Nông dân Lục Yên nuôi gà sống thiến phục vụ Tết

Thời điểm này, các hộ chăn nuôi gà sống thiến tại huyện Lục Yên (Yên Bái) đang tất bật chuẩn bị nguồn hàng “đặc sản” để cung cấp cho thị trường Tết.

Gà sống thiến được lựa chọn và chăm sóc kỹ càng phục vụ Tết Nguyên đán.

Để chuẩn bị cho thị trường Tết đang tới gần, gia đình ông Hoàng Văn Sao- thôn Sơn Bắc, xã Mai Sơn đã tích cực chăm sóc đàn gà sống thiến của gia đình.

Để đàn gà sống thiến gần 100 con khỏe mạnh không mắc các dịch bệnh thì ngoài việc vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm phòng đầy đủ, gia đình ông Sao còn tăng cường nguồn thức ăn cho gà như ngô, thóc…, bổ sung vitamin và thường xuyên khử trùng chuồng trại.

Để đảm bảo có nguồn thực phẩm “đặc sản” phục vụ Tết Nguyên đán gia đình đã nuôi từ đầu năm, hiện nay đàn gà sống thiến của ông đang chuẩn bị cho bán ra thị trường.

Nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng vào dịp cuối năm thường mua gà sống thiến để làm quà biếu Tết, gia đình bà Hoàng Thị Ất, thôn Sơn Bắc đã chuẩn bị trên 100 con gà sống thiến xuất bán dịp Tết.

Để có nguồn gà ngon, bán được giá ngoài việc cung cấp thức ăn bằng thóc, ngô và rau xanh cho đàn gà, gia đình bà thường xuyên vệ sinh chuồng trại không để đàn gà bị đói rét hoặc bị nhiễm bệnh.

Gà đủ tiêu chuẩn bán là gà có đuôi dài, mã đẹp, lông cổ gà phải xổ đủ và đạt trọng lượng từ 1,8 đến 2kg một con, giá bán vào dịp Tết thường đạt 180 đến 200 nghìn đồng/kg.

Tuy nhiên, gà sống thiến khó nuôi do sức đề kháng kém, không ưa ăn thức ăn công nghiệp nên để có gà xuất bán vào đúng dịp Tết gia đình bà Ất đã áp dụng nhiều biện pháp chăn nuôi để chăm sóc đàn gà.

Để tạo điều kiện cho hộ chăn nuôi gà sống thiến và các thương lái mua bán gà phục vụ dịp tết được thuận lợi, huyện Lục Yên tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan như Đội Quản lý thị trường, Công an, … giám sát việc vận chuyển, ra vào; đối với gà không rõ nguồn gốc, xuất xứ trà trộn làm ảnh hưởng đến chất lượng cũng như thương hiệu gà sống thiến Lục Yên. Chính quyền địa phương đã tuyên truyền đến các hộ dân, nhất là các hộ nuôi quy mô lớn triển khai đầy đủ các biện pháp chăm sóc, phòng chống dịch bệnh để đảm bảo đàn vật nuôi phát triển tốt.

Từ nay đến Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 dự báo sẽ có nhiều đợt rét đậm, do vậy các hộ chăn nuôi gà sống thiến trên địa bàn huyện Lục Yên cần tiếp tục tập trung chăm sóc, kiểm soát dịch bệnh để gà phát triển tốt và có chất lượng phục vụ cho khách hàng trong và ngoài huyện.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

 

Kỹ thuật chọn và nuôi rắn hổ trâu (ráo trâu)

1. Tên gọi: Thuộc loài rắn hổ, tên khoa học là Ptyas Mucosus, là loài rắn nằm trong sách đỏ Việt Nam * Miền Đông gọi rắn Long Thừa * Miền Tây hổ hèo * Miền Trung rắn ráo trâu * Miền Bắc rắn hổ trâu * Tên chung : hổ vện vì trên mình nó có nhiều vằn vện. * Thuộc loài: rắn không độc, nguy hiểm, có nhiều công dụng trong y học, nhất là sản xuất thuốc chữa bệnh

2. Chuồng Nuôi: Có nhiều dạng 
2.1 Chuồng Lưới:  
Rắn nái nên làm chuồng bằng kệ gỗ đặt cách ly khu nuôi chuồng lưới, chuồng được chia thành nhiều ngăn (giống ngăn đựng thuốc bắc), ngăn nuôi 2 con”. Thiết kế kỹ thuật chuồng lưới như sau:

* Diện tích chuồng: 2m x 1m x 1,2m (Dài X Rộng X Cao) / nuôi 30 đến 50 con
* Cửa chuồng làm ngang bên hông để tiện vệ sinh, Có vỉ tre để rắn nằm
* Mặt trên của chuồng lợp bằng lưới sắt nhỏ

2.2 Chuồng nuôi bán thiên nhiên: 

Rắn nái nên làm chuồng bằng kệ gỗ đặt hai bên vách trong khu chuồng nuôi . Chuồng được chia thành nhiều ngăn (giống ngăn đựng thuốc bắc), mỗi ngăn 1 con rắn mang trứng. Thiết kế kỹ thuật chuồng bán thiên nhiên như sau:
* Diện tích chuồng: 2m x 2,5 đến 3m x 2,2m (ngang X dài X cao) / nuôi 100 đến 150 con
* Sân chơi: 1.8m, X 1m (ngang X dài) , Tạo 3 lỗ ống 90 để rắn tự chui ra sân tắm nắng và uống nước
* Chuồng xây kín có trần , vách trường ngăn với khu ăn và nghỉ, , Mặt sàn đất lồi lõm tạo chỗ trũng để rắn tự vệ sinh, Đặt sàn hoặc vỉ gỗ giống balet 1,5 m2 X 1.5 m2 , Xếp 3 hoặc 4 tầng cách nhau 10cm mỗi tầng để rắn nằm không đè lên nhau, Có thể nâng số sàn để tăng mật độ nuôi
* Bên trên phủ lá Dừa khô hoặc đắp chăn mền cho rắn khi trời lạnh
* Kỹ thuật chuồng nuôi này rất gần với tập tính của rắn nên rắn dễ thích nghi và phát triển đồng đều hơn

3.3 Chuống rắn đẻ:
– 30 cm x 40 cm x 60 cm (ngang X Cao X độ sâu). Bằng kệ gỗ hoặc xây gạch, nên để 1 con / ngăn để trứng rắn không bị đè móp
– Rắn con: nuôi dưỡng và tập cho rắn ăn mồi chết . Dùng nhiều thùng khoét lỗ để rắn bò ra ăn
– Vị trí chuồng: đặt nơi có mái che hoặc tận dụng các gian nhà trống để nuôi, chỗ đặt chuồng phải đảm bảo thông thoáng, sạch sẽ, chống gió lạnh, nên lấy ánh nắng buổi sáng cho cửa chuồng
–    Rắn rất dễ gần nếu như đã quen hơi với người nuôi. Đặc biệt khi cho rắn ăn phải mang đủ các thiết bị  phòng hộ, nhất là không uống rượu khi vào chuồng, rắn lạ hơi gây kích ứng cho rắn.
–    Không đưa mồi vào chuồng một lúc vì không kiểm tra được khẩu phần ăn và dư thừa thức ăn gây  tốn kém và gây ô nhiễm. Đặc biệt rắn trưởng thành không đồng đều và nuốt nhau
–    Trong quá trình nuôi, phải thường xuyên phân loại rắn vì lý do: Ngăn ngừa rắn ăn nhau, tránh thất thoát, phát hiện kịp thời và cách ly rắn Bệnh để điều trị

3. Thức ăn :
– Thức ăn chính của chúng là cóc, nhái và ăn rất sạch, con mồi phải còn sống. Hơn nữa, rắn chỉ ăn khoảng 2-3 lần trong 1 tuần. số lượng thức ăn tăng dần theo tuổi. Nên tập cho rắn ăn mồi chết từ nhỏ để thuận tiện trong việc chăm sóc
– Bắt mồi bằng cách đớp, ngoạm, răng cong vào trong nhờ cấu tạo của xương hàm mở rộng nên có thể nuốt được những con mồi lớn.
– Thức ăn cho rắn không được cho vào nhiều, mà phải để trên khay kim loại để khi đói rắn có thể bò ra ăn
– Nước uống: tốt nhất nên cung cấp đầy đủ nước sạch và mát cho rắn uống và tắm tự do. Trong chuồng cần đặt vật chứa nước cho rắn tắm và uống, phải thay nước hàng ngày.Nên đặt bóng đèn trong chuồng rắn, nhằm tạo cho rắn thích nghi với ánh sáng và tạo nhiệt độ ấm cho rắn (nếu vào mùa đông)

