Ngò gai dễ trồng, cho thu nhập cao

Cây ngò gai thuộc thân thảo, là một loại cây tương đối dễ trồng, lại cho thu nhập cao, giá bán từ 12.000 – 15.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi tháng có thể đem lại thu nhập cho nông dân từ 4 – 6 triệu đồng/1.000m2.

Chính vì thế, đây là cây thoát nghèo, giúp tăng thu nhập, được nhiều nông dân trên cả nước trồng.

Ngoài công dụng là loại rau gia vị, ngò gai còn được dùng để làm thuốc như chữa sổ mũi, đau tức ngực, chữa rối loạn tiêu hóa, viêm ruột…

Ngò gai dễ trồng, lại cho thu nhập cao, là loại rau thoát nghèo ở nhiều tỉnh trên cả nước.
Trồng ngò gai chủ yếu bằng hạt. Hạt ngò gai dễ mọc nên gieo thẳng trực tiếp trên luống, liếp. Lượng hạt giống gieo cho 1.000m2 từ 3 – 5kg. Muốn gieo đều nên chia hạt giống thành 2 lần gieo, mỗi lần gieo trộn hạt với phân, đất rồi tiến hành vãi đều trên mặt luống. Gieo xong rải thuốc chống kiến, dế, mối trong đất và phủ lên trên một lớp rơm mỏng để giúp tạo ẩm độ cho hạt nhanh nẩy mầm và không bị mất trôi hạt. Tưới nước để giữ ẩm độ, một tuần sau là hạt nẩy mầm.

Ngò gai là một loại cây tương đối dễ trồng, thích hợp trên nhiều chân đất khác nhau nhưng tốt nhất vẫn là đất tốt, nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt. Lên liếp hình mai rùa, chiều dài liếp tùy theo kích thước vườn, rộng 1 – 1,2m, cao mặt liếp 15 – 20cm. Các liếp cách nhau 0,3 – 0,4m. Có hệ thống thoát nước tốt.

Ngò gai dễ sống, ít sâu bệnh hại nên việc chăm sóc chủ yếu là tưới nước và bón phân. Liều lượng và cách bón phân cho 1.000m2 trồng ngò gai như sau:

Bón lót: 400 – 500kg phân chuồng + 20 – 30kg phân NPK (loại 20 – 20 – 15). Lưu ý xới trộn đều phân vào đất để bón.

Sau khi gieo hạt khoảng 2 tuần thì bón bổ sung khoảng 5kg urê và 10kg super lân kết hợp với việc tỉa cây. Bón phân bằng cách chia phân trong nước rồi tưới bằng bình hoa sen lên trên mặt liếp rau.

Cây ngò gai ưa ẩm ướt vì thế phải thường xuyên tưới nước cho cây. Sau khi trồng khoảng 2 tháng là ngò gai có thể thu hoạch đem bán.

Nguồn: Thạc sĩ Lê Thị Nghiêm được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và bón phân cho cây ngò gai

Cây ngò gai thuộc cây thân thảo, thấp. Thân đơn độc, chia cành ở ngọn. Cây cao trung bình khoảng 1 5 – 25 cm.

Lá mọc ở gốc, xoè ra hình hoa thị, lá ngò gai hình mác thuôn dài, 2 bên mép của phiến lá có nhiều răng cưa nhỏ, rộng dần về phía ngọn lá. Cuống lá mọc trực tiếp từ gốc cây, ngò gai phát triển phân thành nhiều tầng lá khác nhau. Hoa của ngò gai mọc từ trục thân, hoa hình bầu dục hay hình trụ. Khi trưởng thành, hạt rụng và phát tán.

Công dụng:

Ngò gai vừa làm gia vị, vừa là nguồn dược liệu quý giá từ xưa đến nay. Ngò gai được xem như loại rau dùng để ăn sống hoặc chế biến với những loại thực phẩm khác để kích thích ăn ngon miệng vì mùi thơm nhẹ nhàng của chúng.

Ngoài ra, ngò gai còn được dùng để làm thuốc như chữa sổ mũi, đau tức ngực, chữa rối loạn tiêu hoá, viêm ruột… Chữa hôi miệng: Lấy một nắm rau ngò gai sắc đặc lấy nước, cho thêm vài hạt muối vào rồi súc miệng. Dùng liên tục 5-6 ngày, mỗi ngày súc miệng vài lần, bệnh sẽ khỏi.

Lá ngò gai có tác dụng làm giảm đường huyết, đối với những người có bệnh đái tháo đường, khuyến cáo nên dùng thường trong các bữa ăn.

Kỹ thuật trồng:

Cây ngò gai rất dễ trồng, dễ chăm sóc. Ưu điểm của nó là chịu rập, do đó có thể bố trí trồng xen canh với các loại cây màu, cây lâu năm khác. Trồng xen vậy vừa tiết kiệm lượng phân, thuốc, tận dụng diện tích đất sản xuất và còn tăng thu nhập, “lấy ngằn nuôi dài”.Cây ngò gai ít bị ảnh hưởng của thời tiết, canh tác không theo mùa vụ,, nên người dân có thể chủ động mùa vụ và trồng được 2 vụ/năm.

a. Giống:

Trồng ngò gai chủ yếu bằng hạt. Hạt ngò gai dễ mọc nên gieo thẳng trực tiếp trên luống, liếp. Lượng hạt giống từ 3 – 5 kg cho 1.000 m2 .
Gieo xong rải thuốc trừ kiến, dế, mối trong đất và phủ lên trên một lớp rơm mỏng để tạo ẩm độ giúp hạt nẩy mầm nhanh. Tưới nước để giữ ẩm độ. Khoảng một tuần sau, hạt nẩy mầm.

b. Đất trồng:

Ngò gai là một loại cây tương đối dễ trồng, thích hợp với nhiều loại đất khác nhau. Tốt nhất là đất nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt.

Trước khi gieo hạt nên cày bừa làm đất thật nhỏ.

Lên liếp, rộng 1 – 1,2m, cao 15 – 20cm, chiều dài liếp tuỳ theo kích thước vườn. Các liếp cách nhau 0,3 – 0,4m.

c. Bón phân: (Tính cho 1.000m2)

Bón lót: Bón trước khi gieo, ngay sau khi lần làm đất sau cùng. Bón 100 – 150kg phân hữu cơ sinh học Better HG01 và 20 – 25kg Better NPK 16-12-8-11+TE

Sau khi rãi phân xong, xới đất lại lần nữa để trộn phân vào đất.

Bón thúc: Sau khi gieo hạt khoảng 2 tuần: 2kg Urê Đầu Trâu 46 A+ và 10kg super lân, kết hợp với việc tỉa dăm cây.

Có thể bón phân bằng cách pha vào nước rồi tưới. Sau khi tưới phân, nên tưới lại một lần bằng nước lã để rửa sạch phân bám dính trên lá. Do đọt non của cây ngò gai nằm sát với mặt đất, vì thế không được để cho đất cát, bùn bao phủ trên đọt non dễ làm cho đọt bị thối chết.

d. Tưới nước:

Ngò gai dễ sống, ít sâu bệnh hại nên việc chăm sóc chủ yếu là tưới nước và bón phân.
Cây ngò gai ưa ẩm ướt vì thế phải thường xuyên tưới nước cho cây, đảm bảo cho đất luôn đủ ẩm, nếu đất bị khô hạn sẽ làm cho cây còi cọc, sinh trưởng phát triển kém. Nhưng cũng cần có hệ thống thoát nước tốt để chống úng cho ngò gai mỗi khi có mưa to và kéo dài.

e. Thu hoạch:

Tùy mục đích sử dụng (dùng ăn sống hoặc làm thuốc). Nếu dùng ngò gai để ăn sống thì sau khi trồng khoảng 2 tháng là có thể nhổ để sử dụng. Thời gian thu hoạch kéo dài từ 4 – 6 tháng. Năng suất từ 3,5 – 4 tấn/công (1.000m2 ).

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng nhãn (P2)

Ở phần 1, chúng tôi đã giới thiệu đặc điểm sinh học của cây nhãn  cùng với một số giống nhãn có giá trị được trồng phổ biến. Trước đó, chúng tôi cũng đã giới thiệu kỹ thuật thiết kế vườn. Ở phần 2, Fman xin giới thiệu cho các bạn cách tỉa cảnh, tạo tán; bón phân và thu hoạch nhãn.

6. Tỉa cành và tạo tán

– Tạo tán: Khi cây còn nhỏ cần tỉa bỏ ngọn cây cách mặt đất khoảng 0,8-1 m và những cành dầy đặc, cành vượt, cành đan chéo nhau, trên thân cây. Tuyển chọn lại 3-4 cành phân bố đều theo các hướng, cách nhau 10-20 cm. Cành thứ nhất nên cách mặt đất 50-80 cm.

Sau khi trồng 12-18 tháng tiến hành tỉa bỏ những cành mọc thẳng đứng, cành hướng vào giữa tán cây, cành bị che khuất mọc gần gốc,…nên theo định hướng tạo dáng cây có một bộ khung cơ bản thông thoáng.

– Tỉa cành: Việc cắt, tỉa cành cho cây thông thoáng giúp các cành trong tán cây có thể nhận được đầy đủ ánh sáng làm cho quá trình quang hợp của cây được đầy đủ.
Mức độ cắt tỉa ở cây nhãn còn tùy thuộc vào giống, tuổi cây, trạng thái sức khỏe của cây, mùa vụ,…để có thể quyết định đốn đau hay cắt nhẹ.

Sau khi thu hoạch xong cần cắt bỏ đồng loạt những đọt đã mang trái hay không mang trái ở vụ trước nhằm tạo ra bộ tán đều và đồng loạt (Hình 14). Cắt bỏ những cành bị sâu bệnh, cành mọc nằm bên trong tán.

7. Bón phân

Dinh dưỡng là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành trái (ngoại trừ các yếu tố như thời tiết, nhiệt độ và lượng mưa).

Bón phân hợp lý sẽ làm cho năng suất được ổn định. Thiếu phân, đặc biệt là thiếu đạm và kali sẽ làm cho trái rụng, trái nhỏ và cơm mỏng.

Việc cung cấp phân cũng giống như tưới nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến suốt vụ, đặc biệt là sự phát triển của chùm hoa, sự ra trái và thời kỳ sinh trưởng, ra đọt ở vụ sau.

Liều lượng phân bón cho nhãn cần căn cứ vào độ lớn của cây, sản lượng quả hàng năm, giống và độ màu mỡ của đất để bón phân.

a. Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản

Đối với cây 1-3 năm tuổi: sau khi trồng cây nhãn bắt đầu ra đợt đọt non thứ 2 thì bón phân.

Năm đầu tiên cây còn nhỏ nên pha phân vào nước để tưới, phải tưới cách gốc 20-25 cm để tránh phân làm cháy rễ.

Hàng năm bón thêm phân hữu cơ hoai mục 5-10kg/cây.

Bảng 1: Khuyến cáo bón phân cho cây nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản

b. Bón phân thời kỳ khai thác

Đối với cây trên 3 năm tuổi: số lượng phân bón kể trên tăng dần từ 20-30% mỗi năm và số lần bón được chia ra như sau:

Lần 1: Sau khi thu hoạch trái 1 tuần bón: 60%N + 60%P2O5 +25% K2O.Lần 2: Trước khi cây ra hoa 5 tuần bón: 40% P2O5 + 25% K2O.Lần 3: Đường kính quả khoảng 1cm bón: 40%N + 25% K2O.Lần 4: Trước khi thu hoạch trái 1 tháng bón: 25% K2O.

– Hàng năm cần bón thêm phân hữu cơ hoai mục khoảng 10-20kg/gốc/ năm hoặc bón phân tro trấu, xác thân đậu, vỏ đậu.

*Chú ý:

– Tùy tình hình sinh trưởng, năng suất nhãn của vụ trước mà gia giảm lượng phân bón NPK cho vụ nhãn kế tiếp.

– Trước khi cây ra hoa, nếu bón phân không hợp lý (nhiều đạm) thì rất dễ dẩn đến cây ra đọt quá mạnh, ức chế quá trình phân hóa mầm hoa. Do đó trong giai đoạn này cần phải giảm bớt đạm, gia tăng hàm lượng lân và kali để lá sớm thuần thục và trổ hoa sớm.

c. Phương pháp bón phân

– Vùng ĐBSCL: Cuốc rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, sâu 10-20 cm cho phân vào lấp đất lại tưới nước.

