Những giống chuối đặc sản của Việt Nam

Chuối là tên gọi các loài cây thuộc chi Musa; trái của nó là trái cây được ăn rộng rãi nhất. Những cây này có gốc từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối được trồng ở ít nhất 107 quốc gia.

Ở Việt Nam chuối được trồng khá rộng rãi với nhiều loại đa dạng. Một trong những số đó được đặc biệt người dân Việt Nam xem như là đặc sản:

1. Chuối laba Đà Lạt, Lâm Đồng

Quả thon dài, hơi cong, cuống buồng nhỏ, trái úp vào buồng như mảnh trăng lưỡi liềm. Quả chín có màu vàng hươm mượt mà, thơm ngon, dẻo ngọt. Chuối laba từng được dùng để tiến Vua Bảo Đại và các quan chức triều đình.

Chuối laba

2. Chuối tiêu hồng Khoái Châu, Hưng Yên

Hình thức đẹp, quả to (180-200g/quả), hương vị thơm ngọt, được trồng nhiều ở các xã Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Hàm Tử. Năng suất trung bình 35-50 tấn/ha/năm. Đã được bảo hộ nhãn hiệu tập thể.

 Chuối tiêu hồng

3. Chuối già hương, Đồng Nai

Trái rất dài và cong, khi chín có màu xanh, được xuất khẩu rất nhiều sang châu Âu, đặc biệt là Pháp. Chuối già hương giàu dinh dưỡng, rất tốt cho các vận động viên thể hình.

Chuối già hương

4. Chuối tá quạ Cầu Kè, Trà Vinh

Giống chuối đặc biệt quả lớn bằng bắp tay, nếu ăn trực tiếp sẽ rất nhão và nhạt. Phải nấu chín, chuối mới ngon ngọt, dẻo như sáp, có thể chế biến thành nhiều món như luộc, cari, lẩu…

Chuối tá quạ

Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Bệnh thường gặp trên cây chuối

Nhóm bệnh do vius gây ra

 Bệnh chùn đọt chuối, bệnh khảm lá chuối, bệnh sọc chuối. Đối với nhóm bệnh này hiện không có thuốc trị, thời gian từ khi cây chuối bị nhiễm bệnh đến khi phát hiện bệnh ra bên ngoài kéo dài 3 – 4 tháng nên khi phát hiện bệnh cần phải đào bỏ ngay và xử lý đất thật cẩn thận (đào hố chôn rồi rắc vôi, đem đốt bỏ …) trước khi trồng lại phải rắc vôi xử lý sau 1 tháng mới trồng lại.
Bệnh chùn đọt (Bunchy top virus): Cây bị bệnh lá mọc chụm lại ở ngọn thân giả, lá nhỏ, bìa bị vàng, mép lá uốn cong, cuống lá ngắn lại. Trên phiến lá có các sọc xanh lợt chạy song song với các gân phụ.
Bệnh chùn đọt chuối
Bệnh khảm lá (CMV: Cucumber Mosai Virus): Bệnh do virus gây hại. Cây bị bệnh lá có sọc vàng từ ngoài bìa lá vào cuống lá, cây phát triển kém, khi phát hiện cây bị bệnh cần phải đào bỏ và xử lý ngay để tránh lây nhiễm.
Bệnh sọc lá chuối (CSV)Bệnh do virus gây hại. Các bệnh do virus gây hại đều có khả năng truyền từ cây này sang cây khác, bệnh lây lan trực tiếp qua con giống và trung gian truyền bệnh như rầy mềm sống ở các bẹ lá chuối, tuyến trùng trong đất truyền virus từ cây này sang cây khác hoặc trong quá trình đánh tỉa con chuối, cắt lá chuối…
Phòng trừ: Trong trường hợp vườn chuối đã bị bệnh và đang có chiều hướng lây lan rộng, cần tiến hành ngay một số biện pháp sau:
– Vệ sinh vườn sạch sẽ tạo độ thông thoáng cho vườn chuối, cắt bỏ và thu gom các lá già để tiêu hủy, không tủ vào gốc.
– Đào bỏ các cây bị bệnh nặng, nhặt hết cả củ để tiêu huỷ đồng thời phun trừ rệp bằng các loại thuốc Sherpa, Pyrinex, Fenbis, Sago super. Phun ướt đều lá, thân và gốc cây chuối.
– Không sử dụng cây con ở vườn đã bị bệnh để làm giống.
– Nếu vườn bị bệnh nặng nên phá bỏ và trồng cây khác trong khoảng 1 năm sau mới trồng lại chuối được.

Nhóm bệnh do vi khuẩn

Bệnh đốm lá hay bệnh cháy lá
Do nấm Sigatoka vàng (Mycosphaerella musicola) và Sigtoka đen (Mycosphaerella fijiensis), bệnh gây hại trên lá tạo ra những hình bầu dục có màu nâu với viền vàng rất rõ (Sigatoka vàng). Đối với Sigatoka đen những đốm bệnh có màu sậm hơn và xuất hiện ở mặt dưới của lá. Bệnh phát triển mạnh vào những tháng mùa mưa và mùa có sương, ẩm ướt, bệnh nặng ảnh hưởng tới năng suất cây.
Bệnh đôm lá
Biện pháp phòng trị: Vệ sinh vườn sạch sẽ, cắt tỉa lá già và lá bị bệnh đem đốt, thoát nước tốt cho vườn chuối trong mùa mưa. Phun các thuốc gốc đồng hay Benomyl, macozeb, Zineb, Kocide, Tilt, Score, Anvil… phun từ 2 – 4 lần trong mùa mưa.
Bệnh héo rũ Panama ( Fusarium oxysporumf)
Cây chuối bị nhiễm bệnh Panama thường có hiện tượng vàng từ lá già lên các lá non. Triệu chứng vàng phát triển từ bìa lá và lan vào hướng gân lá. Lá bị bệnh thường héo, cuống gãy và lá treo trên thân giả, đôi khi cuống lá cũng bị gãy ở phần giữa phiến lá. Trên các lá già bị héo khô quanh thân giả, chỉ còn một số lá đọt xanh và mọc thẳng, các lá đọt này có màu xanh nhạt hơi vàng hoặc bị méo mó, nhăn nheo, cuối cùng khô héo. Cây bị bệnh chết nhưng thân không ngã đổ, các bẹ ngoài bị nứt dọc, các chồi con vẫn phát triển xung quanh nhưng sau đó cũng bị héo rụi. Cắt ngang thân giả sẽ thấy các bó mạch có màu nâu vàng, cắt ngang thân thật (củ chuối) các mạch có màu đỏ nâu và bốc mùi hôi. Nấm bệnh lưu tồn trong đất và các cây bệnh. Nấm có thể sống hoại sinh trong củ chuối và các bộ phận khác một thời gian dài, lây lan chủ yếu theo cây chuối con và đất có mang mầm bệnh. Nấm bệnh xâm nhập chủ yếu qua chóp rễ hoặc qua vết thương ở rễ. Sau khi xâm nhập, nấm sẽ phát triển trong mạch mọc làm cho cây bị vàng héo.
Bệnh Panama
Biện pháp phòng trị: Thường xuyên kiểm tra vườn và vệ sinh vườn sạch sẽ, cắt bỏ những lá bệnh đem đốt, thoát nước tốt. Phun các thuốc gốc đồng hay Benomyl, macozeb, Zineb, Kocide, Tilt, Score, Anvil….vào mùa mưa thì 2 – 4 tuần phun 1 lần.
– Nên chọn đất có độ pH hơi kiềm để trồng chuối.
– Không dùng chuối con ở các vườn bị bệnh làm giống, gọt sạch rễ và đất ở gốc trước khi trồng.
– Nên bón vôi vào các hố trồng, có thể nhúng gốc chuối con vào dung dịch Bordeaux hay các thuốc gốc đồng như: Funguran, COC 85, Kocide…
– Khi phát hiện cây bệnh nên đào bỏ các gốc bệnh và rải vôi khử đất.
– Nếu vườn chuyên canh chuối mà bị bệnh nặng nên ngưng canh tác, cho ngập nước từ 2-3 tháng để diệt mầm bệnh.
– Tưới thuốc vào đất ở các vườn chuối con bằng các loại thuốc như Benomyl, macozeb, Zineb, Kocide, Tilt, Score, Anvil…

