Các bệnh thường gặp ở lúa và cách phòng trị

1. Bệnh lùn xoắn lá

Bệnh lùn xoắn lá đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam năm 1977 ở Cai Lậy Tiền Giang. Đến vụ Hè thu năm 1978 bệnh đã phát triển gây hại trên hầu khắp các tỉnh phía Nam. Bệnh lùn xoắn lá làm giảm năng suất nghiêm trọng do chiều cao cây, chiều dài lá và rễ bị giảm nhiều. Bông lúa trổ không thoát và tỷ lệ lép cao.

Bệnh lùn xoắn lá ở lúa

Triệu chứng

– Cây lúa bị bệnh lùn lá còn xanh và bị xoắn, cây sinh trưởng chậm. Trên ruộng lúa phát triển không đều, mép lá có thể bị rách hình răng cưa gân lá có màu vàng lợt, trắng, hoặc nâu đậm.
– Cây lúa trổ muộn và trổ không thoát, có trường hợp bong lúa bị quăn và đâm xuyên qua bẹ lá. Ở cây lúa bệnh thường có mọc nhiều chồi trên đốt thân. Bông lúa ngắn và tỷ lệ lép cao. Các nhánh con đều là nhánh vô hiệu.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh lùn xoắn lá do virus gây ra, rầy nâu là môi giới truyền và lây lan virus vào cây lúa do chích hút.
– Virus có dạng hình khối cầu, thường tập trung ở những phần non trên cây vì vậy các dảnh cấp 2 và 3 bị nặng hơn dảnh cấp.
– Bệnh không lây qua hạt cũng như các biện pháp cơ giới.
– Rầy nâu ở tuổi 4 – 5 truyền bệnh mạnh nhất, sau khi đã chích hút ở cây lúa bệnh 2 – 5 ngày, chỉ sau 5 phút chích hút là rầy nâu có thể truyền được bệnh sang cây lúa khỏe.
– Khi bị truyền virus 5 – 32 ngày sau cây lúa có biểu hiện bệnh. Sau khi virus có trong cơ thể rầy nâu sẽ tồn tại trong con rầy cho tới cuối đời của con rầy.
– Virus lùn xoắn lá còn gây hại và tồn tại trên cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng. Bệnh gây hại quanh năm khi có cây lúa, tuy nhiên thời gian có nhiệt độ từ 25 – 26°C là thích hợp nhất cho bệnh phát triển.
– Trên ruộng lúa bón nhiều đạm bị bệnh nặng hơn. Phân đạm là nhân tố ảnh hưởng cả đến bệnh và côn trùng truyền bệnh. Nhìn chung khi bón bất kỳ loại phân nào cũng đều làm tăng mức độ bệnh.

Biện pháp phòng trừ

Không có thuốc hóa học đặc trị bệnh lùn xoắn lá cho nên phải tuân theo hướng dẫn sau:
– Sử dụng các giống lúa kháng rầy nâu.
– Khi bệnh mới xuất hiện cần nhổ bỏ để tránh lây lan.
– Vệ sinh đồng ruộng, cày ải diệt lúa chét vì là nguồn bệnh cho vụ sau.
– Thời vụ sạ đồng loạt cây lúa sinh trưởng đồng đều hạn chế sự di chuyển của côn trùng môi giới.
– Bố trí sản xuất luân canh hai lúa một màu.
– Phân bón cân đối hợp lý.
– Dùng các biện pháp hoá học phòng trị rầy nâu như applaud, Bassa, Mipcin. Áp dụng tiêu chuẩn 4 đúng trong bảo vệ thực vật.

2. Bệnh đốm vằn

Bệnh đốm vằn trên lúa hay còn gọi là bệnh ung thư, được phát hiện và mô tả đầu tiên vào 1910 ở Nhật Bản, sau đó bệnh này cũng được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Bệnh đốm vằn là một trong những bệnh gây hại quan trọng trên ruộng lúa nước ở nước ta và các nước trồng lúa trên thế giới.

Bệnh đốm vằn ở lúa

Nguồn: Internet

Triệu chứng

– Bệnh thường xuất hiện từ 40 ngày sau khi sạ tới khi lúa trổ. Đầu tiên là những vết bệnh xuất hiện trên bẹ lá ở gần gốc lúa, đôi khi lây trực tiếp qua lá từ những cây bị bệnh xung quanh.
– Các vết bệnh lúc đầu có hình hơi tròn hoặc bầu dục có màu xanh xám, tâm có mày trắng xám và xung quanh màu nâu; kích thước vết bệnh thay đổi thường dài từ 1-3 cm. Khi gặp điều kiện thuận lợi các vết bệnh phát triển và liên kết lại hình thành nên những vết bệnh vằn vện không có hình dạng nhất định nên gọi là bệnh đốm vằn.
– Ở trên ruộng lúa, bệnh thường xuất hiện gần mặt nước ruộng, sau đó bệnh phát triển lên các bẹ và lá phía trên hay lây sang những cây xung quanh. Có nhiều hạch nấm được hình thành ngay gần vết bệnh. Đầu tiên hạch nấm có màu trắng khi già chuyển sang màu nâu. Hạch nấm già sẽ  rơi xuống đất và trôi nổi trên mặt nước, đây là nguồn lây lan bệnh từ nơi này sang nơi khác hoặc từ vụ này sang vụ tiếp theo.

Tác nhân gây bệnh

– Bệnh đốm vằn do nấm Rhizoctonia solani Kuhn gây ra, là bệnh hại quan trọng đối với lúa cao sản ngắn ngày. Bệnh có thể gây hại ở tất cả các vụ trong năm, thường gây hại nặng ở vụ Đông Xuân. Bệnh nhẹ thì làm tăng tỷ lệ lem lép hạt, gây đổ ngã, làm giảm năng suất. Bệnh nặng sẽ làm cây lúa chết và có thể gây thất thu năng suất lên đến 25%.
– Nấm R. solani còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như: gây bệnh chết cây con đối với đậu nành, đậu xanh, cà chua; gây bệnh đốm vằn, chết cây con trên cây bắp, … Vì vậy các loại hoa màu trồng luân canh trên đất lúa thường dễ bị nhiễm bệnh do nấm R. solani gây ra.
– Nấm R. solani có thể sống, phát triển hầu hết trên tất cả các loại cỏ dại, hạch nấm rơi xuống đất có thể tồn tại rất lâu và có khả năng gây bệnh trở lại sau một thời gian dài trong điều kiện tự nhiên. Do đó bệnh thường xuyên xuất hiện trên ruộng lúa.

