Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ.

Sơ sinh là giai đoạn rất quan trọng vì bê phải thích nghi với cuộc sống bên ngoài cơ thể mẹ. Ngay sau khi sinh bê cần được quan tâm và chăm sóc của người chăn nuôi.

Bê con.

1. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê sơ sinh đến 7 ngày tuổi

a. Thức ăn: Sữa đầu rất quan trọng vì giúp tẩy sạch đường tiêu hóa, chứa nhiều kháng thể và các chất dinh dưỡng khác, làm tăng sức đề kháng của bê với các bệnh và tạo thuận lợi trong quá trình sinh trưởng và phát triển sau này. Hệ tiêu hóa của bê sơ sinh có khả năng hấp thu nguyên vẹn các chất từ sữa đầu vào máu, khả năng này giảm dần và đến 62 giờ sau khi sinh khả năng này bằng không. Vì vậy, bê cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất là 1-1,5 giờ sau khi sinh.

b. Chăm sóc và quản lý bê sơ sinh:

Khi mới sinh bê cần được cắt rốn. Rốn phải được cắt như sau: tay trái cầm cuống rốn đồng thời dùng ngón trỏ và ngón cái của tay phải vuốt mạnh rốn theo chiều từ cuống trở ra và cắt rốn ở khoảng cách 5 – 6cm, sau đó sát trùng chỗ cắt bằng cồn iốt 5%.

Vệ sinh cho bê sơ sinh: dùng giẻ lau, móc hết nhớt bẩn trong mũi, miệng bê, bóc móng. Để bò mẹ liếm hoặc dùng khăn, bao tải, rơm khô mềm lau toàn bộ cơ thể bê.

Sau khi sinh, trước lúc bê bú sữa đầu cần tiến hành cân khối lượng của bê, quan sát đặc điểm lông da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc miệng, tình hình sức khỏe, ăn uống, đi lại… để có chế độ nuôi dưỡng phù hợp và xác định hướng sử dụng sau này. Những thao tác này cần làm nhanh để bê được bú sữa đầu sớm.

Trong chăn nuôi bò thịt, sau khi sinh bê thường theo mẹ và bú mẹ trực tiếp theo nhu cầu. Thường trong những ngày đầu tiên cho bú 3 – 4 lần/ngày, về sau giảm xuống 2 lần/ngày.

Trường hợp phải nuôi bê ghép, cho từng con bú một và đảm bảo các bê đều được bú lượng sữa như nhau.

2. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng bê theo mẹ (sau sơ sinh đến cai sữa)

a. Thức ăn:

Sữa mẹ là loại thức ăn quan trọng nhất đối với bê trong giai đoạn này. Sữa mẹ có các chất dinh dưỡng tương đối hoàn chỉnh và phù hợp với yêu cầu sinh lý của bê. Đồng thời, khả năng tiêu hóa sữa của bê thường trên 95%. Cho nên cần sử dụng tối đa lượng sữa mẹ để nuôi bê. Trong tháng đầu tiên thức ăn chủ yếu của bê là sữa mẹ, các thức ăn khác chỉ là tập ăn.

Thức ăn tinh hỗn hợp: Có thể cho bê tập ăn từ lúc 15 – 20 ngày tuổi vì dạ cỏ phát triển chưa hoàn thiện nên loại thức ăn tinh hỗn hợp tập ăn phải có chất lượng tốt, hàm lượng protein cao. Lượng thức ăn tinh lúc đầu khoảng 0,2kg sau đó tăng dần lên 0,5kg (từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5).

Cỏ khô: Là loại thức ăn cần thiết vì nó kích thích sự phát triển của dạ cỏ và hoàn thiện hệ vi sinh vật dạ cỏ. Có thể tập cho bê ăn cỏ khô từ lúc 7 – 10 ngày bằng cách để cỏ khô chất lượng tốt vào xô treo trên cũi cho bê.

Cỏ tươi: Có thể tập cho ăn từ cuối tháng thứ nhất bằng cách bổ sung tại chuồng hoặc trực tiếp gặm trên bãi chăn.

Củ quả: Đây là loại thức ăn chứa nhiều bột đường, tương đối ngon miệng nên bê rất thích ăn. Tuy nhiên, vì bột đường dễ lên men nên không cho bê ăn quá sớm mà chỉ cho ăn từ tháng tuổi thứ 3 trở đi, khi cho ăn cần theo dõi phản ứng của đường tiêu hóa, nếu thấy bê bị ỉa chảy thì phải dừng lại.

Chất khoáng: Từ tháng thứ nhất đến tháng tuổi thứ 5 bê cần nhiều Ca và P, nên phải bổ sung thức ăn nhiều khoáng như: bột xương, bột đá vôi, bột vỏ sò… Đồng thời phải cho bê vận động dưới ánh sáng mặt trời để tăng tỷ lệ tiêu hóa và hấp thu Ca tránh bệnh còi xương.

Ngoài sữa mẹ và cỏ, cần bổ sung thức ăn khác nhằm cung cấp thêm dinh dưỡng cho bê trước khi cai sữa. Thành phần thức ăn bổ sung cho bê bú sữa tốt nhất là hỗn hợp các loại thức ăn hạt và thức ăn bổ sung protein-khoáng. Thành phần thức ăn bổ sung nên chứa: 2,4-2,6Mcal ME/kg, 13-16% protein thô, 0,7% Ca, 0,5% P, khoáng vi lượng, vitamin A, D và E. Để tăng tính ngon miệng cho thức ăn có thể bổ sung thêm cám 1 và rỉ mật.

b. Chăm sóc và quản lý:

– Hàng ngày cần quan sát đặc điểm lông, da, phản xạ mút bú, răng, niêm mạc, kiểm tra tình hình sức khỏe, bệnh tật của bê, vệ sinh tiêu độc chuồng nuôi và cũi bê.

– Đảm bảo đủ nước uống và hợp vệ sinh.

– Nơi nhốt bê con phải luôn khô ráo, đủ ánh sáng tự nhiên và có mái che.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech.

Bò ngoại về Việt Nam: Ngành chăn nuôi nội địa phải giảm giá thành

Khi số lượng bò Australia được về tăng mạnh, thậm chí người ta đã dự báo đến cái chết của ngành chăn nuôi gia súc lớn, cụ thể là bò thịt ở trong nước.

Đó là thời điểm năm 2013 – 2014, 7 tháng đầu năm 2014, Việt Nam nhập về khoảng 120.000 con bò Australia, cao gấp 4 lần cùng kỳ và nhiều hơn gần 50% cả năm 2013. Thời điểm đó, người ta đánh giá, tốc độ nhập bò Australia vào Việt Nam tăng khủng khiếp, bởi năm 2012 mới có 3.000 con, qua năm 2013 đã vọt lên 67.000 con. Ngay lập tức, bò Australia đã thống trị, đánh bật bò nội ra khỏi các cửa hàng, siêu thị, quán ăn.

