Thiệt hại lớn do khai thác mủ cao su không đúng kỹ thuật

Tình trạng người dân khai thác mủ không đảm bảo kỹ thuật xảy ra phổ biến ở Kon Tum, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất mủ và chất lượng vườn cây.

Xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum có 11 thôn làng. Toàn xã có 1.000ha cây công nghiệp thuộc sở hữu cá nhân, trong đó riêng cây cao su có tới 800ha. Mặc dù trồng cao su, hầu như ngày nào cũng đi khai thác mủ cao su, song không phải người dân nào trong xã cũng nắm chắc kỹ thuật khai thác mủ.

Ông A Khế, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đăk Hring cho biết, qua theo dõi, tình trạng cạo mủ cao su không đúng kỹ thuật chủ yếu xảy ra ở các hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số: “Qua nắm bắt của Hội Nông dân, nhiều hộ chưa hiểu rõ kỹ thuật khai thác mủ, nhiều hộ chưa học về kỹ thuật, chưa đi cạo nhiều”.

 Anh A Chau bên một cây cao sụ bị trọng thương do cạo mủ không đúng kỹ thuật.

Dọc hai bên tuyến đường nối từ xã Diên Bình, huyện Đăk Tô đến xã Đăk Pxi  huyện Đăk Hà dài gần 20km là bạt ngàn cao su. Phần lớn diện tích đang trong giai đoạn kinh doanh khai thác mủ.

Tiếp cận ngẫu nhiên lô cao su của một hộ dân bên đường cảnh tượng không khỏi xót xa. Trên thân những cây cao su gần 10 năm tuổi đang phát triển mỡ màng, là những vết sẹo lồi lõm do dao cạo mủ gây ra. Không ít cây lõi gỗ ở miệng cạo hở cả ra ngoài gặp trời mưa thâm xỉn lại rồi bị côn trùng tấn công. Nói về hậu quả của việc khai thác mủ cao su không đảm bảo kỹ thuật, ông Lục Văn Tua, thôn 11, xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, cho biết: “Nếu cạo không đúng kỹ thuật ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới cây trồng, sẽ khiến cây không liền da được”.

Quan sát thực tế tại nhiều vườn cây cho thấy, lỗi phổ biến mà người dân hay mắc phải trong quá trình cạo mủ cao su là cạo phạm, cạo dài dăm và độ dốc của miệng cạo không đúng kỹ thuật. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc trao đổi chất cũng như ảnh hưởng đến lớp vỏ kinh tế của cây cao su. Cùng với lỗi về kỹ thuật, người dân còn hay phạm lỗi về ý thức mà điển hình là việc sau khi cạo phạm không sử dụng mỡ bôi để bảo dưỡng cây. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc miệng cạo bị khô mật độ cây cạo trong lô giảm.

Rất nhiều cây cao su bị phá hỏng miệng cạo như thế này.

Ông Dương Văn Khẩu, Phó trưởng Phòng Kỹ thuật, Công ty TNHH Một thành viên Cao su Kon Tum cho rằng, nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do trong quá trình đào tạo nghề, nông dân ít được thực hành; nhiều nơi việc thực hành được thực hiện trên cây rừng chứ không phải cây cao su. Phần nữa là do ý thức, kỷ luật lao động của người dân chưa tốt.  “Việc đào tạo tại chỗ có thể giúp người dân hiểu ngay nhưng sau đó trong quá trình sản xuất lại dần quên đi. Đối với những người khéo léo, sau khi đào tạo xong có thể cạo đẹp ngay và từ đó thành một thói quen nhất định. Nhưng cũng có những người khéo léo nhưng lại kém về ý thức. Cầm dao vào là cạo là dóc, là phạm, cứ tiếp tục như vậy mà không được uốn nắn kịp thời”.

Việc người dân khai thác mủ cao su không đảm bảo kỹ thuật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất mủ và chất lượng vườn cây hiện khá phổ biến tại nhiều địa phương của tỉnh Kon Tum. Nếu không được khuyến cáo, điều chỉnh kịp thời thì  thiệt hại về kinh tế không chỉ là chuyện riêng của từng hộ dân, mà còn ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển mà tỉnh Kon Tum đặt ra với loại cây trồng này.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cây cao su

1. Bệnh phấn trắng

Tác nhân: Do nấm Oidium heveae. Bệnh gây hại trên cây cao su ở mọi lứa tuổi, mùa bệnh vào giai đoạn cây cao su ra lá mới từ tháng 2 đến tháng 5, bệnh hại nặng ở những vùng cao có khí hậu lạnh và thường xuyên có sương mù.

Triệu chứng: Lá non từ 1-10 ngày tuổi bị rụng dần để lại cuống trên cành, lá trên 10 ngày tuổi không bị rụng mà để lại vết bệnh với nhiều dạng loang lổ, hai mặt lá có bột màu trắng và nhiều ở mặt dưới lá. Các dòng vô tính nhiễm nặng: VM 515, PB235, PB255, RRIV4&

Bệnh phấn trắng ở cây cao su

Phòng trị

Dùng thuốc Sumieght 0,2%; Kumulus 0,3%; bột lưu huỳnh 9-12kg/ha. Xử lý định kỳ 7-10 ngày/lần, vào thời kỳ lá non chưa ổn định.