Biện pháp phòng trừ

– Làm cỏ xung quanh ruộng, trong ruộng và kênh mương dẫn nước.
– Gieo sạ với mật độ thích hợp (150-200 kg/ha sạ bằng tay, 80-100 kg/ha sạ bằng máy sạ hàng).
– Sử dụng phân bón thích hợp (dùng bảng so màu là lúa, bón phân cân đối theo quy trình bón phân).
– Sử dụng thuốc hóa học: Validamycin 3DD, 5 DD (SL); Bonanza 100 DD (SL); Monceren 25BTN(WP), 250DD(SL); Anvil 5DD(SL).

3. Bệnh đạo ôn

Là một bệnh nguy hiểm đối với cây lúa. Hiện nay hầu hết các giống lúa đang được trồng phổ biến trong sản xuất (đặc biệt là những giống có chất lượng gạo ngon đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) lại là những giống nhiễm hoặc kháng yếu với bệnh đạo ôn.
Vì thế, nếu gặp thời tiết phù hợp, cây lúa đang ở giai đoạn xung yếu đối với bệnh, mà ruộng lại bón thừa phân đạm, thì bệnh có thể hủy diệt cả ruộng lúa chỉ trong vài ngày.

Bệnh đạo ôn ở lúa

Triệu chứng

Đạo ôn có thể gây hại nhiều bộ phận phía trên mặt đất của cây lúa từ lá, đốt thân, cổ bông đến gié lúa, hạt lúa,…
– Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn mạ-đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, màu xám xanh giống như bị nước sôi, sau đó chuyển sang màu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi, xung quanh màu nâu đậm, giữa màu xám trắng. Nếu nặng, nhiều vết bệnh liên kết lại với nhau làm lá bị cháy khô, cây lúa bị lụi xuống, ruộng lúa sẽ bị thất thu nghiêm trọng.
– Trên cổ bông, đốt thân lúa: Nấm bệnh tấn công trên đốt thân, trên cổ bông. Chỗ bị bệnh lúc đầu có màu xám xanh, sau chuyển dần sang màu nâu, nâu đậm. Trên cổ bông, nếu ẩm độ không khí cao, chỗ vết bệnh sẽ mọc một lớp nấm mốc màu xám xanh, nếu trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Gặp gió to chỗ vết bệnh bị gẫy gập, ruộng lúa trở nên xơ xác. Do cản trở việc vận chuyển chất dinh dưỡng từ cây lúa lên nuôi hạt, làm cho hạt lúa bị lép lửng. Nếu nặng bệnh có thể làm cho hạt lúa bị lép hoàn toàn.
– Trên hạt: Vết bệnh có hình đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, đường kính khoảng 1-2 mm. Nếu nặng có thể làm cho hạt lúa bị lem lép lửng.

Biện pháp phòng trừ

– Để hạn chế tác hại của bệnh, bà con cần kiểm tra ruộng lúa thường xuyên (đặc biệt là những ruộng gieo cấy giống nhiễm như một số giống lúa thơm, những ruộng lúa tốt lốp,…) để kịp thời phát hiện và có biện pháp phòng trị kịp thời.
– Khi phát hiện thấy chớm có bệnh, bà con phải ngưng bón đạm, không để ruộng bị khô nước. Đồng thời tiến hành phun xịt thuốc ngay.
– Về thuốc có thể dùng một trong các loại thuốc như: Vifusi 40ND; Fuji-one 40EC; Vihino 40ND; Vikita 50ND,… trong các loại thuốc trên thì Fuji-one 40EC có tính lưu dẫn cao, ngoài đặc tính trị bệnh đạo ôn lá và cổ bông Fuji-one 40EC còn có tác dụng phụ kích thích bộ rễ phát triển giúp cho cây lúa hấp thu nhiều dinh dưỡng và cây trở nên to khỏe chống chịu được bệnh tốt hơn làm tăng năng suất thực tế cao hơn.
– Khi sử dụng thuốc bà con phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, đặc biệt là phải đủ lượng nước như khuyến cáo của nhà sản xuất để nước thuốc được trải đều trên toàn bộ ruộng và cây lúa. Trường hợp bệnh nặng hoặc điều kiện thời tiết nhiều sương mù, ẩm cao,… thuận lợi cho nấm phát triển thì bà con nên phun thuốc nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày để hiệu quả trừ bệnh đạt hiệu quả. Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao phun xịt cùng với thuốc.
– Đối với những ruộng sắp trỗ đến trỗ lẹt xẹt, nếu thấy thời tiết thuận lợi cho bệnh (ban đêm lạnh, đêm và sáng sớm có nhiều sương mù, trời âm u, ít nắng,…) thì bà con nhớ phun một đợt thuốc ngừa bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa).

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Các biện pháp phòng chống rét cho mạ, lúa mới cấy

Vụ lúa xuân miền Bắc thường gặp đợt không khí lạnh với cường độ mạnh, có thể xuất hiện rét đậm, rét hại với nền nhiệt hạ thấp (3-5ºC) kèm theo mưa, làm ảnh hưởng đến diện tích mạ và lúa mới cấy.

Để hạn chế thấp nhất thiệt hại trong sản xuất, bà con nông dân cần thực hiện một số biện pháp kỹ thuật phòng chống rét cho mạ và diện tích lúa mới cấy như sau:

Đối với diện tích lúa cấy sớm: Cần tiếp tục duy trì mức nước trên mặt ruộng để tăng cường khả năng chống rét cho lúa mới cấy cũng như giúp cho lúa đẻ nhánh sớm và đẻ nhánh tập trung khi thời tiết nắng ấm trở lại.