Nhóm bệnh trên quả chuối

Gồm bệnh đốm đen (Fruit Freckle) và bệnh chấm đen (Deigh toniella speckle), bệnh rỉ nước ở quả chuối.
Bệnh đốm đen và bệnh chấm đen thường xảy ra cùng 1 lúc trên cùng một buồng chuối. Bệnh lây nhiễm từ lá mang bệnh truyền qua buồng chuối. Vào mùa mưa khi ẩm độ không khí cao bệnh phát triển mạnh.
Những đốm đen trên quả chuối dân thường gọi là đốm trứng cuốc nhưng thực tế là do nấm bệnh, bệnh này không ảnh hưởng tới chất lượng quả chuối nhưng làm mất vẻ đẹp thẩm mỹ của quả chuối nên không xuất khẩu được.
Nguồn : Khuyến nông Lâm Đồng, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Những giống chuối kì lạ nhất thế giới

Chuối có lẽ là trái cây không hề xa lạ gì với cuộc sống hằng ngày của mỗi người. Chuối được mệnh danh là “món ăn hạnh phúc ” hay “trái cây thần kì” bởi lợi ích tuyệt vời mà nó mang lại.

Tuy nhiên, trên thế giới vẫn có nhiều giống chuối kì lạ và bí ẩn nhất thế giới mà chưa chắc trong chúng ta ai cũng đã từng được chứng kiến. Dưới đây là một số giống chuối lạ nhất hành tinh mà Farmtech VietNam xin giới thiệu cho các bạn:

Chuối Kluay

Với chiều dài trung bình khoảng 36cm, chuối Kluay hay còn gọi là chuối Rihno được coi là giống chuối thuộc hạng “khủng” trên toàn cầu và là giống chuối dài nhất hiện nay.

Nhìn “ngoại hình” quả chuối người nào cũng nghĩ có vẻ sắp được “một bữa no” nhưng thực chất phần thịt của chuối Kluay khá ít.

Chuối Musa Ingens

Được mệnh danh là giống chuối to nhất thế giới, chuối Musa Ingens là loài đặc biệt ở Papua New Guinea. Giống chuối kỳ lạ này không phải đột biến gene hay lạm dụng thuốc tăng trọng.

Chuối khổng lồ Musa Ingens phát triển tự nhiên có thể đạt chiều cao tối đa lên tới 18m, chu vi thân có thể lên tới 2m, tương đương cây cổ thụ. Quả chuối chín dài khoảng 18cm và rộng khoảng 5-6cm.

Chuối Señorita

Có to thì phải có nhỏ, vì vậy mà tạo hóa lại “sinh ra” cả giống chuối Señorita. Với chiều dài trung bình chỉ khoảng hai,5 tới 5cm, Señorita được coi là “em út” của họ nhà chuối.

Chuối Ae Ae

Nếu những quả chuối Ae Ae không mọc theo buồng như thế này, thì chắc hẳn nhiều người sẽ tưởng nó là quả… dưa sọc xanh vì vẻ ngoài y hệt.

Đến lá cây chuối này cũng vệt trắng vệt xanh “chẳng giống ai”. Do khó sống ở nhiều nơi, cộng thêm vị hơi đắng khó ăn, mà chuối Ae Ae được liệt vào dạng “hiếm có khó tìm” của họ nhà chuối.

Chuối hạt

Loài chuối “không trồng mà tự sinh sôi” đó còn được gọi với cái tên chuối hoang dại.

Đây là một trong số ít giống chuối khó ăn hay nói cách khác là không được khai thác làm thực phẩm bởi bên trong nó chứa rất nhiều hạt cứng màu đen. Chuối hoang dại được tìm thấy rất nhiều tại những nước Đông Nam Á.

Ở Việt Nam được gọi là chuối hột và được sử dụng để ngâm rượu.

Chuối cam

Nhìn thì giống vỏ cam bắt mắt thế này nhưng thực chất thì chuối vẫn là chuối, hương vị của nó giống với chuối vàng chứ không hề có vị cam.

Chuối xanh lam

Hình ảnh về loài chuối màu xanh lam dường như vẫn chưa được xác thực bởi nhiều luồng ý kiến khác nhau, người thì cho rằng đây là giống thực vật biến đổi gen, người thì cho rằng chỉ là những hình ảnh được chỉnh sửa.

Nhưng suy cho cùng nếu loài chuối này có tồn tại trên thực tế thì chúng sẽ được bán rất đắt hàng.

Chuối đen

Chuối đen nếu nhìn lần đầu có thể nhầm với chuối vàng bị thâm vỏ, nhưng thực chất đây là giống chuối có vỏ màu đen. Nhiều người còn cho rằng chuối đen là loại thực phẩm vô cùng tốt cho sức khỏe

Chuối đỏ

Có vị ngọt đặc trưng, thêm chút vị của quả mâm xôi, chuối đỏ là giống chuối được bán chạy nhất trong họ nhà chuối. Thêm vào đó, trong nó có chứa hàm lượng kali khá cao.

Chuối tím

Đây là món ăn yêu thích của vùng trung mỹ. Chuối tím rất tốt cho sức khỏe với hàm lượng calo thấp.

Chuối hình bàn tay úp

Thiên nhiên thật khéo khi tạo ra buồng chuối kỳ lạ giống như đôi bàn tay chắp lại để cầu nguyện.

Chuối hồng

Chuối hồng là loại chuối có vẻ hợp với câu nói “càng đẹp thì càng độc” bởi sở hữu vẻ bề ngoài xinh xẻo, đáng yêu nhưng vị của giống chuối đó rất đắng và rất ít người ăn được vì thế chúng thường được trồng trong nhà để làm cảnh.

Có mức giá đắt đỏ và được coi là đặc sản “hái ra tiền” của nhiều quốc gia vùng Trung Mỹ, các nước ở vùng nhiệt đới, giống chuối với màu tím hồng lạ mắt này đã có mặt ở Việt Nam và ngay lập tức khiến nhiều người tò mò.