2. Bệnh héo đen đầu lá

Tác nhân: Do nấm Collectotrichum glocosporioides gây ra. Bệnh thường xuất hiện suốt trong thời gian sinh trưởng của cây, phổ biến vào mùa mưa có ẩm độ cao từ tháng 6 đến tháng 10. Bệnh hại nặng ở vườn cây KTCB.

Triệu chứng

+ Lá non từ 1-10 ngày tuổi có đốm nâu nhạt ở đầu lá. Rụng từng lá chét, sau cùng rụng cuống lá.

+ Lá già hơn 14 ngày tuổi, không gây rụng lá nhưng để lại đốm u lồi trên phiến lá. bệnh còn gây hại trên trái và chồi non, bệnh gây khô ngọn khô cành từng phần hoặc chết cả cây.

Bệnh héo đen đầu lá

Phòng trị

Dùng thuốc Vicarben50SC, Carbenzim 500FL nồng độ 2% Phun lên tán lá non, 7-10 ngày phun 1 lần.

3. Bệnh rụng lá mùa mưa

Tác nhân: Do nấm Phytophtora botryosa, Phytophtora palmivora gây nên. Chỉ xảy ra ở mùa mưa, hại nặng trên vườn cây khai thác, nhất là những vùng thường mưa dầm.

Triệu chứng: Trên cuống lá có cục mủ màu đen hoặc trắng, trung tâm vết bệnh có màu nâu xám, rụng cả ba lá chét và cuống, bệnh hại nặng trên trái gần khô.

Phòng trị

+ Dùng thuốc Oxyclorua đồng 0,25%, Bordeaux 1%, Ridomil MZ 72 0,3 – 0,4%.

4. Bệnh nấm hồng

Tác nhân: Bệnh thường tập trung ở nơi phân cành do ẩm độ cao. Do nấm Corticium salmonicolor gây nên. Bệnh gây hại trên cây từ 3 – 12 năm tuổi và hại nặng ở cây 4 – 8 tuổi. Bệnh thường tập trung hại vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 11 và tấn công trên thân cành đã hóa sần.

Triệu chứng: Vết bệnh ban đầu là những mạng nhện trắng xuất hiện trên cành, đồng thời có những giọt mủ chảy ra, khi gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, bệnh chuyển từ màu trắng sang hồng, cành lá phía trên vết bệnh chuyển vàng và chết khô.

Bệnh nấm hồng ở cao su

Phòng trị

+ Vệ sinh vườn cây, cắt đốt bỏ những cành chết do bệnh để hạn chế sự lây lan.

+ Dùng thuốc Validacin 5L (thuốc đặc hiệu) 1,2%, dung dịch Bordeaux 1% (phun) và 5% (quét). Chu kỳ phun 10-15 ngày/ lần.

5. Khô ngọn khô cành

Tác nhân: Do các bệnh lá, vết thương cơ giới, yếu tố môi trường. Xuất hiện ở mọi giai đoạn sinh trưởng của cây cao su, gây nguy hại ở giai đoạn cây KTCB.

Triệu chứng: Các chồi bị rụng lá và có những đốm nâu đen trên vỏ còn xanh sau đó lan dần xuống dưới và phần bị nhiễm chết khô.

Phòng trị

+ Bón phân cân đối, diệt cỏ dại, phòng trị bệnh lá, không gây vết thương cho cây.

+ Xử lý: Cưa dưới vết bệnh 10 20 cm một góc 450, bôi vaseline, dùng dung dịch nước vôi quét toàn bộ thân.

6. Cháy nắng

Tác nhân: Do nắng, biên độ nhiệt độ trong ngày cao, tủ gốc và làm bồn không kỹ.Phân bố ở vườn cây cao su KTCB.

Triệu chứng: Cháy lá loang lổ, có màu trắng bạc, sau đó rụng và chết chồi non do mất nước. Cây 2 – 3 tuổi, trên thân hóa nâu từ 0 20 cm cách mặt đất bị lõm và nứt vỏ, chảy mủ, sau đó vết bệnh lan rộng và có hình mũi mác, các vết bệnh thường cùng một hướng (hướng Tây và Tây Nam).

Phòng trị

+ Làm bồn tủ gốc kỹ vào mùa khô, quét nước vôi lên thân.

+ Bôi vaseline lên vết bệnh ngăn chặn tấn công của nấm và côn trùng.

7. Bệnh loét sọc mặt cạo

Tác nhân: Do nấm Phytophtora palmivora gây nên. Bệnh gây hại trên mặt cạo vào mùa mưa tháng 6 -11.

Triệu chứng: Những sọc nhỏ hơi lõm màu nâu nhạt ngay trên đường cạo và chạy dọc song song với thân cây, sau đó các vết bệnh liên kết lại thành những mảng lớn, lúc này vỏ bị thối nhũn, dịch màu vàng rỉ ra có mùi hôi thối, để lộ gỗ, gây khó khăn cho việc khai thác sau này. Đây cũng là vị trí thuận lợi cho mối mọt tấn công.

Phòng trị

+ Không cạo khi cây còn ướt, không cạo phạm, cạo sát.

+ Vệ sinh trừ cỏ dại thông thoáng vườn cây.

+ Thường xuyên kiểm tra phát hiện dịch bệnh, xử lý bôi thuốc kịp thời. Các thuốc như Ridomil 2-3%, Mexyl MZ 72 nồng độ 2%.

+ Ở những vùng thường xảy ra bệnh hoặc vườn cây có miệng cạo gần mặt đất phải bôi thuốc phòng định kỳ, bôi phòng 1lần/tháng, có thể 2 lần/tháng vào những tháng mưa dầm.