Với diện tích vừa cấy xong: Bà con nông dân cần duy trì lớp nước mặt 3-5cm để giữ ấm cho chân lúa nhằm tăng cường khả năng chống rét. Khi nắng ấm trở lại, lúa bén rễ hồi xanh, vươn lá mới và ra rễ trắng thì mới tiến hành bón phân như bình thường.

Với những diện tích chưa cấy, cần tiếp tục duy trì độ ẩm. Cần che phủ nilon trong cho diện tích mạ và thường xuyên kiểm tra để đảm bảo độ kín của nilon. Có thể sử dụng từ 100-200g super lân hòa với 20 lít nước để  tưới cho mạ nhằm tăng cường sự phát triển của bộ rễ và tăng khả năng chống rét cho mạ. Đặc biệt lưu ý trong điều kiện rét đậm, rét hại, tuyệt đối không bón bất kỳ loại phân đạm nào cho mạ và lúa sau cấy.

Với diện tích lúa gieo thẳng: Tiếp tục duy trì nước ở rãnh, đảm bảo mặt luống luôn đủ ẩm, nếu có điều kiện dùng tro bếp, rơm rạ bón đều trên mặt luống để tăng cường khả năng chống rét.

Đối với những diện tích gieo thẳng mà mộng mạ chưa gieo: trong điều kiện thời tiết rét đậm, bà con cần phải hãm mộng mạ, bằng cách rải đều ra nền cứng với độ dầy từ 7 – 10cm để hạn chế sự phát triển của mộng mạ và tranh thủ những lúc buổi trưa trời hửng nắng thì tiến hành gieo.

Ngoài ra, cần chuẩn bị tốt khâu làm đất, vệ sinh đồng ruộng nhằm hạn chế lây truyền sâu bệnh cho vụ sau, nhất là bệnh đạo ôn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen, sâu đục thân, ốc bươu vàng. Đẩy nhanh tiến độ thu hoạch cây trồng vụ Đông 2015, để giải phóng quĩ đất gieo cây lúa Đông Xuân 2015-2016 đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất.

Chuẩn bị tốt nhất mọi điều kiện để lấy nước dự trữ và đổ ải phục vụ gieo cấy lúa, đồng thời cần huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ làm đất, để khi nắng ấm trở lại thì gieo sạ và tiến hành cấy cho kịp thời vụ.

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

IRRI phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn

Viện nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI), có trụ sở ở Philippines, cho biết các nhà khoa học của viện này đã phát triển thành công giống lúa siêu chịu mặn, có thể giúp người nông dân trồng lúa tại các khu vực duyên hải đang bị bỏ hoang do sự xâm lấn của nước biển.

Theo IRRI, các nhà khoa học đang trong quá trình phát triển hoàn thiện giống lúa trước khi đem trồng thử nghiệm một cách rộng rãi.

Giống lúa mới này có khả năng chịu mặn cao gấp hai lần so với các giống lúa khác và dự kiến sẽ đến tay người nông dân trong vòng từ 4 đến 5 năm nữa.

Giống lúa chịu mặn này được lai giữa các giống lúa dại ngoại lai được tìm thấy tại các khu vực nước lợ với một giống lúa được phát triển trong viện (IR56). Kết quả là “giống lúa mới có thể đào thải chất mặn từ dưới đất thông qua việc tiết muối ra ở trên lá.”

Các nhà khoa học hy vọng giống lúa này sẽ giúp người nông dân tận dụng được các khu vực đất nhiễm mặn bị bỏ hoang để trồng trọt.

Cùng với lúa mì và ngô, lúa gạo được coi là một trong ba loại lương thực thiết yếu, cung cấp thức ăn cho con người trên khắp thế giới.

Hiện các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu nhằm tạo ra các giống lúa cho năng suất cao.

Nguồn: Khoahoc.tv được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn

Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện nông nghiệp cận nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn, theo China’s People’s Daily. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường.

Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Thân cây lúa cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét.

Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án, cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt.

Các nhà khoa học Trung Quốc sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến gây tạo (mutation induction) và lai giống giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng.

“Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

Nguồn: VnExpress được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn sử dụng bảng so màu lá để bón phân đạm cho lúa cao sản

1. Thời điểm sử dụng bảng so màu

  • Bón phân lần thứ 2: Lúc 20 ngày sau khi bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Nếu lúa có màu ở khung số 4 trở lên thì không cần bón đạm. Sau đó 2-3 ngày so lại, nếu lúa vẫn có màu xanh ở khung số 4 trở lên vẫn chưa cần bón đạm. Sau đó cứ 2 ngày tiếp tục so lại màu cho đến khi lá lúa có màu khung từ số 3 trở xuống mới bón.
  • Bón phân lần thứ 3: Lúc 40 ngày sau sạ bắt đầu tiến hành so màu lá lúa. Cách xác định thời điểm bón phân tương tự như hướng dẫn ở lần bón thứ 2.
  • Các lần bón phân kế tiếp (nếu có): Khi lúa trổ xong đang vào chắc, nếu màu lá ở khung số 3 trở xuống mới cần bón thêm đạm. Lượng phân bón thêm là 2-3 kg urê/ công. Lúc này lúa bị nhiễm bệnh thì bón thêm đạm.

Chú ý: Cần bón đủ lượng phân lân và kali vào các thời điểm đúng theo hướng dẫn chi tiết trong quy trình bón phân lúa cao sản.