Quả chuối nhỏ nhắn, kích thước khoảng 7-8 cm, vỏ màu tím pha hồng, hạt nhỏ màu đen. Lá cây màu xanh thẫm, bóng đẹp.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Giải đáp những vấn đề thường gặp khi trồng dưa leo, dưa chuột

Cây dưa leo cũng rất dễ trồng và cho ra nhiều trái nên việc trồng dưa chuột dần trở nên phổ biến. Dưới đây là một số thắc mắc xung quanh việc trồng dưa chuột, cách trồng dưa chuột cho nhiều trái,chất lượng trái ngon ngọt và những vấn đề thường xuyên gặp của người trồng dưa leo.

Tại sao trồng dưa chuột không đậu quả hoặc ít trái?

Nguyên nhân khiến trồng cây dưa leo, dưa chuột không cho trái hoặc ra ít trái có nhiều nguyên do, chủ yếu là do điều kiện thời tiết, nhiệt độ. Nếu dưa leo trồng ở điều kiện đất quá ẩm ướt, ánh sáng và độ ẩm quá thấp thì phấn hoa bị kết dính mà không thể thụ phấn được. Ngược lại, nếu đất quá khô, thiếu nước, nhiệt độ và ánh nắng quá gắt sẽ khiến cây bị thiếu dinh dưỡng, hoa teo lại, phấn hoa quá khô sẽ không thể thụ phấn để ra trái.

Khoảng cách trồng các cây quá gần nhau, vị trí giữa các cây quá gần hoặc quá xa cũng dẫn đến việc cây khó thụ phấn, làm giảm số lượng trái.

Trồng dưa leo ra hoa nhưng không có trái?

Điều này nằm ở vấn đề thụ phấn. Những bông hoa cần phải có điều kiện thụ phấn nhờ côn trùng, ong, bướm, gió,… nếu không được đáp ứng thì hoa đực sẽ không thể thụ phấn lên hoa cái để kết trái.

Để khắc phục điều này thì bạn có thể phun nước đường pha loãng lên thân cây để thu hút ong thụ phấn cho dưa.

Tại sao trái dưa chuột có vị đắng?

Nhiều người thường gặp trường hợp trồng cây dưa leo cho ra trái tuy đạt kích thước nhưng chất lượng vị mát, giòn ngọt ở dưa leo lại không có mà ngược lại trái dưa chuột thường bị đắng, đặc biệt là đắng chát ở phần cuống.

Dưa leo không cho trái đạt chất lượng và kích thước

Trồng dưa leo cho ra trái nhỏ, trái dưa bị cong, phần nữa trái gần cuống bị teo lại, quả dưa bị thắt ở eo giữa hay quả ngắn, tròn, dị dạng…. thì chủ yếu là do chế độ chăm sóc không hợp lý, tưới nước không đều, cây bị thiếu đạm, Kali, các loại phân hữu cơ. Ngoài ra còn do các yếu tố môi trường tác động như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm và côn trùng, sâu bệnh gây hại.

Tưới nước cho cây dưa leo như thế nào?

Cây dưa leo cần cung cấp nhiều nước và độ ẩm nhưng lại không chịu được úng vì vậy cần chú ý tưới nước thường xuyên vào mỗi sáng và chiều mát, đủ để giữ cho đất hơi ẩm suốt quá trình sinh trưởng và ra trái. Trái dưa chuột sẽ nhỏ và có vị đắng nếu không được tưới đủ nước.

Trồng dưa chuột bao lâu thì cho trái thu hoạch?

Sau khi trồng cây con khoảng 30 – 40 ngày tùy theo giống dưa và chế độ chăm sóc thì dưa leo cho thu trái. Thời điểm phù hợp nhất để thu hoạch dưa leo là khi quả dưa có kích thước vừa phải, vỏ da láng bóng vẫn còn lớp phấn trắng, đầu quả cánh hoa chưa rụng.

Khi nào thì làm giàn cho cây dưa leo?

Dưa leo khi trồng được 2 tuần, đây là giai đoạn cây sinh trưởng và phát triển nhanh thân lá và tua cuốn vì vậy bạn phải bắt đầu làm giàn cho cây leo. Làm giàn và tỉa nhánh đúng kỹ thuật sẽ giúp tăng năng suất, kích thước trái, giảm sâu bệnh và thuận tiện cho việc chăm sóc, thu hoạch dưa leo.

Trồng dưa leo vào mùa nào?

Dưa chuột có thể trồng được quanh năm, tuy nhiên, đây là loại cây ưa ẩm nên thường sinh trưởng và cho ra năng suất cao vào mùa mưa hơn mùa khô. nhưng trồng tốt nhất là vụ đông xuân (từ tháng 11 đến tháng 2, tháng 3 năm sau) và vụ hè thu (từ tháng 5 đến tháng 7, tháng 8).

Thời vụ gieo trồng:

– Vụ Đông Xuân gieo trồng vào tháng 10 – 11, thu hoạch vào tháng 12 – 1, đây là vụ cho ra sản lượng tốt nhất.

– Vụ Hè Thu gieo trồng vào tháng 5 – 6, thu hoạch vào tháng 7 – 8.

– Vụ Thu Đông gieo trồng vào 7 – 8, thu hoạch vào tháng 9 – 10.

– Vụ Xuân Hè gieo trồng vào tháng 1 – 2, thu hoạch vào tháng 3 – 4.

Làm sao để trồng dưa leo vào mùa mưa lạnh?

Dưa leo rất nhạy cảm với thời tiết mưa lạnh, không có nắng, nếu trồng vào điều kiện thời tiết nhiều mưa, sương giá thì cần phải có chế độ chăm sóc kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt ở giai đoạn đầu khi trồng cây dưới 2 tuần thì cần phải có biện pháp che chắn, làm đất, lên luống cao để rãnh đất thoát nước, ngăn ngập úng ở gốc cây.

Thời tiết âm u, thiếu nhiệt và ánh nắng cũng cản trở việc ra hoa và kết trái của cây. Dưa chuột trồng ở điều kiện nhiệt độ dưới 13°C sẽ không ra hoa và trái. Đối với vấn đề này thì bạn phải cung cấp ánh sáng cho cây bằng cách treo bóng đèn vàng hoặc đèn huỳnh quang để giúp cây đủ độ ấm cho sinh hoa và hoa mới thụ phấn được. Ngoài ra, thời tiết giá rét khiến việc thụ phấn của hoa khá khó khăn, tùy vào điều kiện mà bạn có thể tự thụ phấn cho cây.

Làm sao để trồng dưa leo vào mùa nắng nóng?

Trồng dưa leo vào mùa hè khô nắng là một thách thức trong việc chăm sóc cây trồng. Nếu thời tiết nhiệt độ trên 32°C, ánh nắng quá gay gắt sẽ làm cây bị còi cọc, cháy nắng. Đối với vấn đề này thì bạn phải khắc phục bằng cách tăng cường tưới nước cho cây gấp đôi, không để đất bị khô cằn, thiếu ẩm. Sử dụng các biện pháp che nắng cho cây bằng cách làm giàn tạo bóng râm cho cây.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kinh nghiệm trồng chuối cho năng suất cao

Cây chuối (tên khoa học là Musa sapientum L., thuộc họ Musaceae). Chuối là loại cây ăn quả nhiệt đới, ngắn ngày, dễ trồng và cho sản lượng khá cao, trung bình có thể đạt năng suất 20-30 tấn/ha. Hiện nay, trên thế giới, nước đạt năng suất chuối cao nhất là Goatemala 100 tấn/ha. Chuối có giá trị kinh tế khá lớn và là mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước.