+ Cây bị bệnh nặng phải nghỉ cạo để hạn chế lây lan.

8. Bệnh thối mốc mặt cạo

Tác nhân: Do nấm Ceratocysits fimbriata. Bệnh xảy ra vào mùa mưa, thường kèm với bệnh loét sọc mặt cạo.

Triệu chứng: Trên mặt cạo xuất hiện những vết bệnh song song với đường cạo, dễ lầm với cạo phạm, ngày khô ráo thấy nấm màu trắng xám trên vết bệnh.

Phòng trị: Tương tự như trị bệnh loét sọc mặt cạo.

9. Bệnh khô miệng cạo

Tác nhân: Bệnh xuất hiện trong suốt chu kỳ khai thác. Chưa rõ tác nhân, hiện vẫn xem là bệnh sinh lý.

Triệu chứng: Ban đầu xuất hiện những đoạn mủ khô ngắn trên miệng cạo, sau đó lan nhanh và khô mủ hoàn toàn, nếu nặng cây bị nứt cả vỏ cạo.

Phòng trị

+ Đảm bảo chế độ cạo S/2 d/3 6d/7.

+ Chăm sóc, bón phân đầy đủ, nhất là khi vườn cây có sử dụng thuốc kích thích mủ.

+ Khi cây có biểu hiện bị bệnh phải ngưng cạo, dùng đót cứ 5 cm chích thử một lỗ trên vỏ cạo phía dưới đường cạo để xác định ranh giới vùng bị khô, từ chỗ đó cạo song song với đường cạo cũ một đường tới gỗ để cách ly bệnh.

+ Cho cây bệnh nghỉ cạo 1-2 tháng, kiểm tra nếu cây khỏi bệnh thì cạo lại với cường độ cạo nhẹ&

10. Bệnh nứt vỏ

Tác nhânDo nấm Botryodiplodia

Triệu chứng: Thân cành bị nứt, có mủ chảy rỉ ra, có màu nâu đặc trưng, đôi khi chồi mọc ra dưới vết nứt, làm cây châm sinh trưởng, đôi khi chết cây. Bệnh thường xuất hiện trên vườn cây KTCB trên 3 năm tuổi và vườn cây khai thác.

Phòng trị:

Dùng thuốc trừ nấm có gốc Carbendazim (Vicarben 50HP, Bavistin 50FL& nồng độ 0,5% phun hết toàn bộ cây 2 tuần/ lần, phun 2-3 lần.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Quản lý và khai thác vườn cao su

Hiện nay chu kỳ khai thác mủ cây Cao su rút xuống còn 20 năm, nhờ có giống mới tiến bộ và áp dụng Khoa học kỹ thuật nên cho năng suất cao, sản lượng vẫn đạt 35-40 tấn/ha.

Khi hết thời kỳ đầu tư Kiến Thiết Cơ Bản (KTCB) nếu vườn cây có 70% số cây đạt vanh thân ở vị trí cách mặt đất 1 m đạt 50 cm trở lên, vỏ cạo dày hơn 6 mm thì đưa vào khai thác lấy mủ, số cây còn lại mở bổ sung vào năm sau.

Vườn cao su khai thác chia làm ba nhóm cây

Cây tơ/ nhóm I: Từ năm cạo thứ nhất đến năm cạo thứ 10.

Cây trung niên / Nhóm II: Từ năm cạo thứ 11 đến năm cạo thứ 17.

Cây già/ Nhóm III: Từ năm cạo thứ 18 đến năm cạo thứ 20.

1. Thiết kế miệng cạo

Cây mới mở cạo có miệng tiền cách chân voi 1.3m, cạo ngược sẽ bắt đầu từ độ cao 1,3m cách chân voi.

Thiết kế miệng cạo cho cây cao su

Độ dốc miệng cạo so với trục ngang từ 30– 34o.

+ Cây nhóm I: 34o

+ Cây nhóm II: 32o

+ Cây nhóm III: 30o

Miệng tiền được mở đồng loạt một hướng trong lô

Dùng thước dây chia cây làm 2 phần bằng nhau,

Đường thước chia cây miệng liền có đánh 3 dấu: Nơi mở miệng, đóng máng và cột kiềng.

Dùng rập lấy vị trí miệng tiền làm chuẩn, kẻ 4 rập trong năm, để khống chế mức đo hao dăm (mỗi rập 3,5 cm cho 1 quí cạo).

2. Thời vụ cạo

Mở miệng cạo vào tháng 3-4 và tháng 10-11 trong năm.

Nghỉ cạo vào mùa rụng lá tháng 1-2; ngưng cạo lúc lá bắt đầu nhú chân chim và tiến hành cạo lại khi cây đã có tán lá ổn định.

3. Chia phần cây cạo

Số cây trên phần cạo được qui định tùy vào địa hình, mật độ cây cạo, tuổi cây cạo tình trạng vỏ cạo và chế độ cạo.

Chia từ 200 – 500 cây cạo/phần cạo.

Mỗi phần cạo phải được đánh dấu phân chia rõ ràng.

4. Quản lý độ hao dăm, độ sâu cạo mủ, chế độ cạo và cường độ cạo

– Độ sâu cạo mủ: Cạo sâu cách tượng tầng từ 1-1,3 mm là cho mủ tốt, cạo cách tượng tầng hơn 1,3mm là cạo cạn, ít mũ, cạo sâu cách tượng tầng dưới 1mm là cạo sát, cạo chạm gỗ là cạo phạm. Cạo sát, cạo phạm dễ làm khô miệng cạo và khó tái sinh vỏ.