4 . Chọn và chăm sóc rắn sinh sản:
Việc chọn giống rắn làm bố mẹ rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng sau này. trước hết phải phân biệt con đực và con cái bằng cách quan sát bên ngoài:
* Rắn đực: thân hình gần giống tam giác, đuôi to, bụng trắng
* Rắn cái: thân hình tròn, màu sắc bóng mượt , nhiều viền đen hai bên dưới bụng kết dính liền nhau
– Rắn đực và rắn cái phải khác dòng để khi lai tạo tránh trùng huyết
– Rắn cái cho uống thuốc tạo kháng thể cho trứng: 2ml – 3ml / 1 kg thể trọng ( 2 tuần trước khi phối)
– Quá trình sinh trưởng phát triển của rắn phải trải qua những lần lột da, thời gian rắn thay da khoảng 15-20 ngày và tiếp tục thay da trong suốt quá trình rắn lớn, một con rắn cái từ lúc nở đến lúc sinh sản từ 9 -10 tháng tuổi. Sau khi thay da nếu được cung cấp thức ăn đầy đủ, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, tốc độ tăng trưởng của rắn có thể tăng nhanh hơn 2-3 lần.
– Chọn lựa rắn giống đề đảm bảo tỷ lệ nở cao, có thể nuôi ghép 2 đến 3 con rắn đực với 10 con rắn cái
– Thời gian rắn đẻ sau khi phối giống khoảng 30 đến 35 ngày. Một con cái có thể đẻ từ 12 – 21 trứng

5. Kỹ thuật ấp trứng
– Dụng cụ ấp trứng: một cái lu, lấy đất có độ ẩm 25-30 độ bỏ vào ½ lu, sau đó xử lý thật chặt, tiếp theo rãi thêm 01 lớp cát trải mỏng rồi bỏ trứng rắn vào, dùng bao hoặc vải bịt miệng lu lại, khoảng 65 – 75 ngày sau rắn tự nở.
– Khi ấp trứng cần kiểm tra trứng vài lần, nếu thấy các quả trứng to đều, trắng, khô ráo là trứng tốt, những quả vỏ xỉn vàng là trứng hỏng phải loại bỏ ngay
– Nhiệt độ thích hợp trứng nở 280C – 300C. Lưu ý trong thời gian ấp phải có nhiệt kế để theo dõi.
* Trời nóng: tưới nước vào cát hoặc quạt gió để hạ bớt nhiệt độ
* Trời lạnh: dùng bóng điện thắp sáng để tăng nhiệt
– Sau khi nở 3 ngày, bắt đầu cho ăn ếch con (nòng nọc)
– Sau 15 ngày là có thể xuất bán giống
– Ấp theo phương pháp này, tỷ lệ trứng nở đạt từ 90 – 95%, ấp tốt nở 98%

6. Kỹ thuật nuôi rắn con
– Rắn con mới nở thả vào chuồng úm (có khăn sạch để giữa ấm, nên thay khăn 2 ngày 1 lần). Cho uống nước khoảng 7 ngày sau rắn thay da, khi rắn thay da thả nhái nhỏ vào để rắn ăn, trung bình 50 con rắn con 01 tháng tuổi mỗi ngày ăn khoảng 0,5kg nhái con.
– Rắn 8 tháng tuổi có trọng lượng từ 1,2kg trở lên thì mới đẻ nhiều trứng

7. Quản lý chăm sóc, phòng trị bệnh
Quản Lý trại nuôi:
– Vệ sinh chuồng trại, thường ngày phải dọn phân trong chuồng, số phân hàng ngày thải ra không nhiều, phân thường khô, ít mùi hôi. Phân có mùi hôi hoặc phân lỏng có dịch nhầy: rắn đã nhiễm bệnh
– Rắn ít bị bệnh. Tuy nhiên, biện pháp phòng bệnh tổng hợp cho rắn là biện pháp tốt nhất: chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo thành phần và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá, tránh ruồi nhặng và các loại côn trùng khác gây hại
Phòng bệnh: Rắn là lòai ăn mồi sống vì vậy biện pháp phòng bệnh đặc biệt quan trọng trong quá trình nuôi ,phải đảm bảo uống thuốc phòng định kỳ và cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho rắn theo qui trình
– Sát khuẩn chuồng trại
– Phòng bệnh bằng liệu đồ kháng sinh / tháng 1 lần / 50% liều điều trị
1. Hội chứng Xuất Huyết Sình Hơi , trụy tim
2. Viêm Phổi Cộng Đồng
3. Xổ sán lải
– Chế độ dinh dưỡng cho ăn kết hợp De200f và Vitamine tổng hợp
– Tắm nắng thường xuyên

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Những điểm nhấn ngành nông nghiệp 10 tháng đầu năm

10 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu nông lâm thủy sản tiếp tục được mở rộng thị trường và duy trì đà tăng trưởng về kim ngạch XK nông lâm thủy sản; dịch tả lợn Châu Phi bước đầu được kiểm soát; sẵn sàng các điều kiện chuẩn bị gỡ “thẻ vàng” cho ngành thủy sản…

 

Sẵn sàng đón Đoàn thanh tra EC

Theo Bộ NN-PTNT, từ ngày 5-14/11/2019, Đoàn thanh tra của Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ có chuyến làm việc tại Việt Nam để đánh giá nhằm đưa ra quyết định tiếp theo về “thẻ vàng” của EU đối với thủy sản Việt Nam.

Bộ NN-PTNT đã sẵn sàng công tác chuẩn bị nhằm gỡ “thẻ vàng” cho ngành Thủy sản Việt Nam.

 

Theo đó, Bộ NN-PTNT, Thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về IUU đã xây dựng kế hoạch chi tiết đón đoàn thanh tra của EC đối với các Bộ, ngành, địa phương và hướng dẫn các địa phương, DN triển khai. Bên cạnh đó, Bộ NN-PTNT cũng đã chuẩn bị sẵn sàng các thông tin, tài liệu, hồ sơ để phục vụ Đoàn thanh tra EC…

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường tin tưởng: Với sự vào cuộc và nỗ lực của cả hệ thống chính trị và kết quả thực hiện thời gian qua, Việt Nam có thể kỳ vọng phía EC sẽ xem xét sớm gỡ bỏ “thẻ vàng” cho hàng thủy sản từ khai thác của Việt Nam.

Theo Tổng cục Thủy sản, đến thời điểm này, Tổng cục đã phối hợp với các địa phương triển khai nhiều công tác nhằm đáp ứng các yêu cầu của EC về chống khai thác IUU.

Cụ thể, đã chỉ đạo, tổ chức triển khai và vận hành thí điểm hệ thống giám sát tàu cá, đảm bảo quy mô giám sát được 31.541 tàu cá có chiều dài từ 15 mét trở lên.

Hiện nay, có 7 đơn vị (VNPT, Viettel, Zunibal, Vishipel, Bình Anh, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam, Blue Tracker) cung cấp thiết bị giám sát hành trình lắp đặt trên tàu cá.

Số lượng tàu cá đã được lắp đặt thiết bị giám sát hành trình cụ thể đến nay như sau: Nhóm tàu cá có chiều dài từ 24 mét trở lên: 2.019/2.618 tàu cá (chiếm 77,1%); nhóm tàu cá từ 15 mét đến dưới 24 mét: 4.996/28.923 tàu cá (chiếm 17,3%)

Tổng cục Thủy sản cũng đã triển khai quy định về quy trình kiểm soát tàu nước ngoài tại cảng Việt Nam theo Nghị định số 26/2019/NĐ-CP.

Theo đó, đã công bố 7 cảng biển cho tàu nước ngoài cập cảng để thực hiện việc nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu hoặc quá cảnh thủy sản từ khai thác qua lãnh thổ Việt Nam; ban hành Quy trình kiểm soát tàu nước ngoài tại cảng Việt Nam…

Về tổ chức thực thi pháp luật, từ tháng 1/2019 đến nay, cả nước đã không phát hiện trường hợp tàu cá và ngư dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản trái phép ở các nước, quốc đảo Thái Bình Dương. Tổng cục Thủy sản đã lập và công bố công khai danh sách tàu cá khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài lên cổng thông tin điện tử của Tổng cục.

Từ tháng 1/2019 đến nay, cả nước đã không phát hiện trường hợp tàu cá và ngư dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản trái phép ở các nước, quốc đảo Thái Bình Dương.