2. Cách so màu trong ruộng

  • Nên so màu vào cùng thời gian (vào sáng sớm hoặc chiều mát). Khi so, lưng của người so màu hướng về phía mặt trời để bóng của người đó che mát cho lá lúa để không bị phản sáng so màu không chính xác.
  • Chọn ngẫu nhiên ít nhất 20 lá lúa (lá trên cùng khi mà lá kế tiếp đã ra được 2/3 phiến lá) từ 4-5 vị trí khác nhau trên ruộng.
  • So màu bằng cách đặt phần của lá lúa ở khoảng cách 1/3 hoặc 2/5 từ chóp lá lên từng khung màu trong bảng. Không được tách đôi làm hư lá lúa. Ghi nhận số khung màu của từng lá rồi tính trị số trung bình của 20 lá đã được so.
  • Nếu trị số trung bình ở dưới khung màu chuẩn (khung màu chuẩn là khung số 4). Khi lúa có màu ở khung chuẩn thì không cần bón đạm, nhưng khi lúa có màu dưới khung chuẩn (khung 1,2 & 3) là lúc lúa thiếu đạm nên cần bón ngay thêm lượng đạm.

Bảng so màu lúa

Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm thổ nhưỡng của từng địa phương mà thời điểm thực hiện việc so màu và bón phân lần 2, lần 3 có thể thực hiện sớm hoặc muộn hơn so với khuyến cáo.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh vàng lá lúa

Hiện nay do điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng oi bức kéo dài, xen kẽ những trận mưa với cường độ lớn và hạn nhiều ngày kết hợp với phương pháp canh tác chưa hợp lý làm hàng vạn ha lúa mùa sớm đang giai đoạn làm đông, lúa mùa chính vụ đang đẻ nhánh bị nhiễm bệnh vàng lá lúa.

Do khó khăn trong việc xác định nguyên nhân gây nên các triệu chứng vàng lá nên cả cơ quan chức năng và nông dân đều lúng túng trong công tác phòng trừ. Tuy nhiên đây không phải là đối tượng lạ nguy hiểm nào đáng ngại.

Bệnh do một số nguyên nhân chính gây ra như ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn, do virus, do nấm, do vi khuẩn và do điều kiện khí hậu bất lợi.

1. Vàng lá do virus

Thường thì khi thấy vàng lá, cơ quan chuyên môn gửi mẫu đi test virus. Tuy nhiên ở miền Bắc có thể loại trừ khả năng bệnh vàng lá do virus (vàng lùn). Do bệnh vàng lùn phải có sự phối trộn của 3 loại virus lùn lúa cỏ, lùn xoăn lá do rầy nâu truyền bệnh và bênh Tungro do rầy xanh đuôi đen truyền bệnh. Trong những năm gần đây việc đồng thời xuất hiện dịch rầy nâu và rầy xanh đuôi đen không đáng kể.

2. Vàng lá do ngộ độc hữu cơ, ngộ độc phèn

Triệu chứng biểu hiện giống bệnh vàng lùn, cây lúa bị vàng và lùn. Khi gặp trường hợp này, chúng ta chỉ cần nhổ khóm lúa lên, rửa sạch rễ và kiểm tra. Nếu thấy rễ đen (ngộ độc hữu cơ), đỏ vàng (ngộ độc phèn) kèm theo rễ bị thối, ít hoặc không có rễ trắng (rễ mới), cây không hút đủ nước và dinh dưỡng gây nên hiện tượng vàng và lùn xuống.

Bệnh vàng lá làm cho lúa vàng và lùn xuống

Khuyến cáo người dân ngừng bón đạm, rút nước ra khỏi ruộng nếu điều kiện thủy lợi cho phép (ngộ độc phèn cần thay nước nhiều lần). Bón khoảng 400 kg/ha vôi bột đã và để ruộng khô nứt chân chim sau đó cho nước vào ruộng.

Trường hợp lá lúa dày quá, không thể bón vôi thì nên rút nước ra khỏi ruộng, sau đó đắp bờ và hòa vôi bột đầu dòng nước chảy vào ruộng. Phun phân bón lá có hàm lượng lân cao (siêu lân). Sau 1 tuần bón thêm khoảng 200 kg/ha Super lân. Có thể phun phòng trừ các nấm bệnh bằng các thuốc như Nevo 300EC, Tilt Super 300EC, Anvil 5SC nếu cần.

3. Vàng lá do nấm

Tác nhân chính là nấm Gonatophragmium sp, bắt đầu giữa lá lúa xuất hiện một chấm vàng nhỏ. Sau đó chấm vàng to dần lên, lan ngược đỉnh lá lúa, sọc vàng nhỏ dần khi hướng lên chóp lá. Bệnh nặng nửa trên có thể bị vàng hết. Để phòng trừ đối tượng này, chúng ta có thể sử dụng các thuốc như Ridomil Gold 68WG, Nevo 330EC, Tilt Super 300EC, Amistar Top 325SC, Score 250SC.

Vàng lá lúa do nấm

4. Vàng lá do vi khuẩn

Hiện nay đang phổ biến trên lúa do vi khuẩn Xanthomonas oryzae và Xanthomonas oryzicola gây ra. Cơ quan chỉ đạo và nông dân đang lúng túng và thấy như một căn bệnh lạ.

Triệu chứng ban đầu phía bìa lá chuyển vàng trước, sau đó phần chóp vàng và hóp lại như mo cau, vết bệnh lan dần vào trong theo đường gợn sóng màu vàng, mô bệnh xanh tái, vàng lục. Giữa mô bệnh và mô khỏe có ranh giới rõ ràng, giới hạn theo đường gợn sóng màu vàng, có khi chỉ một đường viền màu nâu đứt quãng, rất dễ nhầm lẫn với bệnh vàng lá và khô đầu lá do sinh lý.

Vàng lá lúa do vi khuẩn

Thông thường chúng ta nghĩ rằng bệnh bạc lá, là phải gây nên bạc trắng lá ngay. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào thời tiết, giống lúa. Triệu chứng lá bạc là giai đoạn cuối của bệnh bạc lá, lúc này các mô lá nhiễm bệnh đã chết. Nếu ẩm độ cao, tế bào trương nước chúng ta ít bắt gặp giai đoạn lá chuyển vàng và chỉ thấy lá bị khô trắng lúc nắng lên.