– Vùng Đông Nam Bộ, miền Trung và Duyên Hải Nam Trung Bộ: Đào rãnh xung quanh tán cây rộng 20-30 cm, sâu 10-20 cm. Lượng phân bón được cho vào rãnh sau đó lấp đất lại và tưới nước.

d. Phun phân bón qua lá:

Để bổ sung dinh dưỡng kịp thời cho cây, có thể dùng hình thức phun phân bón qua lá.

– Sau khi thu hoạch, cắt tỉa cành xong, có thể phun một số loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm cao như N-P-K: 30-10-10, 40-4-4, 33-11-11,…nhằm giúp cho bộ lá mới ra đều và khỏe mạnh.

– Sau khi khoanh vỏ khoảng 4-7 ngày, để thúc đẩy lá mau thuần thục và sớm trổ, có thể dùng một trong các loại phân bón qua lá như Bloom Plus (Schultz) N-P-K:10-60-10 (20gr/10 lít nước) hoặc MKP 0-52-34 (50gr/10 lít nước). Không nên xịt các loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm cao vào lúc này vì có thể dẩn đến sự xuất hiện lá non mới, cây tiếp tục ra lá, không ra hoa hoặc hoa ra không đều, dễ hình thành bông lá (trên chùm hoa có mang lá) và những lá non mới này sẽ cạnh tranh dinh dưỡng với hoa, trái non.

– Trong giai đoạn từ khi trái non cho đến trước lúc thu hoạch, để bổ sung thêm dinh dưỡng, có thể sử dụng các loại phân bón qua lá có hàm lượng đạm và kali cao như N-P-K:13-10-21, 10-0-35, 25-10-17,5 .

8. Xử lý ra hoa

a. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Tiêu da bò:

a.1. Một số kinh nghiệm và kỹ thuật cần thiết khi xử lý ra hoa:

– Cây nhãn Tiêu da bò 2 năm có thể cho được 3 vụ quả. Tuy nhiên, tỷ lệ ra hoa tự nhiên là rất thấp, cho nên phải tiến hành biện pháp xử lý ra hoa. Kỹ thuật khoanh vỏ trên cây (còn được gọi là khấc cành) để xử lý cho cây ra hoa là kỹ thuật chính yếu(Hình 15).

– Sau khi thu hoạch quả vụ trước tiến hành bón phân, loại bỏ những cành cằn cỏi, vô hiệu.

– Khi lá nhãn của đợt thứ 2 có màu xanh đọt chuối (thường gọi lá lá lụa, Hình 16), dùng dao hay sứa khoanh vỏ vòng tròn quanh thân cành. Chỉ khoanh vỏ trên những cành chính và nên để lại 1-2 cành thường được gọi là nhánh thở để có nhựa luyện nuôi cây.

– Vết khoanh rộng khoảng 1.5-2 mm (đối với cành nhỏ), 3-5 mm (đối với cành lớn), dùng dây nilon quấn chặt nhiều vòng vào chỗ đã khoanh. Từ lúc khoanh vỏ đến khi cây nhãn ra hoa khoảng 20-35 ngày (tùy vào tuổi cây), thời gian này không được tưới nước cho cây. Khi thấy chùm hoa nhãn đã nhú ra được khoảng 5 cm thì tháo bỏ dây và bắt đầu tưới nước trở lại.

a.2. Các giai đoạn phát triển trong một vụ nhãn trên giống nhãn Tiêu da bò có thể tóm tắt như sau

– Tỉa cành à Khoanh cành : 60-90 ngày (2-3 cơi đọt)

– Khoanh cành à Chuẩn bị ra hoa : 30-35 ngày.

– Ra hoa à Đậu quả : 25-30 ngày.

– Đậu quả à Thu hoạch : 90-105 ngày.

Tổng cộng: Thời gian từ lúc khoanh vỏ đến thu hoạch trái nhãn: 5 – 5,5 tháng.

a.3. Một số nguyên nhân hạn chế sự thành công khi xử lý ra hoa trên cây nhãn Tiêu da bò:

– Giai đoạn khoanh vỏ: không ít nhà vườn tiến hành khoanh vỏ cho cây không đúng thời điểm mà lại xử lý quá sớm (lá non còn màu đỏ trên đọt) hoặc quá trể (lá đã chuyển sang màu xanh đậm) nên tỷ lệ thành công thấp. Tiến hành xử lý ra hoa cho cây quá sớm ngay cơi đọt thứ nhất, lúc này cây chưa hồi phục kịp sau giai đoạn mang trái ở vụ trước, cây có bộ lá không khoẻ, lá nhỏ dẩn đến sự hình thành bông yếu, trái nhỏ. Nhưng nếu đợi đến cơi đọt thứ 3, 4 mới khoanh vỏ thì càng khó xử lý cho cây ra hoa đồng loạt vì càng về sau thì cây ra đọt càng không tập trung, đọt không đều.

– Chiều rộng của vết khoanh: đã có nhiều trường hợp chết cành hoặc chết cả cây xảy ra là do khi khoanh vỏ cho cây ra hoa không ít nhà vườn đã tạo ra một vết khoanh quá lớn. Hoặc như trường hợp khi cây chưa kịp ra hoa thì hai dấu vết khoanh đã liền nhau do chiều rộng của vết khoanh quá nhỏ.

– Vị trí khoanh vỏ: khoanh vỏ ở gốc thân chính hay trên cành cấp 1 nhưng lại không chừa “nhánh thở” cho cây hoặc để lại những cành quá nhỏ, những cành phía dưới, cành nằm bên trong tán cây dẫn đến trường hợp cây chết trước khi ra hoa.

– Bón phân không hợp lý: bón hoặc phun các loại phân bón qua lá quá nhiều đạm trong giai đoạn xử lý ra hoa cho cây dẫn đến cây dễ ra lá hoặc hình thành bông lá.

– Tưới nước: trong giai đoạn xử lý cho cây ra hoa mà lại tưới nước quá nhiều hoặc do điều kiện thời tiết như mưa nhiều, mưa liên tục thì cây lại tiếp tục ra lá.

– Cắt tỉa cành: cắt tỉa cành nhiều quá sẽ làm cho cây đâm nhiều chồi, hình thành nhiều chùm hoa, năng suất cao trong vụ này nhưng lại giảm ra hoa trong vụ tới.

– Phòng trừ sâu bệnh: không phòng trừ sâu bệnh kịp thời điển hình như sâu đục gân lá nên lá non trên đọt bị biến dạng, gân lá bị cháy đen, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, hình thành đọt mới.

b. Xử lý ra hoa trên giống nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng

Nhãn Xuồng cơm vàng và Xuồng cơm trắng mỗi năm cho một vụ quả. Khi thu hoạch xong cần tỉa cành đồng loạt. Bón phân đầy đủ theo khuyến cáo. Nên phun thuốc ngừa sâu phá hại lá đồng thời kết hợp phun một số loại phân bón lá có hàm lượng đạm cao như N-P-K (30-10-10) với liều lượng 10g/8-10 lít nước để nuôi bộ lá cho tốt. Bắt đầu ngưng tưới nước khi lá của đợt đọt thứ 2 trở nên già và bắt đầu cho đợt đọt thứ 3. Đến khi cây vừa nhú hoa có thể tưới nước trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới thấy có triệu chứng cây thiếu nước có thể tiến hành tưới nhẹ cho cây.

c. Xử lý ra hoa trên cây nhãn Long, nhãn Super:

Cây nhãn long hay nhãn super một năm có thể thu hoạch 2 vụ trái: vụ thuận, vụ nghịch.

– Vụ thuận: Khoảng giữa đến cuối tháng 12 hoặc đầu tháng 1 tiến hành bón phân, tỉa cành, sửa tán cây. Thông thường tỉa đọt (đã thu quả) chỉ để lại 3 đôi lá kép ở cành mang quả. Có thể phun thêm các loại phân bón lá có công thức đạm cao như N-P-K (30-10-10). Khi lá đọt thứ 2 từ màu đỏ chuyển sang xanh nhạt là thời điểm phát hoa xuất hiện nên tiến hành tưới nước trở lại .

– Vụ nghịch: Sau khi thu hoạch nhãn vụ thuận khoảng tháng 6-7 dương lịch thì nhanh chóng tỉa cành và tiến hành bón phân điều khiển cho cây ra một đợt đọt non trong thời gian nhất định. Để giúp cho cây ra hoa đồng loạt có thể phun bổ sung thêm các loại phân bón lá có tỉ lệ NPK như sau: 0-52-34; 10-60-10; 6-30-30. Sau khi chùm hoa xuất hiện cũng tiến hành chăm sóc như trên.

9. Tăng đậu quả, hạn chế rụng quả non

a. Tăng đậu quả: Dùng Progibb (GA3) liều lượng 0,1g/10 lít nước hoặc H3BO3 1,0g/10 lít nước, phun vào các thời điểm trước khi cây nở hoa, 30% hoa nở và cây vừa đậu quả sẽ làm tăng tỷ lệ đậu quả.

b. Khắc phục hiện tượng rụng trái non: vườn phải trồng cây chắn gió, tưới nước, bón phân đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm chống rụng quả non như: CRT, Thiên Nông,… từ khi trái có đường kính 0,3 – 0,5 cm.

10. Tỉa trái trên chùm:

Việc tỉa trái giúp gia tăng kích thước, trái to, giảm hiện tượng ra trái cách năm, chùm trái sẽ có trái đồng đều về độ lớn. Tiến hành tỉa trái sau khi kết thúc thời kỳ rụng trái sinh lý, lúc này trái non đang ở vào giai đoạn khoảng 4-6 tuần sau khi đậu trái, kích thước trái khoảng bằng hạt đậu nành. Tỉa những trái bị sâu bệnh, trái dị hình, trái ở đầu ngọn của chùm.

11. Bao quả

Biện pháp đơn giản là dùng lưới, túi chuyên dùng để bao quả hoặc túi nhựa PE có đục những lỗ nhỏ sao cho nước không đọng ở đáy túi trong quá trình bao quả. Thời điểm bao tốt nhất là trái có đường kính 1cm. Chú ý phòng trừ sâu bệnh trước khi bao quả.

 Làm cỏ xung quanh gốc nhãn             Trồng xen đu đủ trong vườn nhãn

(1)                                                               (2)

(1)Tưới nước cho nhãn bằng hệ thống tưới phun dưới tán cây

 (2)Cắt đọt cành sau khi thu hoạch

 Khoanh vỏ trên thân cành trên cây                           Giai đoạn lá lụa trên cây

IV. THU HOẠCH VÀ CÁCH BẢO QUẢN

Ở ĐBSCL, nhãn Xuồng cơm vàng và nhóm nhãn Long nên thu hoạch khoảng tuần thứ 11, nhãn Tiêu da bò nên thu hoạch khoảng tuần thứ 14 sau khi đậu trái. Nếu thu hoạch sớm hơn tỷ lệ thịt/quả còn ít và vị ngọt kém, còn nếu thu hoạch trễ hơn tuy làm cho quả có ngọt hơn nhưng vỏ trái có nhiều chấm đen làm mất giá trị thương phẩm.

Khi thu hoạch dùng kéo cắt cả chùm quả để cho cành khỏi bị gãy, bị xước và nếu cành bị bẻ đi quá sâu sẽ ảnh hưởng đến ra hoa vụ sau. Nhãn non thu hoạch được cắt tỉa và buộc lại thành từng chùm cho đẹp mắt hoặc đóng gói theo yêu cầu của thị trường.

Vận chuyển và bảo quản ở điều kiện nhiệt độ 5-8oC, ẩm độ môi trường không khí 90-95% sẽ giữ được màu sắc và độ tươi của quả nhãn. Dùng bao nilon PE (Poly ethylene) có 15-25 lỗ nhỏ/dm2 để bảo quản nhãn sẽ hạn chế được cường độ hô hấp của quả tươi và bảo quản quả nhãn kéo dài hơn 2 ngày so với cách bảo quản thông thường.

Nguồn: Kỹ thuật trồng nhãn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng nhãn (P1)

Nhãn có tên khoa học là Euphoria longana hay Dimocarpus longan, thuộc họ Sapindaceae. Trong 100g thịt quả chứa: 109,0 calo; 1,0g protein; 0,5g chất béo; 12,38-22,55% đường tổng số; +28,0 I.U. Vit A; 43,12-163,70mg Vit C; 196,5mg Vit K,…Như vậy, quả nhãn ngoài các chất khoáng thì độ đường, vitamin C và K khá cao là các chất dinh dưỡng rất cần cho sức khỏe của con người, thích hợp với ăn tươi. Nhãn tươi và nhãn chế biến là mặt hàng giá trị có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Nhãn ở miền Nam được xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia, Lào, …

I. YÊU CẦU SINH THÁI

1. Nhiệt độ

Nhãn thường được trồng chủ yếu trong vĩ độ từ 15-28o Bắc và Nam của xích đạo. Nhiệt độ bình quân hàng năm 21-27oC thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển.