 

Theo đó từ ngày 1/01/2019 đến tháng 10/9/2019, đã công bố công khai 118 tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác thủy sản (đang xác minh 69 tàu)…

Hiện 8 tỉnh (Bình Thuận, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang) đã tổ chức ký kết quy chế phối hợp để thực hiện chống khai thác IUU, ngăn chặn, xử lý tàu cá và ngư dân cố tình vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nước ngoài. 27/28 tỉnh ven biển đã thành lập Văn phòng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nghề cá tại 60 cảng cá

Về truy xuất nguồn gốc thủy sản từ khai thác, Bộ NN-PTNT đã công bố 4 đợt cho 60 cảng cá thực hiện xác nhận thủy sản từ khai thác; công bố danh sách 70 cảng cá chỉ định cho tàu cá hoạt động từ vùng khơi trở ra cập cảng. Công tác xác nhận, chứng nhận thủy sản khai thác dần đi vào nề nếp, hỗ trợ và tạo điều kiện nhiều cho các DN trong quá trình XK…

 

Tích cực khôi phục, tái đàn lợn có điều kiện

Theo Bộ NN-PTNT, trong những tháng cuối năm 2019 và đầu năm 2020, do thời tiết thay đổi, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại mầm bệnh phát triển, ảnh hưởng đến sức đề kháng của vật nuôi.

Việc gia tăng đàn vật nuôi, vận chuyển động vật, các sản phẩm động vật tăng mạnh nên nguy cơ các loại dịch bệnh xảy ra ở phạm vi rộng trong thời gian tới là rất cao. Vì vậy, Bộ NN-PTNT đề nghị các bộ ngành, địa phương phối hợp thực hiện nghiêm một số giải pháp nhằm phòng chống dịch bệnh.

10 tháng đầu năm 2019, ứng phó với dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) là khó khăn, thách thức lớn của toàn ngành nông nghiệp. Với các giải pháp triển khai phòng chống đồng bộ, quyết liệt của toàn ngành nông nghiệp, từ tháng 6/2019, tình hình DTLCP đã có chiều hướng đi xuống.

DTLCP đã ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong 10 tháng đầu năm 2019 (Trong ảnh: Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường kiểm tra trại giống lợn phục vụ tái đàn tại tỉnh Hưng Yên).

 

Cụ thể đến hết tháng 10/2019, số lợn buộc tiêu hủy giảm hơn 60% so với tháng 5/2019 (tháng cao điểm). Đến thời điểm này, đã có hơn 45% số xã có dịch đã qua 30 ngày, trong đó 22 tỉnh, thành phố có trên 50% số xã và chỉ còn 9 tỉnh có trên 85% số xã đã qua 30 ngày. Riêng tỉnh Hưng Yên (bùng phát dịch đầu tiên cả nước) hiện đã hết dịch.

Thời gian qua, với định hướng đẩy mạnh áp dụng chăn nuôi an toàn sinh học (ATSH), đại đa số người chăn nuôi đã quan tâm, áp dụng có hiệu quả các biện pháp ATSH và vệ sinh phòng bệnh, trong đó nhiều trang trại chăn nuôi đã đẩy mạnh các biện pháp ATSH, sử dụng chế phẩm tăng cường sức đề kháng, do đó hạn chế hoặc không bị nhiễm bệnh DTLCP.

Bên cạnh đó, việc đảm bảo an ninh cho nguồn lợn giống đã được triển khai chặt chẽ. Cụ thể, đã lưu giữ được khoảng gần 110 nghìn con (90%) lợn cụ kỵ, ông bà chưa bị dịch bệnh. Đây là điều kiện quan trọng nhằm bảo đảm việc cung cấp lợn giống tái đàn tại các địa phương trong tình hình DTLCP đang giảm.

Bên cạnh những kết quả bước đầu, công tác chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là DTLCP hiện còn tồn tại rất nhiều bất cập tại các địa phương do việc sắp xếp lại hệ thống thú y, nhất là việc sáp nhập Trạm Thú y với các ngành khác và chuyển thành Trung tâm dịch vụ nông nghiệp (DVNN) thuộc UBND cấp huyện.

Theo đó, nhiều địa phương không bố trí nhân viên thú y xã. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng số người làm công tác thú y cấp xã đến cấp tỉnh đã bị cắt giảm, nghỉ việc đến thời điểm này đã lên tới 5.342 người.

Việc sáp nhập hệ thống thú y cũng khiến công tác đào tạo, tập huấn cho các cán thú y tuyến cơ sở về công tác phòng chống dịch bệnh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều nơi đã không còn thực hiện được do không còn hệ thống thú y các cấp.

Ở một số địa phương, chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, cấp huyện chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo và triển khai quyết liệt theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ và Bộ NN-PTNT; chưa tổ chức thông tin, hướng dẫn người dân thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch bệnh…

 

Mở rộng thị trường xuất khẩu

10 tháng đầu năm 2019, Bộ NN-PTNT đã chỉ đạo các cơ quan trực thuộc, phối hợp với các bộ ngành liên quan tiếp tục đẩy mạnh việc mở cửa thị trường cho các mặt hàng nông thủy sản XK.

Ảnh hưởng từ những khó khăn của thị trường Trung Quốc, tuy nhiên 10 tháng đầu năm 2019, XK nông lâm thủy sản vẫn duy trì tốt đà tăng trưởng.

Theo đó, đã gia tăng số DN được phép XK thủy sản sang EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Liên bang Nga, Ả rập Xê út, với tổng số 13 DN tiếp tục được XK cá da trơn vào Hoa Kỳ.

Đồng thời, mở rộng XK nông sản sang một số thị trường mới, đặc biệt là việc đàm phán, mở cửa cho măng cụt, sữa được XK sang thị trường Trung Quốc trong tháng 10/2019 theo kế hoạch đề ra… Nhờ đó, tổng kim ngạch XK nông lâm thủy sản 9 tháng đầu năm 2019 đạt 30,2 tỷ USD (tăng 2,7% so với cùng kỳ).

Bên cạnh đó, thời gian qua, Bộ NN-PTNT cũng đã hoàn thành đàm phán với cơ quan có thẩm quyền của Hồng Kông (Trung Quốc) để XK thịt lợn mảnh đông lạnh, thịt gà chế biến và tổ yến sang Hồng Kông.

 

Đối với thủy sản, bên cạnh việc duy trì ở những thị trường XK chủ lực, khó tính như EU, Mỹ, Hàn Quốc…, đến nay, riêng thị trường Trung Quốc đã chấp thuận NK từ Việt Nam 48 loài thủy sản sống và 128 loại sản phẩm thủy sản sơ chế, chế biến…

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nuôi dê bằng thảo dược nhàn tênh, nhanh giàu

Từng có việc làm và thu nhập ổn định nhưng khát vọng làm giàu đã hối thúc anh Nguyễn Minh Tuấn (thôn Như Lân, xã Long Hưng, huyện Văn Giang, Hưng Yên) quyết định về quê đầu tư trang trại chăn nuôi dê.

 

Sở dĩ anh Tuấn chọn con dê để khởi nghiệp làm giàu, vì dê là gia súc đặc sản, dễ nuôi, ít bệnh, phàm ăn, chi phí chăn nuôi thấp, hiệu quả sản xuất cao, có thể chăn thả để dê tự kiếm ăn hoặc nhốt chuồng cho ăn bán công nghiệp.

Nhờ vậy, chỉ sau gần 2 năm nuôi 50 con dê hậu bị bố mẹ, anh Tuấn đã nhân rộng được đàn dê lên hơn 400 con các loại. Từ giữa năm 2017 đến nay đã được bán dê giống và dê thịt, thu lãi bình quân gần 500 triệu đồng/năm, chưa kể nguồn thu từ bán phân dê cũng được vài chục triệu đồng. Chất thải này ủ kỹ với chế phẩm sinh học, rất phù hợp bón các loại hoa, cây cảnh.

Đàn dê về chuồng.

 

Đạt được thu nhập cao như trên là do, anh Tuấn biết khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế của làng quê, có nhiều cỏ non, lá cây mọc sẵn ven đường, bờ ruộng và gần trục các kênh sông… để chăn thả cho dê chủ động tìm ăn.

Đặc biệt, trong quá trình chăn nuôi, anh Tuấn còn cho dê ăn thêm một số lá cây thảo dược như cỏ ngọt, cỏ xước, đinh lăng, khổ sâm, kim ngân, ngưu tất, hồng ngọc, bồ công anh… vừa giúp tăng cường khả năng kháng bệnh cho dê, vừa gia tăng chất lượng thịt dê thương phẩm.

Nhờ cách chăn nuôi này, các loại dê của anh Tuấn bao giờ cũng bán được giá cao hơn sản phẩm cùng loại trên thị trường từ 10-15%, thậm chí còn đắt hơn nhiều loại dê thịt ở miền núi đưa về.