Ngoài ra, hiện nay trên đồng ruộng cũng đang xuất hiện bệnh đốm sọc vi khuẩn (Xanthomonas oryzicola). Triệu chứng là những sọc nhỏ ngắn khác nhau, chạy dọc theo các gân lá. Lúc đầu vết sọc xanh trong giọt dầu, lúc đầu chuyển màu nâu, xung quanh sọc màu nâu có các quầng vàng. Nếu lá bị nhiều đốm sọc tập trung thì các quầng vàng liên kết nhau làm lá lúa bị vàng.

Các loài vi khuẩn xâm nhiễm chủ yếu qua vết thương cơ giới. Do mưa, gió các lá lúa cọ xát vào nhau gây tổn thương. Vì thế phần hai mép lá thường bị tổn thương trước và nhiễm bệnh trước (người ta gọi bệnh cháy bìa lá).

Có thể phòng trừ bằng kháng sinh như kasugamicin, không nên dùng thuốc có chứa streptomincin vì kháng sinh này là thuốc chữa bệnh cho người, nếu ăn thực phẩm nhiễm kháng sinh này rất nguy hiểm. Hoặc có thể sử dụng nhóm thuốc sát trùng như Bronopol (Xantocin 40WP).

Ngoài ra, điều kiện thời tiết bất lợi như mưa nắng bất thường, nhiệt đổi thay đổi đột ngột, gió lào, các chân đất sâu trũng, đọng nước, đất cát dễ nhiễm vàng lá sinh lý.

Nguồn nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

 

7 cách tự chế thuốc trừ sâu tại nhà

Rệp, nhện, sâu bệnh khác có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho hoa, trái cây và rau xanh. Nhiều loại thuốc trừ sâu hóa học có thể không an toàn cho môi trường hoặc có thể là cho trái cây và rau không an toàn. Rất may, có rất nhiều thuốc trừ sâu hữu cơ tự chế có thể chống lại sâu bệnh.

Cách 1: Sử dụng các loại rau

Kết hợp 1/2 chén (113 gram) ớt với 1/2 chén (113 grams) tép tỏi hoặc hành tây. Bạn cũng có thể sử dụng cả hai hành tây và tỏi. Tất cả các loại rau nên được cắt nhỏ trước khi sử dụng.

Pha trộn các loại rau với nhau trong một máy xay.

Thêm 2 ly (500 ml) nước ấm. Trộn kỹ hỗn hợp với nhau.

Đổ dung dịch vào một thùng nhựa hoặc thủy tinh và để trong 24 giờ. Nếu có thể, giữ ở một vị trí đầy nắng. Nếu không được, ít nhất là giữ cho hỗn hợp ở một nơi ấm áp.

Lọc dung dịch. Đổ dung dịch thông qua một cái rây, loại bỏ các loại rau và lấy nước. Nước này là loại thuốc trừ sâu hữu cơ.

Đổ thuốc trừ sâu của bạn vào một chai xịt. Hãy chắc chắn rằng các chai xịt đã lần đầu tiên được làm sạch bằng nước ấm và xà phòng để thoát khỏi nó trong bất kỳ chất gây ô nhiễm tiềm năng.

Phun lên những cây bị nhiễm bệnh mỗi 4-5 ngày/lần. Sau ba hoặc bốn lần phun, các loài sâu gây hại sẽ bớt dần.

Cách 2: Sử dụng dầu ăn

Chuẩn bị chai xà phòng rửa chén tác dụng nhẹ. Tránh xà phòng chuyên chống vi khuẩn, có mùi thơm, vì chúng có thể gây hại cho cây trồng của bạn.

Trộn 1 muỗng canh (15 ml) của xà phòng với 1 cốc (250 ml) dầu ăn trong một bát nhỏ.

Trộn đều 1/2 muỗng cà phê (12 ml) của hỗn hợp dầu vào 1 cốc (250 ml) nước

Đổ hỗn hợp mới này vào một chai lớn. Lắc đều kỹ lên.

Kiểm tra hỗn hợp bằng cách phun vào một phần nhỏ trên cây của bạn.

Bước này cho phép bạn để đảm bảo rằng sự kết hợp này sẽ không gây hại nhiều. Nếu 1 phần nhỏ của cây trồng bạn thử nghiệm phun lên lá héo hoặc thay đổi màu sắc, hãy thử sử dụng một xà phòng khác với dầu ăn

Phun hỗn hợp bất cứ nơi nào bạn thấy có sâu bệnh. Nếu bạn đã thử nghiệm giải pháp của bạn và nó không gây ra bất kỳ nguy hại nào cho cây trồng, thì phun nó trên toàn bộ cây trồng của bạn, bao gồm cả mặt dưới của lá. Tập trung vào các khu vực nơi sâu đẻ trứng.

Cách 3: Sử dụng xà phòng

Chuẩn bị chai xà phòng rửa chén tác dụng nhẹ. Tránh xà phòng chuyên chống vi khuẩn, có mùi thơm, vì chúng có thể gây hại cho cây trồng của bạn.

Trộn một vài muỗng cà phê (10-15 ml) xà phòng vào 1 gallon (4 lít) nước. Dùng cái thìa lớn để xà phòng và nước được trộn đều.

Đổ dung dịch vào một bình lớn.

Kiểm tra hỗn hợp bằng cách phun lên cây trồng của bạn. Phun lên một phần nhỏ của cây bị nhiễm khuẩn và giám sát nó trong một ngày. Nếu nó không héo hoặc thay đổi màu sắc, thuốc trừ sâu bạn có thể dùng được.

Phun lên toàn bộ cây trồng. Phun thuốc trừ sâu này sẽ làm tê liệt các loài côn trùng, làm cho chúng không thể ăn

Tiếp tục phun vào cây mỗi 2-3 ngày trong hai tuần tiếp theo. Vì thuốc trừ sâu này là khá loãng, tiếp tục phun là cách duy nhất để đảm bảo rằng sự sâu bệnh sẽ không còn nữa.

Cách 4: Sử dụng thuốc lá

Trộn 1 cốc (250 ml) thuốc lá vào 1 gallon (4 lít) nước. Thuốc lá hữu ích trong việc nhắm mục tiêu sâu, rệp, nhưng nó không an toàn khi sử dụng trên ớt, cà chua, cà tím, hoặc bất kỳ cây trồng nào thuộc họ cà.