Chuối

Điều kiện sinh thái của cây chuối

– Nhu cầu về nước: Hàm lượng nước trong các bộ phận cây chuối rất cao, trong thân già 92,4%, trong rễ 96%, trong lá 82,6% và trong quả 96%. Độ bốc hơi của lá rất lớn, dưới ánh nắng mặt trời, sức tiêu hao nước của chuối từ 40-50mg/dm2/phút. Với giống chuối tiêu lùn, cần từ 15-20 lít nước/ngày tuỳ theo trời râm hay trời nắng. Chú ý vào mùa đông ở nước ta thường khô hanh, ít mưa nên cần có biện pháp tưới ẩm để cung cấp đủ nước cho chuối.

– Nhu cầu về ánh sáng: Chuối có khả năng thích ứng trong phạm vi cường độ ánh sáng tương đối rộng. Cho nên lượng ánh sáng ở điều kiện nước ta cũng cho phép cây chuối sinh trưởng và phát triển tốt.

– Nhu cầu về nhiệt độ: Chuối sinh trưởng và phát triển thuận lợi trong phạm vi 25-35ºC. Khi nhiệt độ giảm đến 10ºC thì quả chuối nhỏ, phẩm chất kém, sinh trưởng chậm. Chuối sợ rét và sương muối, khi gặp sương muối kéo dài lá chuối sẽ xám lại và héo khô. Như vậy, ở nước ta, nhất là các tỉnh miền Nam, Nam Trung bộ, bình quân nhiệt độ hàng năm lớn hơn 24ºC, nên có lượng nhiệt rất tốt cho chuối phát triển.

Hình thức sinh sản

Hình thức nhân giống chuối chủ yếu là nhân giống vô tính. Người ta thường dùng loại chồi con để trồng. Chồi con được hình thành từ những mầm ngủ mọc trên thân ngầm của chuối, thường có 2 loại chồi con: chồi con đuôi chiên và chồi con lá rộng.

Theo nhiều kinh nghiệm, loại chồi con đuôi chiên được sử dụng trồng tốt nhất. Nó được sinh ra khoảng tháng 4 đến tháng 6. Trong điều kiện đầy đủ ánh sáng, nhiệt độ thích hợp, loại chồi non này sinh ra rất nhanh, tốc độ sinh trưởng rất mạnh. Chồi này rất sung sức, khi trồng mau bén rễ, tốc độ hồi sinh nhanh, sinh trưởng mạnh và mau ra buồng, sản lượng cao.

Ngoài chồi con, ở một số nơi đã chọn củ chuối (thân ngầm) để nhân giống, ở nước ta chưa áp dụng nhiều nhưng ở Trung Quốc, các nước châu Phi, châu Mỹ đã áp dụng nhiều phương pháp trồng bằng củ chuối.

Phương pháp này có lợi ở những mặt: dễ vận chuyển, con giống mọc ra từ củ tương đối đồng đều nên khi trồng dễ chăm sóc và thu hoạch, hệ số nhân giống cũng tương đối cao vì khi ta bổ một củ ra đem trồng có thể đạt được từ 4 đến 6 cây con.

Mùa vụ trồng chuối

Đối với khí hậu nước ta, chuối có thể trồng quanh năm. Tuy nhiên, nếu để đạt đến năng suất cao và phẩm chất chuối tốt, cần chú ý đến thời vụ. “Giêng trúc lục tiêu” tức là kinh nghiệm về mùa vụ trồng tre và chuối hợp lý, tức tháng giêng (ÂL) trồng tre, tháng sáu (ÂL) trồng chuối.

Đối với các giống chuối gòn, chuối lá mật, chuối ngự,… có thể trồng được vụ xuân (tháng 2-3 ÂL), nhưng với chuối tiêu thì phải trồng vụ thu (tháng 6-7 ÂL) và cây sẽ ra hoa vào tháng 6-8 năm sau, đến tháng 9-11 thu hoạch, lúc này năng suất, phẩm chất chuối tiêu rất tốt. Vì vậy mà trong dân gian cũng đã có kinh nghiệm ăn chuối: vào mùa nóng thì nên ăn chuối gòn, chuối lá, còn vào mùa rét thì ăn chuối tiêu ngon hơn.

Kỹ thuật bón phân, tưới nước

Đạm (N), Lân (P), Kali (K) đều rất cần thiết bón cho chuối. N ảnh hưởng đến năng suất chuối, K liên quan đến sự phát triển chiều cao và P có tác dụng tạo phẩm chất quả tốt, chống sâu bệnh.

Lượng bón phân tuỳ thuộc vào sản lượng thu hoạch. Đối với nước ta, liều lượng N, P, K thích hợp bón cho 1 cây chuối tiêu trong 1 năm ở đất phù sa ven sông là: 100-200g N nguyên chất, 20-40g P nguyên chất, 250-300g K.

Hàm lượng chất hữu cơ trong đất trồng chuối nhất thiết phải đạt 3-4% là tốt, nếu thấp hơn phải bón phân hữu cơ. Đối với chuối thường bón 30-50kg phân chuồng cho một gốc một năm. Có thể phủ cỏ, vỏ cà phê, mùn cưa, lá thông,…một lớp dày 30-40cm quanh gốc chuối để dần thành mùn và giữ ẩm cho đất cũng rất tốt hoặc có thể trồng cây phân xanh để tạo chất hữu cơ cho đất. Vào các tháng 7-8-10 sau khi trồng là giai đoạn bón thúc quan trọng, giúp nâng cao năng suất và phẩm chất chuối.

Chuối có nhu cầu nước cao, chịu hạn kém, cho nên cần lưu ý tưới nước đủ cho chuối. Một nghiên cứu đã cho biết một cây chuối có diện tích bộ lá 13,5m2 cần 50-70kg nước để thoát nước trong một phút.

Tưới nước cho cây chuối

Ngoài ra, còn một số kinh nghiệm khác như: chọn cây con đem trồng nên chọn cây cao từ 0,6-1m và đã có trên dưới 10 lá, trước khi trồng phải gọt sạch rễ và cắt bớt lá.

Khi chuối ra hoa cần phải cắt hoa đực và hoa trung tính (tức cắt bắp chuối), có tác dụng làm quả to hơn. Vườn chuối phải trồng luân canh thì năng suất mới cao. Mùa mưa không nên đi lại, cày xới trong vườn chuối. Và quan trọng phải theo dõi sâu hại chuối và có cách phòng trừ hiệu quả.

Theo m.2lua.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Viet Nam.

 

Các giống chuối phổ biến có giá trị kinh tế ở nước ta

Các giống chuối ở nước ta khá phong phú và đa dạng. Vì vậy cũng không ít giống có giá trị kinh tế cao. Một trong số đó là:

  1. Chuối tiêu

Chuối tiêu có năng suất cao, phẩm chất tốt (hàm lượng đường và axit, vitamin đều cao), vì vậy nó là giống được trồng phổ biến trong nhân dân ta. Hiện nay chuối tiêu là giống có ý nghĩa kinh tế nhất, nó là mặt hàng xuất khẩu chính trong các loại chuối.