2. Lượng mưa

Nhãn cần lượng mưa thích hợp hàng năm khoảng 1300-1600mm. Lúc cây ra hoa gặp thời tiết nắng ấm, tạnh ráo có lợi cho việc thụ phấn, đậu quả tốt và năng suất sẽ cao.

3. Ánh sáng

Nhãn cần nhiều ánh sáng, thoáng. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây nhãn thích hợp với ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ. ánh sáng chiếu được vào bên trong tán giúp cây phát triển và thường sai trái, ánh sáng còn giúp đậu trái, vỏ bóng và vị ngọt, ngon.

4. Nước

Nhãn là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng và rất dễ nhạy cảm với việc ngập nước kéo dài. Ngược lại, nếu gặp khô hạn trong thời gian dài sẽ làm cho cây sinh trưởng chậm, ra hoa và đậu trái khó khăn.

5. Đất đai

Đất cát pha thịt, đất đỏ, đất phù sa có thành phần cơ giới nhẹ thích hợp cho việc trồng nhãn hơn trên các loại đất khác. Cây nhãn sinh trưởng tốt trong điều kiện đất thoát nước, tơi xốp, pH nước khoảng 5,5-6,5.

II. CÁCH NHÂN GIỐNG, TIÊU CHUẨN CÂY GIỐNG TỐT VÀ NHỮNG GIỐNG PHỔ BIẾN HIỆN NAY

1. Cách nhân giống:

a. Chiết cành:

Đây là phương pháp nhân giống phổ biến nhất trên nhãn, thời điểm chiết tốt nhất là vào đầu mùa mưa.

Chọn cành chiết trên cây mẹ có năng suất cao, phẩm chất tốt, sinh trưởng tốt, không nhiễm sâu bệnh hại quan trọng. Chọn cành chiết có đường kính 0.8-1.5cm, chiều dài từ 0.5-0.8m, tùy giống. Dùng dao bén khoanh vỏ cành 1 đoạn dài từ 0.5-1 cm cách ngọn cành 0.5-0.8m tùy giống, cạo sạch vỏ (có thể dùng chất kích thích ra rễ thoa phía trên vết khoanh), dùng bao nylon bó chỗ khoanh lại, khoảng 1-2 tuần thì tiến hành bó bầu. Vật liệu bó bầu có thể là rễ lục bình, bột xơ dừa. Khoảng 1,5-2 tháng sau khi bó bầu sẽ ra rễ, khi rễ thứ cấp ra đều và chuyển sang màu vàng lợt thì cắt xuống giâm đến khi cây ra được 1 đợt đọt và bắt đầu già thì có thể đem trồng.

b. Ghép mắt

Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp cần thay đổi giống nhanh từ giống nhãn có phẩm chất kém sang giống có năng suất cao và phẩm chất ngon. Từ các gốc nhãn có sẵn, sẽ ghép giống cần ghép vào. Trường hợp này thường áp dụng kiểu ghép chữ U hoặc chữ H. Dùng dây PE quấn kín mối ghép, sau 2-3 tuần tháo dây ra, khoảng 5 ngày sau tiến hành cắt ngọn gốc ghép. Hiện nay phương pháp ghép cành trên nhãn cũng được áp dụng rộng rãi để nhân nhanh các giống nhãn có phẩm chất tốt, năng suất cao phổ biến ra sản xuất.

2. Tiêu chuẩn cây giống tốt:

Thân cây thẳng, vững chắc. Chiều cao cây giống từ 80 cm trở lên (đối với cây ghép), từ 60 cm trở lên (đối với cây chiết). Đường kính cành giống từ 1,0-1,2 cm (đo cách vết ghép khoảng 2 cm về phía trên đối với cây ghép), từ 0,8 cm trở lên (đo cách mặt giá thể bầu ươm 10 cm đối với cây chiết). Có 2 hoặc hơn 2 cành (đối với cây ghép) và chưa phân cành hoặc có hơn 2 cành (đối với cây chiết). Có 1-2 đợt lộc mới sinh ra sau ghép hoặc chiết. Số lá trên thân chính hiện diện đầy đủ từ vị trí chiều cao cây đến ngọn. Lá đã trưởng thành, xanh tốt và có hình dạng, kích thước đặc trưng của giống.

3. Những giống phổ biến hiện nay:

Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) có thể trồng một số giống nhãn đạt năng suất cao, phẩm chất ngon như nhãn Xuồng cơm vàng, nhãn Super (nhóm nhãn long), nhãn Tiêu da bò (tiêu Huế)

a. Giống nhãn Xuồng cơm vàng

Giống này có nguồn gốc và được trồng đầu tiên tại Bà Rịa- Vũng Tàu. Đây là giống có nhiều triển vọng. Khả năng sinh trưởng khá. Năng suất ổn định, cây 15-20 năm tuổi có năng suất trung bình 100-140kg/cây/năm. Quả trên chùm to đều, trọng lượng quả trung bình 16-25g. Thịt quả có màu trắng hanh vàng, dầy thịt 5,5-6,2 mm, tỷ lệ % thịt (phần ăn được)/quả 60-70%, độ Brix 21-24%. Cấu trúc thịt: ráo, dai, dòn. Mùi vị ngọt, khá thơm, dùng để ăn tươi là chính. Vỏ trái khi chín có màu vàng da bò. Giống nhãn Xuồng cơm vàng rất thích hợp trên vùng đất cát giồng, nếu trồng trên đất khác nên trồng bằng cây tháp dùng gốc nhãn có sẵn tại địa phương.

b. Giống nhãn Super

Cây ra hoa tự nhiên, mùa thu hoạch chính (vụ 1) vào tháng 6-7 DL, vụ phụ (vụ 2) vào tháng 12-1 DL. Năng suất ổn định, cây 4 năm tuổi có năng suất trung bình 30 kg/cây/năm. Trọng lượng quả trung bình 10-14g. Thịt quả có màu trắng, hanh vàng, dầy thịt 5-8 mm, tỷ lệ % thịt/quả 65-70%, độ Brix 21-25%. Cấu trúc thịt: ráo, dòn. Mùi vị ngọt, ít thơm. Vỏ trái khi chín có màu vàng sậm đến vàng sáng.

c. Giống nhãn Tiêu da bò

Giống này còn được gọi là Tiêu Huế. Đây là giống được trồng phổ biến do có khả năng sinh trưởng rất cao. Năng suất ổn định, cây 8-10 năm tuổi có năng suất trung bình 120-180kg/cây/năm. Trọng lượng quả trung bình 8-12g. Thịt quả màu trắng đục, dầy thịt 5-6 mm, tỷ lệ % thịt/quả 60-65%, độ Brix 20-23%. Cấu trúc thịt: khá ráo, dai. Mùi vị ngọt trung bình, ít thơm.

Thay giống mới trên cây nhãn bằng phương pháp ghép bo

III. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC

A. THIẾT KẾ VƯỜN

1. Đào mương lên líp

Vùng đất thấp như ở ĐBSCL cần phải đào mương lên líp nhằm xả phèn, mặn và nâng cao tầng canh tác. Líp có chiều rộng trung bình 7-8 m, mương rộng 2-3 m, sâu 1-1,5 m (. Vùng đất cao phải chọn nơi có nguồn nước suối hoặc nước ngầm để tưới cho cây nhãn vào mùa nắng.

2. Trồng cây chắn gió:

Khi qui hoạch vườn nhãn nên trồng cây chắn gió để hạn chế việc rụng hoa, trái trong mùa mưa bão. Hàng cây chắn gió được trồng dọc theo phía ngoài, thẳng góc với hướng gió

3. Khoảng cách trồng:

Trồng cây trong vườn có thể theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật, hình nanh sấu hoặc theo đường vành nón cho vườn đồi ở vùng đồi núi.

Khoảng cách trồng cây thường thay đổi từ 4-8m tùy vào giống, đất đai và mô hình trồng. Giống nhãn Tiêu da bò là giống sinh trưởng rất mạnh nên có thể trồng thưa hơn so với các giống nhãn khác (Hình 8,9). Đối với vùng đất ở ĐBSCL có thể trồng với khoảng cách 5 x 4 m hoặc 6 x 5 m. Sau 7-10 năm, khi cây giao tán thì tỉa bớt cây ở giữa (bỏ 1 cây, chừa 1 cây) để tránh cạnh tranh ánh sáng. Tương tự, những vùng đất ở miền Đông Nam Bộ, miền Trung và Duyên hải Nam Trung Bộ có thể trồng nhãn với khoảng cách trên.

Khoảng cách cây là 7 m (cây được tỉa cành hàng năm nên chưa giao tán lúc 7 năm tuổi)

Tủ gốc giữ ẩm cho nhãn vào mùa nắng

Nguồn: Kỹ thuật trồng nhãn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

 

Một số bệnh phổ biến trên cây nhãn

Cây nhãn là một loại cây ăn trái được ưa thích vì ăn ngon và dễ trồng. Nhãn được trồng nhiều ở miền Nam. Tuy nhiên, khi trồng nhãn, thường gặp một số loại sâu bệnh sau:

A. sâu hại

1. Sâu đục gân lá (Acrocercops hierocosma Meyr)

Hình thái và cách gây hại: Thành trùng màu xám nâu, kích thước sải cánh khoảng 4 mm, cánh trước dài và hẹp, trên cánh có những vân màu trắng bạc, cánh sau hình dùi có nhiều lông tơ mịn dài.

Ấu trùng dài khoảng 5mm có màu xanh nhạt. Sâu chui ra khỏi gân lá để hoá nhộng, nhộng dài khoảng 5 mm được che phủ bên ngoài bằng một màng mỏng đính trên mặt lá nhãn.

Sâu gây hại trên nhãn, vải. Hiện nay loài này ngày càng gây hại quan trọng trên nhãn ở các tỉnh ĐBSCL. Bướm cái thường đẻ trứng trên các cành, lá nhãn non. Sâu nở ra ăn phá bằng cách đục vào gân chính của lá, làm đứt nghẻn mạch nhựa của lá, lá không phát triển được hoặc bị méo mó. Triệu chứng lá bị cháy khô đầu trông rất giống lá bị bệnh. Khi các đợt lộc bị gây hại nặng ảnh hưởng đến sự phát triển bộ lá, làm giảm khả năng ra hoa hoặc trái bị rụng.(Hình 17 và 18).

Phòng trị: Tỉa cành để các đợt ra lộc tập trung dễ kiểm soát.

Phun thuốc trong giai đoạn cây ra đọt non bằng các loại thuốc như: Fenbis, Sagomycin, Cymbus, Applaud hoặc các loại thuốc gốc cúc tổng hợp khác.

 Triệu chứng sâu đục gân lá nhãn                     Sâu và nhộng sâu đục gân lá nhãn

2. Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis (Guenée))

Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại bướm có chiều dài sãi cánh 20 – 23mm, toàn thân màu vàng, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu đen. Trứng có hình elip dài khoảng 2- 2,5mm, trứng lúc mới đẻ có màu trắng sữa, khi sắp nở có màu vàng nhạt.(Hình 19).

Ấu trùng mới nở có màu trắng sữa, đầu màu nâu, về sau chuyển thành màu trắng hơi ửng hồng, trên lưng mỗi đốt cơ thể có 4 chấm màu nâu nhạt, trên các đốm có mang 1 sợi lông cứng nhỏ. ấu trùng trải qua 5 tuổi, ấu trùng phát triển đầy đủ dài 17 – 20 mm.

Nhộng dài khoảng 12 – 13 mm nằm trong một cái kén bằng tơ, ban đầu có màu nâu nhạt khi sắp vũ hóa có màu nâu đậm và có thể thấy rõ các chấm đen trên cánh.

Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp ở nơi tối hoặc mặt dưới lá cây ký chủ. Cả thành trùng đực và cái đều ăn mật hoa. Trưởng thành cái đẻ trứng trên trái, đặc biệt là nơi tiếp giáp giữa các trái. Sâu có thể gây hại từ khi trái còn nhỏ đến sắp thu hoạch, nặng nhất là khi trái bắt đầu có cơm. Trái non bị sâu đục thường biến dạng, khô và rụng, trái lớn nếu bị hại sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất. Sâu thường hóa nhộng ở nơi tiếp giáp giữa các trái hoặc trên bề mặt trái. Trong tự nhiên nhộng thường bị ký sinh bởi 2 loài ong Brachymeria lasus (Walker) và Brachymeria nosatoi Habu.

Phòng trị:

Vệ sinh vườn bằng cách thu gom những trái bị nhiễm đem tiêu hủy.