Cơn bão nhập khẩu bò Australia qua lại đến sự đổ bộ của thịt bò từ các thị trường lớn, giàu tiềm năng khi các hiệp định thương mại tự do cho phép sự cởi mở, thông thoáng trong lưu thông hàng hóa, một lần nữa đàn bò trong nước lại bị đe dọa.

Theo thống kê, đàn bò thịt trong cả nước luôn tăng trưởng trong 3 năm qua. Năm 2015 cả nước có 5.367.078 con bò, đến năm 2016 đạt 5.496.557 con; năm 2017 tăng lên 5.654.901 con. Nhưng trong khoảng 2 năm trở lại đây, người nuôi bò gặp nhiều khó khăn do từ đầu năm 2017 đến nay, giá bò thịt rớt thê thảm.

Một lái buôn bò ở Ninh Thuận cho biết, giá bò lai đẹp trước đây có giá 20-21 triệu đồng/con, nay hạ còn 7-8 triệu đồng/con. Không chỉ ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, giá bò thịt cũng giảm mạnh ở khu vực ĐBSCL, khiến đàn bò ở An Giang, vốn là địa phương có thế mạnh về chăn nuôi bò, nuôi bò được coi là nghề truyền thống, đã giảm mạnh, hiện tỉnh này có 77.822 con bò, giảm 13.572 con so với cùng kỳ. Một trong những lý do khiến giá bò thịt trong nước giảm là do không cạnh tranh được với thịt bò nhập khẩu giá rẻ.

Theo Cục Chăn nuôi, mục tiêu tới năm 2030, đàn gia súc lớn của nước ta sẽ đạt 8 triệu con và sản lượng thịt bò chiếm 10% tổng sản lượng thịt hơi. Tổng đàn bò sữa đạt 700.000 con, tổng sản lượng sữa đạt 2 triệu tấn. Số lượng đàn trâu ổn định ở mức 2,5 triệu con, sản lượng thịt đạt 127.000 tấn. Nhưng để đạt được mục tiêu này trong bối cảnh nhiều mặt hàng thịt ngoại đổ bộ ồ ạt là không hề dễ dàng nếu chúng ta không thay đổi phương thức chăn nuôi.

PGS-TS Hoàng Kim Giao-Chủ tịch Hiệp hội Gia súc lớn Việt Nam cho biết, điểm yếu cố hữu của ngành chăn nuôi gia súc lớn ở Việt Nam là quy mô nông hộ, nhỏ lẻ, giá thành cao.

“Một trong những khó khăn lớn nhất mà ngành chăn nuôi gia súc lớn nước ta gặp phải đó là sự liên doanh, liên kết giữa người chăn nuôi với các cơ sở thu mua giết mổ, chế biến thịt chưa bền chặt, đôi khi có sự bất hòa về lợi nhuận. Đặc biệt, chăn nuôi, quản lý theo chuỗi, theo ngành hàng từ trang trại đến bàn ăn chưa thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chỉ ở một, hai khâu trong chuỗi nên không hiệu quả, đảm bảo sự bền vững” – ông Giao nêu một thực tế trong hội thảo về ngành chăn nuôi gia súc lớn hồi tháng 10.

Trong khi đó, Cục Chăn nuôi cho rằng, ngành chăn nuôi bò cần giảm được giá thành, nếu không sẽ không thể phát triển. Để giảm giá thành, cần phải xác định nuôi bò ở những vùng có lợi thế về không gian, về vùng trồng cỏ và phải coi bò như một phần của một chuỗi nông nghiệp khép kín. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để nuôi bò,  tái tạo phân bò thành phân bón cho cây trồng, đặc biệt phải liên kết với doanh nghiệp  để đảm bảo đầu ra thì mới hạ giá thành, đảm bảo sự bền vững.

Để phát triển chuỗi gia súc lớn thực sự hiệu quả, nên tập trung chủ yếu vào 3 nhóm giải pháp: Tăng cường ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất theo chuỗi; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển chuỗi giá trị sản phẩm gia súc lớn theo hướng công nghệ cao.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Việt Nam là điểm đến của các nhà xuất khẩu bò

Theo Cục Chăn nuôi – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện đàn bò của cả nước đạt khoảng 5,4 triệu con, giảm 14,7% so với 10 năm trước (2008) nhưng sản lượng thịt giết mổ tăng 43,4% nhờ năng suất tăng. Tuy vậy, vẫn không đủ cung ứng cho thị trường nội địa.

Theo ông Michael Patching, Giám đốc dịch vụ khu vực châu Á – Thái Bình Dương Hiệp hội Thịt và Gia súc Úc (MLA), Việt Nam đang trở thành điểm đến của các nhà xuất khẩu bò trên thế giới. “MLA chính thức có mặt tại Việt Nam 3 năm trước, khi thị trường thịt bò tại Việt Nam rất sơ khai, không được quan tâm và chưa có điều kiện công nghiệp hóa. Ngành thịt bò của Việt Nam đang có tiêu chuẩn rất thấp nên các doanh nghiệp muốn cải tiến rất khó để bắt đầu. Các hiện tượng như bò bị bơm nước, thịt bò giết mổ xong để dưới sàn mất vệ sinh rất phổ biến. Người ta dễ thấy thịt bò nhập khẩu được vận chuyển bằng xe máy thô sơ” – ông Michael nhận xét.

Ông Michael cho biết ở thị trường Việt Nam, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi sản phẩm an toàn và đáng tin cậy hơn, giá cả không phải là yếu tố quá quan trọng. Bằng chứng là thịt trâu Ấn Độ (giá rẻ, thường được bán như thịt bò – PV) nhập khẩu có xu hướng giảm, trong khi bò nhập khẩu từ Mỹ và Úc đang tăng.

Thống kê cho thấy những năm gần đây, Việt Nam đều phải nhập khẩu thêm bò sống (chính ngạch từ Úc và biên mậu từ các nước lân cận) và bò đã qua giết mổ từ Úc, Mỹ… Đối với bò sống từ Úc, mỗi năm Việt Nam nhập khẩu đến 200.000 con. Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy trong 8 tháng đầu năm 2018, Việt Nam nhập hơn 24.000 tấn thịt bò các loại với trị giá gần 91 triệu USD. Như vậy, bình quân mỗi tháng Việt Nam phải chi ra gần 11,4 triệu USD để nhập khẩu mặt hàng này, tức khoảng 87.000 đồng/kg. Tuy nhiên, chủ một doanh nghiệp nhập khẩu thịt bò cho biết mức giá trên có thể chỉ là trên “giấy tờ” chứ không phải thực tế. “Hiện thịt bò nhập từ Mỹ đang chịu thuế từ 7%-18% tùy loại nên một số doanh nghiệp cố tình khai giá thấp để giảm thuế phải nộp” – ông này nêu.

Khảo sát tại các cửa hàng bán thịt bò nhập khẩu tại TP HCM cho thấy giá bán lẻ thịt bò Mỹ ở mức khá cao như: thăn nội 850.000 đồng/kg, thăn vai 650.000 đồng/kg, thăn ngoại 530.000 đồng/kg…

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở gia súc trong mùa rét

Để gia súc có sức đề kháng tốt, người chăn nuôi cần tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng trâu bò, đặc biệt trong mùa mưa, rét.