– Lượng hao dăm

Cạo xuôi hao dăm từ 1,1 – 1,5 mm/lần cạo (hao dăm tối đa 16 cm/năm) đối với nhịp độ cạo D3 và hao dăm 20cm đối với nhịp độ cạo D2

Cạo ngược hao dăm từ 1,5 -2 mm/lần cạo (hao dăm tối đa 3cm /tháng).

– Chế độ cạo, cường độ cạo:

Khuyến cáo: S/2 d/3 6d/7. (Cạo 1/2 miệng cạo, 3 ngày cạo một lần, 1 tuần cạo 2 lần, nghỉ ngày chủ nhật)

Không khuyến cáo chế độ cạo d/2 (2 ngày cạo một lần) kể cả các dòng vô tính GT1, RRIM 600, và các dòng RRIV chỉ nên kết hợp sử dụng thuốc kích thích để đảm bảo năng suất, tiết kiệm được công lao động và lớp vỏ cạo kinh tế.

– Tiêu chuẩn đường cạoĐường cạo phải đúng độ dốc, có lòng máng, vuông viền, vuông hậu, không lệch miệng, không lượn sóng, không vượt ranh, vượt tuyến.

– Giờ cạo mủ: Tùy theo thời tiết trong năm, cạo càng sớm càng tốt. Khi nhìn thấy rõ đường cạo, mùa mưa khi cây khô ráo mới bắt đầu cạo.

– Giờ trút mủ: Trút mủ từ 10 – 11 giờ trưa, tùy giống gặp trời chuyển mưa có thể trút mủ sớm hơn.

5. Kỹ thuật cạo

Mở miệng cạo: Sau khi định hướng vị trí miệng tiềng trong lô, dùng thướng, móc, rạch để phân ranh tiền, hậu, đánh dấu đóng máng, cột kiềng.

Dùng rập (cờ): đánh dấu miệng cạo chuẩn, vạch đường chia hao dăm quý. Mở mương tiền (trên lớn dưới nhỏ) để dẫn mủ.

Thiết kế xong, tiến hành cột kiềng, đóng máng và cạo xả 3 nhát:

+ Nhát 1: nhát cạo chuẩn (theo đường rập).

+ Nhát 2: Cạo vạt nêm tạo độ nghiêng miệng cạo.

+ Nhát 3: Cạo hoàn chỉnh (cạo áp má dao) lấy độ đúng độ sâu cạo mủ.

5.1. Kỹ thuật cơ bản cạo miệng xuôi

a. Cách cầm dao cạo

– Miệng cạo ngang tầm người trở xuống

Tay phải: cho cán dao thúc vào lòng bàn tay, cầm cả 5 ngóm sao cho 3 ngón út, ngón nhẫn và giữa ôm sát vào cán dao, ngón trỏ áp sát má dao bên phải.

Tay trái: cầm phiá ngoài tay phải, cầm cả 5 ngón sao cho ngón trỏ áp sát sống dao bên trái, song song với thân dao.

– Miệng cạo cao hơn tầm người

Tay phải: Cầm giống như cách tầm ngang người trở xuống.

Tay Trái: Đặt thân dao vào lòng bàn tay, 5 ngón tay đặt lên phía sống dao, các ngón tay hơi cong.

b. Tư thế đứng và dịch chuyển

– Miệng cạo ở tầm vừa và cao

Đứng cách thân cây 1 khoảng nhìn thấy được ranh hậu, 2 chân đặt song song với nhau chân trái trước, chân phải sau. Đặt dao ở miệng hậu, lấy góc hậu sau đó dịch chân trái sau chân phải đồng thời tay kéo dao cạo theo bước chân đến góc tiền, lấy vuông tiền bằng cách nâng 2 tay cùng lúc.

– Miệng cạo ở tư thế thấp (Cúi khom người)

Cách chuyển động ngược với tư thế trên, chân trái chân trái chuyển phiá sau chân phải trước, cúi khom người để dao chuyển động nhịp nhàng, không bị cạo phạm.

5.2. Kỹ thuật cơ bản cạo miệng ngược

Hiện nay chế độ cạo miệng ngược được áp dụng rộng rãi ở nước ta và các nước trồng cao su trên thế giới, chế độ cạo này áp dụng cho các vườn cây có tuổi cại cạo từ năm thứ 11 trở lên (hoặc một số vườn không thực hiện được cạo xuôi). Tuỳ theo tuôi cạo để có chế độ cạo ngược, do khác nhau về chiều dài miệng cạo, số miệng cạo. nhịp độ cạo& dao cạo để kiểm soát độ hao dăm, độ dốc miệng cạo (cạo ngược có kiểm soát và cạo ngược không có kiểm soát)

– Đặc điểm của vườn cạo ngược:

+ Đã cạo xong lớp vỏ tái sinh

+ Qua 10 năm mặt cạo xuôi

+ Mặt cạo xuôi có triệu chứng khô mủ

+ Vỏ tái sinh mặt cạo xuôi quá kém (Bị cạo phạm, U quá nhiều&)

+ Vỏ tái sinh quá mỏng&

a. Cách cầm dao

Tay cầm dao theo kiểu cạo xuôi, lưu ý cạo ngược lưỡi dao là má dao, dùng lực đẩy dăm, dăm cạo dài càng tốt, nâng tay để hất dăm ra ngoài để tránh mủ chảy leo ra ngoài.

b. Tư thế dịch chuyển

Chân trái bước phía trong, chân phải vòng ra ngoài, phải bước xéo chân, thì ta mới đủ lực đẩy dao đến ranh hậu.