Cắt tỉa cành sau khi thu hoạch cho vườn thông thoáng.

Dùng bẫy đèn với ánh sáng đen (Black light) để bẩy trưởng thành.

Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại.

Phun thuốc nếu có 1% số trái trong vườn bị tấn công, có thể dùng các loại thuốc như Vovinam, Fenbis, Karate, Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush. Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng.

Thành trùng sâu đục trái Conogethes punctiferalis

3. Bọ xít (Tessaratoma papillosa (Drury))

Hình thái và cách gây hại:

Thành trùng có màu nâu nhạt, cơ thể to, chiều dài thân khoảng 25-30 mm có dạng hình 5 cạnh, cánh trước có dạng cánh nửa cứng. Trứng dạng hình cầu, kích thước khoảng 2mm, màu nâu nhạt, được đẻ thành từng ổ xếp cạnh nhau trên mặt lá. ấu trùng cũng có dạng như thành trùng tuy nhiên cánh chưa phát triển hoàn chỉnh, kích thước nhỏ hơn và có màu vàng nâu, khả năng di chuyển kém linh hoạt hơn thành trùng.(Hình 20 và 21).
Bọ xít là đối tượng gây hại nguy hiểm trên nhãn vùng ĐBSCL, gây hại chủ yếu vào giai đoạn cây ra đọt non, rụng hoa, rụng trái, chết các cành của phát hoa ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và sinh trưởng của cây.

Phòng trị:

Tỉa cành để các đợt hoa và đọt non ra tập trung.

Dùng vợt bắt trưởng thành vào sáng sớm.

Trong tự nhiên có các loài thiên địch như kiến vàng, ong ký sinh có thể tấn công trứng bọ xít, do vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho thiên địch tự nhiên phát triển nhằm hạn chế bớt sự gây hại của bọ xít. Phun thuốc khi thấy mật số bọ xít cao, có thể dùng cá loại thuốc như Vovinam, Secsaigon, Confidor, Fastac, Sherpa…

Thành trùng bọ xít Tessaratoma papillosa     Bọ xít chích hút trên chùm nhãn

4. Rệp sáp (Pseudococus sp.) (Aleurodicus dispersus) (Nipaecoccus sp.)

Hình thái và cách gây hại:

Rệp sáp gồm rất nhiều loài gây hại trên nhãn. Khả năng sinh sản của rệp sáp rất cao, con cái có thể đẻ trứng hoặc đẻ trực tiếp ra con.
ấu trùng tuổi nhỏ ít có khả năng di chuyển, chúng thường kết hợp với các loại kiến để phân tán sang nơi khác. Rệp sáp có thể gây hại trên các bộ phận của cây như cành, lá, hoa trái. Cả ấu trùng và trưởng thành đều chích hút nhựa cây, trong quá trình gây hại chúng thải ra mật thu hút nấm bồ hóng đến phát triển, sự phát triển của nấm bồ hóng trên tán lá làm giảm khả năng quang hợp của cây, trên trái làm giảm giá trị thương phẩm. Ngoài ra vết thương do rệp gây ra giúp các loại nấm bệnh khác dễ dàng xâm nhập vào cây.(Hình 22 và 23).

Phòng trị:

Phun nước vào tán cây để rửa trôi rệp.

Nên tỉa bỏ những trái bị nhiễm ở giai đoạn đầu để tránh sự nhân mật số rệp sáp.

Tìm diệt các loại kiến có hại để hạn chế sự lây lan.

Hạn chế trồng xen với những cây dễ nhiễm rệp sáp như đu đủ, mãng cầu,…

Phun thuốc khi thấy mật số cao bằng các loại thuốc như: Pyrinex, Fenbis, Supracide, Pyrinex, Admire, D-C tron plus…Khi phun có thể kết hợp các loại chất bám dính để tăng hiệu quả của thuốc.

Rệp sáp gây hại trên cành nhãn                       Rệp sáp gây hại trên trái nhãn

5. Sâu Đục Trái (Acrocercops cramerella Snellen)

Hình thái và cách gây hại:

Thành trùng là một loại ngài nhỏ có chiều dài sãi cánh 12 mm, toàn thân màu nâu nhạt, râu và chân rất dài, cánh trước có hình lá liễu thon dài có những vân trắng, cánh sau hình dùi rìa, cánh mang nhiều lông tơ. Thời gian sống của trưởng thành khoảng 7 ngày.
Thành trùng cái đẻ từng trứng trên cuống trái, trứng có hình bầu dục dẹp kích thước 0,5 mm, thời gian trứng 6 – 7 ngày. ấu trùng có 4 – 6 tuổi, khi mới nở ấu trùng có màu trắng sữa, đầu màu vàng và không chân, khi phát triển đầy đủ ấu trùng chuyển sang màu vàng nhạt kích thước 12 mm, giai đoạn ấu trùng kéo dài 14 – 18 ngày. Sâu thường hóa nhộng ở kẻ trái, nơi tiếp giáp giữa các trái hoặc trên lá khô, thời gian nhộng khoảng 6 – 8 ngày.

Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp dưới lá hoặc cành cây. Trưởng thành đẻ trứng trên cuống trái, ấu trùng sau khi nở đục vào phần cuống trái làm cho trái bị rụng, đôi khi vào giai đoạn trái còn rất nhỏ.(Hình 24).

Sâu đục trái Acrocercops cramerella không gây thiệt hại nhiều đến năng suất trái so với sâu đục trái Conogethes punctiferalis, tuy nhiên theo một số ghi nhận gần đây cho biết, loài sâu hại này đang có chiều hướng gia tăng trên nhãn. Thiệt hại do loài này gây ra thông thường khoảng 10 – 15%. Điều đáng chú ý là loài này rất khó phát hiện nếu chỉ quan sát triệu chứng bên ngoài, khi điều tra trên vườn phải lột vỏ trái ra mới phát hiện được.

Phòng trị

Có thể sử dụng bao trái để giảm thiệt hại.

Trong tự nhiên trứng sâu đục trái Acrocercops cramerella bị ký sinh bởi ong ký sinh họ Trichogrammatidae và kiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loài này phát triển cũng giảm được thiệt hại do sâu gây ra.

Có thể phun thuốc để phòng trị bằng các loại thuốc như: Fenbis, Sago-Super, Karate, Polytrin, Baythroid, Fenbis, Cymbush… Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng.

 Thành trùng sâu đục trái Acrocercops cramerella

B. Bệnh hại

1. Bệnh thối trái (do nấm Phytophthora sp.)

Triệu chứng bệnh thối trái nhãn

Triệu chứng: Bệnh này thường xuất hiện và gây hại nặng trên trái nhãn lúc nhãn sắp già, chín và đặc biệt là trong mùa mưa, nơi có ẩm độ cao thì bệnh phát triển và lây lan rất nhanh chóng. Do nấm Phytophthora thường lưu tồn trong đất nên các chùm trái gần mặt đất thường dễ bị nhiễm bệnh hơn trong mùa mưa từ đây sẽ là nguồn lây lan cho các chùm trái phía trên và lây lan sang cây khác trong cả vườn.

Trái bị bệnh thường bị thối nâu, lan dần từ vùng cuống trái trở xuống, làm trái nứt ra, thịt trái bị thối nhũn, chảy nước có mùi hôi chua và có thể thấy tơ nấm trắng phát triển trên vết bệnh.(Hình 25).

Phòng trị: Để phòng trị bệnh này nên tỉa bỏ các cành gần mặt đất vì khi trái gần chín sẽ dễ nhiễm bệnh từ đất trong mùa mưa.

Cần lưu ý cắt bỏ và thu gom các trái bị bệnh rơi rụng trong vườn đem tiêu hủy. Phun các loại thuốc như Alpine, Mexyl, Ridomil Gold, Aliette, hoặc các loại thuốc có gốc đồng theo liều lượng khuyến cáo.

2. Bệnh phấn trắng (do nấm Oidium sp.)

Triệu chứng bệnh phấn trắng

Triệu chứng: Hoa bị xoắn vặn, khô cháy. trái non bị nhiễm bệnh sẽ nhỏ, có màu nâu. Vỏ trái bị đóng phấn trắng nhất là ở vùng gần cuống. Trái lớn hơn nếu nhiễm bệnh thường bị thối nâu từ cuống trái sau đó chuyển sang màu nâu đen và lan dần đến nguyên trái.(Hình 26).

Phòng trị: Vườn thoáng, ánh sáng xuyên qua được tán lá sẽ hạn chế sự phát triển của bệnh.

Phòng trị bệnh bằng cách phun các loại thuốc hóa học như ư Thio –M 500SC, Bendazol 50WP, Topsin M, Nustar, … nồng độ theo khuyến cáo. Để phòng ngừa bệnh và phòng trị có hiệu quả có thể phun thuốc vào giai đoạn trước khi trổ hoa và ngay khi hoa vừa đậu trái non.

3. Bệnh đốm bồ hóng (do nấm Meliola sp.)

Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 1-3mm, đen ( màu càng sậm khi đốm bệnh càng to ). Bề mặt đốm bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Mặt dưới lá có thể có nhiều đốm

nhưng các đốm này thường rời nhau. Cạo lớp bồ hóng đi bên dưới thấy mô lá bị thâm đen. Nấm bò hóng thường phát triển nhiều trên các vườn trồng quá dầy, tàn lá che rợp nhau và ẩm độ khộng khí cao.

Triệu chứng bệnh đốm bồ hóng

Phòng trị: Không nên trồng dầy, tỉa bớt cành vô hiệu khi tạo tán sau thu hoạch giúp cây thoáng..

Có thể sử dụng các loại thuốc gốc đồng để phòng trị bệnh như: Carbenzim 500FL, Thio-M 500SC, COC-85, Copper zinc, …phun theo liều lượng khuyến cáo.

4. Bệnh khô cháy hoa (do nấm Phyllostica sp. hoặc Pestalotia sp.)

Triệu chứng bệnh khô hoa

Triệu chứng: Bệnh khô cháy hoa thường xuất hiện vào lúc hoa nhãn đang nở rộ, trên cánh hoa có những vết chấm nhỏ bằng đầu kim, có màu nâu đen làm hoa bị vàng, sau đó khô và rụng đi. Nấm thường tấn công vào lúc có nhiều sương mù hay mưa nhiều, ẩm độ không khí cao.(Hình 28).

Phòng trị: Nên trồng thưa giúp cây thoáng, cho ánh sáng xuyên qua tán cây làm giảm độ ẩm sẽ hạn chế được bệnh. Phòng trị bằng các loại thuốc như: Bendazol 50WP, Score, Carbenzim 500FL hoặc thuốc gốc đồng theo khuyến cáo vào giai đoạn trước khi hoa nở để phòng bệnh.

Nguồn: Kỹ thuật trồng nhãn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng và chăm sóc cây ổi: Tưới và tiêu nước cho ổi

Nước hòa tan các chất khoáng (dinh dưỡng cây trồng) cung cấp cho cây trồng qua rễ cây. Cây hấp thụ nước qua rễ cùng với các chất dinh dưỡng đi lên lá cây. Sự chuyển đổi hóa học các chất hữu cơ trong tế bào dưới sự giúp đỡ của nước. Nước tham gia trực tiếp vào nuôi dưỡng cây và đi vào mọi phần của cây, đồng thời giữ các tế bào trong trạng thái kéo căng nở. Khi không đủ nước trong đất cây sẽ héo và kém phát triển, thiếu nước kéo dài chúng sẽ khô héo hoàn toàn.

1. Xác định nhu cầu nước của cây ổi

Cây ăn quả nói chung và cây ổi nói riêng hấp thụ nước trong đất theo bộ rễ, nước trong đất nằm trong các khe rỗng. Rễ cây hô hấp (hấp thụ không khí) cũng qua khe rỗng. Như vậy để cây ổi phát triển bình thường, thì trong khe rỗng của đất phải có cả nước và không khí.

Cây ổi cần một lượng mưa từ 1.500 – 4.000 mm phân bố tương đối đều thì không phải tưới. Nếu lượng mưa không đáp ứng được đầy đủ đặc biệt trong mùa khô cần có sự hỗ trợ thêm của các biện pháp canh tác như tưới nước vào mùa khô, che tủ đất…

– Khi cây còn nhỏ, chưa ra hoa kết quả:

+ Cần tưới đủ ẩm cho cây.

+ Thiếu nước, cây có thể chết héo.

+ Thừa nước rễ không phát triển được, có thể bị thối và chết.

Vào giai đoạn này nhu cầu về ẩm độ của cây ổi là 65 – 80% độ ẩm tối đa.