A. Bệnh lở mồm long móng (FMD): Là một bệnh cấp tính nguy hiểm và lây lan rất nhanh

1. Nguyên nhân: Bệnh do vi-rút thuộc họ Picorna Viridae gây ra, vi-rút có nhiều type khác nhau, vi-rút tuýp O,A Asia 1 ở cả bò và lợn

2. Triệu chứng

– Trâu bò nung bệnh từ 2 – 7 ngày, đôi khi kéo dài 14 ngày. Con vật sốt cao 40 – 410C, ăn ít, uống nước nhiều, nước dãi từ miệng chảy ra như bọt xà phòng. Sau khi con vật sốt 2 – 3 ngày bắt đầu xuất hiện các mụn nước ở niêm mạc lưỡi, hàm trên, miệng, mũi. Mụn ở chân móng và kẽ móng làm cho con vật đi lại khó khăn.

– Các mụn nước lớn lên và vỡ ra tạo thành những nốt loét đỏ. Các nốt loét ở chân do thường xuyên tiếp xúc với môi trường bẩn nên có thể bị nhiễm trùng, gây ra bong móng, làm cho con vật đi đứng khó khăn hoặc nằm một chỗ. Ngoài ra các mụn nước còn mọc ở vú, nách, bụng gây các vết loét tương tự.

Kẽ ngón chân trâu, bò bị loét trong bệnh lở mồm long móng

3. Phòng bệnh

– Thực hiện tốt vệ sinh thú y, giữ gìn chuồng khô sạch và ấm. Thực hiện định kỳ tiêu độc khử trùng, ủ phân sinh học.

– Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng trâu bò, đặc biệt trong mùa mưa, rét. Bổ sung thức ăn tinh và thức ăn thô xanh.

– Tiêm vắc-xin lở mồm long móng 6 tháng/lần. Khi nghi ngờ gia súc mắc bệnh cần báo ngay cho cơ quan thú y gần nhất để được hướng dẫn cách xử lý.

– Kiểm dịch nghiêm ngặt khi xuất nhập khẩu trâu, bò để loại trừ những con mang mầm bệnh.

4. Điều trị

Chưa có thuốc đặc trị. Điều trị các triệu chứng như sau:

– Dùng các chất sát trùng nhẹ (xanh metylen, thuốc tím 1%), nước chanh, nước khế… để rửa, sát trùng các chỗ lở loét;

– Dùng nước sắc các loại như: ổi, chè xanh… để rửa các vết loét;

– Dùng thuốc trợ sức, trợ lực: bổ sung vitamin, khoáng chất;

– Dùng kháng sinh để chống các bệnh nhiễm trùng kế phát.

B. Bệnh tụ huyết trùng (Pasteurellosis bovum)

Bệnh tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, xảy ra trên khắp cả nước nhưng hay gặp ở các tỉnh miền núi.

1. Nguyên nhân

Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella multocida với các tuýp A,B,D,E gây ra. Vi khuẩn có sẵn trong đất, rất dễ phát tán vào mùa mưa, dính vào rơm, cỏ hoặc trôi vào nguồn nước, trâu, bò mắc bệnh do ăn phải thức ăn hoặc uống phải nước bị nhiễm khuẩn.

Bệnh cũng có thể lây lan trực tiếp từ gia súc bệnh sang gia súc khỏe thông qua tiếp xúc, nhốt chung chuồng, chung nguồn thức ăn, nước uống, chăn thả cùng bãi chăn hoặc có thể do dùng chung dụng cụ chăn nuôi… Bệnh có thể lan xa do việc mổ thịt gia súc ốm, phân tán thịt da, ăn thịt gia súc bệnh bị chết, bị giết mổ.

2. Triệu chứng và bệnh tích

Trâu bò thường mắc bệnh ở 3 thể: thể quá cấp tính, thể cấp tính và thể mãn tính.

+ Thể quá cấp: Thường ít gặp, trâu bò đột nhiên sốt cao (41 – 420C), hung dữ, bệnh phát rất nhanh và chúng có thể chết sau 24 giờ. Trâu bò chết đột ngột ngay trên bãi chăn hoặc trong chuồng, không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Với bê, nghé triệu chứng thần kinh rõ hơn, con vật giãy giụa, ngã vật xuống rồi chết.

+ Thể cấp tính phổ biến ở trâu, bò. Bệnh tiến triển trong 3 – 5 ngày, tỷ lệ chết rất cao: 90 – 100%. Sau thời kỳ nung bệnh 1 – 3 ngày, con vật có biểu hiện không nhai lại, sốt cao đột ngột 40 – 420C, khó thở và thở mạnh. Các hạch lâm ba đều sưng, đặc biệt là hạch lâm ba dưới hầu sưng to, làm con vật thở khó, lè lưỡi ra để thở nên còn gọi là “bệnh trâu bò hai lưỡi”. Hạch lâm ba trước vai, trước đùi sưng, thủy thũng làm con vật đi lại khó khăn.

Trâu, bò biểu hiện thở khó do viêm màng phổi, tràn dịch màng phổi, viêm phổi cấp tính. Một số con bị bệnh thể đường ruột: bụng chướng to do viêm phúc mạc. Con vật lúc đầu đi táo, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân có lẫn máu và niêm mạc ruột. Lúc sắp chết, thấy bò nằm liệt, đái ra máu, khó thở, có nhiều chấm xuất huyết đỏ sẫm ở các niêm mạc. Nếu bệnh chuyển sang nhiễm trùng máu thì con vật chết nhanh trong 24 – 36 giờ.

+ Thể mãn tính xuất hiện ở những con mắc bệnh thể cấp tính không chết, bệnh sẽ chuyển thành mãn tính. Bệnh biểu hiện với các triệu chứng: viêm ruột mãn tính (lúc ỉa chảy, lúc táo bón), viêm phế quản và viêm phổi mãn tính, viêm khớp và con vật đi lại khó khăn, giảm ăn, gầy nhanh.

Bệnh tiến triển trong vòng vài tuần, các triệu chứng có thể nhẹ dần và con vật khỏi bệnh, nhưng thông thường con vật khó qua khỏi.

3. Phòng bệnh

– Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, bãi chăn: tiêu độc, tẩy uế chuồng trại bằng nước vôi 10% hoặc bằng các thuốc sát trùng khác, khơi thông cống rãnh quanh chuồng, bãi chăn để hạn chế sự tồn tại của mầm bệnh trong tự nhiên.

Khi có dịch xảy ra cần phát hiện kịp thời những con ốm để cách ly và điều trị. Nghiêm cấm không cho vận chuyển, giết mổ, trâu, bò chết phải được chôn sâu, đổ vôi bột vào hố chôn, tẩy uế chuồng trại, bãi chăn, ủ phân có trộn vôi bột để tiêu diệt mầm bệnh.