6. Kỹ thuật bôi thuốc kích thích

– Bôi kích thích trước nhát cạo kế tiếp 24 – 48 giờ

– Không bôi khi cây còn ướt.

– Không bôi trong mùa khô, mùa rụng lá

6.1. Phương pháp bôi trên vỏ tái sinh

Sau khi khuấy đều chất kích thích, dùng cọ bôi 1 lớp mỏng trên lớp vỏ tái sinh tiếp giáp miệng cạo, bôi thuốc trên băng rộng 1,5 cm. (Áp dụng cho miệng cạo xuôi)

6.2. Phương pháp bôi trên miệng cạo không bóc mủ dây

Sau khi khuấy đều chất kích thích, dùng cọ bôi một lớp mỏng, đều ngay trên miệng cạo (Áp dụng cho miệng cạo ngược).

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cao su

1. Điều kiện sinh thái để trồng cây cao su

Đất canh tác có tầng sâu trên 1,5m không bị úng thủy, không đụng đá kết von, đá bàn, cao trình dưới 600m so mực nước biển.

Khí hậu có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25-28oC, lượng mưa bình quân hằng năm 1500mm phân bố mưa từ 5-6 tháng trong năm.

Cây cao su

2. Chuẩn bị đất

Công tác chuẩn bị đất: phải hoàn chỉnh trước vụ trồng mới trên 60 ngày, cho rà gốc, gom dọn sạch rễ, chồi sau khi cày đất.

Đất chuẩn bị trồng cần phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ đất màu, chống úng, chống xói mòn, có mương thoát nước và xây dựng hệ thống đường đi.

3. Thiết kế hàng trồng

Cao su được trồng theo hàng và mật độ phù hợp

Đất dốc <50 trồng thẳng hàng theo hướng Bắc Nam

Đất dốc từ 5– 200 trồng theo đường đồng mức chủ đạo

4. Mật độ và khoảng cách trồng

Đất đỏ: 7m x 3m tương ứng với 476 cây/ha

Đất xám: 6m x 3m tương ứng với 555 cây/ha

5. Phương pháp trồng

Quy cách hố trồng: 60x60x60 cm (Khoan máy hoặc đào bằng tay).

Sau khi đào hố để ải 15 ngày, lấp hố bằng lớp đất mặt khoảng ½ hố, bón lót 2kg phân hữu cơ vi sinh (hay 1-1,5kg phân hữu cơ vi sinh Komix) + 300 gr lân + lớp đất mặt lấp đầy hố, cắm cọc giữa hố để đánh dấu điểm trồng sau này.

a. Trồng cây bầu

Lấy cuốc móc đất lấp trong hố lên, có độ sâu bằng chiều cao bầu cây con; dùng dao bén cắt bỏ đáy bầu 1 lớp khoảng 1-2 cm; cắt bỏ phần rễ cọc nhú ra khỏi bầu, hoặc bị xoắn trong đáy bầu, sau đó đặt bầu xuống hố, mắt ghép quay về hướng gió chính, mí dưới mắt ghép ngang với mặt đất, dùng dao bén rọc túi bầu Pe từ phía dưới lên cuốn nhẹ từ từ túi bầu, cuốn lên tới đâu lấp đất tới đó, ém giữ cho bầu đất không bị vỡ, cuối cùng cho lấp đất quanh gốc bầu phủ kín cổ rễ, nhưng không lấp mắt ghép.

b. Trồng cây stum trần

Dùng cuốc móc đất lấp hố lên, có độ sâu dài hơn rễ đuôi chuột cây stump; đặt tum thẳng xuống hố, mắt ghép quay về hướng gió chính lấp hố lại từng lớp đất, lấp tới đâu dậm kỹ tới đó để đất lắp chắt gốc tum; sau cùng lấp đất mặt cho cho đến ngang mí dưới mắt ghép, không để lồi cổ rễ lên mặt đất.

c. Trồng dặm: Phải trồng dặm và định hình vườn cây từ năm thứ nhất

20 ngày sau trồng phải kiểm tra, trồng dặm lại những cây chết hoặc mắt ghép chết.

Để đảm bảo vườn cây đồng đều, phải chuẩn bị 15% đối với vườn cây trồng bầu và 25 % vườn cây trồng trần trồng dặm, so với cây trồng mới.

Có thể trồng dặm bằng tum trần, bầu cắt ngọn, bầu 1-2 tầng lá hoặc Stump bầu có hai tầng lá ổn định.

Trồng dặm bằng cây con đúng giống đã trồng trên vườn cây.

6. Thời vụ trồng

Trồng mới khi thời tiết thuận lợi, đất có đủ độ ẩm

Miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên

+ Trồng tum trần từ 1/6 15/7 (Dương lịch)

+ Trồng bầu từ 15/5 31/8 (Dương lịch)

Trồng dặm cũng được thực hiện theo thời vụ trên

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

 

Thanh Hóa: Tỉnh cấm, nông dân cứ chặt cây cao su vì để thì… đói

Mặc dù cao su từng được coi là cây “vàng trắng” và đang ở thời kỳ thu hoạch, nhưng giá mủ cao su xuống thấp nhiều năm nay khiến người dân Thanh Hóa phải ồ ạt chặt bỏ loại cây để chuyển đổi sang cây trồng khác.