Ở giai đoạn mới trồng nếu tưới kịp thời và đầy đủ, cây con sẽ nhanh bén rễ, phát triển xanh tốt .

– Khi cây ra hoa, kết quả: Yêu cầu nước cao hơn, nếu thiếu nước trong thời gian này cành và lá phát triển yếu, hoa ra chậm, chóng tàn, quả nhỏ, chín sớm và chóng rụng. Trong trường hợp độ ẩm quá thừa, nước đẩy hết không khí thoát ra ngoài làm cho rễ cây thiếu khí thở, rễ cây bị phồng và thối nát, còn quả phát triển chậm, lá rụng, cây héo và chết dần.

Mặc dù nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm với lượng mưa từ 1500 – 2000 mm/năm nhưng lượng mưa này không được phân phối đều ở tất cả các tháng trong năm mà chủ yếu tập trung vào mùa mưa, những tháng còn lại mưa rất ít thậm chí có thể không mưa vào đỉnh điểm mùa khô nên vẫn không đủ cung cấp ẩm độ theo nhu cầu của cây mà ta phải cung cấp thêm cho cây bằng việc tưới nước.

Như vậy, tưới nước là công việc không thể thiếu của người làm vườn và việc xác định khi nào tưới, tưới như thế nào, tưới bao nhiêu thì đủ là rất cần thiết.

Các cách để kiểm tra độ ẩm đất

– Dùng máy đo độ ẩm hoặc dùng tay kiểm tra độ ẩm đất trong từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây ổi

Máy đo độ ẩm đất

– Hoặc quan sát tầng đất mặt và độ cương nước của cành lá, nhất là ở các bộ phận non.

Dễ quan sát nhất là thời gian giữa trưa, khi cây thoát hơi nước nhiều nhất và nếu đất thiếu ẩm thì lá dễ héo.

Nếu độ ẩm đất nhỏ hơn yêu cầu của cây thì phải tiến hành tưới nước, nếu độ ẩm vượt quá cao thì phải tiêu nước.

2. Tưới nước cho cây ổi

2.1 Phương pháp tưới nước cho cây ổi

Phương pháp tưới bằng những dụng cụ đơn giản: Dùng thùng, xô … tưới nước cho từng gốc ổi.

– Ưu điểm: Phương pháp này rất đơn giản, chỉ cần cho nước vào hệ thống mương trong vườn và dùng những dụng cụ đơn giản như xô, thùng tưới hay dụng cụ tự chế để tưới đủ ẩm cho ổi.

– Nhược điểm: Thời gian tưới lâu, khó áp dụng trên diện tích lớn

Tưới bằng bình tưới vòi sen

Phương pháp tưới phun

Đây là phương pháp tưới bằng cách phun nước từ dưới mặt nước lên tán cây qua hệ thống máy bơm, ống dẫn nước với các vòi phun cố định, tự động xoay được với góc 360o, được đặt cao khỏi mặt đất 0,5-1,0m (dưới dạng phun sương hay phun mù) thường áp dụng tưới cho cây con trong vườn ươm hoặc vòi phun hạt to di động cầm tay dùng để tưới vào những ngày nắng nóng (phun vào 16-18 giờ chiều) để tăng ẩm độ không khí, giảm độ nóng cho quả, cho cây, chống hiện tượng rụng quả do thời tiết khắc nghiệt.

Sơ đồ hệ thống thiết bị phun

Tưới phun cho vườn ổi

– Ưu điểm:

+ Khắc phục được hiện tượng thời tiết không thuận lợi (nắng nóng, độ ẩm không khí thấp) bảo đảm năng suất, chất lượng quả và bảo đảm yêu cầu kỹ thuật cao trong việc nhân giống cây con (ươm, giâm cây giống).

+ Tiết kiệm được nhiều lượng nước tưới (có thể giảm 40 – 50% lượng nước so với tưới ngập thông thường), các tổn thất do thấm sâu và chảy tràn được giảm thiểu khá nhiều. Do vậy, hiệu quả sử dụng nước tưới cao.

+ Phương pháp tưới này có thể áp dụng cho hầu hết mọi dạng địa hình cao thấp khác nhau, không cần phải làm phẳng mặt ruộng.

+ Tưới phun còn giảm thiểu chi phí xây dựng kênh mương nội đồng, do vậy có thể gia tăng diện tích canh tác.

+ Cách tưới này có thể kết hợp với việc bón phân và phòng trừ sâu bệnh bằng cách hoà tan các chất này vào nước.

+ Tưới phun mưa còn tạo cảnh quan đẹp, góp phần gia tăng độ ẩm và giảm nhiệt độ không khí khu vực. Năng suất cây trồng trong phạm vi tưới thường được nâng cao.

– Nhược điểm:

+ Chi phí lắp đặt thiết bị tưới ban đầu thường lớn.

+ Người vận hành hệ thống tưới phải có kỹ thuật điều khiển hoạt động.

+ Hệ thống phải thường xuyên được theo dõi, điều chỉnh tốc độ phun hoặc di chuyển theo hướng gió. Gió mạnh gây khó khăn trong điều chỉnh lưu lượng phun mưa.

+ Các đầu phun thường hay bị nghẽn nếu nguồn nước có nhiều chất bùn cặn.

+ Nếu tưới nhiều bằng vòi phun cầm tay di động hạt nước to mặt đất cũng bị ghí chặt, phá vỡ kết cấu mặt đất, chất dinh dưỡng bị rửa trôi theo dòng nước chảy trên mặt đất.

+ Ngoài ra, việc bố trí đường ống có thể làm hạn chế cơ giới hóa và một số hoạt động canh tác khác.

Phương pháp tưới phun mưa bằng cơ giới: Đây là phương pháp tưới rất phổ biến tại nhiều nơi của Việt Nam và tưới cho nhiều loại cây trồng.

– Ưu điểm:

+ Có thể cơ động trên những địa hình khác nhau, nhờ đó giúp người dân chủ động và sử dụng hiệu quả;

+ Tiết kiệm kinh phí đầu tư ban đầu cho việc thiết kế và xây dựng, bảo quản;

+ Giảm được nhiệt độ vùng tiểu khí hậu khu vực cây trồng nơi tưới;

+ Thao tác dễ dàng;

– Nhược điểm

+ Mỗi lần tưới phải kéo ống dây xa và tốn công tưới;

+ Không pha chung được với phân bón;

Phương pháp tưới nhỏ giọt
Đây là phương pháp tưới hiện đại, thường được áp dụng đối với những vườn cây ăn trái đặc sản có hiệu quả kinh tế cao ở những vùng thiếu nước tưới.

Bố trí tưới nhỏ giọt và các đường ống dẫn nước

– Ưu điểm:

+ Cách tưới này tiết kiệm lượng nước tối đa.

+ Đất không bị gí chặt, giữ nguyên hiện trạng kết cấu đất, đất không bị bào mòn, phân bón không bị rửa trôi.

– Nhược điểm: Phương pháp này yêu cầu đầu tư lớn nhất, khó áp dụng trong sản xuất đại trà.

Tưới nhỏ giọt cho ổi

Phương pháp tưới rãnh: Là phương pháp tưới nước để nước chảy theo các rãnh được thiết kế giữa các hàng cây. Nước được thấm dần vào đất và cung cấp cho cây trồng.

Sơ đồ tưới rãnh (Hình thức tưới rãnh cho cây trồng)

– Ưu điểm:

+ Tiết kiệm và chủ động được nước tưới cho vườn cây, lớp đất mặt vẫn tơi xốp, không bị gí chặt, kết cấu đất vẫn giữ vững, đất không bị bào mòn, chất dinh dưỡng không bị rửa trôi.

+ Giảm được tổn thất nước do bốc hơi nên cho hiệu quả tưới cao hơn.

+ Nước đi vào cây qua hệ thống rễ, không làm ướt lá nên có thể tránh được một số bệnh cho cây.

Rãnh tưới nước cho ổi

– Nhược điểm:

+ Chỉ áp dụng được với nơi có địa hình tương đối bằng phẳng (độ dốc <50).

+ Lãng phí một phần nước ở cuối rãnh tưới.

+ Gặp khó khăn trong việc vận chuyển công cụ sản xuất qua rãnh.

+ Chi phí khá lớn nhân công và thời gian cho việc cải tạo các rãnh nước.

Trong các phương pháp trên thì tưới rãnh và tưới phun bằng cơ giới được nông dân áp dụng nhiều nhất. Tuy nhiên hiện nay với những vùng trồng chuyên canh, nông dân đã bắt đầu áp dụng hình thức tưới phun mưa sử dụng đầu phun tự động và tưới nhỏ giọt kết hợp với bón phân giúp giảm chi phí nhân công đem lại hiệu quả kinh tế cao.

2.2. Tưới nước cho ổi

– Tưới sau khi trồng: Sau khi trồng cây rất cần nước, do vậy phải tưới nước ngay để cây chóng hồi phục. Tùy chân đất thấp hay cao, loại đất mà ta có thể tưới để đảm bảo độ ẩm đất cho cây con phát triển. Nên tưới nước cho ổi thường xuyên ngày 2 lần cho tới khi cây đã ra được 2 đợt tược mới thì giảm xuống 1 lần/ngày.

– Mặc dù ổi chịu hạn khá tốt nhưng việc tưới cho cây vào mùa nắng sẽ giúp cây phát triển khỏe. Tưới nước vào lúc cây cho trái giúp tăng năng suất và kích thước trái. Lượng nước tưới và thời gian tưới thay đổi tùy theo tuổi cây và mùa trong năm.Tùy vào điều kiện tự nhiên và kinh tế từng vùng để chọn phương pháp tưới thích hợp.

3. Tiêu nước cho cây ổi

3.1 Tác hại của sự ngập úng đối với cây ổi

Tình trạng ngập úng là nguyên nhân làm đất bị thiếu oxy, đồng thời bị ngộ độc CO2 cùng các độc chất khác, rễ bị “nghẹt” và sau đó bị thối. Hậu quả này làm các loài nấm bệnh trong đất (chủ yếu là Fusarium và Phytophtthora) rất dễ tấn công gây hại cho cây trồng trong và sau mùa lũ. Hiện tượng nghẹt rễ cũng làm cho cây bị “stress”, tổng hợp ethylenne bên trong gây ngộ độc, làm lá bị vàng và rụng.

Quan sát tình hình mặt đất, bộ rễ và màu sắc của cây trồng, ta có thể biết được tình trạng úng ngập trong đất và phải nhanh chóng thoát thủy. Các dấu hiệu thông thường là:

Trên mặt đất: đất trở nên nhão nhẹt, nước đọng thành vũng không rút xuống được. Màu đất trở nên xám hoặc có nhiều đốm xám do thiếu sự hiện hiện của oxy hoặc các acid hữu cơ độc hại (ví dụ H2S).

Xuất hiện các loại thực vật ưa nước: như cỏ lông chồn, cỏ lác, rêu, nấm cây, …

Côn trùng: các loại muỗi, bù mắt, sên xuất hiện.

Trên cây: lá cây bị đxoài màu vàng, xám hoặc đen. Thân cây trở nên mềm, dễ đổ ngã, rễ cây cạn, có màu đen, …

Vườn ổi bị ngập úng

3.2 Các phương pháp tiêu nước cho ổi

Có hai hệ thống tiêu chính:

– Hệ thống tiêu mặt: Áp dụng để tiêu thoát nước khi có lượng mưa quá lớn hoặc lũ/triều tràn sông gây úng ngập trên mặt vườn. Thông thường áp dụng biện pháp tiêu theo trọng lực, nước sẽ tự chảy đi theo hướng chảy từ nơi cao xuống nơi thấp (mương thoát nước). Nếu nước nguồn quá lớn phải có đê bao và dùng bơm để thoát nước.

Hệ thống tiêu mặt cho ổi

– Hệ thống tiêu ngầm: Khi mực nước ngầm dâng cao (do mưa, lũ, triều) gây úng bộ rễ cây trồng. Đối với hệ thống tiêu ngầm, phổ biến là hình thức dùng các ống cống chôn ngầm dưới lớp rễ cây và cho nước tập trung vào đường ống rồi dẫn ra ngoài bằng bơm hoặc tự chảy. Tiêu ngầm có thể có lợi thế là ít bị xói mòn hơn tiêu mặt nhưng chi phí đầu tư và bảo trì sẽ lớn hơn.

Hệ thống tiêu ngầm

Một số lưu ý khi bố trí kênh tiêu:

+ Tuyến kênh tiêu phải nằm ở vị trí địa hình thấp để có thể dễ tập trung nước bằng hình thức tự chảy theo trọng lực;

+ Tuyến kênh tiêu phải ngắn để nhanh chóng thoát nước ra khỏi khu vực cần tiêu và giảm khối lượng thi công;

+ Tránh để đường kênh tiêu đi qua các vùng đất nhiều chứng ngại vật, công trình và khu vực có nền đất không ổn định.