Kiểm nghiệm thực tế chăn nuôi anh Tuấn đã rút ra: Dê là loại ăn tạp, bên cạnh ăn các loại cỏ non là chính, dê còn ăn cả các lá cây chuối, táo, mít, ổi, xoài, mía, ngô, vối, dâu, so đũa, dâm bụt, sung, lộc vừng, bạch đàn, xà cừ, sanh, si… Đây chính là một trong những lý do để anh Tuấn bổ sung cho dê ăn thêm các lá cây thảo dược nói trên.

Dê đực được nhốt riêng.

 

Anh Tuấn còn bật mí: Nuôi dê rất nhàn, không bị áp lực thời gian lao động, tiết trời mát mẻ mới mang dê đi chăn, mưa gió, nắng nóng hoặc giá lạnh lùa dê về chuồng, mỗi ngày chỉ cần thả cho dê kiếm ăn 5-6 tiếng là đủ, 2 lao động cỏ thể quản lý được đàn dê 400-500 con, trong đó 1 người chuyên đi chăn, 1 người chuyên tẩy dọn vệ sinh chuồng trại.

Tham quan cơ ngơi khởi nghiệp làm giàu của anh Tuấn chúng tôi thấy: Trang trại ở đây được bố trí rất ngăn nắp và khoa học, có cây xanh chắn gió che nắng, có hồ nước điều hòa tiểu khí hậu, có giàn phun mưa trên mái trại và chuồng sàn cho dê ở, trong đó phân thành nhiều ngăn nhốt riêng dê đực, dê cái, dê thịt và dê nuôi hậu bị, ngoài ra còn có chế phẩm vi sinh để xử lý chất thải chăn nuôi. Nhờ vậy khắp trong và ngoài trại chăn nuôi luôn thân thiện môi trường, sạch sẽ, thoáng mát và không có mùi hôi thối khó chịu.

Nuôi nhốt dê trên sàn.

 

Mặc dù thường xuyên cho dê ăn thêm lá cây dược liệu, anh Tuấn vẫn định kỳ tẩy giun sán, vacxin phòng dịch đúng lịch thú y trên các bệnh chính (lở mồm long móng, tụ huyết trùng, hoại tử ruột và bệnh đậu). Tránh chăn thả dê ở các khu vực mới phun thuốc trừ cỏ.

Cho dê uống nước sạch sau mỗi lần đi chăn về. Các dụng cụ máng ăn, nước uống đều được tẩy rửa sạch sẽ thường xuyên. Vào các ngày thời tiết khắc nghiệt, không thể đưa dê ra chăn thả ngoài đồng, cần cho dê ăn cám viên công nghiệp chuyên dùng, kết hợp với một số lá cây đã giới thiệu ở phần trên.

Được biết, khi thấy anh Tuấn nuôi dê nhanh giàu, một số hộ ở thôn Lại Ốc (trong xã) đã đến tham quan học tập mô hình và mua con giống về đầu tư chăn nuôi.

“Thịt dê là thực phẩm sạch và bổ dưỡng, nên giá chỉ có tăng hoặc ổn định chứ chưa bao giờ giảm. Theo đó trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục mở rộng qui mô chuồng trại, nâng số lượng dê nuôi thường xuyên lên 600-700 con, kết hợp giữa chăn thả tự nhiên với nhốt chuồng nuôi thâm canh”, anh Tuấn cho hay.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Chế phẩm sinh học và thảo dược là tương lai của chăn nuôi

Những sản phẩm này không chỉ giúp tăng chất lượng, giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh mà còn xây dựng niềm tin cho người tiêu dùng, góp phần phát triển nền nông nghiệp sạch.

Giữa bối cảnh có nhiều bê bối về dư lượng hóa chất trong thực phẩm khiến cho con người ngày càng có biểu hiện kháng kháng sinh, nhiều bệnh truyền nhiễm trước đây có thể chữa trị trở nên kháng trị và lây lan thì việc sử dụng các chế phẩm sinh học, thảo dược là tương lai của ngành chăn nuôi, thủy sản.

Đi theo xu hướng ấy, mới đây tại huyện Ứng Hòa, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã tổ chức hội thảo “Ứng dụng chế phẩm sinh học và thảo dược trong Chăn nuôi, Thủy sản trên địa bàn Hà Nội”.

 

Các mô hình nổi bật

Phát biểu tại hội thảo, bà Vũ Thị Hương– Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội cho biết, năm 2019, đơn vị đã triển khai mô hình sử dụng thảo dược trong nuôi gà thả vườn và 3 dạng mô hình thủy sản là nuôi thủy sản theo hướng VietGAP, áp dụng công nghệ sông trong ao và nuôi chạch thương phẩm.

Phát biểu của Bà Vũ Thị Hương– Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội

 

Các mô hình đều hướng tới nền sản xuất nông nghiệp bền vững hạn chế sử dụng hóa chất, thuốc kháng sinh tạo ra sản phẩm an toàn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Mô hình sử dụng thảo dược trong chăn nuôi gà thả vườn, Trung tâm đã cấp 50.000 con gà mía 1 ngày tuổi (trong đó ngân sách Thành phố hỗ trợ 50%, 50% người dân đối ứng), hỗ trợ 50% thức ăn và 50% thảo dược (250 lít). Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn kỹ thuật nuôi, cách dùng thảo dược cho các hộ chăn nuôi.

Đến nay, sau 3 tháng nuôi, đàn gà khỏe mạnh, lông mượt, mã đẹp, tỷ lệ nuôi sống trung bình 95%, trọng lượng 1,7 – 1,8 kg/con, dự kiến đến lúc xuất bán gà đạt trọng lượng từ 2,1 – 2,2 kg/con. Với giá bán gà thảo dược từ 90.000 – 100.000 đồng/kg, lợi nhuận bình quân của 1.000 con gà đạt khoảng 60 triệu đồng.

Mô hình Nuôi thủy sản theo hướng VietGAP có quy mô 25ha với số lượng 375.000 con cá chép giống (trong đó hỗ trợ 50%, 50% người dân đối ứng), hỗ trợ 50% thức ăn và 50% chế phẩm sinh học (Aquaclear – S). Sau 5 tháng nuôi, cá trung bình đạt từ 0,7 – 1,5 kg/con, tỷ lệ sống đạt 81%. Năng suất dự kiến khi thu hoạch đạt hơn 12 tấn/ha, cho lãi 80 triệu đồng/ha, cao hơn 20% so với nuôi thông thường.

Đại diện cho các hộ nuôi thủy sản theo mô hình “Ứng dụng công nghệ sông trong ao” tại huyện Ứng Hòa, ông Đặng Văn Duân cho biết: “Trước đây, gia đình nuôi các loài cá truyền thống nhưng năng suất không cao. Môi trường ô nhiễm, thời tiết không thuận lợi, cá nuôi xuất hiện nhiều bệnh, thậm chí chết hàng loạt gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Với quy mô 1 ha, chúng tôi được hỗ trợ 50% con giống, thức ăn và chế phẩm sinh học. Đặc biệt, gia đình đã sử dụng chế phẩm sinh học vào việc xử lý môi trường và ủ men tỏi cho cá ăn định kỳ nhờ đó chúng ăn khỏe, lớn nhanh, đều con và hệ số tiêu tốn thức ăn ít hơn…”.

Bà Vũ Thị Hương khẳng định, việc ứng dụng chế phẩm sinh học và thảo dược góp phần phát triển nền nông nghiệp sạch, tăng hiệu quả kinh tế nông nghiệp, tăng sức cạnh tranh của nông nghiệp Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Đồng thời, đóng góp vào việc cung cấp các sản phẩm an toàn phục nhu cầu tiêu dùng.

“Nông nghiệp sạch giúp nông dân tăng thu nhập, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng tới xây dựng nông thôn mới bền vững. Tuy nhiên, việc sử dụng chế phẩm sinh học và thảo dược vẫn còn tồn tại một số hạn chế như sử dụng chưa đồng bộ và triệt để, giá cả chưa cao, chưa tạo được lòng tin của người tiêu dùng…

Vì vậy, người nuôi cần chú trọng đầu tư chuồng trại, ao nuôi đảm bảo. Các hộ cần nắm vững một số kiến thức cơ bản về môi trường nuôi, cách kiểm tra các chỉ số môi trường, kỹ thuật nuôi hiện đại. Đồng thời, tuân thủ nghiêm túc quy trình sử dụng các chế phẩm sinh học và thảo dược trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản”, bà Hương khuyến cáo.