Đưa hỗn hợp ra ngoài nắng hoặc trong một vị trí ấm áp để trong 24 giờ.

Kiểm tra màu sắc của hỗn hợp. Lý tưởng nhất, các thuốc trừ sâu sẽ trông giống như màu sắc của màu ly trà ngoài ánh sáng. Nếu nó quá tối, nên pha loãng với nước. Nếu nó quá nhẹ không giống trà, thì để thêm vài giờ.

Thêm 3 muỗng canh (45 ml) xà phòng lỏng vào dung dịch. Trộn đều.

Đổ hỗn hợp vào một chai lớn. Lắc dung dịch bên trong chai một lần nữa để dung dịch tan đều

Phun lên các cây trồng bị nhiễm khuẩn. Tập trung vào các phần cây có sâu bệnh nhiều nhất, nhưng cũng bao gồm những điểm đang trong tình trạng tốt.

Cách 5: Sử dụng vỏ cam

Nếu bạn không có quả cam tươi, thì sử dụng 1,5 muỗng cà phê (7.4 ml) vỏ cam quýt khô hoặc 1/2 ounce (15 ml) dầu cam. Vỏ cam đặc biệt hữu ích trong việc xua đuổi bọ thân mềm, bao gồm cả ốc sên, rệp, muỗi nấm. Khi phun trực tiếp lên các loài gây hại, thuốc trừ sâu này cũng loại bỏ kiến và gián.

Đặt vỏ vào trong một bình thủy tinh và đổ 2 ly (500 ml) nước sôi trên các mặt. Để hỗn hợp ở nơi ấm áp trong 24 giờ.

Lọc dung dịch. Đổ vào một cái rây, loại bỏ vỏ cam và lấy dịch lỏng.

Thêm một vài giọt xà phòng Castile. Trộn đều các dung dịch với nhau.

Đổ thuốc trừ sâu vào một chai lớn. Phun toàn bộ cây trồng để loại bỏ các loài thân mềm gây hại. Phun trực tiếp trên đầu của kiến và gián.

Cách 6: Sử dụng hoa cúc

Trộn đều 1/2 chén (113 gram) hoa cúc khô với 4 ly (1 lít) nước. Hoa cúc có chứa một thành phần hóa học gọi là kim cúc, có khả năng làm tê liệt nhiều loài côn trùng gây hại trong vườn.

Đun sôi hỗn hợp trong 20 phút

Đổ dung dịch thông qua một cái rây. Loại bỏ hoa khô và lấy dịch lỏng.

Đổ thuốc trừ sâu vào một bình xịt và phun lên cây trồng. Tập trung vào những vùng bị hỏng nhất trước khi chuyển sang các khu vực ít bị hư hỏng. Bao gồm toàn bộ cây trồng và cả mặt dưới của lá.

Lưu trữ hỗn hợp lên đến hai tháng. Sau khoảng thời gian đó, nó có thể không còn hiệu quả.

Cách 7: Sử dụng dầu lá Nim (Neem)

Trộn đều 1/2 ounce (15 ml) dầu lá Neem với 1/2 muỗng cà phê (2.5 ml) xà phòng nhẹ. Nhiều người tin rằng dầu Neem, xuất phát từ một lá cây đắng, là một trong các loại thuốc trừ sâu tự nhiên hiệu quả nhất từng tồn tại.

Trộn dầu lá Neem và xà phòng vào 2 lít (2 lít) nước ấm. Khuấy chậm, kỹ lưỡng

Đổ thuốc trừ sâu vào một bình xịt. Sử dụng nó ngay lập tức, dập tắt toàn bộ côn trùng và tập trung vào những điểm mà bạn có thể nhìn thấy rõ ràng sâu bệnh hoặc có dấu hiệu của sâu hại.

Nguồn: WikiHouse được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phân biệt đông trùng hạ thảo thật và giả

Với nhiều công dụng hữu ích và giá trị kinh tế cao, hiện nay trên thị trường có khá nhiều đông trùng hạ thảo làm giả.

Người tiêu dùng hiện nay như lạc vào giữa ma trận của loại thảo dược này khi trên thị trường xuất hiện vô vàn các dạng bào chế với đủ mức giá. Thấp nhất 100 triệu đồng/kg, mức trung từ 400-800 triệu đồng/kg, riêng loại đặc biệt có giá từ 1,6-2 tỷ đồng/kg. Mỗi kg khoảng 2.000-2.200 con.

Vậy làm thế nào để phân biệt được đâu là đông trùng hạ thảo thật và đâu là đông trùng hạ thảo giả?

Đông trùng hạ thảo

Bài viết dưới đây chia sẻ kinh nghiệm nhằm giúp người dùng xác định được chính xác điều này:

1. Quan sát bên ngoài

Đông trùng hạ thảo thật

  • Đông trùng hạ thảo do chất đệm nấm mọc dính liền vào đầu sâu non mà thành. Đầu sâu non giống như con tằm, dài chừng 3-5 cm, đường kính khoảng 0,3-0,8 cm. Bên ngoài có màu vàng sẫm hoặc nâu vàng với khoảng 20-30 vằn khía, vằn khía ở gần đầu nhỏ hơn.

Cách nhận biết đông trùng hạ thảo thật

  • Phần đầu có màu nâu đỏ, đuôi giống như đuôi con tằm, có tất cả 8 cặp chân, nhưng 4 đôi ở giữa là rõ nhất. Chất đệm nấm hình que cong mọc ra từ mình sâu non, dài hơn sâu non một chút. Sâu non dễ bẻ gãy, ruột bên trong căng đầy, màu trắng hơi vàng; chất đệm nấm khá dai và bên trong ruột hơi rỗng, có màu trắng ngà.