+ Triệt để lợi dụng các sông rạnh tự nhiên để làm kênh tiêu; nếu cần có thể nạo vét các mương rạch để làm nơi nhận nước tiêu;

+ Có thể kết hợp kênh tiêu nước với kênh – rạch giao thông.

3.3. Tiêu nước cho vườn ổi

a. Tiêu nước cho vườn ổi
Để tiêu nước cho cây ổi cần thực hiện tốt các công việc sau:

– Tạo hệ thống rãnh xung quanh vườn cây. Đối với vùng ĐBSCL thì cần đào mương lên líp, còn đối với các vùng đất cao cần đào rãnh thoát nước xung quanh khu vực trồng.

– Vét rãnh xung quanh vườn cây

– Tiêu nước cho vườn cây:

Phương châm tiêu nước là sự tổng hợp của “Rải nước – Chôn nước – Tháo nước”:

+ Rải nước: Chia nhỏ các khu tiêu nước riêng biệt nhằm phân tán lượng nước cần tiêu theo yếu tố địa hình. Nghĩa là, nước ở tiểu vùng nào thì tiêu ngay ở chỗ đó.

+ Chôn nước: Cho nước lắng rút xuống tại chỗ ở những nơi trũng hoặc trữ tạm ở các ao, đìa, kênh tiêu để trữ tạm thời.

+ Tháo nước: Dùng biện pháp tiêu thoát nhanh tại những nơi có thể rút tháo nước thuận lợi. Đôi khi tháo nước cần có những biện pháp hỗ trợ như dùng bơm để bơm nước ra ngoài khu vườn.

Sử dụng máy bơm có công suất cao bơm thoát nước cho vườn

Bơm thoát nước cho vườn

b. Để hạn chế tác hại do ngập lụt cần xử lý vườn cây trước mùa mưa lũ

– Tôn cao đất liếp, gia cố đê bao chắc chắn.

– Dùng cuốc ba răng xới mặt liếp cho xốp sau đó rải phân nhằm giúp phân bón tiếp cận cây trồng dễ dàng hơn, hạn chế gây tổn thương rễ cây.

– Tu sửa lại mương máng, cống thoát nước để thoát nước nhanh khi mưa to, đảm bảo mực nước ở mương phải thấp hơn mặt liếp 0,6 m. Chuẩn bị máy bơm để sẵn sàng chống úng.

– Khi mưa liên tục cần thiết phải đào rãnh phụ sâu 40 cm để dẫn nước mưa thoát nhanh từ liếp ra mương.

– Cắt tỉa các cành vô hiệu, chồi vượt để hạn chế tiêu hao chất dinh dưỡng, tránh lay động gốc ảnh hưởng đến rễ khi bị ngập.

– Hạn chế đi lại trong vườn làm cho đất bị dí chặt, ảnh hưởng đến bộ rễ cây và khả năng phục hồi của cây sau khi nước rút.

– Không nên bón nhiều phân đạm, vì phân đạm sẽ kích thích cây ra đọt non.

– Không nên bón phân hữu cơ cho vườn cây vì phân hữu cơ sẽ làm tiêu hao nhiều oxy và khi đất bị ngập úng thì rễ cây sẽ không đủ oxy để hô hấp.

– Để tránh hiện tượng rửa trôi thì cắt bớt cỏ chỉ giữ lại gốc. Có thể chọn loại cỏ họ hoà bản như cỏ sả hay cỏ rusi để vừa kết hợp cho đất liếp vườn được tốt vừa tận dụng cho chăn nuôi.

– Có thể bồi sình trả lại lớp đất mặt cho liếp làm hàng năm hoặc hai năm một lần nhưng nên chú ý đến tầng phèn nếu bỏ lên trên mặt liếp thì chắc chắn mặt liếp sẽ bị phèn. Bề dày của lớp sình bồi phải vừa phải (khoảng 5 phân).

– Cần bón thêm vôi để hạ phèn và làm giảm đi mầm bệnh trong đất (Bệnh xì mủ gốc xoài thường dễ xảy ra nếu trên vườn không có hệ thống thoát nước tốt).

– Mùa mưa cỏ dại phát triển mạnh, để hạn chế cỏ nên dùng thuốc Gramoxone làm cháy bộ lá, giữ lại phần gốc làm thảm thực vật cho vườn cây được êm hơn.

c. Một số giải pháp khắc phục hiện tượng nghẹt rễ sau khi ổi bị ngập úng:
– Xới mặt đất (ở vùng tán cây) bằng cuốc răng (dài 8 – 10cm) để phá váng, giúp đất được thông thoáng.

– Bón DAP (2/3) và Clorua kali (1/3) với liều lượng 0,2 – 1kg hỗn hợp/cây (tuỳ loại và tuổi cây) để kích thích cây hồi phục mọc rễ mới. Việc thực hiện cùng với xới phá váng.

– Cung cấp các dưỡng chất qua lá chứa đường, NPK, Cytokinin… để tăng cường khả năng hồi phục của cây.

– Khai rãnh ở mặt liếp, thoát nước trong mương (dựa vào triều kém hoặc bơm thoát nước) để hạ nhanh mực thuỷ cấp trong liếp, giúp rễ mau thông thoáng hơn.

Chú ý trị các loại bệnh do nấm tấn công ở vùng gốc và rễ cây bằng các loại thuốc thích hợp.

Nguồn: Giáo trình trồng và chăm sóc ổi – Bộ NN&PT NT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng và chăm sóc cây ổi: Bón phân cho cây ổi

Để cây ổi sinh trưởng và phát triển tốt chúng ta cần có biện pháp bón phân thích hợp.

1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây ổi

Cây ổi hút dinh dưỡng một phần từ đất, một phần từ phân bón. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy rằng lượng chất dinh dưỡng cây trồng cây ổi cần là K>N>P>S>Mg = Ca và các vi lượng khác Mn>Fe>Zn>Cu>B.

1.1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng đạm

Đạm là chất dinh dưỡng đa lượng rất cần thiết và rất quan trọng đối với cây, đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng đặc biệt là giai đoạn cây tăng trưởng mạnh. Theo một số nghiên cứu, để tạo ra 1 kg chất khô cây ổi cần cung cấp 9,8g Nitơ.

Thiếu N trên cây ổi, lá vẫn có hình dạng bình thường, nhưng phiến lá và gân lá chuyển sang màu vàng nhạt làm giảm khả năng quang hợp. Thiếu N cũng làm giảm kích thước quả, trọng lượng và số quả trên cây, năng suất thấp.

Triệu chứng thiếu đạm trên lá ổi (từ lá non đến lá trưởng thành)

1.2. Xác định nhu cầu dinh dưỡng Lân

Lân kích thích sự phát triển bộ rễ, làm rễ ăn sâu vào trong đất và lan rộng ra chung quanh làm cho cây hút được nhiều chất dinh dưỡng, tạo điều kiện cho cây chống chịu hạn và ít đổ ngã.

Lân kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoa kết quả sớm và nhiều. Để tạo ra một 1 kg chất khô cây ổi cần 1,2 kg P.

Thiếu lân cây sinh trưởng chậm, mặt trên của lá có màu đỏ tươi, hiện tượng này bắt đầu từ các lá phía dưới trước, và từ mép lá vào trong, nếu thiếu P nghiêm trọng lá chuyển sang màu huyết dụ.

Triệu chứng thiếu Lân trên lá ổi và Lá ổi bị thiếu lân (bên trái), lá ổi bình thường (bên phải)

1.3 Xác định nhu cầu dinh dưỡng Kali

Kali là một trong những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sinh trưởng và quan trọng trong việc nâng cao sản lượng trong sản xuất nông nghiệp.

Kali thường được nhắc đến như là một nhân tố tác động đến chất lượng của trái.

Đối với một số giống ổi bón Kali với liều lượng từ 160g đến 320g K2O/ làm cho cây cao hơn, tăng hàm lượng đường, kích thước trái và hàm lượng acid Ascorbic so với các nghiệm thức không bón Kali.

Thiếu Kali, lá ổi xuất hiện các đốm với hình dạng khác nhau, đốm xuất hện trên toàn lá, bắt đầu từ phiến lá sau đó lan dần tới gân lá.

Triệu chứng Thiếu Kali trên lá ổi

1.4 Xác định nhu cầu dinh dưỡng vi lượng

– Canxi (Ca): Canxi ảnh hưởng đến độ săn chắc của quả, giảm hàm lượng vitamin C, tăng nhanh quá trình chín, giảm thời gian bảo quản quả. Để tạo ra 1 kg chất khô, cây ổi cần 0,8g canxi.

Thiếu canxi thân cây mềm yếu, hoa rụng, nếu thiếu nặng thì đỉnh chồi có thể bị khô, các lá mới ra bị dị dạng, chóp lá uốn câu, rễ kém phát triển, ngắn, hóa nhầy và chết.

Triệu chứng thiếu Canxi trên lá ổi

– Mg (Magiê): Thiếu Mg lá ổi sẽ mất màu xanh bình thường và xuất hiện các đốm vàng, mép lá cong lên, thiếu nặng cây có thể bị chết khô. Thiếu Mg làm chậm quá trình ra hoa, cây thường bị vàng lá do thiếu diệp lục.

Triệu chứng điển hình là các gân lá còn xanh trong khi phần thịt lá đã biến vàng. Xuất hiện các mô hoại tử thường từ các lá phía dưới, lá trưởng thành lên lá non, vì Mg là nguyên tố linh động, cây có thể dùng lại từ các lá già. Để tạo ra 1kg chất khô, cây cần 0,8g Magiê. Nếu dư thừa magiê sẽ làm thiếu kali.

– Fe (sắt): Cần thiết cho sự tổng hợp và duy trì diệp lục tố trong cây, là thành phần chủ yếu của nhiều enzim, đóng vai trò chủ yếu trong sự chuyển hoá diệp lục tố.

– Theo các nghiên cứu cho thấy để tạo ra 1kg chất khô, cây ổi cần được cung cấp 15mg sắt.

– Thiếu Sắt gây ra hiện tượng màu xanh lá cây nhợt nhạt (bạc lá) với sự phân biệt rõ ràng giữa những gân lá màu xanh và khoảng giữa màu vàng. Thiếu sắt nặng có thể chuyển toàn bộ cây thành màu vàng tới trắng lợt.

Triệu chứng thiếu sắt trên lá ổi

– Vì Sắt không được vận chuyển giữa các bộ phận trong cây nên biểu hiện thiếu trước tiên xuất hiện ở các lá non gần đỉnh sinh trưởng của cây.

Triệu chứng thiếu sắt trên lá non

Sự thiếu sắt có thể xảy ra do sự thiếu cân bằng với các kim loại khác như Molipden, Đồng hay Mangan. Một số yếu tố khác cũng có thể gây thiếu sắt như quá thừa Lân trong đất; do pH cao kết hợp với giầu Canxi, đất lạnh và hàm lượng Carbonat cao; thiếu sắt do di truyền của cây; thiếu do hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp.

– B (Bo): Bo ảnh hưởng tới đỉnh sinh trưởng và quá trình phân hóa hoa, thụ phấn, thụ tinh, hình thành quả.

Để tạo ra 1kg sản phẩm khô cây ổi cần được cung cấp 6mg Bo.

Khi thiếu B thì chồi ngọn bị chết, các chồi bên cũng thui dần, hoa không hình thành, tỷ lệ đậu quả kém, quả dễ rụng, rễ sinh trưởng kém, lá bị dày lên, khi thiếu nặng sẽ làm hoại tử phần lõi quả.

Triệu chứng thiếu Bo – lõi qủa bị đen do thiếu Bo trên trái ổi

2. Xác định loại phân bón cho cây ổi

2.1. Xác định các loại phân bón cho ổi

Ổi yêu cầu nhiều phân, do đó cần cung cấp liên tục cho cây từ khi trồng đến khi cho trái. Lượng phân bón cung cấp cần gia tăng dần khi cây lớn.

Tùy vào điều kiện đất đai, địa hình, tuổi sinh trưởng của cây… mà lựa chọn các loại phân bón khác nhau, tuy nhiên phân bón trên cây ổi gồm các loại chủ yếu sau:

– Bón lót cho cây ổi: để bón lót cho ổi thường sử dụng các loại phân sau: Phân hữu cơ đã hoai mục, phân lân, vôi bột.