Tiêm phòng vắc-xin tụ huyết trùng 6 tháng/lần. Tiêm phòng vào tháng 3 – 4 và tháng 9 – 10 trước khi giao mùa.

– Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh phòng bệnh nhất là trong lúc giao mùa và thời gian bị ngập lũ hoặc mưa rét.

4. Điều trị

Do đặc điểm bệnh thường xảy ra ở dạng cấp tính nên cần phát hiện sớm, cách ly và điều trị kịp thời mới hiệu quả.

Điều trị bằng kháng sinh Streptomycin, Kanamycin, liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Con vật sốt cao tiêm thuốc hạ sốt. Tăng cường trợ sức trợ lực bằng cafein, vitamin C, vitamin B1. Con vật quá yếu, bỏ ăn cần truyền huyết thanh. Tăng cường hộ lý chăm sóc, dinh dưỡng.

C. Bệnh cước chân ở trâu, bò

1. Nguyên nhân

Do thời tiết lạnh, vùng núi cao thường xuyên có băng giá và sương muối, nhiệt độ xuống dưới 100C làm cho đàn trâu, bò dễ mắc bệnh cước chân.

Thời tiết lạnh, trâu, bò phải đứng và nằm trong chuồng nuôi ẩm, ướt, lầy thụt mất vệ sinh, trâu, bò phải làm việc ngâm chân lâu trong nước lạnh làm cho hệ thống mao mạch ở chân trâu, bò bị co lại gây trở ngại cho việc lưu thông máu. Nếu tiếp diễn khoảng 2 – 3 ngày hệ thống mao mạch ở chân trâu, bò bị tắc từng đám dẫn đến hiện tượng phù nề xung quanh móng chân, bàn chân, cổ chân, làm cho trâu bò đau đớn không đi lại được.

2. Triệu chứng

Giai đoạn mới mắc bệnh, chân trâu, bò sưng nhẹ làm cho con vật đi lại chậm chạp, khập khiễng. Nếu không được điều trị kịp thời, chân sẽ có biểu hiện phù nề, sưng tấy, nhiều vết tím đỏ hoặc có vết nứt da, rỉ nước màu vàng, nếu ấn tay vào chỗ sưng khi bỏ tay ra thấy rõ vết lõm sâu là do hệ thống mạch máu ở vùng bàn chân đã bị tắc làm cho vùng da xung quanh móng và bàn chân bị hoại tử nặng. Chân trâu, bò bị nhiễm trùng kế phát khiến cho trâu, bò không đứng dậy đi lại được, nếu vết thương sâu làm cho trâu, bò bị què phải nằm tại chỗ.

Bệnh cước chân ở trâu, bò tuy không phải bệnh truyền nhiễm nhưng có thể xảy ra hàng loạt gây ảnh hưởng lớn đến việc cày kéo và vận chuyển. Trâu, bò giảm tăng trọng và giảm sức đề kháng, dễ gây nhiễm các bệnh kế phát.

3. Phòng bệnh

– Những ngày thời tiết giá lạnh (dưới 120C) không chăn thả trâu, bò ở ngoài trời, cần cho trâu, bò nghỉ cày kéo. Di chuyển đàn trâu, bò ra khỏi khu vực núi cao, dồn chúng về chỗ nuôi nhốt để dễ kiểm soát.

– Luôn giữ chuồng trại khô ráo, sạch sẽ, che chắn kín gió, giữ ấm cho gia súc và đảm bảo vệ sinh chuồng nuôi. Dự trữ đủ thức ăn (rơm rạ, cỏ khô) cho trâu, bò ăn uống đầy đủ và bổ sung thức ăn tinh như cám gạo, bột ngô, sắn với lượng khoảng 2 kg thức ăn tinh/ngày.

Thường xuyên quan sát đi lại của trâu, bò, nếu thấy hiện tượng như đã nêu ở phần triệu chứng cần có phương pháp điều trị kịp thời để trâu, bò nhanh bình phục.

– Dùng vật liệu giữ ấm cho gia súc như: Làm áo khoác bằng bao tải hoặc có thể nâng nhiệt độ chuồng nuôi bằng cách đốt than, trấu, củi,… để sưởi ấm cho trâu, bò (lưu ý khi đốt cần có ống khói ra ngoài để tránh trâu, bò bị ngạt).

– Thực hiện tiêm phòng đầy đủ các bệnh và tẩy ký sinh trùng định kỳ cho đàn trâu, bò trước mùa mưa rét. Định kỳ vệ sinh, khử trùng tiêu độc chuồng trại, môi trường chăn nuôi

4. Điều trị

Nếu bệnh mới xuất hiện cần rửa sạch, lau khô chân trâu, bò, dùng gừng, riềng giã nhỏ, sao nóng cho vào túi vải rồi chườm vào chỗ sưng hoặc dùng rơm rạ, bao tải… trà xát nhiền lần vào chỗ sưng làm cho máu tụ tan ra, mạch máu lưu thông trở lại, mỗi ngày chườm 2 lần. Dùng cồn Methylxalixilate xoa vào chân trâu, bò sau khi đã rửa sạch, lau khô. Không để trâu bò nằm lâu một bên sẽ gây hoại tử phần da tiếp súc xuống nền chuồng.

Nếu chân có chỗ bị vỡ, loét đã nhiễm trùng phải rửa sạch bằng dung dịch thuốc tím, sau đó rắc bột Tetracylin hoặc Sunfamid.

Nếu chân có nhiều chỗ hoại tử cần cắt bỏ những tổ chức hoại tử, sau đó điều trị kháng sinh liên tục trong 5 – 7 ngày. Tiêm kháng sinh (Pen – Strep; Ampicillin…) theo liều lượng của nhà sản xuất. Tăng cường trợ sức trợ lực bằng Cafein, vitamin C, vitamin B1. Tăng cường chăm sóc, dinh dưỡng. Giữ cho trâu, bò trên nền chuồng khô ráo, sạch và ấm.

Nguồn: PGĐ. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Biện pháp chăm sóc, quản lý Trâu, Bò trong vụ rét

Để tránh những thiệt hại nặng nề cho đàn trâu, bò trong vụ rét, người chăn nuôi cần chủ động thực hiện biện pháp chăm sóc, quản lý đàn trâu, bò như sau:

1. Thường xuyên theo dõi thời tiết

Trước những diễn biến về khí tượng thủy văn ngày càng phức tạp thì người chăn nuôi cần thường xuyên theo dõi bản tin dự báo thời tiết để có kế hoạch phòng, chống rét cho trâu, bò đạt hiệu quả cao. Trên thực tế, nguyên nhân gia súc chết rét một phần là do khí hậu lạnh giá khắc nghiệt, nhưng phần lớn là do thói quen thả rông gia súc trong rừng của người dân miền núi.