Chuối tiêu khi chín

Đặc điểm: cây thấp, lá mọc sít nhau, cuống lá ngắn, có eo lá màu tím đỏ, gốc lá nhọn và sâu, cuống lá hở. Quả chuối tiêu dài và cong, khi chín vào mùa đông vỏ thường có đốm “trứng cuốc”.

Trong chuối tiêu lại có nhiều dạng khác nhau:

  • Chuối tiêu lùn, cây cao 1,2 – 1,5 m, cây mập, lá rộng bề ngang, nhưng ngắn, quả ngắn hơn chuối tiêu cao, phẩm chất khá.
  • Chuối tiêu vừa, cây cao trung bình 2-3,5 m. Ở ta trong dạng này còn phân biệt chuối tiêu trắng ( ruột trắng ) và chuối tiêu hồng. Chuối tiêu hồng chín vào mùa nào vỏ quả cũng có màu vàng tươi, thịt quả màu vàng, còn chuối tiêu trắng thịt quả nhạt hơn, mùa hè bao giờ vỏ quả cũng vẫn giữ màu xanh khi chín, chỉ chín trong mùa đông mới có màu vàng và “trứng cuốc”. Về phẩm chất , chuối tiêu hồng tốt hơn chuối tiêu trắng.
  • Chuối tiêu cao, thân cây cao 2,5 – 5 m, chịu được khô hạn, quả to hơn, sản lượng cao. ở ta có giống chuối tiêu cao, múp đầu, bị hơi chua, nhưng cũng có giống quả không múp đầu, quả dài và cong. Một số dạng chuối tiêu cao trồng để xuất khẩu rất tốt.

2. Chuối ngự

Là loại chuối quý, trước đây trồng để tiến vua chúa nên còn có tên là “chuối tiến” hay “ngự tiến”.

Chuối ngự

Đặc điểm: cây yếu, bẹ mềm, thân cây có màu vàng óng ả, lá mọc đứng, lá dài, nhỏ, màu lá xanh vàng. Gốc lá nhọn và không cân đối giữa hai mép, cuống lá gần khép kín. Chuối ngự đẻ khoẻ, nhiều con. Buồng ngắn, nải xếp xít nhau, quả ngắn, đầu quả múp, vỏ mỏng, thịt quả dau, ăn ngọt, và rất thơm.

Chuối ngự cũng có hai dạng: ngự thường và ngự mít.

Ngự mít có quả vàng tươi, cây thấp hơn, thịt quả mịn, ăn ngọt và rất thơm. Còn ngự thường, cây cao to hơn, quả to dài hơn ngự mít, ăn ít thơm.

Chuối ngự ngon từ tháng 4 đến tháng 8. Mùa đông kém ngon hơn cho nên trồng trọt sao cho trổ vào mùa xuân, đầu hè, thì phẩm chất tốt.

Nhận xét: loại chuối này phẩm chất rất cao, đẹp về hình thức, cho nên nếu được phát triển ở những nơi có điều kiện vận chuyển để xuất khẩu tươi (xuất khẩu quả chín) thì giá trị kinh tế rất lớn. Tuy nhiên nếu phát triển chuối ngự cũng cần chú ý những nhược điểm:

  • Cây mềm yếu dễ đổ gãy, yêu cầu đất đai và chăm sóc cao, khi dấm quả không đúng kỹ thuật, vỏ quả dễ bị nứt.
  • Các giống chuối tiêu, chuối gòn, chuối ngự là những giống có giá trị kinh tế cao hơn, ngoài ra ở các địa phương có trồng nhiều loại chuối khác nhau như: chuối mật (lá mật), chuối mắn, chuối mỏ giang, chuối ngốp, chuối hột, chuối cẩm… Những giống chuối này phân bố lẻ tẻ và ít có ý nghĩa kinh tế hơn.

3. Chuối Philipine

Chuối Philipine có hàm lượng đường trong trái thấp nên ăn có vị thanh chua, không được ngọt như các giống chuối tiêu Việt Nam.

Chuối Philipine

Nhưng do vỏ trái dày cộng với cuống trái to và cứng nên khi trồng quy mô giống chuối Philipine tỏ ra ưu thế hơn để đóng gói, bảo quản và vận chuyển đi xuất khẩu ở những thị trường xa.

Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Bảo quản và chế biến xoài

Bảo quản

Phần lớn xoài tiêu thụ trên thị trường hiện nay đều đựng trong sọt tre, thùng gỗ, thùng carton để trong điều kiện tự nhiên, vì vậy bị tác động bởi nhiệt độ, ẩm độ cao lại vận chuyển đi xa nên chỉ bảo quản được 7 – 10 ngày, tỷ lệ dập nát đến 20 – 25%, có khi tới 30%.

Bảo quản xoài thủ công

Các viện nghiên cứu, trường đại học đã nghiên cứu và ứng dụng thành công một số phương pháp bảo quản nhãn, xoài tươi như sau:

– Công nghệ bảo quản quả tươi ở nhiệt độ bình thường có sử dụng chất diệt nấm, vi sinh vật và côn trùng bằng xông khí SO2 và các phương pháp thay đổi thành phần môi trường bảo quản. Công nghệ này có thể bảo quản được 15 – 16 ngày, tỷ lệ hao hụt 10 – 12%, có thể vận chuyển đi xa từ các tình Nam Bộ ra miền Bắc.

– Công nghệ bảo quản quả tươi đối với xoài ở nhiệt độ thấp 10 – 12oC là phương pháp bảo quản hiệu quả nhất, thời gian bảo quản kéo dài trên 30 ngày, tỷ lệ hao hụt do dập nát 5 – 7%, có thể vận chuyển đi xa và xuất khẩu (trước khi bảo quản ở nhiệt độ thấp phải loại bỏ những quả thối, dập nát và xử lý các biện pháp như đã nêu trên). Với xoài bảo quản ở nhiệt độ tự nhiên (như ở nước ta) thời gian giữ được rất ngắn. Song bảo quản ở nhiệt độ thấp dưới 10oC, quả xoài gặp nhiều hạn chế: dễ bị tổn thương do nhiệt độ lạnh làm trái chuyển màu, thịt mềm, mùi vị không đặc trưng như chín bình thường. Xoài sau khi thu hoạch, phân loại, rửa sạch rồi ngâm trong dung dịch CaCl2 hoặc Ca(NO3)2, nồng độ sử dụng 4 – 6%, vớt ra để khô ở điều kiện tự nhiên, sau đó đựng trong túi nilông kích thước 15 x 25 cm, có 20 lỗ thoát ẩm trên túi. Bảo quản ở nhiệt độ 11 – 11,5oC là tốt nhất, thời gian bảo quản trên 30 ngày, xoài vẫn giữ được màu sắc, chất lượng tốt (VNCCAQ MN).

Xoài bảo quản thủ công vận chuyển xa dễ hư hỏng

– Về bao bì bảo quản xoài:

1. Một loại truyên thống dùng sọt tre, nứa, thùng gỗ (đóng từng thanh) có giá thành thấp nhưng tỷ lệ dập nát, thối nhũn cao.