– Bón thúc cho cây ổi: Bón thúc cho cây ổi nên chọn các loại phân: NPK 16-16-8, KCl, Urê…

– Các loại phân bón lá khác có thể sử dụng: HVP TĐT – siêu ra hoa tăng đậu trái, HVP siêu canxi siêu BO, HVP 1001.S …

2.2. Tính lượng phân bón cho cây ổi

Lượng phân bón tùy theo độ màu mỡ của đất vườn và tình trạng sinh trưởng của cây. Theo khuyến cáo để cây ổi cho năng suất cao, chất lượng tốt thì cần bón nhiều phân.

Lượng phân bón được khuyến cáo như sau:

Bón lót cho cây ổi: Phân hữu cơ đã hoai mục (15 tấn/ha) Phân lân (750 kg/ha),Vôi bột (300 kg/ha), cách bón: trộn đều với đất giúp.

Bón phân cho cây ổi giai đoạn kiến thiết cơ bản:

+ Phân hữu cơ: Lượng phân chuồng: 50-100kg/cây, đào rãnh bón.. Ngoài ra có thể dùng nước thải từ hầm biogas pha với 70% nước rồi tưới thường xuyên 2-3 lần/tuần kể từkhi cây có nụ.

+ Năm thứ nhất. Lượng phân bón cần cho một gốc ổi là: 200g phân NPK(16:16:8), 50g urê, 50g KCl.

Bón phân cho cây ổi giai đoạn kinh doanh:

+ Năm thứ 2. Lượng phân bón cho một gốc: 400-500g phân NPK (16-16-8), 100g urê, 100g KCl. Chia thành 4 lần để bón trong 1 năm.

+ Năm thứ 3. khi cây cho quả ổn định. Tiến hành bón phân thành nhiều lần.

Bón thúc ra hoa: 200-300g phân NPK (16-16-8), 100g urê. Bón rải quanh gốc. Bón xong vun đất lấp.

Bón nuôi quả: 1-1,5 tháng sau khi bón nuôi hoa. Tiếp tục bón 15 ngày 1 lần kết hợp với bấm ngọn để kích thích ra chồi và nuôi quả. Bón tất cả khoảng 10 lần.

Lượng bón cho một cây : 100-200g NPK (16-16-8), 100g urê, 100g KCl, 20-30kg phân hữu cơ.

Cách bón: xẻ rãnh vòng quanh gốc, cách gốc 0,7 -1,0m. Bón phân xong lấp đất kín.

Sử dụng phân bón lá cho cây ổi

+ Thời kỳ ra nụ chuẩn bị nở hoa có thể dùng một số loại phân bón lá giúp tăng khả năng đậu trái như: HVP…

+ Thời kỳ mang trái để hạn chế rụng có thể dùng phân chứa Bo để phun.

+ Trước khi thu hoạch 20 ngày có thể phun các phân như: HVP 1001.S (0 – 25 – 25)…giúp tăng chất lượng trái thu hoạch.

Liệu lượng pha theo hướng dẫn trên bao bì.

4. Bón phân cho ổi

4.1. Chuẩn bị phân bón và các dụng cụ bón phân

– Chuẩn bị phân bón và cân phân bón: Cân đúng lượng phân cần bón theo quy trình.

– Vận chuyển phân bón đến vị trí bón: có thể dùng xe rùa, hoặc xe cơ giới nhỏ nếu như vườn bằng phẳng.

– Chuẩn bị các dụng cụ dùng để bón phân bao gồm: đồ bảo hộ lao động, cuốc , xẻng, thùng đựng hoặc để hòa phân….

4.2. Bón phân cho ổi giai đoạn kiến thiết cơ bản

– Phân chuồng: Cách gốc 50-100cm, đào một rãnh xung quanh gốc có bề rộng 20cm, sâu 30cm, rải đều phân vào rãnh rồi lấp đất lên, dùng cỏ khô phủ lên trên mặt rãnh sau đó tưới nước.

Bón phân theo rãnh

Các phân vô cơ được hoà vào nước để tưới vào gốc.

– Hòa phân với 1 lượng nước vừa phải. Đổ phân và nước vào thùng

Hòa phân bón

– Dùng que khuấy đều phân trước khi đem đi tưới.

Khuấy đều phân bón

4.3. Bón phân cho cây ổi giai đoạn kinh doanh

Cách bón:

– Xẻ rãnh vòng quanh gốc, cách gốc 0,7-1,0 m. Kích thước rãnh: bề rộng 20cm, sâu 30cm

Đào rãnh theo đường kính tán

– Rải đều phân vào rãnh rồi lấp đất lên.

Rải phân vào rãnh

– Bón phân xong lấp đất kín, tưới nước và phủ rơm rạ cỏ khô lên.

Lấp đất sau khi bón

Nguồn: Giáo trình trồng và chăm sóc ổi – Bộ NN&PT NT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật chăm sóc cây ổi: Tỉa cành, tạo tán cho ổi

Nhờ hiệu quả kinh tế lớn và có công dụng về y học nên cây ổi được trồng ở nhiều nơi. Tuy nhiên, để thu về được lượng ổi lớn và chất lượng, người nông cần cần tìm hiểu kỹ thuật trồng cây.

1. Mục đích của việc tỉa cành tạo tán cho cây ổi

Khi cây bắt đầu trồng đến khi ra hoa quả, hoạt động chủ yếu là tạo bộ rễ, hình thành thân chính và bộ khung cành lá. Tuy nhiên, nếu để cây tự phát triển thì các cành không đều nhau, cành khỏe, cành yếu. Cành yếu bị che khuất nên không có quả, còn cành khỏe lại mang quá nhiều quả vừa bị kiệt sức, ảnh hưởng chất lượng vừa dễ bị gẫy đặc biệt khi gió to.

Bên cạnh đó, theo thời gian một số bộ phận cành lá đã già che lấp các bộ phận cành lá non, hoặc những cành bị sâu bệnh, giảm hoặc không còn khả năng cho quả nữa nếu không được cắt tỉa thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất của cây và chất lượng của quả.

Mục đích tạo hình, tỉa tán là làm cho bộ khung cây vững chắc, tạo ra nhiều cành, nhánh hữu hiệu, tạo không gian mở giúp cho cây phát triển tốt. Cắt tỉa bớt các cành vô hiệu, cành sâu bệnh sẽ tạo cho vườn cây thông thoáng, giúp nhà vườn dễ chăm sóc, thu hoạch, hạn chế được sâu bệnh hại. Thông qua tạo hình, tỉa tán chúng ta không chế được chiều cao, đường kính tán và mật độ phù hợp để giúp cây sinh trường, phát triển tốt.

Hàng năm, nếu thiếu việc xén và tỉa cành, thì các thân, cành, tượt sẽ mọc đầy, làm cho lòng tán cây bị thiếu ánh sáng, các chồi cho trái không phát triển được. Do đó, sau vài năm trái chỉ cho ở phía trên và phía ngoài tán, nơi có ánh sáng, còn trong lòng tán thì không.

– Việc xén và tỉa cành nên thực hiện vào lúc sau khi thu hoạch trái và trước khi ta bón phân cho cây ổi

Tỉa cành tạo tán sau thu hoạch là một giải pháp kỹ thuật không thể thiếu nếu muốn có năng suất và sản lượng vụ sau. Năng suất thực vật nói chung và cây ăn quả nói riêng được hình thành từ bộ lá để tiến hành quang hợp chuyển năng lượng mặt trời thành các vật chất hữu cơ.

Cây muốn có năng suất thì diện tích lá phải lớn và giảm thiểu được việc các lá che lẫn nhau, muốn vậy phải bằng mọi cách kích thích cây ra chồi, lá mới mà tạo cành tỉa tán là cách làm không thể thiếu, tuy nhiên với mỗi loại cây, tuổi cây nên có các cách tỉa cành tạo tán phù hợp.

Ngoài ra, việc tỉa cành tạo tán còn tùy thuộc vào tuổi cây, thông thường cứ 3 năm tỉa lại có 1 năm tỉa đau để định hình lại tán làm sao cho tán phù hợp với sự phát triển bộ rễ.

Việc tỉa cành, tạo tán còn phụ thuộc vào thời điểm sau thu hoạch, nếu cây thu hoạch vào mùa khô thì việc tỉa cành, tạo tán sẽ dễ hơn vì sau khi cắt tỉa chỉ cần châm phân, tưới nước thì chồi và đọt non sẽ bật ra ngay; còn nếu thu hoạch trễ, vào mùa mưa thì lúc này nhiệt độ không khí và đất đã giảm nên việc đâm cành lá mới khó khăn hơn.

2. Định hình tán cây ổi

Ổi thuộc loại cây trung bình, cao 5-10m, một cây có thể phân nhiều cành. Cành khi non hình vuông có nhiều lông mềm, khi già hình trụ và nhẵn. Cây ổi ra hoa quả ở cành non, khi đốn cành non ra nhiều, có thể chọn vị trí cho ra hoa quả. Nếu không đốn tỉa, thân chính mọc thẳng, các cành bên không phát triển, ổi cho ít trái. Chính vì vậy, để cho cây ổi có quả tốt và thuận tiện cho thu hái quả sau này thì cần cắt bỏ ngọn chính khi cây đạt chiều cao 60-80 cm để cho cành nhánh phát triển.

Để dễ chăm sóc và thu hoạch quả, nhất là các vườn trồng ổi chuyên canh thì cần khống chế chiều cao cây. Chiều cao cây 3 – 4 năm tuổi nên khoảng 1,5m; 5 – 6 năm tuổi cao 1,6 – 1,7m và 7 – 8 năm tuổi cao 2m.

Đối với cây ổi nên tạo dạng tán hình cầu hay hình nấm để cây nhận được nhiều ánh sáng.

Tán cây hình nấm

3. Hướng dẫn tỉa cành ổi

3.1. Xác định cành cần tỉa

+ Cành vượt mọc đứng, cành bên trong tán

+ Cành ốm yếu, cành bị sâu bệnh; cành khô

+ Cành mọc quá gần mặt đất

+ Cành mọc đan chéo nhau;

+ Cành già không còn khả năng cho quả;

+ Cành ở ngoài tán…

+ Các ngọn cành ở độ cao 1m

+ Các cành ngọn 5-10cm

3.2. Chuẩn bị dụng cụ cắt cành

– Kéo cắt cành loại nhỏ: Chuyên dùng cho cắt cành, sạch sẽ, không rỉ sét, lưỡi cong, có tay cầm, có lò xo trợ lực để cắt các cành nhỏ, gần vị trí đứng thao tác.

Kéo cắt cành loại nhỏ

– Cưa cầm tay: Dùng cắt cành lớn. Yêu cầu lưỡi cưa phải sắc, sạch (không bị han gỉ), răng cưa đều, dùng để cắt những cành mà kéo không cắt được. Nếu cắt thân lớn, dùng cưa có răng lớn, đường mở răng rộng để dễ dàng thao tác.

Cưa cắt cành

– Kéo cắt cành loại cán dài: Dùng để cắt những cành ở trên cao.

Kéo cắt cành loại cán dài

– Thang: Dùng để cắt hoặc kéo những cành quá cao

Thang dùng để cắt cành

3.3. Chọn phương pháp cắt cành

Trên cây ổi có các loại cành:

– Cành cấp 1: mọc ra từ thân chính

– Cành cấp 2: mọc ra từ cành cấp 1

– Cành cấp 3: mọc ra từ cành cấp 2

Các loại cành trên cây ổi

Mức độ tỉa cành tùy thuộc vào tình hình sinh trưởng, tuổi cây và mùa vụ để quyết định đốn đau hay cắt nhẹ, cụ thể như sau:

– Cắt cành cấp 3:

Cách tỉa cành này nhằm giữ lại các cành cấp 2, cắt bỏ 5-10 cm ngọn cành.

Mục đích của việc cắt tỉa nhẹ là để loại bỏ những cành không có quả, các cành sâu bệnh, giảm các cành và nụ hoa mới ra để tập trung dinh dưỡng nuôi quả đảm bảo cho cây có thể cho trái quanh năm.

Cắt cành cấp 3

– Cắt tỉa cành cấp 2: Cách tỉa cành này nhằm giữ lại các cành cấp 1 và thường áp dụng khi tỉa cành xử lý cho ra quả trái vụ từ tháng 10 đến tháng 4.

Cắt tỉa cành cấp 2

– Cắt tỉa nặng (đốn đau): Cánh cắt tỉa này áp dụng để trẻ hóa cây với những vườn cây đã già, thời gian cho trái trên 10 năm. Tiến hành cắt hết cành nhánh và đốn bỏ một phần thân chính.