2. Quản lý đàn trâu, bò

Những ngày trời rét, nhiệt độ xuống dưới 150C nên đưa trâu, bò về nuôi nhốt tại chuồng, không nên chăn thả. Khi nhiệt độ xuống dưới 120C không cho gia súc làm việc (cày, kéo…). Trong trường hợp đặc biệt nếu bắt buộc phải đưa gia súc gia ngoài cần đảm bảo giữ ấm gia súc bằng cách mặc áo ấm trước khi đưa ra ngoài. Thời gian đưa gia súc gia ngoài tốt nhất sau 8 giờ sáng và trở về chuồng trước 17 giờ.

3. Cung cấp thức ăn và nước uống tại chuồng

Để tăng cường sức đề kháng cho trâu, bò cần cho ăn đầy đủ và cân đối khẩu phần thức ăn xanh và thức ăn tinh.

Những ngày bình thường mỗi trâu, bò trưởng thành cho ăn khoảng 25 – 30 kg thức ăn thô xanh và 1 – 1,5 kg thức ăn tinh. Nhưng nếu vào những ngày rét đậm, rét hại nhiệt độ dưới 150C thì tăng lượng thức ăn tinh lên khoảng 2 kg/con/ngày để giúp trâu, bò chống lại giá rét. Ngoài thức ăn thô xanh và thức ăn tinh, bà con cần bổ sung vitamin và khoáng chất. Có thể sử dụng tảng đá liếm hoặc dùng muối ăn, nếu sử dụng tảng đá liếm thì treo tại chuồng; nếu sử dụng muôi thì pha như sau: Pha với nước ấm 37 – 380C, nồng độ 0,1 – 0,3% (tương đương 10 – 30g muối/10 lít nước).

Cách cho ăn: Thức ăn thô xanh bổ sung trong máng thường xuyên, thức ăn tinh chia làm 2 bữa trong ngày, cho trâu bò ăn thức ăn thô xanh trước, thức ăn tinh và uống nước sạch đầy đủ theo nhu cầu.

4. Các biện pháp chống rét

a. Chất độn chuồng

Sử dụng chất độn chuồng bằng rơm, rạ, cỏ khô lót chuồng sẽ làm giảm đáng kể ảnh hưởng thời tiết lạnh đến đàn trâu, bò.

Tùy vào điều kiện thực tế có thể rải một lớp độn chuồng dày khoảng 5 – 15 cm. Các chất độn chuồng này có thể để suốt mùa đông mà không cần phải dọn (chỉ dọn phân). Chất độn chuồng luôn đảm bảo khô, không bị ẩm ướt.

b. Che chắn tránh gió

Sử dụng bạt hoặc các tấm phên, các bao tải đan lại. Không nên che kín, chỉ che qua chiều cao của con vật khoảng từ 1,8 – 2m.

c. Đốt lửa chống rét

Khi nhiệt độ xuống dưới 120C thì cần áp dụng phương pháp đốt lửa chống rét. Dùng xô, chậu cũ để đựng củi, trấu (chú ý nhóm củi bén ở ngoài chuồng cho bớt khói rồi mới đưa vào trong chuồng). Nên đặt khay lửa ở cuối chuồng để khói không tạt vào mặt trâu, bò và tránh xa chất độn chuồng, bạt che để phòng bén lửa gây cháy.

d. Mặc áo chống rét

Khi nhiệt độ xuống dưới 120C thì bà con cần mặc áo chống rét cho trâu, bò. Với 1 chiếc áo, bà con có thể sử dụng cho 01 trâu, bò trong suốt mùa, tuy nhiên bà con lưu ý không nên mặc áo chống rét cho trâu, bò cả ngày, lúc trời nắng ấm nên bỏ áo để trâu bò hưởng nắng ấm.

Khi mặc áo cho trâu, bò cần chú ý chiều dài áo phủ từ thân đến hết đuôi, chiều ngang vừa đủ choàng qua thân, các dây buộc thắt như khuy áo buộc dưới bụng.

5. Vệ sinh chuồng trại

Vệ sinh chuồng trại có vai trò quan trọng, giúp hạn chế mầm bệnh cho trâu, bò. Hàng ngày, cần quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân và chất thải ra khỏi chuồng nuôi. Định kỳ phun thuốc khử trùng từ 2 – 3 tuần một lần để tăng cường tiêu độc khử trùng. Có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau: Han – Iodine, cloramin B, Virkon,… Cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Lưu ý: Khi có gia súc bị chết do rét, người chăn nuôi cần báo ngay với chính quyền địa phương và cán bộ thú y để xác định thiệt hại.

Nguồn: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ số giúp phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh của Bò Sữa

Những thiết bị gọn nhẹ có thể tự động gửi thông báo đến chủ trang trại nếu bò gặp vấn đề sức khỏe.

Vòng cổ thông minh (Smart Collar) là một thiết bị công nghệ phân tích sự thay đổi trong hành vi của bò có liên quan thế nào đến sức khỏe chúng, từ đó thông báo đến người chủ trang trại qua hệ thống máy tính và điện thoại.

Thiết bị này đã được dùng để theo dõi sức khỏe của những chú bò tại một trong trại ở Scotland từ năm 2010. Ban đầu vòng cổ được thiết kế và phát triển bởi một startup có tên là Glassgow. Chức năng duy nhất là theo dõi khả năng sinh sản của bò bằng cách theo dõi những hoạt động của chúng.

Bò sẽ di chuyển nhiều hơn khi chúng có nhu cầu sinh sản. Dựa vào đặc điểm này, thiết bị sẽ thông báo với người chủ trang trại khi những con bò đã sẵn sàng giao phối qua tin nhắn đến điện thoại hoặc máy tính.

Hiện nay, nhiều chức năng mới đã được thêm vào từ khi Afimilk – một công ty chuyên phát triển công nghệ trong ngành chế biến sữa được chuyển giao và tiếp tục nghiên cứu để phát triển vòng cổ thông minh.

Những chiếc vòng đeo cổ giúp người nông dẫn giám sát được những thay đổi về sức khỏe của chúng.

Những chức năng mới đã được thêm vào cho chiếc vòng như: phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh tật bằng cách kiểm tra thời gian trung bình mỗi con bò ăn uống và nhai lại. Sau khi phân tích thông tin, báo cáo sẽ được gửi đến điện thoại của người chủ trang trại nếu các hoạt động này có dấu hiệu suy giảm.

Richart Dewhurst – người chuyên nghiên cứu về vấn đề dinh dưỡng cho động vật ở trường đại học nông nghiệp Scotland cho biết: “Chúng tôi đang tìm kiếm thêm nhiều sự thay đổi hành vi nhạy cảm của bò và mối liên hệ đến các vấn đề sức khỏe như đi khập khiễng hoặc bị nhiễm axit”. Các nhà khoa học đang phát triển thuật toán để phân tích các dữ liệu thu thập được từ những chiếc vòng cổ.

Trong một phần nghiên cứu khác, Dewhurst phân tích nồng độ xeton và sulfua trong hơi thở của mỗi con bò để tìm hiểu về sự thiếu ăn, sự phân hủy của các mô hay việc thiếu hụt protein trong chế độ ăn của chúng.

