trừ sâu nên trái luôn tươi, ngọt tự nhiên, lại để chưng được lâu ngày nên bán khá chạy”, chị Nguyễn Thị Hiền, một thương lái mua quýt, cho hay.

Ông Châu Khon, Phó chủ tịch UBND xã An Hảo, khen ngợi gia đình ông Tùng đã biến đất núi đá cằn khô thành trang trại quýt hồng trù phú, lợi nhuận bạc tỉ. Vì vậy, mấy năm nay địa phương đã giới thiệu và cho nhân rộng mô hình này.

Gia đình ông Tùng thường cung cấp giống và sẵn lòng hướng dẫn kỹ thuật canh tác cho người dân quanh vùng. Hiện đã có 30 hộ dân trên núi mạnh dạn cải tạo đất, tích trữ nước, lập vườn trồng quýt hồng, rồi trồng thêm quýt đường với tổng diện tích 40ha cho lợi nhuận khá cao.

“Lập vườn trồng quýt trên núi Cấm giúp đời sống bà con khấm khá hơn, đón Tết cũng sung túc”, ông Khon hồ hởi nói.

Ông Trần Hiếu Thuận, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Tịnh Biên, cho biết núi Cấm cao hơn 700m, không khí trong lành, thời tiết mát mẻ quanh năm nên quýt hồng trồng nơi đây có vị ngọt thanh đặc trưng.

“Tới đây ngành nông nghiệp phối hợp cùng Đại học An Giang, nhà khoa học khảo sát nghiên cứu hoàn thiện thêm mô hình, cho quy hoạch vùng chuyên canh quýt hồng, vừa phục vụ phát triển du lịch, từng bước tiến tới xây dựng thương hiệu quýt hồng núi Cấm”, ông Thuận nói.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.