Cắt tỉa nặng (đốn đau)

3.4. Tiến hành cắt cành

– Sau khi thu hoạch cắt các cành sau:

+ Cắt bỏ những cành mọc xà, cành mọc ở dưới không cho trái hoặc trái nhỏ.

+ Cắt bỏ những cành la, cành vượt không cho trái, những cành mọc cao quá cũng cần bỏ.

+ Tỉa bỏ những cành mọc chồng chéo lên nhau tạo tán cây thông thoáng và sử dụng tốt ánh sáng mặt trời.

+ Tỉa bỏ những cành khô, cành bị sâu bệnh.

Cành cần tỉa bỏ

– Cắt tỉa cành xử lý ra hoa:

Ổi có thể ra hoa trái quanh năm, tuy nhiên trong sản xuất để có sản lượng tập trung vào thời điểm nhất định, hạn chế sâu bệnh phá hại cũng như bán được giá cao, ổi được xử lý ra hoa đồng loạt.

– Trường hợp nhánh ổi chưa ra hoa, dùng kéo bấm bỏ đọt sao cho trên nhánh đó chỉ còn mang 3 cặp lá kép.

Tỉa cành trước khi ra hoa

– Đối với nhánh ổi đã ra hoa, nếu thấy mới có 1 cặp hoa (nụ) thì bấm bỏ đọt nhưng chừa phía trên cặp hoa đó một cặp lá để có thể ra thêm một cặp nụ mới từ cặp lá đó.

Cành ổi ra hoa – tỉa cành ổi sau khi ra 1 cặp hoa

– Sau khi trên nhánh ổi có đủ 2 cặp nụ thì cắt đọt hết, không chừa cặp lá nào phía trên cặp nụ trên cùng nữa để nhánh ổi có thể tập trung dinh dưỡng nuôi quả.

– Việc bấm đọt được tiến hành thường xuyên 1-2 tuần/lần.

Tỉa cành ổi sau khi ra 2 cặp hoa

– Đốn đau: Để trẻ hóa những vườn cây đã già, dùng kéo hoặc cưa cắt hết các loại cành.

Chỉ để lại một đoạn gốc của cành lớn ra trong năm trước

Cành lớn được giữ lại

Sau khi đốn đau sẽ phát sinh nhiều cành

Nếu là các cành vượt thì ta nâng được tán cây cao dần lên. Còn những cây đã lớn, tán quá rộng, có hình dù thì đốn cụt, có tác dụng thu hẹp tán lại bằng những cành mới.

– Sau khi cành mọc lại tiến hành tỉa cành, tạo tán như bình thường, cây sẽ tiếp tục cho trái

Các cành mới phát sinh sau khi cắt

Bộ tán mới sau khi cắt

– Tỉa nụ, hoa và quả

Những hoa và quả nhỏ sẽ ảnh hưởng đến chất lượng trái nên cần được tỉa bỏ thường xuyên.

– Với những cụm hoa mọc đôi nên giữ lại một hoa. Trong trường hợp hoa mọc ba nên giữ lại hoa nằm ở giữa, chỉ nên giữ lại 2-4 hoa trên 1 cành mang quả.

Tỉa bỏ bớt hoa

– Tỉa quả: Sau khi đậu trái, thì tỉa bỏ những trái nhỏ, trái mọc sát nhau chỉ nên giữ lại 1-2 quả tốt nhất.

Quả mọc sát nhau cần – Tỉa bỏ bớt trái tỉa bỏ

– Để giữ cho cây sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất cao thì trong 10 tháng đầu tiên cần tỉa bỏ nụ và quả ra lứa đầu tiên.

Tỉa bỏ trái khi dưới 1 tháng

3.5 Chăm sóc, kiểm tra sau khi cắt tỉa

– Sau khi cắt cành xong cần kiểm tra gọt nhẵn vết cắt. Kiểm tra các vết cắt không đúng kỹ thuật để xử lý ngay.

Gọt nhẵn vết cắt

Kiểm tra vết cắt

– Quét sơn, vôi hoặc một loại thuốc trừ nấm cho vết cắt có đường kính ≥ 1cm. Hoặc có thể dùng băng keo nilon cuốn vết cắt cành lại cho nước và sâu bệnh không tấn công vào vết thương.

Nếu cắt ngọn để khống chế chiều cao cây: Quét hỗn hợp Agri-fos + Mancozeb để phòng bệnh và dùng vỏ chai thuốc cắt đôi rồi úp lên vết cắt.

– Sau khi đốn tỉa cành cần kết hợp vệ sinh làm cỏ, thu gom những cành vừa đốn đem đốt bỏ để giảm nguồn sâu, bệnh lây lan cho vụ sau.

– Cây sau cắt tỉa rất dễ bị bệnh xì mủ thân, thối rễ gây chết cây, nên xịt thuốc để phòng bệnh xảy ra.

– Bón phân và tưới nước giúp cây nhanh hồi phục, có thể dùng phân bón gốc hoặc phân bón lá.

– Thăm vườn thường xuyên để phát hiện sâu bệnh hại sớm cũng như các cành mới mọc ra sai vị trí thì tiếp tục cắt tỉa.

4. Tạo tán cho cây ổi

– Để có bộ tán đẹp và cân đối thuận tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch thì khi cây khoảng 4-6 tháng tuổi, tiến hành cắt ngang thân chính ở độ cao 60- 80cm từ mặt đất.

Cắt ngọn ở vị trí 60 cm

– Giữ lại 3-4 cành mọc theo các hướng khác nhau để làm bộ khung chính cho cây những cành này gọi là cành cấp 1.

Cắt giữ lại 3 cành

– Khi cành cấp 1 cao 45-60cm tiến hành bấm ngọn.

Cành cấp 2 khống chế chiều dài khoảng 30-45cm là thích hợp nhất.

Trên mỗi cành cấp 1 đầu tiên chỉ nên giữ lại 3 cành cấp 2 luân phiên nhau trên cành.

Các cành cấp 1 còn lại cũng để lại các cành mang quả luân phiên nhau.

Các vị trí cắt tạo cành

Để có bộ khung đều cần sử dụng dây và tre cột giữ cành và uốn ngọn những cành mọc vượt xuống thấp tạo với thân chính một góc 45-60º

Cành cấp 1 tạo với thân chính góc 45-60º

– Sau khi tạo tán cây ổi có bộ tán tròn đều.

Bộ tán cây ổi tròn đều

Nguồn: Giáo trình trồng và chăm sóc ổi – Bộ NN&PT NT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nghệ An: Hoa mào gà đua sắc mọc giữa cánh đồng hoa hướng dương

Nếu có dịp đi qua cánh đồng hoa hướng dương của TH với diện tích năm nay được trồng gần 60 ha, dọc 2 bên đường Hồ Chí Minh, thì bạn không thể bỏ lỡ được vẻ đẹp thiên nhiên của gần 1ha hoa mào gà ở đó.

Vườn hoa mào gà xóm Sơn Nam, xã Nghĩa Sơn, gần trang trại TH

Hoa mào gà là một loài thân cỏ mọc quanh năm, thân mọc thẳng, nhẵn, mang nhiều cành, cao 0,3-1m có thể tới 2m. Lá mọc so le, hình mác, nguyên, đầu nhọn, gốc lá cũng hơi nhọn, dài 8-10cm, rộng 2-4cm. Vào mùa hạ và mùa thu ra hoa, mọc thành bông trắng phía ngọc có màu hồng. Hoa ở phía trên mọc thành cụm to dày, xoắn hình cầu, mượt như nhung, phía dưới cuống hoa là các lớp bao hạt nhỏ. Hình dáng và màu sắc của hoa giống với cái mào của con gà trống, nên người ta quen gọi là hoa mào gà

Nhìn tổng thể cánh đồng hoa mào gà rất hấp dẫn, thu hút du khách đến để chụp ảnh kết hợp với phong cảnh núi non.

Vì có mặt khắp trong tự nhiên, nên mồng gà cũng được xem là một loài hoa bình dị. Sớm mai, trong nắng mặt trời sắc tím của hoa càng hấp dẫn.

Vườn hoa mào gà tăng thêm cảnh quan sinh thái vùng này

Với sắc màu ấm áp, hiện nay đã lôi cuốn một số bạn trẻ về du lịch và khám phá vẻ đẹp của đồng hoa dại này.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng hoa mào gà đỏ

Mang hình dáng và màu sắc rực rỡ giống như mào của những chú gà trống oai phong, đẹp mã, mào gà lửa là loài hoa ưa thời tiết nóng, nở vào mùa hè. Loài hoa này rất quen thuộc ở các vùng quê Việt Nam nhưng hiện nay lại được trồng nhiều trong chậu, bồn để làm cảnh rất đẹp.

Hoa mào gà đỏ

Một số thông tin về loài hoa này

– Tên khoa học: Celosia argentea var. Cristata Voss, thuộc họ Dền (Amaranthaceae), tên gọi khác: mồng gà lửa, kê công hoa, kê quan hoa…

– Hoa có nguồn gốc từ Ấn Độ.

– Thời gian hạt nảy mầm: 5-7 ngày

– Thời gian cây ra hoa: 60-65 ngày

– Chiều cao cây trưởng thành: 30-40cm

– Hoa nở rộ nhất vào mùa hè, nhưng vẫn có thể trồng quanh năm để làm cảnh.

– Là loại cây ưa nóng, chịu rét kém, thân thảo, hoa có 2 màu chính là đỏ và vàng.

– Lá cây hình bầu dục, hoa nở chụm lại như ngọn lửa nhỏ, đầu bông hoa nhọn.

Hướng dẫn trồng hạt giống hoa mào gà lửa

2.1. Chuẩn bị

Hạt giống hoa mào gà lửa: Hoa mào gà lửa khi già sẽ cho hạt màu đen. Có thể phơi khô, bảo quản và dùng hạt này để trồng cho vụ sau. Tuy nhiên, để đảm bảo tỷ lệ hạt giống nảy mầm tốt nhất, nên mua hạt tại các siêu thị hạt giống vì hạt chất lượng, đã được xử lý.

– Đất trồng: Tốt nhất là đất tribat, hoặc giả thể hữu cơ, đất phù sa, đất hữu cơ. Hoa mào gà lửa không kén đất trồng nhưng nếu muốn hoa phát triển tốt thì đất cần đảm bảo không nấm bệnh, tơi, xốp, thoát nước tốt, pH từ 6-6,5cm.

– Khay ươm; Chậu hoa.

– Bình tưới 1 lít hoặc 2 lít.

Chuẩn bị giá thể hữu cơ.

2.2. Gieo hạt

– Thời vụ: Tháng 4-5 dương lịch.

– Đổ đất trồng vào khay ươm, cách miệng khay 2cm.

– Rắc hạt lên mặt khay, sau đó phủ lên một lớp đất mỏng.

– Tưới nước giữ ẩm cho hạt và cho đất.

– Sau 5-7 ngày, hạt giống sẽ nảy mầm.

– Chăm sóc khi cây con cao chừng 5-7 cm và có 4-5 lá thật thì có thể bứng ra trồng riêng.

2.3. Chăm sóc

– Mỗi ngày tưới nước cho cây từ 1-2 lần vào sáng sớm và chiều mát, tùy vào điều kiện thời tiết.

– Khi cây bén rễ hồi xanh, tiến hành bón phân vi sinh hoặc trùn quế pha loãng, lọc lấy nước tưới cho cây.

– Khi cây được 35 ngày tuổi thì nên bấm ngọn, tạo điều kiện cho cây chồi nách phát triển, hoa sau này sẽ đẹp và to.

– Mào gà lửa là loại hoa có bộ rễ ăn ngang nên chỉ vun xới lúc cây còn nhỏ, bước vào giai đoạn trưởng thành thì không nên vun.

– Cần tiến hành tỉa bớt các nụ ở nách lá khi cây có nhiều nụ nhỏ, nên tỉa bớt các nụ ở nách lá, chỉ giữ lại 1 nụ ở cành chính để tập trung dinh dưỡng cho bông hoa to.

– Sau khoảng 60-65 ngày, hoa mào gà lửa sẽ nở hoa.

– Đặt chậu hoa ở nơi có nhiều ánh sáng để cây quang hợp và cho hoa rực rỡ.

– Một số bệnh thường gặp: sâu ăn lá, ăn nụ hoa, đốm nâu, đốm than…

Mào gà lửa là loài hoa rất “dễ tính” khi không kén đất trồng, không mất nhiều công chăm sóc những vẫn cho hoa nhiều mùa, bền lâu, rực rỡ. Có thể dễ dàng nhìn thấy mào gà lửa ở các chậu, bồn hoa làm cảnh trong nhà, trong khuôn viên công sở, bệnh viện, trường học,…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.