Ngoài dùng vòng theo dõi, camera cảm ứng nhiệt cũng được phát triển để theo dõi những vấn đề sức khỏe của bò.

Bệnh viêm vú trên bò sữa là căn bệnh có nguyên nhân từ việc bò bị nhiễm trùng tuyến vú, chính là bệnh phổ biến nhất ở bò sữa. Để phát hiện căn bệnh này, những máy quay cảm ứng nhiệt đã được đặt trong chuồng để có thể nhận ra những điểm nóng hoặc nhiễm trùng trên núm vú, điều này giúp bò có thể được điều trị sớm hơn.

Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu phát triển một thiết bị để gắn lên tai của những chú bò nhằm giúp phát hiện mức độ căng thẳng.

Theo Berkmans một nhà nghiên cứu động vật cho hay, bò càng căng thẳng thì mức độ dinh dưỡng trong thịt lại càng suy giảm. Chính vì vậy thiết bị đeo vào tai sẽ giúp phát hiện và thông báo cho người nông dân kịp thời qua hệ thống điện thoại và máy tính khi có vấn đề xảy ra.

Nguồn: Nature được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giống bò BBB – ‘cỗ máy’ sản xuất thịt

Các nhà khoa học của Trung tâm Giống vật nuôi chất lượng cao, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu nhập nội thành công giống bò BBB cho cải tạo đàn bò thịt lai Sind ở nước ta.

Bò BBB hay bò lang trắng xanh có nguồn gốc từ Bỉ. Một số nơi nông dân còn gọi bò 3B. Giống có đặc điểm ngoại hình da loang lổ màu trắng xen xanh xám, cơ bắp phát triển, đặc biệt là vùng đùi sau và phần cơ mông (phát triển hơn 40% so với bò thông thường).

Bò BBB nhập nội từ Bỉ

Đây là giống bò thịt cao sản. Được mệnh danh là “cỗ máy” sản xuất thịt. Khối lượng bò trưởng thành đạt 900 – 1.250kg với con đực và 600 – 800kg với con cái. Khả năng tăng trọng trung bình đạt 1,3kg/ngày. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 66 – 70%. Tỷ lệ thịt tinh/thịt xẻ đạt 78%. Tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 32 tháng. Thời gian mang thai 280 ngày. Tỷ lệ đẻ hàng năm đạt 80%. Khoảng cách lứa đẻ là 14 tháng.

Nhược điểm của bò cái BBB là sự đàn hồi của cơ xương chậu kém, nên ở Bỉ trên 90% bò cái BBB khi đẻ phải mổ để lấy thai. Ở Việt Nam, bò BBB đã được Bộ NN-PTNT giao cho Trung tâm Giống vật nuôi chất lượng cao (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) nhập nội, nuôi giữ, khai thác và sản xuất tinh bò đực BBB thuần, phục vụ chương trình cải tạo đàn bò thịt lai Sind thành đàn bò lai F1 BBB hướng thịt, có khả năng thích nghi tốt, tăng trọng nhanh, thịt ngon và cho hiệu quả kinh tế cao. Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Cty CP Giống gia súc Hà Nội sản xuất tinh cọng rạ trên dây chuyền hiện đại, và phân phối tinh Bò đực BBB thuần trên toàn quốc.

Bò BBB đã nuôi thử nghiệm rất thành công trên địa bàn Hà Nội. Bê lai BBB ở 1 tháng tuổi đã có thể bán được 14 – 15 triệu đồng/con (cao hơn so với bê lai khác từ 5 – 6 triệu đồng/con), đến 18 tháng tuổi có thể bán từ 35 – 40 triệu đồng/con (cao hơn bò lai khác từ 12 – 15 triệu đồng/con).

Để chăn nuôi hiệu quả bò lai BBB, TS Phạm Kim Đăng, Phó Trưởng khoa Chăn nuôi (Học viện Nông nghiệp Việt Nam ) khuyến cáo:

– Cần mua bê lai BBB ở những cơ sở nhân giống có uy tín, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

– Bê lai BBB có tốc độ sinh trưởng nhanh, nên thức ăn phải đảm bảo năng lượng cao, lượng cho ăn hàng ngày tối thiểu đạt 2,5% khối lượng cơ thể. Nên cân đối khẩu phần hoàn chỉnh trên cơ sở phối trộn 55 – 60% thức ăn thô với 40 – 45% thức ăn tinh (tính theo vật chất khô trong khẩu phần).

– Chuồng trại cũng giống như khuyến cáo nuôi bò thịt cao sản khác như, xây dựng chuồng ở nơi cao ráo sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Đảm bảo diện tích chuồng bình quân 4,5 – 5,5 m2/con.

– Thực hiện đúng quy trình vệ sinh thú y đối với bò thịt. Đặc biệt chú ý phòng trị bệnh nội và ngoại ký sinh trùng.

– Thường xuyên liên hệ với các chuyên gia về vật nuôi để có được tư vấn tiến bộ kỹ thuật mới trong chăn nuôi bò lai BBB nói riêng, gia súc, gia cầm nói chung.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tỷ phú giữa vùng đất chết

Theo con đường mình chọn

Đến trang trại ông Nguyễn Lợi Đức (65 tuổi; ngụ xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) những gì  làm được đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu. Chúng tôi gặp lúc vợ chồng ông cùng ăn cơm chiều với hàng chục công nhân trong không khí ấm áp, chân tình. Bữa cơm đạm bạc với cá rô đồng, cá lóc kho lạt, canh chua bông súng, bầu luộc, dưa leo, rau muống xào nhưng đầy ắp tiếng cười.

Anh Võ Văn Hai (40 tuổi), công nhân trang trại Lợi Đức, vui vẻ kể: “Ở đây không có sự phân biệt giữa chủ và 40 người làm công. Những người ở xa được ông Đức cho ngủ tại chỗ và bao cơm ăn. Có làm gì sai thì ổng nhắc nhở rất khéo, rất hài hước mà mình thấy nhột nên sửa sai tức thì. Người ta tốt như vậy nên công nhân không làm hết mình mới lạ. Giàu có vậy mà ổng toàn ăn cơm chung với công nhân, hiếm người được vậy lắm”.

Xuất thân từ nông dân nghèo ở xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, từ nhỏ ông đã theo gia đình định cư ở Campuchia. Ở đây, ông học đến lớp 7 rồi nghỉ. Thời gian này giúp ông thông thạo ngôn ngữ cũng như cung cách làm ăn của xứ chùa Tháp. Năm 1973, ông trở về Việt Nam và sinh sống tại xã biên giới Khánh An (huyện An Phú, tỉnh An Giang) bằng nghề mua bán các loại thủy sản và mắm đồng. Thuận lợi tiếp nối, năm 1978, ông chuyển sang nghề nuôi cá bè trên sông. Thời kỳ này được xem là “hoàng kim” của ông.

Trong một lần về thăm quê, ông quyết định chuyển nghề để canh tác 30 công đất đầu tiên với cách làm rất riêng.