2. Dùng thùng carton có đục lỗ thoát ẩm, giá thành tuy có cao hơn loại truyền thống song tỷ lệ hao hụt, dập nát, thối ít hơn nhiều nên hiệu quả cuối cùng vẫn cao.

Chế biến

Chế biến xoài sấy

Quy mô xưởng sấy từ 150 – 250kg nguyên liệu. Xoài được ủ ở nồng độ CaC2 (khí đá) 1%, thời gian ủ 36 giờ.

Xoài được rửa sạch, gọt vỏ, cắt lát, rồi xử lý ở nhiệt độ 80 – 900C trong 5 – 9 phút. Các miếng xoài được ngâm trong dung dịch nước đường có nồng độ 40 – 50%, thời gian ngâm 18 – 20 giờ. Sau đó xoài được rửa lại bằng nước ấm trước khi đem ra khay sấy. Nhiệt độ sấy 50 – 600C và sấy trong 14 -18 giờ. Sản phẩm phải có độ ẩm 16 -18%.

Chi phí đầu tư cho thiết bị này khoảng 160 triệu đồng.

Chế biến nước xoài

Nước đường (phụ phẩm sau chế biến xoài sấy) được phối chế với 20% bột xoài và nước ngâm dứa, bổ sung thêm 0,3 – ,5% acid citric. Sau khi được phối chế,dung dịch được bổ sung chất ổn định và được đồng hóa (10 phút) để tránh hiện tượng tách lớp. Dung dịch được bài khí bằng cách đun nóng trước khi rót chai ghép nắp và thanh trùng ở nhiệt độ 1000C trong 15 phút. Sản phẩm nước có mầu vàng tươi, mùi thơm tự nhiên…

Chi phí đầu tư cho quy trình này khoảng 60 triệu đồng.

Chế biến giấm xoài

Dung dịch nước đường trong chế biến xoài sấy được xử lý nhiệt trước khi phối chế với nước theo tỷ lệ 1/3, có bổ sung rượu. Hỗn hợp này được bơm vào thiết bị lên men liên tục, có sục khí nhằm cung cấp oxy cho hệ vi sinh vật thuần khiết đã được phân lập và được cấy trên giá thể xốp đặt trong thiết bị. Thời gian lên men là 7 – 10 ngày (ngắn hơn thời gian lên men thông thường 3 lần), độ chua của giấm là 5 – 6%. Giấm có độ trong cao, màu vàng nhạt, thoảng hương thơm trái cây.

Chế biến bánh xoài

Xoài để làm bánh tráng xoài được lựa chọn kỹ lưỡng, chín tự nhiên. Xoài chín được lột vỏ bằng tay, không gọt bằng dao để loại bỏ hẳn vỏ và làm bánh tráng xoài không bị xơ. Xoài sau khi lột vỏ được bào lấy nước cốt của xoài.

Đun nước xoài, được cho thêm ít đường và khoấy đều tay để dung dịch nước xoài không bị cháy, xít. Tiếp tục như vậy đển khi nước xoài trong nồi sôi và cô đặc thành dung dịch sền sệt là được.
Công đoạn phơi:

Nước xoài sau khi được đun chín, rưới tráng lên măm hoặc nia (một loại sàng bằng tre đan) đã phủ sẵn miếng lót nhựa nylon để dung dịch nước xoài không dính lên măm, nia và đảm bảo vệ sinh hơn. Sau đó, đem đi phơi dưới nắng gắt khoảng 2 ngày đến khi sờ vào tay không dính bánh mới đạt yêu cầu.

Nhờ độ chua tự nhiên của xoài cát và được chế biến theo phương pháp truyền thống (phơi sấy dưới nắng) nên bánh xoài có vị ngọt, chua và mùi thơm rất tự nhiện. Đặc biệt, bánh tráng xoài được bảo quản rất lâu trong điều kiện bình thường.

Những loại sâu, bệnh hại và các phòng trị ở xoài

Xoài là loài cây ăn quả xứ nhiệt đới phù hợp với khí hậu ở Việt Nam, là loài cây trồng có giá trị kinh tế.Ngoài ra xoài còn là loài cây che bóng, trang trí không gian vườn có giá trị thẩm mỹ cảnh quan rất cao.

Tuy nhiên, trong quá trình trồng trọt thường gặp một số sâu, bệnh hại như sau:

Sâu hại

1. Sâu đục trái

Đây là đối tượng gây hại rất nghiêm trọng trên xoài. Thành trùng là một loại bướm màu trắng ngà, sải cánh dài 2-3cm, hoạt động về đêm. Chúng đẻ trứng dưới lớp vỏ ở phần đít trái xoài, trứng nở ra sâu non có khoan hồng đậm, đục thẳng vào hột để ăn hột xoài. Sau khi sâu lớn sẽ buông mình xuống và chui vào đất để hoá nhộng, sau đó vũ hoá thành bướm gây hai tiếp. Tỉ lệ gây hại có khi đến 30-35%.

Sâu đục trái xoài

Phòng trị:

+ Phun các loại thuốc thuộc nhóm cúc tổng hợp, định kỳ 7 ngày/lần.

+ Loại bỏ các trái có dấu đục, không để rơi vãi trên mặt đất.

+ Dùng loại bao đặc biệt để bao trái lúc con nhỏ.

2. Ruồi đục trái

Gây hại trên xoài, táo, nhãn… Ấu trùng không những gây hại cho trái mà còn hạn chế khả năng xuất khẩu xoài sang các nước khác.Ruồi có kích thước nhỏ hơn ruồi nhà, màu nâu vàng, ngực có 2 sọc vàng, cánh không màu.Ruồi cái đục võ trái (lúc trái già) và đẻ trứng dưới lớp vỏ. Trứng nở thành giòi nhỏ, nằm bên trong ăn thịt trái. Trái bị giòi do bị bội nhiễm nấm nen bi lên men, thối rữa và rụng đi.

Ruồi đục trái xoài

Phòng trị:

+ Điều khiển xoài ra hoa sớm, tránh lúc mưa đầu mùa là thời điểm mật độ ruồi rất cao.

+ Bao trái, đây là biện pháp rất hiệu quả.

+ Tiêu huỷ trái rụng để diệt giòi.

+ Dùng bẫy bằng chất dẫn dụ (cây é tía hay chất trích ly từ cây é tía).

+ Phun thuốc theo định kỳ.

3. Rầy xoài

Còn gọi là rầy nhảy, hình dáng tương tự ve sầu nhưng nhỏ hơn. Rầy dài 3-5 mm, hơi nâu chích hút ở đọt, mặt dưới lá và phát hoa. Rầy còn tiết ra mật gây bệnh bồ hóng lá, làm cây phát triển kém. Hiện nay rầy là đối tượng gây hại số 1. Khả năng kháng các loại thuốc cũ như Bassa, Mipcin, Trebon rất cao.

Rầy xoài

Phòng trị:

Sử dụng thuốc Admire, Confidor, Applaud, Butyl.

4. Con cắt lá

Là loại côn trùng cánh cứng rất nhỏ bằng cọng chân nhang, dài 22 mm, có một vòi dài là 2 mảnh ghép lại dùng để cắt lá non. Chúng xuất hiện vào lúc sáng sớm hay chiều mát. Chúng cắt cuống lá non vừa mới nhú hoặc lá chưa chuyển sang màu xanh, làm cho chồi non không có lá, gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cây.