 

Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững

Tại buổi hội thảo, bàn về giải pháp chăn nuôi bền vững, TS. Vũ Ngọc Sơn – nguyên GĐ Trung tâm Bảo tồn vật nuôi – Viện Chăn nuôi khẳng định, chăn nuôi bền vững là chăn nuôi an toàn sinh học đi đôi với sử dụng hợp lý chế phẩm sinh học.

Nuôi lợn an toàn sinh học

 

Chăn nuôi an toàn sinh học là áp dụng các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguy cơ mắc bệnh của vật nuôi cũng như sự lây lan mầm bệnh của ổ dịch. Sử dụng chế phẩm sinh học giúp vật nuôi tiêu hóa thức ăn tốt hơn, giảm lượng kháng sinh, cải thiện môi trường chuồng nuôi sạch sẽ. Từ đó, tạo ra nguồn thực phẩm sạch và an toàn.

Hiện nay, tổng giá trị GDP của ngành nông nghiệp ở Hà Nội chiếm 2,5%. Thu nhập mỗi năm hơn 40 nghìn tỷ. Nông nghiệp có sự chuyển dần sang chăn nuôi với tỷ lệ chiếm 55%. Trên cả nước, Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu về chăn nuôi.

Tuy nhiên, tính bền vững chưa cao, còn nhiều vấn đề cần giải quyết như các dịch bệnh như dịch tai xanh, dịch tả châu Phi ở lơn, dịch cúm ở gia cầm… Chất lượng sản phẩm nông nghiệp chưa đảm bảo an toàn cho người sử dụng.

Lý giải cụ thể về việc sử dụng chế phẩm sinh học giải quyết các vấn đề không an toàn trong chăn nuôi, TS. Vũ Ngọc Sơn cho rằng: Căn nguyên cơ bản nhất làm vật nuôi giảm sức đề kháng là ô nhiễm tiểu khí hậu chuồng nuôi khiến con vật ngạt thở, dẫn tới viêm đường hô hấp. Khi sử dụng chế phẩm sinh học sẽ giải quyết được vấn đề ô nhiễm chuồng nuôi.

Đồng thời, việc sử dụng thuốc thú ý để phòng và chữa bệnh cho vật nuôi cũng trở thành nguy cơ gây mất an toàn. Theo khảo sát, hiện nay tỷ lệ sử dụng thuốc thú y trong chăn nuôi chiếm 8 – 10%, trong khi chăn nuôi an toàn chỉ được phép chiếm 2 – 3%. Điều này gây ra sự tồn dư các chất kháng sinh trong thịt vượt mức cho phép. Do đó, sử dụng các hoạt chất sinh học sẽ thay thế dần kháng sinh trong chăn nuôi.

Ngoài ra, nếu muốn chăn nuôi sản phẩm hữu cơ, các hộ dân không được sử thuốc kháng sinh, thuốc trị bệnh, thuốc kích thích tăng trưởng dụng để làm thức ăn chăn nuôi. Thức ăn chăn nuôi không sử dụng sản phẩm biến đổi gen, thức ăn có nguồn đạm động vật như bột xương, bột thịt cá…

Hội thảo còn có tham luận của TS. Nguyễn Văn Năm, Giám đốc Công ty Công nghệ sinh học Việt Nam về vấn đề chăn nuôi an toàn sinh học.

TS. Nguyễn Văn Năm chia sẻ: Chế phẩm sinh học chứa các họa chất tăng cường miễn dịch tự nhiên giúp vật nuôi khỏe mạnh. Các kháng sinh thảo dược có nguồn gốc tự nhiên như Curcumin (chiết xuất nghệ), Allicin (chiết xuất tỏi, Berberin (cây Hoàng Liên, Hoàng Đằng) có tác dụng ức chế nhiều loại virus. Thay vì áp dụng các phương pháp mạnh như tiêu độc khử trùng bằng hóa chất, kháng sinh thì sử dụng chế phẩm sinh học hướng đến nền chăn nuôi và tiêu dùng an toàn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Thu nhập cao nhờ trồng Mít Thái kết hợp chăn nuôi Dê

Những năm gần đây, người dân trên địa bàn xã Long Tân, huyện Đất Đỏ (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã chuyển đổi từ trồng tiêu sang trồng mít Thái, tre lấy măng, nhãn, bơ… kết hợp chăn nuôi dê, bò mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình là hộ ông Lê Văn Vàng (ấp Tân Thuận) với mô hình trồng mít Thái, tận dụng lá mít làm nguồn thức ăn để phát triển đàn dê, cho thu nhập khá.

Trồng Mít Thái kết hợp chăn nuôi Dê

 

Ông Lê Văn Vàng (ấp Tân Thuận, xã Long Tân) đã tận dụng lá mít Thái để chăn nuôi đàn dê của gia đình, ổn định về kinh tế.

Trong căn nhà khang trang, nằm xen giữa màu xanh của những bụi tre cao vút và những cây mít trĩu quả, nhâm nhi ly trà nóng, chỉ tay ra phía sau vườn, ông Vàng vui vẻ cho biết: “Có được cơ ngơi như hôm nay cũng nhờ đàn dê và vườn mít Thái. Dê dễ nuôi, ít tốn công, thức ăn chủ yếu từ cây cỏ tự nhiên và lá mít có sẵn trong vườn”.

Theo ông Vàng, nhờ nguồn nước từ hồ Suối Môn, năm 2015, ông đã đầu tư trồng thử 100 cây mít Thái trên diện tích 1 sào, cho trái hơn 60kg/cây. Với giá hơn 20.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi gần 100 triệu đồng/năm từ loại cây ăn trái dễ trồng này.

“Các thương lái đến tận vườn của gia đình tôi thu mua. Nhờ cây mít Thái, gia đình tôi có thêm nguồn thu nhập hàng năm. Hiện nay, tôi đã mở rộng thêm diện tích 1ha, trồng 1.000 cây mít Thái. Vừa cắt tỉa được lá để nuôi dê, vừa tăng thêm nguồn thu nhập của gia đình”, ông nói.

Ông Vàng cho biết, ông chọn nuôi dê bách thảo và dê boer lai (nguồn gốc Nam Phi) vì dễ nuôi, lớn nhanh, khoảng 5 tháng là sinh sản. Lứa đầu mỗi dê mẹ sinh 1 con, từ lứa thứ 2 trở đi sẽ sinh từ 2-3 con. Dê con sau 4 tháng nuôi có trọng lượng khoảng 25kg là có thể bán. Giá dê giống từ 180-200 ngàn đồng/kg, dê thịt từ 130-145 ngàn đồng/kg hơi. Do biết cách chăm sóc nên đàn dê của gia đình ông không ngừng sinh sản, phát triển, đến nay đã có hơn 10 dê mẹ và đàn dê thịt hơn 30 con. Bình quân mỗi tháng ông Vàng thu hơn 10 triệu đồng từ bán dê thịt. “Thời gian tới, gia đình tôi sẽ nhân đàn lên 20 con dê sinh sản, liên kết với các cơ sở mua bán dê giống, dê thịt ở trong và ngoài tỉnh nhằm tạo đầu ra ổn định”, ông Vàng cho biết thêm.

Để thành công như hôm nay, ông Vàng không chỉ cần cù, chịu khó trong lao động mà còn là người tích cực tham gia các lớp tập huấn chăn nuôi, trồng trọt do Hội Nông dân các cấp tổ chức.

Ông Nguyễn Hồng Phúc, Chủ tịch UBND xã Long Tân cho biết: Hiện nay tổng đàn dê của xã có khoảng 672 con, tập trung nhiều nhất ở ấp Tân Thuận. Nhiều nông dân đã biết tận dụng mô hình trồng trọt và chăn nuôi kết hợp, điển hình như ông Vàng. Nhờ tận dụng được nguồn thức ăn dồi dào như lá mít, lá keo, cỏ để nuôi dê mà nhiều hộ dân đã cải thiện được cuộc sống, vươn lên làm giàu… Thực tế, mô hình này cần được nhân rộng vì phát huy hiệu quả kinh tế cao, vốn đầu tư ít và thị trường tiêu thụ khá dễ dàng.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nuôi vịt trời – một vốn bốn lời.

Suốt 30 năm làm nghề nuôi vịt thịt, ông vua “vịt” Nguyễn Thanh Tuyền (xã Lộc Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh) thấy nếu cứ mãi “cắm đầu” vào con vịt thịt, thì hệ số lãi suất không cao, nên đã ném cả chục tỷ đồng để lập trang trại vịt trời.