Đông trùng hạ thảo giả

  • Được làm từ thân củ của địa tàm và thảo thạch. Quan sát hàng giả sẽ thấy có cạnh gờ hơi cong và số đốt là 3-15, bên ngoài có màu vàng nhạt, dài độ 2-3 cm, đường kính 0,1-1 cm, đặc biệt chất giòn, mặt cắt có màu trắng.

Đông trùng hạ thảo giả

  • Ngoài ra còn một loại giả đông trùng hạ thảo nữa được làm từ bột ngô, bột mạch hay thạch cao… Chúng được sản xuất bằng cách gia công ép màng nên bên ngoài có màu trắng ngà, hình sâu non nhẵn bóng, rõ các vằn khía, mặt cắt có màu trắng nhạt. Cầm thấy nặng, không nhẹ bông như thật, khi nhai lâu thì dính răng. Hàng giả thì sâu non không có chân, vị ngọt, dính.

2. Nếm

Khi cho Đông trùng hạ vào miệng nhai vụn như nhai hạt đậu nành, tấm, càng nhai càng thơm, trong miệng có mùi thơm như mùi thịt gà. Nếu cho Đông trùng hạ thảo giả vào miệng nhai, có cảm giác cứng, sau khi nhai có nước bọt tiết ra ta sẽ thấy giống bột đất sét, đến khi không thể nhai nữa nó hoàn toàn không có mùi thơm của thịt mà có mùi đất rất nồng. Cách phân biệt đông trùng hạ thảo thật giả này hiệu quả cho người có vị giác tốt.

3. Phân biệt bằng khướu giác

Đông trùng hạ thảo thật có mùi giống mùi nấm rơm và mùi tanh của nấm hương rất đậm. Mỗi con Đông trùng hạ thảo đặt gần nhau cũng có thể ngửi thấy mùi này nhưng nhẹ hơn. Những con Đông trùng hạ thảo làm giả không có mùi này, nếu có cũng không phải là mùi nấm rơm và mùi tanh của nấm hương như trên, mà là mùi tanh của cá, mùi nước hoa giả hoặc mùi nguyên liệu hóa học. Cách phân biệt đông trùng hạ thảo thật giả này rất có hiệu quả với người có khứu giác tốt.

Tóm lại, có thể thấy đông trùng hạ thảo thật có các đặc điểm như sau:

  • Màu sắc:

Đông trùng hạ thảo chia làm 2 phần “trùng” và “thảo”. Bề mặt “trùng” có màu vàng nâu.

+ Gần đầu “trùng” có 1 đoạn vàng nhạt và sang hơn rõ rệt (do bị “thảo” hút chất dinh dưỡng)

Đông trùng hạ thảo thật

+ Bề mặt “thảo” có màu của cành cây khô, đoạn gần gốc “thảo” hơi ngả vàng, ngọn “thảo” vuốt nhọn.

+ Mắt “trùng” phẳng, không lồi có màu nâu đỏ. Một số trường hợp, phần gốc của “thảo” phủ lên mắt “trùng”, bạn chỉ cần lấy móng tay cào nhẹ sẽ thấy được mắt trùng màu nâu đỏ.

  • Hình dáng:

+ Ở lưng có các vận vòng rõ nét, cứ nét vân còng liền sát nhau thành 1 đốt

+ Có đủ 8 cặp chân: 4 cặp ở giữa căng tròn rõ rệt: 3 cặp chân gần đầu bị thoái hóa, liền sát nhau và 1 cạp chân ở đuôi rất rõ.

+ Khi bẻ đôi đoạn gần đầu “trùng” sẽ thấy ở giữa mặt cắt có 1 vệt đen mờ hình chữ V, đo là đường tiêu hóa của “trùng”.

  • Kích thước:

“Trùng” dài 3-5 cm, đường kính 0,3 -0,7 cm. “Thảo” dài gần bằng hoặc dài hơn “trùng ” một chút.

  • Cân nặng:

Đông trùng hạ thảo thật nhẹ như bông. Trong khi hàng giả làm bằng bột hoặc thạch cao hoặc dùng sâu chít làm giả khi cầm sẽ thấy nặng hơn (1 con sẽ nặng từ 1.5g – 3g), khi nhai lâu thì dính răng.

Đông trùng hạ thảo có tác dụng chữa trị với người thận hư, đau lưng mỏi gối, ho hen do phế hư hoặc cả phế, thận đều hư. Các nghiên cứu hiện đại cho rằng đông trùng hạ thảo có tác dụng an thần, chống ung thư, là chất kìm hãm vi khuẩn, kích thích chức năng miễn dịch với tác dụng tương tự như hoóc môn và ít tác dụng phụ. Chính vì những giá trị hữu dụng trên mà nhiều người đã làm giả đông trùng hạ thảo nhằm kiếm tiền một cách trái phép.

Bằng những kinh nghiệm lựa chọn trên, hi vọng sẽ giúp ích cho bà con khi chọn mua đông trùng hạ thảo một cách khoa học và đáng đồng tiền nhất.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Việt Nam hoàn toàn làm chủ được công nghệ sản xuất giống lúa

So với thế giới, Việt Nam đã có thể làm chủ được tới 70,5% công nghệ sản xuất giống. Trong đó lúa thuần được xem là lợi thế – đạt 90%, còn lúa lai đã làm chủ công nghệ tới 66%.

Đó là số liệu được đưa ra trong đề tài “Đánh giá hiện trạng, năng lực công nghệ và nhu cầu đổi mới công nghệ trong tạo giống và sản xuất lúa lai tại miền Bắc và duyên hải miền Trung” do thạc sỹ Phạm Ngọc Lý – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương (Vinaseed) – làm chủ nhiệm. Đề tài thuộc chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 – một trong các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia đang được triển khai tại Bộ Khoa học và Công nghệ.

Các giống lúa đặc sản được bảo tồn tại Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng – Học viện Nông nghiệp Việt Nam

“Việt Nam hoàn toàn làm chủ được công nghệ sản xuất giống lúa. Tuy nhiên, lượng giống lúa thuần đủ cung cấp cho sản xuất trong nước, trong khi đó lúa lai chỉ đảm bảo cung ứng đủ 33% nhu cầu giống, lượng còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài (Trung Quốc, Ấn Độ…)” – Phó Tổng Giám đốc Vinaseed cho biết.