Đua nhau chặt bỏ… “gánh nợ”

Cách đây hơn 20 năm, cây cao su được nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá quy hoạch vùng trồng và xem là cây chủ lực để thúc đẩy kinh tế, giúp người trồng đổi đời.

Người dân xã Quảng Phú ồ ạt chặt bỏ cây cao su để chuyển sang trồng dứa. Ảnh: Bùi Oanh

Toàn tỉnh Thanh Hóa có gần 20.000ha diện tích cây cao su, trong đó có hơn 6.400ha cao su đang cho thu hoạch. Các huyện có diện tích cây cao su lớn như Như Xuân, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy… Trong năm 2015, tỉnh này đề ra kế hoạch trồng mới 800ha cao su, nhưng chỉ trồng được 1ha vì người dân không còn mặn mà với loại cây này.

Năm 1997, khi chính quyền xã Quảng Phú (huyện Thọ Xuân) thông báo dự án trồng cao su trên đất 327 (Quyết định 327 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 15.9.1992 về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước), đã nhận được sự ủng hộ của hàng trăm hộ dân. Hơn 144ha đất của 202 hộ nhanh chóng được người dân, chính quyền địa phương triển khai trồng cao su, theo hợp đồng có thời hạn 50 năm. Theo hợp đồng, lợi nhuận người dân thu được sẽ nộp sản cho ngân sách xã 30%.

Sau hơn 10 năm cây cao su cho thu hoạch mủ, vài năm đầu giá mủ cao, người dân có lãi nhưng chỉ được vài năm sau đó giá xuống thấp dần, thấp đến nỗi người dân bỏ mặc cây cao su, rồi tiếp đó là việc ồ ạt chặt bỏ loại cây từng được xem như“vàng trắng”.

Gia đình chị T (ngụ tại xã Quảng Phú) vừa chặt bỏ đi 6.500m2 đồi cao su trong sự cay đắng. Chị T cho biết: “Mất 20 năm công sức chăm sóc cao su mới cho thu hoạch được vài năm, dù không muốn chặt bỏ nhưng cũng phải chặt thôi, càng để càng lỗ đau. Từ năm 2012 đến nay, giá cao su xuống rất thấp, mỗi ngày vợ chồng tôi đi lấy mủ cũng chỉ thu được từ 100.000 – 150.000 đồng/ngày, không đủ bù chi phí. Nhiều năm nay gia đình tôi đã không đến lấy mủ cao su ở vườn trồng của mình nữa. Nhưng kinh tế gia đình phụ thuộc vào 13 sào đất, nếu cứ để cao su như vậy thì không biết lấy gì mà sống. Vẫn biết chính quyền ra lệnh cấm không cho chặt bỏ cao su, nhưng đành phải liều thôi”.

Nhìn 14 sào cao su hơn 5 năm nay không thu được nổi 1 đồng nào, bà Đỗ Thị Sáu (60 tuổi, ngụ tại thôn 6, xã Quảng Phú) nói trong xót xa: “Giá mủ hiện tại chỉ còn 8.000 – 9.000/kg mủ tươi, quần quật làm cả ngày trời cũng không thu nổi 100.000 đồng thì chúng tôi biết lấy gì mà ăn. Đã nhiều lần chúng tôi lên xã cầu cứu, xin chuyển đổi sang cây trồng khác nhưng không được. Xã bảo ở trên họ không cho chuyển đổi, thời hạn hợp đồng chưa hết nhưng cứ kéo dài tình trạng này thì dân chỉ có chết đói”.

Không chờ được sự đồng ý của chính quyền, nhiều hộ dân tại xã Quảng Phú đã tự ý chặt bỏ cây cao su để chuyển sang trồng dứa và các loại cây trồng khác. Chính quyền địa phương có nhắc nhở, tuyên truyền nhưng tình trạng trên vẫn diễn ra.

Khó giữ diện tích cao su?

Những gốc cây cao su hơn 20 năm tuổi bị đốn hạ không thương tiếc.

Tình trạng người dân đổ xô đi chặt bỏ cây cao su đang kỳ thu hoạch diễn ra ở nhiều huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa như huyện Thọ Xuân, Như Xuân, Ngọc Lặc, Yên Định… Chính quyền các địa phương rơi vào tình trạng khó xử khi trên thì ra lệnh giữ nguyên diện tích cao su, còn đa phần người dân thì kiến nghị chặt bỏ cao su để chuyển đổi cây trồng khác nhằm nuôi sống gia đình.

Trao đổi với NTNN, ông Phạm Văn Quyết – Chủ tịch UBND xã Quảng Phú cho biết, trước đây, toàn xã có hơn 144ha cao su, nhưng khoảng 3 năm trở lại đây người dân đã tự ý chặt bỏ khoảng 30ha và khoảng 30ha khác do đổ gãy. Hiện nay toàn xã chỉ còn khoảng 80ha. Theo hợp đồng trông cao su người dân sẽ nộp sản 30% lợi nhuận thu được cho ngân sách xã, nhưng do tình trạng cao su không có lời nên nhiều năm nay xã chỉ thu 100.000 đồng/sào.