Vịt trời vào trang trại

Tiếp tôi tại bộ bàn đá đặt cạnh ao thả vịt trời, ông Tuyền thở phào: “Tôi vừa lên xã xin lập dự án nuôi vịt trời. Cán bộ xã bảo phải lập dự án mới vay tiền ngân hàng được. Ngày trước làm theo kiểu nông dân, thấy gì làm nấy, đâu cần làm dự án. Bây giờ thiếu tiền mới làm dự án để vay ngân hàng”. Ý định của ông Tuyền là sẽ vay ngân hàng vài ba tỷ đồng để mở rộng quy mô nuôi vịt trời.

Ông Nguyễn Thanh Tuyền cho đàn vịt trời 5 ngày tuổi ăn. Đây là số vịt trời giống ông triển khai cho siêu dự án vịt trời.

Nói về cái nghiệp nuôi vịt của mình, ông Tuyền nhớ lại: “Thuở thiếu thời tôi sống ở miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long nên không lạ gì con vịt trời. Thậm chí, tôi còn cùng chúng bạn rủ nhau đi săn vịt trời ngoài đồng ruộng, nên đã sớm ấp ủ tham vọng sẽ phải thuần hóa và nuôi bằng được loài vịt này”. Nhìn đàn vịt trời bố mẹ tới 1.500 con ông Tuyền đang thả trong ao, thi thoảng từng tốp bỗng đập cánh bay vù vù, tôi hỏi ông Tuyền: Nếu cả đàn vịt kia “sổ lồng” bay đi mất thì sao? Ông Tuyền cười lớn rồi nói: “Chúng đã được tôi thuần hóa hết rồi, thi thoảng mới có 5-10 con bay lạc mất thôi, chứ đã nuôi giống này mà lúc nào cũng lo nó bay đi mất thì hơi sức đâu mà lo”.

Để có chỗ nuôi giữ đàn vịt trời “khủng” trên, ông Tuyền đã “đổ” vào đây cả chục tỷ đồng để biến đầm lầy rộng 5ha thành trang trại.

Thấy tôi thắc mắc, thuần hóa được vịt trời đã đành, nhưng quan trọng lấy giống đâu để mà nuôi nhiều thế, ông Tuyền cười nói: “Đúng là thời gian đầu phải nói nôm na là đi nhặt nhạnh về nuôi. Tôi lần mò vô những xã vùng sâu, vùng xa của Long An, Đồng Tháp… mua mỗi lúc vài con vịt trời trong dân về làm giống. Họ bắt vịt trời Hoang dã từ đồng về cắt ngắn lông cánh để vịt không bay rồi nuôi như vịt nhà”.

Thấy cách tìm giống như thế “phiêu” quá, ông đã bắt xe ra ngoài Bắc, tìm về Bắc Giang rồi “tậu” một lúc hàng trăm con vịt trời giống. Theo ông Tuyền, nếu bình quân mỗi con bố mẹ có giá 1 triệu đồng như hiện nay, chỉ riêng đàn vịt trời giống của ông đã phải bỏ ra gần 2 tỷ đồng. Ngoài đàn vịt giống này, ông còn có hơn 15.000 vịt trời đang nuôi bán thịt. Hiện trong trang trại vịt trời của ông Tuyền luôn có 20 công nhân lo chăm sóc, ăn uống, xử lý nước cho đàn vịt trời với mức lương 3 triệu đồng/tháng.

Một vốn, bốn lời

Gần 30 năm nuôi vịt thịt, cuối cùng ông Tuyền cũng gác lại để chuyển sang đầu tư nuôi vịt trời. Đâu là nguyên nhân để vua “vịt” bám đuôi con vịt trời? Lý do, theo ông Tuyền là do giá cả vịt thịt thất thường lại hay bị dịch Bệnh nên nghề nuôi vịt khó phát triển, mà đầu tư nuôi vịt trời lại siêu lợi nhuận, dễ nuôi, nên ông đã chuyển đổi mô hình chăn nuôi để có hiệu quả hơn.

Để minh chứng cho tôi thấy lợi nhuận của nghề nuôi vịt trời, ông Tuyền đã phác thảo cho tôi vài con số. Theo ông Tuyền, nuôi một con vịt siêu thịt cùng một thời gian nuôi ăn thức ăn bằng 4 – 5 con vịt trời. Trong khi đó, khi bán một con vịt trời giá gấp 2 – 3 lần con vịt siêu thịt. “Vịt trời khá dễ nuôi. Thịt thơm, ngon, ngọt, xương nhuyễn hơn vịt thịt nên hiện thị trường rất ưa thích” – ông Tuyền chia sẻ.

Bình thường, để nuôi vịt trời, ông Tuyền thường chọn mua những con giống vài ba tuần tuổi, sau khi nuôi khoảng 3 -4 tháng, trọng lượng vịt trời có thể đạt hơn 1,3kg. Lúc này vịt có thể xuất chuồng với giá hiện thời là 250.000 – 300.000 đồng/con tại các nhà hàng, tiệm ăn. Trung bình, cứ 5 ngày trang trại của ông Tuyền có thể bán ra 3.000 con vịt trời, tương đương với số tiền thu về từ 750 – 900 triệu đồng. Như vậy mỗi tháng trang trại nhà ông Tuyền thu về trên dưới 4 tỷ đồng. Mặc dù bán được số lượng vịt lớn như vậy, nhưng ông Tuyền vẫn chưa hài lòng, vì theo ông, lượng vịt bán ra phải cao hơn nữa mới đạt yêu cầu về quy mô của trang trại. Được biết, với mỗi con vịt trời bán ra, chỉ cần với giá 100.000 đồng là đã hòa vốn, bởi tuy giá giống đắt, nhưng bù lại tiền thức ăn lại ít hơn hẳn so với vịt thịt.

Sau một thời gian tiếp cận thị trường Tây Ninh, Đồng nai… đến nay, ông Tuyền đang tìm cách bán vịt trời cho thị trường trọng điểm TP.HCM. Bởi theo ông, đây là thị trường chủ lực để triển khai một “siêu” dự án nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam sắp tới.

Siêu dự án vịt trời

Đến thời điểm này, ông Tuyền đang có 3 trại nuôi vịt trời. Theo dự tính, ngay sau Tết Nguyên đán, ông sẽ tăng đàn vịt trời lên khoảng 50.000 con. Tuy nhiên, đó không phải là “siêu” dự án mà ông đang dự tính triển khai. Bằng chứng là ông đang cho ương đàn vịt giống lên cả 100.000 con với 200 chuồng ương giống.

Trong khu vực ương vịt trời giống, hàng ngàn con vịt con từ vài ngày cho đến chục ngày tuổi lúc nhúc trong những chuồng ương. Những đàn vịt trời này một phần giúp ông thực hiện một dự án “khủng” nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam ở đất phương Nam. “Trước khi cho đám vịt con này tiếp nước, tiếp đất tôi phải cho tiêm ngừa đầy đủ” – ông Tuyền nói.

Theo kế hoạch ông sẽ hợp tác với 3 nông dân triển khai một dự án nuôi vịt trời rộng 1.000ha. “Chúng tôi đã thống nhất kế hoạch triển khai dự án này rồi. Trang trại sẽ có diện tích 1.000ha tại khu vực cạnh hồ Dầu Tiếng. Trong khu đất này có khá nhiều hố bom, những thung lũng có thể chứa nước nuôi vịt trời, kết hợp thả nuôi cá” – ông Tuyền cho biết. Bên cạnh đó, cũng theo ông Tuyền, sắp tới sẽ triển khai nuôi vịt trời bằng thảo dược chứ không nuôi bằng thức ăn thường như hiện nay. “Nhu cầu ăn chơi của người dân ngày càng đòi hỏi không những ngon mà còn độc đáo, nên tôi cũng phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm vịt trời của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường” – ông nói.

Để manh nha thực hiện “siêu” dự án vịt trời, từ lâu trong trang trại vịt trời của ông Tuyền lúc nào cũng có một chuyên gia người Đài Loan chuyên xử lý nước và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật với mức lương “khủng”. Tham vọng của ông Tuyền là sẽ chinh phục thị trường vịt trời cho toàn bộ các tỉnh miền Nam.

Nguồn: kythuatnuoitrong.edu.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ.

Sơ sinh là giai đoạn rất quan trọng vì bê phải thích nghi với cuộc sống bên ngoài cơ thể mẹ. Ngay sau khi sinh bê cần được quan tâm và chăm sóc của người chăn nuôi.

Bê con.

1. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê sơ sinh đến 7 ngày tuổi

a. Thức ăn: Sữa đầu rất quan trọng vì giúp tẩy sạch đường tiêu hóa, chứa nhiều kháng thể và các chất dinh dưỡng khác, làm tăng sức đề kháng của bê với các bệnh và tạo thuận lợi trong quá trình sinh trưởng và phát triển sau này. Hệ tiêu hóa của bê sơ sinh có khả năng hấp thu nguyên vẹn các chất từ sữa đầu vào máu, khả năng này giảm dần và đến 62 giờ sau khi sinh khả năng này bằng không. Vì vậy, bê cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất là 1-1,5 giờ sau khi sinh.

b. Chăm sóc và quản lý bê sơ sinh:

Khi mới sinh bê cần được cắt rốn. Rốn phải được cắt như sau: tay trái cầm cuống rốn đồng thời dùng ngón trỏ và ngón cái của tay phải vuốt mạnh rốn theo chiều từ cuống trở ra và cắt rốn ở khoảng cách 5 – 6cm, sau đó sát trùng chỗ cắt bằng cồn iốt 5%.

Vệ sinh cho bê sơ sinh: dùng giẻ lau, móc hết nhớt bẩn trong mũi, miệng bê, bóc móng. Để bò mẹ liếm hoặc dùng khăn, bao tải, rơm khô mềm lau toàn bộ cơ thể bê.

Sau khi sinh, trước lúc bê bú sữa đầu cần tiến hành cân khối lượng của bê, quan sát đặc điểm lông da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc miệng, tình hình sức khỏe, ăn uống, đi lại… để có chế độ nuôi dưỡng phù hợp và xác định hướng sử dụng sau này. Những thao tác này cần làm nhanh để bê được bú sữa đầu sớm.

Trong chăn nuôi bò thịt, sau khi sinh bê thường theo mẹ và bú mẹ trực tiếp theo nhu cầu. Thường trong những ngày đầu tiên cho bú 3 – 4 lần/ngày, về sau giảm xuống 2 lần/ngày.

Trường hợp phải nuôi bê ghép, cho từng con bú một và đảm bảo các bê đều được bú lượng sữa như nhau.

2. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ (sau sơ sinh đến cai sữa)

a. Thức ăn:

Sữa mẹ là loại thức ăn quan trọng nhất đối với bê trong giai đoạn này. Sữa mẹ có các chất dinh dưỡng tương đối hoàn chỉnh và phù hợp với yêu cầu sinh lý của bê. Đồng thời, khả năng tiêu hóa sữa của bê thường trên 95%. Cho nên cần sử dụng tối đa lượng sữa mẹ để nuôi bê. Trong tháng đầu tiên thức ăn chủ yếu của bê là sữa mẹ, các thức ăn khác chỉ là tập ăn.

Thức ăn tinh hỗn hợp: Có thể cho bê tập ăn từ lúc 15 – 20 ngày tuổi vì dạ cỏ phát triển chưa hoàn thiện nên loại thức ăn tinh hỗn hợp tập ăn phải có chất lượng tốt, hàm lượng protein cao. Lượng thức ăn tinh lúc đầu khoảng 0,2kg sau đó tăng dần lên 0,5kg (từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5).

Cỏ khô: Là loại thức ăn cần thiết vì nó kích thích sự phát triển của dạ cỏ và hoàn thiện hệ vi sinh vật dạ cỏ. Có thể tập cho bê ăn cỏ khô từ lúc 7 – 10 ngày bằng cách để cỏ khô chất lượng tốt vào xô treo trên cũi cho bê.

Cỏ tươi: Có thể tập cho ăn từ cuối tháng thứ nhất bằng cách bổ sung tại chuồng hoặc trực tiếp gặm trên bãi chăn.

Củ quả: Đây là loại thức ăn chứa nhiều bột đường, tương đối ngon miệng nên bê rất thích ăn. Tuy nhiên, vì bột đường dễ lên men nên không cho bê ăn quá sớm mà chỉ cho ăn từ tháng tuổi thứ 3 trở đi, khi cho ăn cần theo dõi phản ứng của đường tiêu hóa, nếu thấy bê bị ỉa chảy thì phải dừng lại.

Chất khoáng: Từ tháng thứ nhất đến tháng tuổi thứ 5 bê cần nhiều Ca và P, nên phải bổ sung thức ăn nhiều khoáng như: bột xương, bột đá vôi, bột vỏ sò… Đồng thời phải cho bê vận động dưới ánh sáng mặt trời để tăng tỷ lệ tiêu hóa và hấp thu Ca tránh bệnh còi xương.

Ngoài sữa mẹ và cỏ, cần bổ sung thức ăn khác nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cho bê trước khi cai sữa. Thành phần thức ăn bổ sung cho bê bú sữa tốt nhất là hỗn hợp các loại thức ăn hạt và thức ăn bổ sung protein-khoáng. Thành phần thức ăn bổ sung nên chứa: 2,4-2,6Mcal ME/kg, 13-16% protein thô, 0,7% Ca, 0,5% P, khoáng vi lượng, vitamin A, D và E. Để tăng tính ngon miệng cho thức ăn có thể bổ sung thêm cám 1 và rỉ mật.

b. Chăm sóc và quản lý:

– Hàng ngày cần quan sát đặc điểm lông, da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc, kiểm tra tình hình sức khỏe, bệnh tật của bê, vệ sinh tiêu độc chuồng nuôi và cũi bê.

– Đảm bảo đủ nước uống và hợp vệ sinh.

– Nơi nhốt bê con phải luôn khô ráo, đủ ánh sáng tự nhiên và có mái che.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech.

Kỹ thuật nuôi ong mật (ong nội- Apis cerana).

Những năm qua, nghề nuôi ong lấy mật phát triển mạnh với quy mô nông hộ. Để nuôi ong mật cho hiệu quả cao, người chăn nuôi cần chú trọng đến kỹ thuật nuôi từ khâu chọn giống, chọn địa điểm, tạo chúa….cho đến thu hoạch mật. Sau đây, Ban biên tập xin giới thiệu đến quý bạn đọc kỹ thuật nuôi ong mật (giống ong nội).

Ong mật.

I. Lựa chọn đàn ong giống

– Đàn ong giống phải có nguồn gốc rõ ràng; ong chúa dưới 6 tháng tuổi; không nhiễm bệnh ấu trùng; quân đậu kín 2 mặt cầu; bánh tổ mới, màu vàng và có đủ trứng, ấu trùng, nhộng, mật phấn dự trữ.

– Thùng và cầu ong đúng tiêu chuẩn về kích thước.

II. Kỹ thuật nuôi ong cơ bản

2.1. Chọn địa điểm nuôi ong

– Gần nguồn mật, phấn hoa, khoảng cách kiếm ăn hiệu quả từ tổ ong đến nguồn thức ăn khoảng 500 – 700 m.

– Chỗ đặt thùng ong cần bằng phẳng, khô ráo, mát về mùa hè, ấm về mùa đông, không ngập lụt về mùa mưa; trong điều kiện có đầy đủ nguồn mật, phấn nên bố trí đặt đàn ong với mật độ 40 đàn/ha, khoảng cách giữa các đàn tối thiểu 2 km đối với những đàn có quy mô tối đa 100 thùng.

2.2. Dụng cụ nuôi

– Thùng ong: Làm bằng gỗ khô hoặc nguyên liệu phù hợp, kích thước bên trong là 46,5 cm (dài) x 38 cm (rộng) x 24,5 cm (cao), có cửa sổ để thuận tiện khi di chuyển đàn ong.

– Dụng cụ khác: Mũ lưới, bộ tạo chúa, bộ gắn tầng chân, lưới lọc mật, dao cắt mật, thùng quay mật…

2.3. Tạo chúa

Mục đích: Tạo ra các ong chúa mới để nhân thêm đàn ong, thay ong chúa già, ong chúa của đàn bị bệnh.

* Phương pháp:

– Sử dụng mũ chúa chia đàn tự nhiên: Vào mùa ong chia đàn tự nhiên chọn các mũ chúa to, dài, thẳng, từ những đàn ong chia đàn đông quân nhiều cầu, khỏe mạnh. Dùng dao sắc cắt trên gốc mũ chúa 1,5 cm theo hình chữ V để gắn vào đàn ong cần thay chúa.

– Tạo chúa cấp tạo: Chọn đàn theo tiêu chuẩn: tụ đàn lớn, năng suất mật cao, không nhiễm bệnh ấu trùng, hiền lành để tạo chúa.

+ Tiến hành: Bắt chúa khỏi đàn, loại bỏ 1 – 2 cầu, sau 2 – 3 ngày kiểm tra loại bỏ tất cả các mũ chúa trên bề mặt bánh tổ và mũ chúa đã vít nắp, cho đàn ong ăn 3 – 4 tối liên tục, 9-10 ngày sau cắt những mũ chúa đã chín để sử dụng.