Ông Đức nhớ: “Tôi quyết định đăng ký theo học các khóa tập huấn nông nghiệp do Trường Đại học Cần Thơ tổ chức. Vì thế, tôi được đích thân GS-TS Võ Tòng Xuân trực tiếp định hướng phát triển cây lúa trên vùng đất nhiều người gọi là “đất chết” này. Từ đó, giúp tôi mở rộng tầm nhìn. Hồi đầu ai cũng nói tôi tưng tưng nhưng tôi bất chấp để đi theo con đường mình chọn”.

Trang trại nuôi bò thành công của ông Nguyễn Lợi Đức

Nói là làm nhưng tính toán

Dự đoán nhà nước sẽ đầu tư lớn về giao thông đường thủy lẫn đường bộ, trong đó có kênh đào T5 (còn gọi là kênh Võ Văn Kiệt đấu nối sông rạch của xã Lương An Trà vào kênh Vĩnh Tế) để “giải cứu” hàng chục ngàn hecta đất phèn đang “chết”; cạnh đó là dự án đầu tư nhà máy chế biến bột mì lớn nhất ĐBSCL đang hoàn thành, ông Đức tranh thủ nhận chuyển nhượng lại quyền sử dụng hàng chục rồi hàng trăm công đất vốn chỉ canh tác được một vụ với sản lượng chỉ đạt từ 6-8 giạ lúa/công) rồi liên kết với Trường Đại học Nông Lâm TP HCM thực hiện mô hình cào phẳng đồng ruộng bằng tia laser.

Mô hình này rất thành công nên mở ra một triển vọng mới cho ruộng đồng quê ông lẫn các xã lân cận. Cùng với việc triển khai sản xuất trên diện rộng, ông còn mang về cho nông dân rất nhiều giống lúa đạt năng suất rất cao như OM 50504, 2517, 4518…

Với trên 1.000 công ruộng luôn trúng mùa, mỗi năm mang lại cho gia đình ông Đức hàng trăm triệu đồng. Thừa thắng xông lên, ông mở cửa hàng phân bón, thuốc trừ sâu, bán lúa giống cho nông dân quanh vùng. Mỗi năm, lãi từ nguồn thu của 10.000-15.000 tấn lúa giống mang về cho ông từ 4-5 tỉ đồng, chưa kể lãi từ kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Tiếng lành đồn xa.

Năm 2013, ông Đức quyết định thu hẹp lĩnh vực kinh doanh lúa giống để chuyển sang phát triển trang trại nuôi bò tại xã Vĩnh Gia. Lý giải về quyết định bất ngờ này, bà Nguyễn Thị Thanh – vợ ông – bật mí: “Thấy rơm rạ của 1.000 công đất nhà hơi bị dư, ổng bàn với tui chuyển sang nuôi bò thịt lẫn bò con theo phương thức công nghệ hiện đại để tận dụng triệt để nguồn rơm khô, tui nhất trí liền. Tánh khí ổng là vậy, hễ nói là làm nhưng làm phải tính toán khoa học”.

Hiện với diện tích trên 71 ha, ông Đức dành khoảng 3 ha làm trang trại bò nuôi hơn 400 con bò thịt và 200 con bò nái với các giống bò Pháp, bò Lai Sin, bò Úc… Sau chi phí, mỗi năm ông còn lãi từ 4-5 tỉ đồng từ việc bán bò.

Vừa có tiền vừa đỡ hao tốn

Ông Đức kể: “Tôi nuôi trên 600 con bò, dự kiến sẽ tăng lên 1.000 con trong tương lai, nếu không tận dụng hết nguồn phân mỗi tháng từ 130-140 tấn/tháng thì rất lãng phí. Từ đó, tôi nghĩ đến mô hình dùng phân bò để bón cho 55 ha chuối xuất khẩu, vừa có tiền vừa đỡ hao tốn nguồn phân”.

Với cách làm này, năm đầu tiên (2016), ông đã thu lãi trên 3 tỉ đồng. Ông cũng khác người ở chỗ với những buồng chuối bị “lỗi” không thể xuất khẩu, ông tận dụng làm thức ăn xen kẽ rơm cho đàn bò để tiết kiệm chi phí thức ăn và giúp đàn bò tăng trọng nhanh, màu da đẹp, thịt săn chắc.

Ông Đức còn cho biết đang làm mô hình nuôi trùn quế trên diện tích 3.000 m², kết quả rất khả quan. “Đây là mô hình tương đối khó làm nhưng nguồn lợi rất lớn. Nguồn thức ăn chủ yếu vẫn là phân bò, nếu thành công tôi sẽ tiếp tục đầu tư với quy mô lớn hơn” – ông Đức tin tưởng và còn cho biết vợ ông đang khẩn trương xây nhà nuôi yến và đang trồng 4.500 cây bưởi da xanh, xoài cát Hòa Lộc.

Với những thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, ông Nguyễn Lợi Đức đã được tặng nhiều bằng khen của các cấp, được công nhận là Nông dân sản xuất giỏi toàn quốc năm 2009. Đặc biệt mới đây, ông còn được Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao tặng Huân chương Lao động hạng ba.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Vỗ béo, thụ tinh nhân tạo ở đàn bò

Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định, trong kế hoạch tái cơ cấu ngành chăn nuôi mà Bộ NN-PTNT đang triển khai, giống là khâu then chốt mở đầu cho cả quá trình chuyển đổi, vì vậy việc ứng dụng thụ tinh nhân tạo (TTNT) là tiền đề nhằm nâng cao chất lượng bộ giống Quốc gia. Dù vậy, quy trình TTNT chưa được áp dụng rộng rãi, thực hiện chương trình Sind hóa đàn bò đã lâu nhưng đến năm 2016 mới chỉ đạt 57%, riêng các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc là 21%.

“Sử dụng kỹ thuật vỗ béo trong chăn nuôi gia súc mang lại hiệu quả cao, công nghệ chuyển giao đơn giản, dễ thực hiện, rút ngắn thời gian nuôi giúp cho người nông dân nâng cao ít nhất giá trị kinh tế từ 10 – 15% so với phương thức truyền thống.

Từ những lý do đó, việc triển khai dự án là cần thiết tại các cùng chăn nuôi chính, góp phần chuyển hướng chăn nuôi sang hình thức bán thâm canh và thâm canh hàng hóa”, bà Hạnh chia sẻ.

Đối với mô hình cải tạo đàn bò ưu tiên lựa chọn các xã có tỷ lệ bò lai thấp, chủ yếu đang áp dụng bằng phương pháp phối giống trực tiếp, đảm bảo số lượng bò cái nền đạt tiêu chuẩn, nằm trong độ tuổi sinh sản. Tương tự, bò tham gia mô hình vỗ béo phải đảm bảo đúng đối tượng, không sử dụng vào mục đích cày kéo, vắt sữa, sinh sản. Từ những yếu tố trên, dự án đã sàng lọc và lựa chọn được 630/856 hộ đăng ký, chiếm tỷ lệ 73,6% thực hiện trình diễn trên 9 mô hình, bao gồm 4 mô hình cải tạo và 5 mô hình vỗ béo.

Năng suất, chất lượng đàn bò tham gia mô hình có nhiều ưu điểm vượt trội hơn

Tham gia mô hình, các hộ phải tự đối ứng 50%, phần còn lại sẽ được nhà nước hỗ trợ. Cụ thể 1 con bò cái nền có chửa được cấp 120 kg thức ăn hỗn hợp, 0,5 liều tinh, 0,5 lít nitơ; với bò vỗ béo là 135kg thức ăn hỗn hợp, 0,5 liều thuốc nội ký sinh trùng, 0,5 liều thuốc ngoại ký sinh trùng, 0,5 liều sán lá gan.

Đặc biệt, tại mỗi điểm trình diễn sẽ có 2 cán bộ chuyên ngành chăn nuôi thú y, có kinh nghiệm hoạt động khuyến nông thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn quy trình kỹ thuật cho các hộ cũng như theo dõi tình hình sinh trưởng của đàn bò.

Ghi nhận thực tế tại các địa phương cho thấy năng suất, chất lượng đàn bò tham gia mô hình có nhiều ưu điểm vượt trội so với trước đây. Áp dụng phương pháp nhân giống bằng TTNT giúp tăng nhanh tổng đàn, cải thiện khả năng di truyền. Với 616 con bò được TTNT, dự kiến đến đầu năm 2018 sẽ cho ra đời số bê lai tương ứng. Qua khảo sát cho thấy, mỗi con bê lai 1 tuổi có giá trị cao hơn bò nội khoảng 6 – 6,5 triệu đồng/con,

Trong khi đó, bò vỗ béo được tiêm, tẩy nội ngoại ký sinh trùng từ trước, kết hợp với việc sử dụng lượng thức ăn xanh hợp lý nên tăng trọng nhanh, bình quân đạt 740,1 gr/con/ngày, vượt so với yêu cầu 40,1 gr/con/ngày, tương ứng 5,7%. Riêng tại Hòa Bình, mỗi con bò sau 3 tháng vỗ béo cho lãi từ 3 – 3,5 triệu đồng, hiệu quả kinh tế tăng lên 12 – 15% so với các hộ không tham gia dự án.

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ bò lại thuộc chương trình dự án tăng lên rõ rệt. Cụ thể, tại phường Bắc Sơn (thị xã Bỉm Sơn) tăng từ 49,89% lên 76,15%; tại xã Thạch Đồng (huyện Thạch Thành) tăng từ 46,92% lên 61,58%.

Bà Trịnh Thị Hòa trú tại khu phố 5, phường Bắc Sơn cho biết: “Tham gia dự án giúp tôi nắm vững được phương pháp phát hiện động dục, quy trình phối giống nhân tạo thay thế cho dùng đực nhảy và đưa giống bò BBB vào áp dụng, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị kinh tế.”

Bà Trịnh Thị Hòa cho biết chất lượng bò được cải thiện rõ rệt

Ông Nguyễn Viết Thái, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Thanh Hóa khẳng định, kết quả bước đầu được đông đảo bà con nông dân đón nhận, đánh giá cao, trong tương lai việc nhân rộng mô hình hoàn toàn khả thi.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể

Brad Johnson – một chuyên gia về phát triển cơ xương ở gia súc đã dẫn dắt một nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể.

Giáo sư Brad Johnson từ trường Đại học Tài nguyên thiên nhiên và Khoa học nông nghiệp hợp tác với Giáo sư Stephen B. Smith từ trường Đại học Texas A & M đã khám phá ra chìa khóa để tìm ra miếng thịt ngon nhất nằm ở màu vân mỡ của nó, và họ đã phát hiện ra một cách để làm tăng vân mỡ mà không làm tăng độ béo.

Johnson cho biết: Chìa khóa nằm ở việc cô lập một thụ thể trong tế bào tạo mỡ của vân mỡ, đó là những tế bào mỡ cạnh mô cơ. Kích hoạt các thụ thể đó, được gọi là thụ thể bắt cặp với prôtêin G-coupled 43 (GPR 43) tạo ra chất béo và chất béo là những thành phần quan trọng trong vân mỡ.

“Chúng tôi cảm thấy nếu có thể điều tiết thụ thể này trong vân mỡ, chúng ta có thể tăng vân mỡ mà không làm cho gia súc béo hơn”, Johnson nói. “Khi gia súc bị béo, hiệu quả thức ăn sẽ giảm và người tiêu dùng sẽ cắt bỏ tất cả phần mỡ béo dư thừa. Nhưng nếu vân mỡ là cái mà người tiêu dùng muốn, chúng tôi có thể làm tăng vân mỡ vào những thời điểm khác nhau trong chu trình cho ăn mà không làm cho gia súc béo hơn, và đó sẽ là một lợi ích rất lớn cho ngành công nghiệp thịt bò”.

Nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể của bò

Mặc dù vân mỡ và mỡ dắt có thể trông giống nhau trên cùng một miếng thịt thăn vai, có một sự khác biệt sinh học giữa mỡ dắt và vân mỡ, và nó ảnh hưởng đến vị ngon của thịt bò. Vấn đề then chốt nằm trong thành phần của tế bào mỡ tạo ra mỡ dắt và vân mỡ.

Tế bào mỡ dưới da thường được gọi là mỡ dắt. Tế bào mỡ trong cơ thường được gọi là vân mỡ và có thể nhìn thấy ở dạng thớ giữa các phần của mô thịt bò, hoặc thịt đỏ. Điều mà Johnson và Smith đã thực hiện được thông qua các biện pháp sinh học và sinh hóa là cô lập các tế bào mỡ và phát triển chúng trong hệ thống nuôi. Trong những thử nghiệm đó, Johnson và Smith đã phát hiện ra sự khác biệt giữa các tế bào mỡ dưới da và các tế bào mỡ bắp.

Tế bào vân mỡ có kích thước nhỏ hơn nhiều và đường kính lớn hơn các tế bào mỡ dưới da, có xu hướng tập trung lại với nhau.

Một khác biệt nữa là vấn đề trao đổi chất, hoặc nguồn năng lượng để tạo ra mỡ dắt hoặc vân mỡ. Tế bào mỡ của mỡ dắt sử dụng acetate – một axit béo dễ bay hơi được tạo ra trong dạ cỏ của bò. Tuy nhiên, tế bào vân mỡ đòi hỏi phải có glucose, Johnson cho biết đó là một nguồn năng lượng cao cấp cho cả người và động vật.

Phát hiện lớn nhất là thụ thể GPR 43 trong tế bào mỡ của vân mỡ làm tăng sản sinh ra các chất béo, tăng sản sinh vân mỡ mà không làm tăng chất béo. Johnson nói. “Trên thực tế, từ một quan điểm cơ học, kết quả cuối cùng là bạn có một số lượng lớn các vân mỡ và một số lượng lớn mỡ dắt. Vân mỡ cần glucose để chuyển hóa. Mỡ dắt có thể làm điều đó với acetate”.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.