Con cắt lá ở xoài

Phòng trị:

Trong giai đoạn cây ra lá non, cần theo dõi thường xuyên (2 ngày/lần). Nếu thấy có dấu hiệu gây hại lập tức phun thuốc trừ sâu nhóm cúc tổng hợp.

5. Sùng đục thân

Thành trùng là loài bọ cánh cứng có râu dài. Chúng thường đẻ trứng vào vết thương của cây, quanh gốc cây hoặc những nơi kín đáo nơi có lớp vỏ bong ra (cây già). Ấu trùng đục phần dưới lớp vỏ để ăn, sau đó hoá nhộng trong bao kén trắng nằm bên trong lớp vỏ cây. Ấu trùng gây ra vết thương tạo điều kiện để cho nấm xâm nhập và phát triển làm hư lớp vỏ quanh thân, nếu nặng cây có thể chết.

Phòng trị:

Nên thường xuyên kiểm tra quanh gốc xoài, nhất là ở những cây lâu năm có lớp vỏ bong ra. Nếu thấy có lớp mạt nhỏ ùn ra, dùng dao vạt vỏ, khi phát hiện dùng dây kẽm móc ra, trám đất sét lại.

6. Rệp sáp

Chích hút nhựa ở nhánh non và cuống trái. Đây là loại rệp hay chích hút trên cam quít.

Rệp sáp hại quả xoài

Phòng trị:

Bằng thuốc Supracide 40 ND.

Bệnh hại

1. Bệnh thán thư

Là loại bệnh nguy hiểm nhất, thường gây hại trong mùa mưa hoặc những lúc đêm có sương. Nấm bệnh tấn công cành non, lá non, hoa và trái.

Trên hoa, bệnh làm rụng hoa và hư phát hoa.

Bệnh thán thư ở xoài

Ở lá, đốm bệnh màu xám nâu, tròn hay góc cạnh, tạo đốm cháy lá và rách lá, cuối cùng lá bị rụng.

Trên trái, bệnh lúc đầu chỉ tạo các chấm nâu nhỏ, sau đó phát triển thành các đóm thối đen lõm xuống vỏ trái làm trái bị chín háp hoặc hư hỏng khi tồn trữ (nếu nhiễm muộn). Bào tử nấm có thể mọc mầm sau 6 giờ trong giọt nước nên gây hai rất nhanh.

2. Bệnh thối trái, khô đọt

Bệnh gây hại nặng trong điều kiện nóng ẩm, nhất là vào mùa mưa. Trên nhánh mang đọt xuất hiện các đốm sậm màu, lan dần trên các cành non, cuống lá làm lá biến màu nâu, bìa lá cuốn lên. Cành bị khô nhăn và có thể chảy mủ.Chẻ dọc cành bệnh, bên trong các mạch dẫn nhựa bị nhiễm nâu tạo thành các sọc màu nâu.

Bệnh thối trái, khô đọt

Bệnh thường tấn công trái trong giai đoạn tồn trữ hay vân chuyển, làm thối phần thịt trái nơi gần cuống trái hoặc những nơi có phần vỏ trái bị trầy trụa. Khi hái trái không chừa cuống, bệnh rất dễ xâm nhập và lây lan chỉ sau 2-3 ngày, nhất là khi gặp điều kiện ẩm.

Phòng trị:

Tránh làm dập trái hoặc rụng cuống khi hái trái. Phun Benlate (0,01%), Copper-B (0,1%) với số lượng 10 lít/cây khoảng 2 tuần trước khi thu hoạch. Trái sau khi hái phải xử lý bằng nước ấm (55OC) có chứa Benlate 0,06-0,1%, cách này có thể phòng cả bệnh thối trái và bệnh thán thư. Cũng có thể nhúng trái vào dung dịch gốc đồng hay dung dịch Borax (0,6%).Phòng trừ bệnh trên cây con ghép cần chọn mắt ghép trên cây khoẻ mạnh, sạch bệnh và nên vệ sinh kỹ dụng cụ ghép.

3. Bệnh cháy lá

Bệnh phát triển nặng trong mùa mưa, gây hại cả lá, nhánh và trái. Đốm bệnh lúc đầu nhỏ như đầu kim có màu vàng, sau lớn dần có màu nâu nhạt, sau chuyển thành màu nâu đậm, có viền màu tím sậm. Phần giữa vết bệnh có màu xám tro có các vết đen là những ổ nấm. Vết bệnh ở lá có hình bầu dục hay biến dạng, khi lan dần vào cuống lá làm chóp lá bị cháy khô.

Trên trái, đóm bệnh tròn úng nước, sau đó lan nhanh làm thối trái. Bệnh lây lan nhờ nước mưa.

Bệnh cháy lá ở xoài

Phòng trị:

Bằng cách cắt bỏ và tiêu huỷ các bộ phận bị bệnh để giảm nguồn lây lan. Phun Copper- Zine, Copper-B, Zineb hay Benomyl.

4. Bệnh đốm lá

Tấn công cả lá và trái qua vết thương hay vùng tiếp xúc. Trên lá, đốm bệnh có hình bầu dục to, màu nâu nhạt, tâm sáng trắng có thể làm rách lá. Trên trái, bệnh làm thành vùng nhiễm có màu nâu đen, vùng nhiễm bệnh nhăn nheo. Bệnh thường gây hai nhẹ, có thể phòng trị như ở bệnh cháy lá.

Ngoài ra trên cây xoài còn bị một số bệnh hại khác như: Bệnh bồ hóng, Bệnh phấn trắng, bệnh đốm vi khuẩn và bệnh da ếch…

Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Kỹ thuật trồng Xoài cát Hòa Lộc sạch không dùng thuốc BVTV

Xoài cát Hòa Lộc ở xã Cam Thành Nam, Cam Lâm, Khánh Hòa đã trở thành thương hiệu xoài sạch, chất lượng. Đạt được thành quả đó là nhờ bà con trong xã đã áp dụng quy trình kỹ thuật trồng xoài sạch của Trung tâm khuyến nông khuyến ngư đưa ra.

Xoài cát Cam Lâm là 1 trong 3 loại xoài được dán tem chứng nhận nhãn hiệu

Quy trình kỹ thuật gồm 5 bước như sau :

   Bước 1: Khi thu hoạch xong xoài vụ trước vào khoảng đầu tháng 8 âm lịch thì tiến hành bón phân phục hồi cho xoài theo công thức: 1kg sunphat + 1kg lân + 0,5 kg kali/1 gốc xoài, và tưới nước cho tan phân cây dễ hấp thu chất dinh dưỡng. Sau đó, cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vượt, cành vô hiệu, tạo độ thông thoáng cho cây xoài, tăng nguồn ánh nắng chiếu vào tán cây nhằm hạn chế sâu bệnh ẩn nấp và cây đỗ ngã mùa mưa bão.