Ông Phạm Ngọc Lý nêu một thực trạng, qua khảo sát 17 công ty (thuộc 2 khu vực miền Bắc và duyên hải miền Trung) thì chỉ Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương và Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình là có hệ thống máy, chế biến và đóng gói công nghệ hiện đại. Công ty cổ phần giống cây trồng trung ương có công suất sấy và chế biến hơn 30.000 tấn giống lúa/năm và Công ty cổ phần giống cây trồng Thái Bình có công suất 15.000 tấn giống lúa/năm. Hệ thống máy sấy, chế biến và đóng gói chủ yếu nhập khẩu từ các nước châu Âu (Đức, Đan Mạnh). Vì vậy, chất lượng hạt giống lúa của 2 công ty trên rất có uy tín trên thị trường.

Đa số các công ty giống còn lại có hệ thống máy sấy, chế biến và đóng gói tương đối đơn giản, hằng năm chủ yếu sản xuất, kinh doanh từ vài trăm tấn đến 5.000-7.000 tấn giống lúa các loại.

“Vì vậy, các công ty trong thời gian tới muốn tồn tại và phát triển được bắt buộc phải đầu tư hơn nữa về công nghệ cũng như công cụ máy móc để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường giống lúa ở nước ta” – ông Lý đề xuất.

Nguồn: Khoahocphattrien được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi trồng đông trùng hạ thảo thành công tại Đà Lạt

Vài nét về đông trùng hạ thảo

Đông trùng hạ thảo là tên gọi của một dạng cộng sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Cordyceps sinensis với ấu trùng của một loài côn trùng thuộc chi Hepoalus. Trong đông trùng hạ thảo có 17 axít amin khác nhau, các nguyên tố vi lượng như: Nhôm, kẽm, kali… và nhiều loại vitamin như: B12, A; C, B2 (riboflavin), E, K… Các hợp chất này có tác dụng bồi bổ, phục hồi các hư tổn trong cơ thể con người.

Đông trùng hạ thảo

Tên gọi đông trùng hạ thảo là xuất phát khi thấy vào mùa đông ấu trùng của loài bướm thuộc chi Thitarodes Viette đi ngủ đông và được bào tử nấm Ophiocordyceps sinensis ký sinh, vào mùa hè bào tử nấm mọc chồi từ đầu ấu trùng nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu (côn trùng), còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật (thảo mộc) hơn. Vì mùa đông là ấu trùng, mùa hè lại là thảo mộc, mùa đông là động vật, mùa hè là thực vật, và đó là lý do đông trùng hạ thảo được gọi là đông trùng hạ thảo.

Canh đông trùng hạ thảo bổ dưỡng

Đông trùng hạ thảo chủ yếu tìm thấy vào mùa hè vùng núi cao trên 4.000 – 5.000 m ở cao nguyên Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, Vân Nam. Hiện nay, do sự săn lùng và hoạt động khai thác quá mức, loại nấm quý giá này đang có trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, nhiều loài nấm thuộc chi Ophiocordyceps và Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày một tăng cao.

Nuôi trồng đông trùng hạ thảo tại Đà Lạt

Hiện nay các nhà khoa học đã nuôi cấy và trồng thử nghiệm thành công giống Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris trên cao nguyên Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng), có các hợp chất tương tự như đông trùng hạ thảo tự nhiên. Đây là bước tiến đáng mừng trong lĩnh vực công nghệ sinh học và dược liệu tại Việt Nam.

Nuôi trồng đông trùng hạ thảo thuần việt tại Việt Nam

Để thực hiện quy trình nuôi trồng đông trùng hạ thảo, các nhà khoa học phải tiến hành khảo sát, thu thập các mẫu nấm đông trùng hạ thảo ở Việt Nam và Trung Quốc, Nhật Bản… Từ đó, xây dựng danh mục các nguồn gen và tuyển chọn các chủng nấm có tiềm năng dược liệu. Sau đó tiến hành nghiên cứu nuôi trồng thể quả trên giá thể nhân tạo.

Quy trình nuôi trồng của đông trùng hạ thảo phải trải qua các giai đoạn:

  • Cấy giống nấm trên giá thể, giá thể có thể là dịch lỏng được pha chế theo công thức hay chiết xuất tự nhiên từ yến sào, trái cây… hoặc các chất bán rắn như: Gạo lức, ngô, khoai tây sau đó phát triển thành ấu trùng tự nhiên, và hình thành thể quả.
  • Bộ phận dùng được đối với đông trùng hạ thảo nuôi trồng là sợi nấm. Phải áp dụng đúng quy trình trồng cấy một cách nghiêm ngặt mới thu được sản phẩm có giá trị dược tính.

Nghiên cứu nuôi trồng đông trùng hạ thảo

  • Để đảm bảo chất lượng của đông trùng hạ thảo, phải đảm bảo về nhiệt độ và độ ẩm, ánh sáng như các giai đoạn của thời tiết trên độ cao hàng nghìn mét. Cụ thể, khi ủ phải duy trì nhiệt độ phòng từ 25ºC, độ ẩm 85%, giữ tối cho đến khi sợi nấm lan đều và phủ kín bề mặt. Tiếp theo chuyển sang xử lý tại phòng kín có nhiệt độ từ 18 -23ºC, độ ẩm 85% và chiếu sáng cho đến khi bề mặt xuất hiện các chồi nấm. Sau đó chuyển sang phòng nuôi đảm bảo nhiệt độ ổn định từ 18 – 22ºC độ ẩm 85%, chiếu sáng 12 – 14 giờ/ngày cho đến khi thu hoạch.

Việc nuôi trồng thành công đông trùng hạ thảo giúp Việt Nam chủ động được nguồn dược liệu. Đặc biệt với giá cả rẻ hơn so với đông trùng hạ thảo tự nhiên sẽ tạo cơ hội cho nhiều người được sử dụng loại dược liệu quý này.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.