– Tạo chúa di trùng: Khi số đàn ong trong trại từ 10 đàn trở lên, tạo chúa theo phương pháp di trùng là cần thiết nhằm chủ động về thời gian, số lượng và chất lượng ong chúa.

+ Chuẩn bị dụng cụ tạo chúa: Quản chúa đường kính 7 – 7,5 cm, khung cầu tạo chúa, kim di trùng, sáp vít nắp…

+ Chọn đàn mẹ: Theo tiêu chuẩn đàn làm giống.

+ Chọn đàn nuôi dưỡng: Đông quân, không bị bệnh, dự trữ mật phấn nhiều, có biểu hiện chia đàn tự nhiên. Tách chúa khỏi đàn nuôi dưỡng và rũ bớt cầu để tăng cường ong thợ nuôi dưỡng ấu trùng ong chúa, cho ong ăn thêm.

Đưa ấu trùng vào chén sáp.

2.4. Chia đàn

– Chia đàn song song: Là chia 1 đàn ong ban đầu thành 2 đàn ong mới đặt song song với nhau cách đều vị trí ban đầu.

+ Tiến hành: Vào buổi chiều, những ngày thời tiết nắng ấm đem thùng không có ván ngắn đã vệ sinh sạch sẽ đặt cạnh đàn định chia, chia đều số cầu, số quân, số con (trứng, ấu trùng, nhộng) thức ăn về 2 đàn ong. Đặt 2 thùng ong song song với nhau về 2 bên và cách vị trí đàn cũ khoảng 20 – 30 cm, cần biết rõ ong chúa ở đàn nào để giới thiệu chúa vào đàn không chúa. Quan sát ong đi làm về, nếu đàn nào về nhiều cần dịch ra xa và đặt đàn kia gần lại. Trường hợp ong vẫn về 1 đàn sau khi điều chỉnh cần đổi vị trí 2 đàn cho nhau. Chú ý nếu chia đàn sử dụng mũ chúa, khi chúa tơ đã tập bay thì không được điều chỉnh vị trí đàn chia nữa.

– Chia đàn rời chỗ: Là phương pháp chia một nửa đàn ong giống như chia song song hoặc tách một phần đàn rồi chuyển đến chỗ mới cách vị trí đàn cũ khoảng 1 km trở lên.

+ Tiến hành: Mang thùng không đặt cạnh đàn định chia. Tách 1 nửa hoặc một phần đàn với các cầu có mật vít nắp, phấn và con, quân phủ kín cầu cho vào thùng đến nơi có địa hình quang đãng, nên để đàn giới thiệu mũ chúa lại, trường hợp giới thiệu mũ chúa vào đàn chuyển đi nên giới thiệu mũ chúa sau khi đàn ong đã được chuyển đến nơi mới.

2.5. Quản lý ong bốc bay và cho ăn bổ sung

– Ong bốc bay: Do bị thiếu thức ăn, bị các bệnh thối ấu trùng, bị các kẻ thù phá hoại như sâu ăn sáp, kiến, ong rừng, sai sót trong kỹ thuật quản lý như đặt nơi không phù hợp, đàn ong bị chấn động…

+ Đề phòng: Cần duy trì đàn ong có đủ mật, phấn dự trữ; phòng trừ địch hại kịp thời, viện cầu tiêu chuẩn cho đàn ong sắp bốc bay, thường xuyên kiểm tra đàn ong.

+ Khi đàn ong đã bốc bay, nhanh chóng bắt lại, đến tối rũ ong vào thùng đã chuẩn bị sẵn từ 1 đến 2 cẩu ong có mật vít nắp, phấn, trứng, ấu trùng, nhộng.

– Cho ong ăn bổ sung: Hàng năm vào tháng 7 – 8, tháng 1 – 2 ở phía Bắc và tháng 7 – 9 ở các tỉnh phía Nam, khi ngoài tự nhiên thiếu thức ăn hoặc do thời tiết xấu kéo dài ong không đi làm được, phải cho ong ăn bổ sung.

+ Cách cho ăn: Pha nước đường đặc, tỷ lệ 1,5 đường: 1 nước, cho ăn ít lần nhưng lượng nhiều, cho ăn 3 – 4 tối liên tục đến khi các lỗ mật vít nắp. Thông thường 1 đàn ong 3 cầu cho ăn khoảng 1 -1,5 kg đường kính trắng.

– Cho ong ăn kích thích: Khi thức ăn ở ngoài tự nhiên chỉ đủ duy trì, cho ong ăn kích thích để thúc ong chúa đẻ nhiều hơn, ong thợ tích cực kiếm ăn, xây cầu nhanh hơn…

+ Cách cho ăn: Pha nước đường loãng hơn, tỷ lệ 1 đường : 1 nước, cho ăn nhiều lần nhưng lượng ăn ít, mỗi tối đàn ong 3- 5 cầu, cho ăn khoảng 0,2 – 0,3 kg đường trong 2 – 3 tối, sau đó nghỉ 2 – 3 tối rồi lại cho ăn 2 – 3 tối nữa.

2.6. Thu hoạch mật ong

– Chuẩn bị dụng cụ: Rửa sạch, phơi khô máy quay mật, dao cắt vít nắp, lưới lọc mật, đồ chứa mật.

– Quay mật khi thấy ong đi làm nhiều, các bánh tổ có lỗ tổ mật vít nắp trắng, cơi cao (trên 70% lỗ tổ mật vít nắp), trên cây có khoảng 20 – 25% hoa nở.

– Nơi quay mật phải sạch sẽ.

– Nên quay vào buổi sáng để mật đặc hơn, không lẫn mật mới lấy về.

– Các bước thu hoạch mật:

+ Rũ ong khỏi cầu.

+ Dùng dao sắc hớt nhẹ vít nắp lỗ tổ mật, đưa dao từ dưới lên trên tránh làm vỡ các lỗ tổ.

+ Đặt các cầu đã cắt vít nắp vào khung máy quay; quay đều tay với tốc độ tăng dần, khi hết mật thì giảm dần tốc độ để bánh tổ không bị vỡ và ấu trùng không bị văng ra.

+ Trả bánh tổ đã quay vào đàn để ong ủ ấm ấu trùng.

+ Lọc mật bằng vải màn hoặc lưới inox có mặt lưới từ 8 đến 32 lỗ/cm2.

+ Bảo quản mật trong can, chai, có nút đậy kín; để nơi thoáng, mát; không để gần các chất có mùi như dầu hoả, mắm tôm,…

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Vĩnh Long: hiệu quả mô hình chăn nuôi gà thả vườn an toàn sinh học.

Để tăng thêm thu nhập cho nông dân các xã thuộc vùng khó khăn của tỉnh giai đoạn 2017-2020, Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long đã xây dựng dự án nhân rộng các mô hình khuyến nông có hiệu quả.

Gà giai đoạn 3 tháng tuổi.

Năm 2018, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai mô hình nuôi gà thả vườn an toàn sinh học tại 02 xã khó khăn: xã Loan Mỹ (huyện Tam Bình) và xã Tân Mỹ (huyện Trà Ôn) với qui mô 3.900 con/13 hộ. Tham gia mô hình, các hộ được hỗ trợ 100% con giống gà nòi lai (gà lông màu) 1 ngày tuổi (300 con/mô hình), 30% thức ăn và 2 kg chế phẩm sinh học/mô hình.

Trong quá trình nuôi, các hộ tham gia mô hình nhận thấy gà thích nghi tốt với chất đệm chuồng, đặc biệt gà con trong giai đoạn úm luôn ấm nhờ đệm lót sinh học lên men sinh nhiệt làm cho gà con khỏe mạnh, tỉ lệ nuôi sống đến xuất bán 94% (yêu cầu mô hình là 90%), tiêu tốn thức ăn trên kg tăng trọng là 2,7 kg, khối lượng cơ thể bình quân đạt 1,5 kg/con sau 3,5 tháng nuôi. Với giá bán 80.000 đồng/kg, trừ chi phí, mỗi mô hình thu lãi 8,7 triệu đồng. Như vậy, ước tổng lợi nhuận thu được từ 13 hộ khoảng 113.100.000 đồng.

So với các hộ nuôi thả tự nhiên thì mô hình nuôi gà an toàn sinh học hạn chế được dịch bệnh do mô hình đáp ứng đủ các điều kiện từ khâu chọn giống tốt, tiêm ngừa dịch bệnh, chăm sóc. Sau 02 năm thực hiện mô hình đã có khoảng 10 hộ ngoài mô hình áp dụng nuôi với quy mô 100-500 con. Nhiều và con nông dân cũng chia sẻ sẽ chọn lựa nuôi gà an toàn sinh học là hướng sản xuất nông nghiệp của gia đình .

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.