   Bước 2: Vào đầu tháng 12 âm lịch, tiến hành bấm ngọn cho ra lộc mới, nên bấm đồng loạt thì xoài sẽ ra ngọn, ra bông đồng loạt. Tiếp theo, bón 2 kg phân lân + 1 kg kali + 0,5 kg sunphat, và tưới nước cho tan phân cây dễ hấp thu chất dinh dưỡng. Bón phân ở giai đoạn này nhằm tạo ra những ngọn cây mập và khỏe mạnh, đồng thời dự trữ chất dinh dưỡng để nuôi hoa sau này.

Đến cuối tháng 1 âm lịch năm sau thì xoài bắt đầu ra cơi 2, sau đó khoảng 10 ngày thì ta phun thuốc trị sâu, rầy, bọ trĩ. Nếu gặp trời mưa thì phun thuốc trị bệnh thán thư cho xoài để hạn chế lây lan về sau. Sử dụng thuốc đặc trị có nguồn gốc sinh học, phun 03 lần, mỗi lần cách nhau 4 ngày. Vì trong thời kỳ này xoài ra ngọn nhiều, khi phun thuốc xong ta tiến hành tỉa bớt ngọn, chỉ để 1 – 2 ngọn mập và khỏe cho đủ sức nuôi hoa sau này tốt hơn.

     Bước 3: Vào tháng 2 âm lịch tiến hành bón phân tiếp theo công thức: 2kg kali + 1kg sunphat + 0,5 kg lân. Vào giai đoạn này cây xoài tập trung phát triển mầm hoa, do đó cần bón thêm 0,5 kg KNO3/1gốc cây, và tưới nước cho tan phân cây dễ hấp thu chất dinh dưỡng, tích lũy để phân hóa mầm hoa. Kết hợp với bón vôi để khử chua và cung cấp canxi cho cây.

     Bước 4: Khi cây xoài đã ra cơi 2 hoàn chỉnh, lá bắt đầu chuyển sang màu phớt hồng thì sử dụng thuốc gói Paclobutrazol loại 20% tưới kích cho cây. Hòa 1kg thuốc Paclobutrazol loại 20% tưới cho khoảng 8 – 10 cây xoài, tùy theo tán lớn nhỏ và độ tuổi của cây. Tưới cách gốc 5 tấc theo vành máng chứa rồi giữ ẩm liên tục từ 8 – 15 ngày và ngưng. Siết khô xong ta kiểm tra xem đọt xoài đã ra cựa gà chưa. Nếu thấy cây nhú cựa gà khoảng 80 – 90% thì phun thuốc trị sâu rầy, bọ trĩ hoặc nếu gặp mưa thì phun thuốc phòng ngừa thán thư hại bông sau này. Sau khi siết khô hạn được 10 – 15 ngày thì ta bón thêm 2 đợt KNO3 nữa để kích ra hoa đồng loạt, kèm theo bón phân vi lượng và trung lượng.

     Bước 5: Khi xoài ra hoa rộ và đậu quả bằng trứng cá hay trứng cút thì ta bắt đầu chọn loại bỏ bớt để xoài mau lớn trái. Đến khi trái xoài to bằng quả trứng gà hoặc lớn hơn thì chọn loại bỏ lần 2, chỉ để lại từ 1 – 2 trái/chùm mà thôi. Sau đó, tiến hành bao trái ngay để hạn chế ruồi vàng và sâu đục quả. Trong thời gian này ta bón phân kích thích lớn trái có thành phần kali, canxi làm cho trái xoài chắc, đẹp mã, nặng ký, giá cao và được thị trường ưa chuộng.

Nguồn : Khuyến nông Khánh Hòa, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài Úc

Xoài Úc là một loại quả mang lại giá trị kinh tế cao. Với ưu điểm, quả to tròn, thịt cứng chắc, ít xơ, khi chín trên u vai quả có màu ửng hồng, khi ăn có hương vị ngọt nhẹ, mỗi quả nặng gần 1kg … giống Xoài Úc đã và đang được nhiều bà con đầu tư trồng trọt. Vậy kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Xoài Úc như thế nào để thu hoạch được quả có chất lượng tốt nhất.

Xoài Úc

Kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài Úc đơn giản

  1. Mật độ trồng Xoài Úc

Hàng cách hàng 7m, cây cách cây 6m. Với kích thước trên mỗi ha trồng được khoảng 240 cây.

  1. Quy cách hố trồng cây

Hố trồng hình vuông rộng 0,5m, chiều sâu từ 0,5– 0,7m.

Xoài Úc là loại cây ăn quả rễ cọc nên cần đào hố sâu để định hướng cho bộ rễ ăn sâu xuống dưới, tránh đỗ ngã khi mùa mưa bão tới, đặc biệt là những cây con mới trồng.

  1. Cách trồng cây con

Mỗi hố chuẩn bị 10kg phân hữu cơ + 0,2kg DAP. Cho tất cả số phân này trộn đều với đất được đào lên rồi cho vào hố ủ để trồng cây.

Cây con xoài Út

Khi trồng cây dùng kéo cắt lớp bầu bên ngoài rồi đặt vào hố trồng sao cho mặt bầu cây con ngang với mặt hố, sau đó nén chặt đất và tưới nước để giữ độ ẩm cho đất.

  1. Tạo hình và tỉa cành

– Tạo hình:

Bấm ngọn cách gốc 70cm và chọn 3 chồi khỏe phân bố đều. Khi 3 chồi này được 2 tầng lá, bấm ngọn dưới đọt lá 2. Tương tự như vậy cho các đợt chồi kế tiếp trong khoảng 2 năm đầu.

– Tỉa cành:

Tiến hành tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Cắt bỏ những cành sâu bệnh, cành bên trong tán,  cành không có khả năng ra quả vào vụ sau… để đảm bảo cho cây xoài phát triển tốt và đem lại năng suất cao cho vụ sau.

  1. Bón phân

– 3 năm đầu sau khi trồng:

  • Trong khoảng thời gian này bà con dùng phân NPK công thức 20:20:15 để bón cho cây.
  • Hai năm đầu bón 0,5 kg/cây/năm; bước sang năm thứ ba bón 1 kg/cây/năm. Mỗi năm bón 2 lần: đợt 1 bón vào những lúc mưa giông, còn đợt 2 bón khi bắt đầu mùa mưa chính.

Xoài Úc phát triển tốt khi được chăm sóc đúng cách

– Giai đoạn thu hoạch trái:

Giai đoạn này bón phân cũng chia làm 2 phần: 2/3 số phân bón ngay sau thu hoạch, 1/3 số phân còn lại bón khi cây bắt đầu trổ bông.

  1. Phòng trừ sâu bệnh cho cây Xoài Úc

Giống Xoài Úc thường mắc những loại sâu bệnh chính như: rầy bông xoài, sâu đục trái, ruồi đục trái, bệnh thán thư,… Chính vì vậy trong quá trình chăm sóc cần chú ý quan sát để phát hiện ra những dấu hiệu lạ trên cây để khắc phục cho kịp thời. Đồng thời chú ý phun các loại thuốc phòng ngừa các loại bệnh cho cây.

Xoài Úc khi chín có thịt cứng chắc

Những thông tin cơ bản ở trên hi vọng có thể giúp ích được cho bà con trong quá trình trồng và chăm sóc cây xoài Úc đạt mùa bội thu.

Tổng hợp từ Farmtech Viet Nam.