“Chúng tôi thường xuyên tuyên truyền người dân giữ diện tích cây cao su vì hợp đồng chưa hết, nếu chặt bỏ là vi phạm. Tuy nhiên, cũng khó cho người dân khi cao su không đem lại lợi nhuận, nếu họ không chuyển đổi sang cây trồng khác thì sẽ không có nguồn thu. Xã đang cho cán bộ rà soát lại diện tích cao su còn lại, đồng thời sẽ gửi văn bản đến các cấp đề nghị được chuyển đổi sang cây trồng khác như cây dứa, cam, chứ cứ tình trạng này sẽ khó giữ được cao su” – ông Quyết nói.

Ông Lê Thọ Cường – Trưởng phòng NNPTNT huyện Thọ Xuân cho biết: “Trên địa bàn huyện hiện có gần 1.000ha cây cao su nhưng hiệu quả cây cao su những năm gần đây là rất thấp. Nhiều xã và ngay cả huyện cũng từng có đề nghị với tỉnh được phép chuyển đổi diện tích trồng cây cao su sang cây trồng khác nhưng không được đồng ý. Theo tinh thần của tỉnh thì hiện tại chúng tôi chỉ đạo các xã phải bảo vệ, giữ diện tích cây cao su, người dân không được phép chặt bỏ, chuyển sang cây trồng khác” – ông Cường nói.

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Để cây cao su phát triển hiệu quả, bền vững

Sau thiệt hại do hai cơn bão liên tiếp xảy ra vào tháng 7 và tháng 10 năm 2017, người trồng cao su trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đang rất băn khoăn về hướng phát triển loại cây này trong những năm tới. Tìm giải pháp để làm sao vẫn phát triển cây cao su trên vùng đất vốn không có nhiều thuận lợi với đặc thù của loại cây này, trong điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt và diễn biến khó lường như hiện nay chính là vấn đề cần được các cấp, ngành quan tâm.

Sau bão số 10, vợ chồng chị Lê Thị Xuân, ở đội 1 thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh cặm cụi thu dọn vườn cây bị bão quật ngã. Hơn 7 sào với khoảng 190 cây cao su của gia đình chưa kịp khai thác, giờ chỉ còn lại một phần nhỏ may mắn chống chịu qua bão, còn phần lớn cây bị gãy đổ, vợ chồng chị Xuân chặt lấy củi, tận dụng chút nào hay chút đó. “Bão số 4 gia đình tôi cũng bị ảnh hưởng nhưng không nhiều như cơn bão số 10 này. Đa phần những cây bị gãy đều đến thời kỳ khai thác, coi như thất thu. Trồng cao su giống như “đánh bạc với trời” vậy, may mắn thuận lợi thì có khi thu tiền triệu mỗi ngày, bằng không thì cũng dễ tay trắng như chơi”, chị Xuân ngậm ngùi nói.

Tỉnh Quảng Trị hiện có hơn 19.945 ha cao su, tăng 570 ha so với cùng thời điểm năm 2016. Sản lượng thu hoạch mủ cao su 6 tháng đầu năm ước đạt 4.617 tấn, là loại cây chủ lực đem lại giá trị kinh tế cao cho người dân. Theo thống kê ban đầu do cơn bão số 10, toàn tỉnh có hơn 2.900 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó huyện Vĩnh Linh là địa phương thiệt hại nặng nhất với hơn 1.900 ha. Có khoảng 981 ha thiệt hại nặng trên 70%, hầu hết tập trung vào các xã vùng Đông Vĩnh Linh như Vĩnh Hiền, Vĩnh Hòa, Vĩnh Kim, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạch…

Hàng ngàn héc ta cao su trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại do bão số 10 gây ra

Huyện Gio Linh cũng là địa phương bị thiệt hại nặng nề với hơn 800 ha cao su bị ảnh hưởng, trong đó có xã như Trung Sơn có đến hơn 600 ha bị thiệt hại. Có nhiều nơi mật độ cây bị tàn phá rất dày, lại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản nên thiệt hại về giá trị kinh tế là rất lớn. Nhiều hộ dân gần như mất trắng vườn cây khi phần lớn cây cao su bị gió bão đánh gãy ngang gốc, không thể phục hồi.

Theo ông Trần Thanh Hiền, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để kịp thời khắc phục thiệt hại, sớm ổn định sản xuất, nhất là đối với người trồng cao su ở các địa phương trong tỉnh, ngành nông nghiệp đã kịp thời tham mưu đề xuất các biện pháp xử lý thích hợp. Riêng đối với diện tích cao su vùng Đông Vĩnh Linh, nhất là các địa phương vùng ven biển có vườn cao su bị thiệt hại trên 70% thì khuyến cáo người dân cần thanh lý, chuyển đổi sang cây trồng khác phù hợp như hồ tiêu, trồng cỏ nuôi bò hoặc các loại cây trồng khác có hiệu quả thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt.

Đối với những vườn cây cao su chưa đến thời kỳ cạo mủ, những cây bị gãy toác thân từ trên xuống hoặc đổ rạp xuống đất thì cần phải cưa bỏ để trồng lại cây mới, không dựng lên phục hồi nữa, vì làm vậy vừa tốn công, tốn tiền mà cây lại cho mủ quá ít, chất lượng kém. Đối với những cây bị gãy ngang thân, cần cưa vát theo góc nghiêng 30 độ ngay chỗ gãy cưa hết phần thân bị gãy xước, sau đó dùng mỡ vaseline bôi vào vết cắt để phục hồi. Đối với vườn cao su kinh doanh bị ảnh hưởng sau bão thì khuyến cáo tạm ngừng khai thác, tập trung chăm sóc và xử lý chờ cây phát triển ổn định trở lại mới khai thác.

Trồng cây cao su ở vùng đất thường xuyên chịu gió bão như Quảng Trị thì đòi hỏi các ngành chức năng phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trong việc định hướng cho người dân các khâu từ chọn giống, kỹ thuật trồng, thời điểm khai thác phù hợp để hạn chế thấp nhất thiệt hại do bão gây ra. Theo các nhà khoa học khuyến cáo, cần lựa chọn các giống rễ sâu, tán thấp, thân to, nên sử dụng các cây giống ươm trong bầu, có khả năng chịu được gió, rút ngắn được thời gian khai thác như GT1, PB 255, PB 260, RRIM 600… Ngoài việc mở rộng diện tích trồng thì cần quan tâm đến việc trồng các loài cây thân gỗ như cây keo có khả năng chống chịu gió làm vành đai chắn bão. Trên thực tế, đối với các vườn cao su tiểu điền hiện nay trong toàn tỉnh, hầu như người dân chưa quan tâm đến vấn đề này.

Ngoài ra, khi kiến thiết vườn cây cao su, người dân cần tránh trồng mật độ quá dày theo truyền thống (bình quân 500 – 550 cây/ha), bởi như vậy sẽ tạo nên sức cản gió lớn khiến cây nhanh chóng gãy đổ khi gặp bão. Ngoài ra, người trồng cao su cần tuân thủ việc cạo mủ theo đúng quy trình kỹ thuật, cạo hai ngày, nghỉ một ngày, không nên khai thác theo kiểu tận thu. Đối với vườn cao su đang giai đoạn kiến thiết cơ bản thì tăng cường bón phân để cây chắc rễ, chống chịu được với gió bão. Hiệu quả kinh tế mà cây cao su mang lại cho người trồng cao su trong tỉnh những năm qua đã được chứng minh.

Trong đề án tái cơ cấu các ngành kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2017 – 2020, tỉnh đặt ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu tăng diện tích trồng cao su lên 21.000 – 22.000 ha, sản lượng khai thác đạt từ 20.000 – 25.000 tấn. Để tiếp tục phát triển hiệu quả cây cao su tại địa phương, các cấp, ngành chức năng cần có những giải pháp mang tính lâu dài, cần điều chỉnh lại quy hoạch để xác định chỗ nào nên trồng, chỗ nào cần loại bỏ, hướng dẫn người trồng cao su nghiêm túc thực hiện cơ cấu giống và quy trình kỹ thuật áp dụng cho khu vực duyên hải miền Trung đã được Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam khuyến cáo, ban hành… nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại khi có thiên tai xảy ra.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trồng xen sả dưới tán cây cao su – hướng đi mới hiệu quả cho nông dân quảng trị

Trồng xen sả dưới tán cây cao su – hướng đi mới hiệu quả cho nông dân Quảng Trị

Gio Sơn là một xã miền núi thuộc huyện Gio linh tỉnh Quảng Trị, nổi tiếng với các nông trường cao su bạc ngàn. Trong những năm gần đây việc nông trường giao cao su cho người dân quản lí, khai thác, vệ sinh đã tạo điều kiện cho người dân phát triển kinh tế từ mô hình trồng sen sả dưới tán cao su còn nhỏ.

Sả là loại cây trồng rất phổ biến ở thế giới, có thể trồng quanh nhà với quy mô hộ gia đình hay trồng lớn theo quy mô nông trường. Hiện nay trên thế giới có 9 giống sả, nhưng ở Việt Nam phổ biến nhất là 2 giống sả chanh và sả Java. Hiện ở vùng Gio Sơn, người dân phát triển trồng chủ yếu là cây sả chanh( sả tím) – sả tím là loại cây không kén đất, nhưng với đất đỏ ở vùng Gio Sơn thì rất thuận lợi để cây sả phát triển. Khi xen canh với cây cao su, nông dân có thể tận dụng công chăm sóc cao su để làm sạch đất cho sả. Sả với thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ tầm 3-4 tháng cho 1 vụ thu hoạch, tiềm năng kinh tế cao khi được dùng cho cả thực phẩm lẫn nấu tinh dầu phục vụ cho dược phẩm,…giá sả cũng khá ổn định, giao động từ 6000- 8000đồng /1kg sả thương phẩm và 7000-9000 đồng/1kg cho sả giống. với 1ha cao su, khi xen canh với cao su có thể thu hoạch được từ 7 – 8 tấn sả thương phẩm, mang lại thu nhập 50-70 triệu đồng 1 năm. Hiệu quả kinh tế lớn hơn rất nhiều so với trồng các loại cây trồng khác.

cây sả được trồng xen canh

Việc chăm sóc sả cũng không quá khó khăn vì sả cũng khá ít bệnh, chủ yếu là bệnh gỉ sắt do nấm , hay rệp, thối gốc,… những bệnh này dễ dàng xử lí , phòng ngừa được.

Bên cạnh đó, 1 số người dân trong vùng mở rộng thêm diện tích cũng như học thêm cách nấu tinh dầu sả để tận dụng lá sả trong quá trình thu hoạch, nâng cao giá trị kinh tế, đa dạng hóa sản phẩm và tạo được thị trường ổn định hơn cho bà con nông dân.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam