Công nghệ chế biến nông sản Việt Nam ở mức trung bình của thế giới

Hội thảo “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và Cơ giới hóa nông nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4” diễn ra tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam chiều 26/9 cho biết, từ 2018 đến nay có 30 dự án lớn đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư 20.000 tỷ đồng.

 

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đặc biệt nhấn mạnh vài trò của công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch với nền nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập

 

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam nhấn mạnh, nhờ công nghiệp chế biến tăng trưởng, phát tiển mạnh nên trong những năm vừa qua Việt Nam tiếp tục duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt trên 40 tỷ USD, tăng 9,6% so với 2017.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam khẳng định, tương lai nông sản Việt Nam có thắng trên thị trường thế giới hay không phụ thuộc rất lớn vào công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch.

Theo ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT) cho biết, thời gian qua công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản của cả nước có nhiều kết quả to lớn, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định kinh tế, xã hội.

Cụ thể, giai đoạn từ 2013 – 2018 công nghiệp chế biến nông sản cả nước đã có bước phát triển mạnh mẽ trên cả quy mô và mức độ hiện đại so với 5 năm trước (giai đoạn 2007 – 2012), tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm đạt khoảng 5 – 7%. Nhờ công nghiệp chế biến nông sản tăng trưởng mạnh mà các mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng bình quân khoảng 8 – 10%/năm trong hai năm qua.

Theo số liệu thống kê của Bộ NN-PTNT, hiện Việt Nam đã bước đầu hình thành được hệ thống công nghiệp chế biến nông sản với trên 7.500 cơ sở quy mô công nghiệp gắn xuất khẩu. Ngoài ra, còn có hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình rải khắp các địa bàn làm nhiệm vụ sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa.

Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chú trọng đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp, thống kê từ 2018 đến nay có 30 dự án đầu tư lớn vào chế biến sản phẩm nông nghiệp đã hoạt động, triển khai trên cả nước với tổng vốn đầu tư 20.000 tỷ đồng. Điển hình như các doanh nghiệp Masan, Doveco, Dabaco, TH Group, Vinamilk, Minh Phú, Ba Huân, Nafood, Lenger Seafood, Angfish… hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ.

Tuy nhiên, về mặt công nghệ chế biến và chất lượng sản phẩm, nhìn chung trình độ công nghệ chế biến nông sản Việt Nam so với thế giới mới đạt mức độ trung bình đến trung bình khá, chỉ có một số ngành hàng hoặc một số sản phẩm có công nghệ và thiết bị chế biến tương đối hiện đại mang tầm khu vực, thế giới như: chế biến hạt điều, chế biến lúa gạo, chế biến tôm và cá tra…

 

Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản trong GDP của ngành nông nghiệp đạt trên 30%.

Từ thực trạng, lợi thế, khó khăn, thách thức, nhất là thách thức từ biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp chế biến nông sản có đủ năng lực chế biến đảm bảo đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.

Trong đó, công nghệ chế biến đạt trình độ công nghệ từ trung bình tiên tiến trở lên, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN, một số ngành hàng dẫn đầu thế giới. Các sản phẩm sau chế biến phải đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm, góp phần tăng nhanh giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu.

Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản trong GDP của ngành nông nghiệp đạt trên 30%. Tốc độ giá trị hàng hóa nông sản qua chế biến đạt 7 – 8%/năm. Trên 50% số cơ sở chế biến mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đạt trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến. Tốc độ năng suất lao động đạt trên 7%/năm. Mức độ cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt từ 90 – 100%. Công suất máy trang bị bình quân cả nước đạt 4-5,5HP/ha (hiện nay 2,2HP/ha).

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Đột phá công nghệ, nâng cao giá trị Gạo Việt

Xu hướng hiện nay của các nước nhập khẩu gạo luôn đòi hỏi chất lượng gạo phải ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và truy suất nguồn gốc. Vì vậy để lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững cần có những giải pháp nâng cao chất lượng hạt gạo.

Thu hoạch Lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long

 

Lúa gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có giá trị XK hàng tỷ USD/năm, là sản phẩm nòng cốt giữ vững thương hiệu quốc gia nông nghiệp trên thế giới.

Những thành quả liên tiếp đạt được về kim ngạch XK gạo trong những năm gần đây tới các thị trường truyền thống cũng như năng lực mở rộng tiếp cận tới các thị trường mới, có tính khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã tiếp tục khẳng định khả năng tăng trưởng và phát triển của gạo Việt.

Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong SX, chế biến và bảo quản vẫn còn rất hạn chế đối với các DN SX gạo trong nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và giá thành của gạo Việt Nam so với giống gạo cùng loại của các quốc gia XK gạo lớn như Thái Lan và Ấn Độ.

Theo Bộ Công thương, trong giai đoạn 2010 – 2018, tổng lượng gạo tiêu dùng của Việt Nam dao động từ 19 – 23 triệu tấn/năm, sản lượng gạo XK dao động từ 4,9 – 7,7 triệu tấn/năm, giá trị XK luôn đạt trên 2 tỷ USD/năm và mức kỷ lục 3,08 tỷ USD năm 2018. Song, ứng dụng công nghệ trong chuỗi giá trị lúa gạo còn thấp nên thu nhập của nông dân và DN chưa cao.

Riêng 8 tháng đầu năm 2019 XK gạo đạt 5,4 triệu tấn nhưng trị giá chỉ đạt 1,96 tỷ USD (-15%). Trong năm nay gạo Việt XK sang thị trường Trung Quốc cũng giảm 65% về lượng và 67% về trị giá. Nguyên do vì hiện nay Trung Quốc tăng quản lý về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, siết chặt quản lý biên giới không còn là thị trường dễ tính nữa.

Từ lý do đó lúa gạo Việt Nam cần đột phá về nhiều mặt như nâng công nghệ chất lượng hiệu quả trong SX và tiêu thụ lúa gạo sang các nước trên thế giới.

Ông Nguyễn Hồng Sơn, GĐ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN-PTNT) nhấn mạnh: Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản, chế biến hiện đang là khâu xung yếu nhất trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được xác định là cơ hội và tiềm năng phát triển mạnh cho những sáng kiến mang tính đột phá của ngành lúa gạo, của các DN là chủ thể của chuỗi SX lúa gạo Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách cũng như mục tiêu lâu dài về nâng cao chất lượng, giá trị và năng lực cạnh tranh của gạo Việt.

Hiện tỷ lệ cơ giới hóa khâu thu hoạch lúa trên cả nước là 50%, riêng ĐBSCL đạt 82%. Sấy lúa là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thu hồi và chất lượng gạo xay xát, nhưng năng lực sấy lúa của Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp, chỉ đạt khoảng 56%.

Các hệ thống kho chứa chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật để bảo quản lúa dài ngày (từ 6 – 12 tháng). Hiệu quả chuỗi giá trị ngành lúa gạo vẫn còn thấp, do tỷ lệ thất thoát cao, chất lượng gạo XK còn thấp, phân phối lợi nhuận, chia sẻ rủi ro giữa nông dân và các đối tác còn bất cập. Cơ sở hạ tầng, công nghệ bảo quản, chế biến ở địa phương còn lạc hậu làm gia tăng tổn thất, và giảm chất lượng trong bảo quản.

 

Lượng gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường thế giới nhưng lại không có thương hiệu gạo nổi bật, nên không thu được giá trị gia tăng nhờ thương hiệu.

 

Theo ông Sơn, để có thể nâng cao giá trị nông sản, nhất là lúa gạo, thông tin về các sản phẩm được chế biến sau lúa, gạo là vô cùng hữu ích cho nông dân, nhà khoa học, các DN và quản lý nhà nước trong nỗ lực nghiên cứu, học hỏi các phương thức SX mới trên thế giới, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng lúa, hạt gạo, và các phụ phẩm sau thu hoạch.

Hiện nay Bộ NN-PTNT đã và đang có nhiều chương trình, kế hoạch hành động cụ thể về nội dung này và tin tưởng với tính hấp dẫn về đầu tư ngành nông nghiệp, cùng với những cơ hội ngày một mở rộng hơn từ các hiệp định thương mại ký kết gần đây, các DN tham gia trong ngành công nghệ chế biến và bảo quản lúa gạo quan tâm sẽ quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, hợp tác với DN SX trong nước để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, tăng hiệu quả và chất lượng của gạo Việt Nam.

Ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết: Giá trị của hạt gạo trên thị trường, ngoài chất lượng gạo còn có rất nhiều yếu tố khác tác động như thương hiệu (uy tín của DN), quy trình canh tác và truy xuất nguồn gốc. Để nâng cao hơn nữa giá trị XK gạo của Việt Nam, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chọn tạo giống đã đạt được, đề nghị các DN XK cần có sự hợp tác và đầu tư nhiều hơn nữa trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng quy trình canh tác lúa phù hợp, lúa hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Lượng Gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường trên toàn Thế Giới nhưng lại không có thương hiệu Gạo nổi bật

 

Quan trọng hơn là đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị nghiên cứu để tiếp nhận và quảng bá các giống lúa mới có phẩm chất tốt ra thị trường và duy trì được sự ổn định của chất lượng giống và lúa hàng hóa trong vùng nguyên liệu. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn nữa đến các giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng và gạo chức năng, mặc dù thị phần không lớn, nhưng có giá trị kinh tế rất cao, mà chưa được quan tâm đúng mức.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Những mô hình canh tác né hạn: Đậu phộng chinh phục đất lúa

Vụ hè thu 2019, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Yên triển khai mô hình trồng đậu phộng trên đất trồng lúa, màu kém hiệu quả lại thiếu nước tại xã Hòa An (huyện Phú Hòa) và thị trấn La Hai (huyện Đồng Xuân).

Mô hình trồng Đậu Phộng (Lạc) trên đất trồng lúa

 

Trên 3 xứ đồng đậu phộng

 

Mô hình chuyển đổi cây trồng mang lại hiệu quả cao nên thời gian tới, các địa phương tiếp tục nhân rộng. Mô hình trồng đậu phộng giống TB25 tại xứ đồng Gò Chàm, Soi Dưới, Soi Trên, thuộc thôn Vĩnh Phú, xã Hoà An (huyện Phú Hòa) trên diện tích 8ha, với 48 hộ nông dân tham gia. Trong thời gian sinh trưởng, đậu phộng TB25 có khả năng phân cành cấp 1 nhiều, chống chịu khá tốt với sâu bệnh hại; năng suất thực thu đậu phộng tươi đạt 46 tạ/ha, lợi nhuận bình quân gần 30 triệu đồng/ha.

 

Ông Đặng Minh Nghĩa, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Tây Hòa An cho hay: Vùng đất này, trước đây bà con nông dân trồng lúa thì lợi nhuận chỉ đạt 8 triệu đồng/ha, như vậy trồng đậu phộng lợi nhuận cao hơn trồng lúa trên 20 triệu đồng/ha. Đầu ra ổn định, có thương lái tiêu thụ. Không những thế, trồng đậu phộng trả lại đất nguồn dinh dưỡng, dây đậu phộng sau khi thu hoạch làm phân xanh.

Ông Trần Hay, một nông dân tham gia mô hình trồng đậu phộng trên xứ đồng Soi Trên chia sẻ: “Tôi trồng 3 sào (1.500m2) đậu phộng, cuối vụ gia đình tôi thu hoạch nhổ được 279 kg/sào, với giá bán 17.000 đồng/kg, thu trên 4,7 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí từ khi làm đất đến thu hoạch, còn lãi trên 2,1 triệu đồng/sào, với 3 sào tôi thu lãi 6,3 triệu đồng. So sánh với trồng lúa, vùng này lâu nay 3 sào đất nhà tôi bình quân thu 600kg, với giá bán 5.500 đồng/kg thì thu 3, 3 triệu đồng. Đó là chưa trừ chi phí phân thuốc, cày bừa”.

Ông Nguyễn Thành Phương, một nông dân tham gia mô hình trồng đậu phộng trên xứđồng Gò Chàm, cho hay: “Gia đình tôi trồng 3 sào, hôm tổ chức hội nghị tham quan mô hình, nhổ thí điểm 1m2 được 22 bụi, lặc lấy hột cân, quy ra năng suất đạt 220kg đậu tươi/sào. Trước khi trồng, gia đình tôi được nhận hỗ trợ 36kg giống, tương đương mỗi sào 12kg”.

Còn bà Bùi Thị Hiền, cũng tham gia trồng đậu phộng trên xứ đồng Soi Dưới, cho hay: “Tôi trồng 2 sào, thu hoạch được gần 5 tạ. Tôi chăm sóc, bón phân theo hướng dẫn kỹ thuật của cán bộ khuyến nông. Cuối vụ nhổ lên trái sai, hột đậu no. Trước đây tôi trồng đậu phộng nhưng dính lép, hột đậu phộng hơi nghiêng (bị xốp)”.

 

Giống TB25, LDH.01 trên Soi Họ

 

Vụ hè thu 2019, Trung tâm Khuyến nông Phú Yên triển khai mô hình trồng đậu phộng giống TB25, LDH.01 tại xứ đồng Soi Họ, thị trấn La Hai (huyện Đồng Xuân), trên diện tích 8ha, trong đó giống LDH.01 là 5ha, TB25 là 3ha, với 56 hộ nông dân tham gia.

Tại hội nghị tổng kết tham quan thực tế mô hình trồng đậu phộng tại Soi Họ, nông dân cân đo đong đếm, năng suất thực thu đậu phộng tươi đối với giống LDH.01 đạt 44,4 tạ/ha, giống TB25 là 40 tạ/ha, với giá bán 13.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí thì lãi ròng đối với giống LDH.01 gần 15 triệu đồng/ha, giống TB25 là 5,7 triệu đồng. Trong khi đó, nếu bà con nông dân trồng bắp lợi nhuận chỉ đạt 2,3 triệu đồng/ha, như vậy trồng đậu phộng lợi nhuận cao hơn trồng bắp từ 3,7 đến 12,7 triệu đồng/ha.

Ông Trần Văn Bình, tham gia mô hình cho hay: “Tôi tham gia mô hình trồng 1 giạ giống (1.000m2). Trước khi xuống giống, tôi được tập huấn kỹ thuật từ khâu cày bừa đất, sạch cỏ dại, bón lót phân chuồng, vôi, phân lân. Bón lót kết hợp với các biện pháp phòng trừ mối, kiến để khi rắc xuống không bị kiến, mối ăn hột giống. Đến khi đậu phộng ra hoa 10-15 ngày, tôi bón vôi, sau đó phun Bidamin 15WP (thuốc ức chế tăng trưởng) để giúp đậu phộng tập trung dinh dưỡng nuôi củ, chắc hột”.

Bà Đặng Thụ Duyên, Phó chủ tịch UBND thị trấn La Hai cho rằng, mô hình trồng đậu phộng trên đất trồng lúa, màu kém hiệu quả triển khai tại Soi Họ, kết quả năng suất 2 giống đậu phộng lần lượt là TB25 đạt 40, còn LDH.01 đạt 44,4 tạ/ha. Mô hình còn tiết kiệm nước tưới, cải tạo đất, cắt cầu nối sâu bệnh giữa 2 vụ trồng cây màu và giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn tại địa phương. Thông qua mô hình, nông dân nắm bắt kỹ thuật trồng cây đậu phộng giống mới.

Ông Nguyễn Văn Tri, Phó phòng NN-PTNT huyện Đồng Xuân cho biết, mô hình trồng đậu phộng thuộc Dự án “Phát triển vùng chuyên canh đậu phộng ứng phó biến đổi khí hậu gắn với chuỗi tiêu thụ sản phẩm”. Trồng đậu phộng về mặt chi phí đầu tư cũng tương tự như trồng bắp nhưng đậu phộng có giá bán cao hơn.

Mặc khác, nếu trồng đậu phộng trên nền đất lúa kém hiệu quả giảm được từ 4 – 5 lần tưới tràn/vụ và lượng nước dùng tưới cho đậu phộng giảm từ 60 – 70% so với lúa. Vì vậy, mô hình này không những có hiệu quả về mặt kinh tế mà còn tiết kiệm một lượng lớn nước dùng trong công tác tưới tiêu, phù hợp với định hướng của ngành nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Doveco sẽ thu mua hàng trăm ngàn tấn rau quả mỗi năm ở Tây Nguyên

Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai đi vào hoạt động không chỉ thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển mà còn đưa Tây Nguyên trở thành một trong những trung tâm chế biến rau quả chất lượng cao của cả nước

Khánh thành trung tâm chế biến rau quả Doveco tại Huyện Mang Yang, Gia Lai

 

Chế biến hơn 500 tấn rau quả mỗi ngày

 

Sau hơn một năm xây dựng, Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai của Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) chính thức đi vào hoạt động tại huyện Mang Yang, Gia Lai.

Doveco Gia Lai với tổ hợp nhà máy chế biến rau quả hiện đại công suất 52.000 tấn sản phẩm/năm. Có 3 dây chuyền sản xuất tự động hóa gồm: Dây chuyền sản xuất nước quả cô đặc và nước quả tự nhiên, công suất 20.000 tấn sản phẩm/năm; dây chuyền sản xuất rau quả đông lạnh, công suất 22.000 tấn sản phẩm/năm; dây chuyền sản xuất rau quả đồ hộp, công suất 10.000 tấn sản phẩm/năm.

Từ tháng 4/2019 đến nay, Doveco đã đưa vào vận hành, chạy thử với những lô hàng đầu tiên sản xuất ra đã được xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu, Israel, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…

Với các tổ hợp sản xuất này, mỗi năm, nhà máy sẽ thu mua hàng trăm ngàn tấn rau quả các loại để chế biến và xuất tươi nhiều dòng sản phẩm rau củ quả như: chuối, dứa, thanh long, chanh dây, bơ, xoài, sầu riêng, rau chân vịt, đậu tương rau, bắp ngọt, khoai lang Nhật, bí Nhật của người dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung.

Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao cho biết, khi nhà máy đi vào hoạt động, chúng tôi kỳ vọng kim ngạch xuất khẩu rau quả sẽ đạt khoảng 100 triệu USD/năm, tổng doanh thu hàng năm có thể đạt 2.000 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước hàng năm từ 100 đến 150 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, Doveco có điều kiện giới thiệu sản phẩm rau quả đặc sản của Tây nguyên như chanh dây, bơ, chuối, sầu riêng… ra thị trường thế giới.

Theo ông Khuê, với quy mô chế biến 500 tấn nguyên liệu mỗi ngày, Doveco sẽ góp phần tạo đầu ra ổn định cho rau quả nông sản khu vực Tây Nguyên, nâng cao giá trị gia tăng, giá trị sản xuất và nâng cao đời sống của người dân tỉnh Gia Lai và khu vực Tây Nguyên.

Trong khi đó, ông Võ Ngọc Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai cho biết, Doveco Gia Lai đi vào hoạt động sẽ góp phần giải quyết trên 500 lao động ở địa phương và hàng chục ngàn nông dân tham gia sản xuất, cung ứng các sản phẩm nông sản.

Ông Thành cũng kỳ vọng, Doveco sẽ mở đầu cho thời kỳ bùng nổ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, thu hút các nhà đầu tư mới.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh cho biết, Doveco là một trong những doanh nghiệp đầu tiên phát triển chuỗi giá trị cây ăn quả chủ lực của Việt Nam. Từ việc chủ động tạo ra giống mới cho năng suất cao, Doveco có công nghệ chế biến, xuất khẩu một cách bền vững.

Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đề nghị Doveco tiếp tục phát huy truyền thống và thế mạnh của mình, tiếp tục đồng hành cùng người dân Tây Nguyên để chế biến và tiêu thụ nhằm năng cao giá trị sản phẩm nông sản, đặc biệt là các loại cây đặc sản như chanh dây, bơ, chuối và sầu riêng.

 

Đòn bẩy để nông nghiệp Tây Nguyên phát triển

 

Hiện nay, sản phẩm của Doveco xuất khẩu đến 50 quốc gia, tập trung chủ yếu vào thị trường các nước như: Nhật Bản Mỹ Israel, EU… Các sản phẩm xuất khẩu chiến lược của Doveco chủ yếu là: dứa lạnh dứa hộp, nước dứa cô đặc, nước chanh dây cô đặc, vải lạnh, mơ lạnh, rau chân vịt… Còn với thị trường trong nước, sản phẩm của Doveco đã có mặt ở hầu hết các siêu thị lớn nhỏ và đang chiếm một thị phần lớn.

Ông Kenichiro Nakano, đại diện công ty Tokai Denpun Nhật Bản cho biết, những năm gần đây, Doveco đã xuất khẩu sang Nhật Bản, thị trường khắt khe về chất lượng sản phẩm và giá bán. Nhờ sự hợp tác và chia sẻ công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý, Doveco đã tạo được niềm tin của khách hàng tại Nhật Bản.

Nhằm đưa Doveco Gia Lai trở thành trung tâm chế biến rau qua lớn nhất Tây Nguyên, Doveco đã có chiến lược xây dựng vùng nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Gia Lai và các tỉnh khu vực Tây Nguyên.

Đến nay, Doveco đã phát triển vùng nguyên liệu dứa tại các địa phương như: Phú Thiện, Kông Chro, Ia Pa (Gia Lai) với diện tích 2.000 ha; phát triển vùng chuối nguyên liệu tại thị xã An Khê, huyện Ia Pa, Đak Pơ, Kông Chro, Mang Yang (Gia Lai) và tỉnh Đăk Lăk, Kon Tum với diện tích 1.000 ha; phát triển vùng nguyên liệu chanh dây tại các địa phương của tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Kon Tum với diện tích 2.000 ha. Theo kế hoạch đến năm 2020, vùng nguyên liệu của Doveco sẽ đạt từ 22.000 ha đến 25.000 ha.

Chanh dây của Doveco được xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc

Ông Đinh Gia Nghĩa, Giám đốc Doveco Gia Lai cho biết, việc hợp tác, liên kết giữa Doveco với nông dân sản xuất nguyên liệu bước đầu đã có kết quả tốt, tạo tiền đề cho việc xây dựng nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, chất lượng cao tại khu vực Tây Nguyên.

Theo ông Nghĩa, Doveco ký hợp đồng với chính quyền địa phương để thuê đất của dân nhằm chủ động trong việc tổ chức sản xuất. Sau khi người dân cho thuê đất, Doveco tạo điều kiện thuê làm nhân công lao động ngay tại vùng nguyên liệu.

Doveco sẽ thực hiện đầu tư ban đầu cho bà con nông dân như: cung cấp giống, vật tư phân bón đảm bảo chất lượng, chuyển giao kỹ thuật. Đồng thời, theo dõi, giám sát, hướng dẫn quá trình sản xuất đúng kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm tạo ra sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn từ khâu sản xuất cho đến chế biến và xuất khẩu.

“Ngoài việc tiêu thụ nông sản, chúng tôi cũng góp phần tạo việc làm ổn định cho khoảng 5.500 lao động địa phương với mức thu nhập bình quân 6,5 triệu đồng đến 7 triệu đồng/người/tháng” – ông Nghĩa chia sẻ.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech Vietnam

Cà Phê Việt: Thế mạnh top 2 thế giới, Việt Nam vẫn ôm nỗi buồn đội sổ

Đứng thứ 2 thế giới, song xuất khẩu cà phê của Việt Nam lại đang sụt giảm mạnh. Đáng buồn hơn, giá xuất khẩu cà phê Việt đang xếp vị trí gần như đội sổ, rẻ hơn nhiều so với giá cà phê cùng loại của các nước.

Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu Cà Phê

Theo báo cáo của Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, xuất khẩu cà phê 8 tháng năm 2019 ước đạt 1,17 triệu tấn và gần 2 tỷ USD, giảm 11,8% về khối lượng và giảm 21,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.

Từ đầu năm đến nay, Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 13,7% và 9%. Ngoại trừ Philippines và Malaysia có giá trị xuất khẩu cà phê tăng lần lượt 22% và 3,7%, hầu hết các thị trường chính còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2018.

Không những giảm về sản lượng xuất khẩu, giá giá cà phê xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2019 chỉ đạt 1.708 USD/tấn, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2018.

Thực tế, giá cà phê Việt Nam đang giảm theo xu hướng chung. Giá cà phê thế giới tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2019 và giảm xuống mức thấp nhất trong 13 năm trở lại đây do áp lực dư cung của thị trường cà phê toàn cầu.

Song, điều đáng buồn, giá cà phê Việt xuất khẩu lại đang xếp vị trí gần như đội sổ, rẻ hơn nhiều so với giá cà phê cùng loại của các nước khác.

Đơn cử, tại Tây Ban Nha, Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn nhất cho nước này với hai loại chủ yếu gồm: cà phê chưa rang; chưa khử caffein và khử caffein (không bao gồm rang) chiếm 42,8% và 39,5% trong tổng trị giá nhập khẩu hai chủng loại cà phê này trong 4 tháng đầu năm 2019.

Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Tây Ban Nha đạt mức 2.712 USD/tấn. Trong khi đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê từ Việt Nam chỉ ở mức 1.779 USD/tấn, thấp hơn nhiều giá bình quân nhập khẩu tại thị trường này.

Đáng chú ý, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Tây Ban Nha từ Pháp đạt mức cao 15.670 USD/tấn. Tức cao gấp gần 9 lần so với giá cà phê nước này nhập từ Việt Nam.

Tương tự, Bộ Công Thương cũng dẫn số liệu từ Ủy ban thương mại Hàn Quốc, trong 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất vào thị trường này với sản lượng 11.000 tấn, song giá chỉ đạt 1,8 USD/kg.

Brazil là nước đứng thứ hai về sản lượng với gần 10.600 tấn nhưng xuất khẩu được vào Hàn Quốc với giá 2,6 USD/kg. Còn cà phê Colombia đứng thứ 3 với trên 9.000 tấn, giá bình quân đạt 3,2 USD/kg.

Cà Phê Việt xuất khẩu thô là chủ yếu nên giá trị thu về thấp

Một chuyên gia trong ngành cho biết, cà phê Việt Nam hiện được xuất khẩu sang trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD, chiếm 14% thị phần và 10,4% giá trị cà phê nhân xuất khẩu toàn cầu, đứng thứ 2 sau Brazil.

Tuy nhiên, lượng cà phê xuất khẩu chủ yếu là cà phê nhân, chiếm khoảng 90%. Do đó, lợi nhuận thu về chưa tương xứng với lượng hàng xuất đi. Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam cũng thấp hơi nhiều, thậm chí còn xếp bét bảng so với các nước có thế mạnh xuất khẩu cà phê.

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, phần lớn cà phê Việt Nam khi thu hoạch không đáp ứng được độ chín, lẫn nhiều tạp chất, máy móc thiết bị sơ chế lạc hậu, sân phơi tạm bợ trên nền đất hoặc nền xi măng,… dẫn đến chất luọng thấp.

Trong khi xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô nên cà phê Việt không có thương hiệu mà phần lớn trở thành nguyên liệu của nhiều nước dùng để chế biến sâu và tái xuất lại tiêu thụ ở Việt Nam dưới dạng cà phê bột, hòa tan, pha sẵn…

Đơn vị này dự báo, giá cà phê trong ngắn hạn sẽ tăng do nguồn cung có phần sụt giảm từ các nước sản xuất chính, tuy nhiên giá sẽ vẫn ở mức thấp trong nhiều năm. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng cà phê tăng nhanh hơn so với sản xuất sẽ thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu cà phê trong trung và dài hạn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nấm sạch Tuấn Linh khẳng định chất lượng

Được thành lập năm 2016, Hợp tác xã Sản xuất nấm sạch và kinh doanh nông nghiệp Tuấn Linh ở xã Sơn Lộc (huyện Bố Trạch, Quảng Bình) đã thành công trong việc trồng các loại nấm và sản xuất các sản phẩm từ nấm.

Ông Nguyễn Quốc Hương, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Tuấn Linh cho biết: Trong giai đoạn 2016 – 2018, HTX đã ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao cho hệ thống máy móc, nhà xưởng phục vụ sơ chế, chế biến.

“Từ khâu giống, nguyên liệu, bịch phôi, nấm thành phẩm, đến chế biến nấm ra các sản phẩm hàng hóa là quy trình khép kín. Qua đó, mang lại hiệu quả kinh tế cao và tăng năng suất, hiệu quả kinh tế cho các thành viên”, ông Hưởng nói.

Định hướng của HTX là quyết tâm đưa thực phẩm an toàn để phục vụ tốt cho người tiêu dùng trên khắp mọi miền và hướng đến thị trường xuất khẩu. Từ định hướng này, HTX đã xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nấm và ứng dụng công nghệ cao để sản xuất các loại giống bấm, nấm ăn và nấm dược liệu…

Ngoài ra còn có các sản phẩm chế biến sâu như trà linh chi, rượu linh chi. Sản phẩm sản xuất sạch theo quy trình khép kín, bảo đảm các tiêu chuẩn nông nghiệp sạch theo hướng hữu cơ. Qua đó đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của HTX.

 

Sản xuất Nấm sạch tại HTX Tuấn Linh

Theo ông Hưởng, hằng năm, HTX sản xuất 170 vạn bịch nấm/năm. Sản lượng 170 tấn nấm (gồm các loại nấm linh chi, nấm sò, mộc nhĩ, kim phúc, hoàng đế, nấm rơm…). Tổng doanh thu khoảng 7 tỷ đồng.

Vừa qua, HTX Tuấn Linh đã được Sở Công thương Quảng Bình công nhận là doanh nghiệp đầu mối bao tiêu sản phẩm nấm linh chi, nấm mộc nhĩ trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, HTX thực hiện dự án đầu tư phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu giữa HTX với các hộ dân, tổ hợp tác (THT) trồng nấm. Đầu tư nâng cao năng lực thiết bị chế biến và chất lượng sản phẩm, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường.

Để bảo đảm nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nấm, Sở NN-PTNT Quảng Bình tổ chức ký kết bao tiêu sản phẩm chuỗi sản xuất nấm giữa các THT và doanh nghiệp. Đến nay, HTX đã liên kết trực tiếp với 28 THT trên địa bàn huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh,Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch…

HTX cung cấp nấm giống theo yêu cầu của các đối tác. Dự kiến nấm linh chi khoảng 150.000 bịch phôi/năm; nấm sò 30 triệu bịch và nấm mộc nhĩ 28 triệu bịch. Đồng thời, sản phẩm nấm do các THT sản xuất sẽ được HTX Tuấn Linh thu mua, bao tiêu sản phẩm.

Qua đó, tạo công ăn việc làm cho hơn 360 lao động ở các địa phương với mức thu nhập bình quân mỗi người 4 triệu đồng/tháng. Từ kết quả này, tháng 2/2018, HTX Tuấn Linh đã được Bộ trưởng Bộ NN-PTNT tặng Bằng khen điển hình liên kết, sản xuất nông nghiệp.

Sản phẩm nấm sạch, chất lượng cao của HTX Tuấn Linh đã được thị trường chấp nhận. HTX đã ký kết hợp đồng và liên kết sản xuất, tiêu thụ nấm thương phẩm với các Công ty, Siêu thị Co.opmart Quảng Bình, Co.opmart Hà Tỉnh, Co.opmart Huế , Co.opmart Quảng Trị, các cửa hàng nông sản trong và ngoài tỉnh. Sản phẩm từ nấm đã được đa dạng hóa như nấm linh chi quả thể, nấm linh chi thái lát, nấm linh chi bột…

 

Sản phẩm của HTX Tuấn Linh có mặt ở nhiều siêu thị lớn

Theo bà Ngô Thị Kim Liên, Giám đốc điều hành HTX Tuấn Linh, hiện đã có sản phẩm trà uống có lợi cho sức khỏe con người. “Đó là các sản phẩm trà xanh linh chi, trà linh chi, trà cà gai leo linh chi. Ngoài ra còn có nhiều dạng sản phẩm khác như nấm mộc nhĩ quả thể khô, nấm mộc nhĩ thái sợi, nấm sò tươi, nấm sò khô, nấm hương khô, nấm hoàng đế, nấm kim phúc, rượu nấm linh chi, cao linh chi”, bà Liên giới thiệu thêm.

Cũng theo bà Liên, hiện HTX đã dùng bã thải nấm để trồng rau má quy trình hữu cơ và đã sản xuất ra sản phẩm trà thảo mộc rau má túi lọc.

Từ những sản phẩm đầu tiên, HTX đã chú trọng đến việc thiết kế bao bì, nhãn mác. Lãnh đạo HTX luôn lắng nghe các phản hồi của khách hàng để điều chỉnh bao bì, nhãn mác phù hợp với nhu cầu của thị hiếu. Nhờ vậy, các sản phẩm của HTX được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh, thậm chí cả thị trường nước ngoài (Thái Lan, Lào, Nga) tin tưởng, lựa chọn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Ba giống Ngô ưu việt

Những giống Ngô lai đơn VINO 688, VINO 678 và VINO 812 đều do Công ty TNHH Việt Nông nghiên cứu lai tạo và đưa vào sản xuất.

 

Các giống Ngô mới của Việt Nông

Giống VINO 688

Đây là giống ngô trung ngày (từ 98 – 105 ngày ở Nam bộ và 105 – 115 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc). VINO 688 chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, sinh khối đạt 50 – 60 tấn/ha; bộ lá đứng, thích hợp cho việc trồng dày. Chiều cao cây trung bình từ 200 – 220 cm, độ cao đóng trái từ 100 – 110 cm. Cây vẫn giữ được bộ lá xanh khi thu hoạch.

Giống VINO 688 có thể trồng với mật độ 65.000 – 70.000 cây/ha mà vẫn cho năng suất ổn định. Bắp có chiều dài từ 19 – 20 cm, 12 – 16 hàng hạt, dạng hạt đá, màu hạt vàng cam rất bắt mắt. Đặc biệt tỷ lệ hạt/bắp khá cao (khoảng 79%). Năng suất hạt trung bình đạt từ 9 – 11 tấn/ha. Giống VINO 688 có phổ trồng rộng, có thể trồng tất cả các vùng trong cả nước và có thể trồng quanh năm.

“Tôi ấn tượng với 2 giống ngô VINO 678 và VINO 688. Tôi trồng cả 2 giống thấy thân cây to, khỏe, tốc độ phát triển cũng như khả năng chịu hạn rất tốt”, ông Lò Văn Thanh (xã Chiềng Sung, huyện Mai Sơn) chia sẻ tại hội thảo trình diễn 3 giống ngô mới của Công ty TNHH Việt Nông tại Sơn La.

Giống VINO 678

Giống VINO 678 được lựa chọn theo định hướng vừa có thể thu hạt, vừa thu cây lấy thân làm thức ăn cho gia súc. Là giống ngô dài ngày: 100 – 104 ngày ở Đông Nam Bộ, 103 – 114 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Giống đạt sinh khối lấy thân có thể đạt 60 – 70 tấn/ha, mật độ trồng từ 57.000 – 65.000 cây/ha.

Giống có bộ lá xanh, rễ chân kiềng phát triển, cây cao từ 220 – 235 cm, chiều cao đóng trái từ 110 – 115 cm. Vì là giống có sinh khối lớn nên trong quá trình trồng cần đảm bảo cung cấp đủ nước để cây phát triển tốt. Giống VINO 678 có thể kháng sâu bệnh hại khá tốt.

Bắp ngô VINO 678 có chiều dài đạt 20 – 22cm, 14 – 16 hàng hạt, đường kính 4,4 – 4,7 cm, tỷ lệ hạt trên trái đạt 78%, hạt dạng bán đá, có màu cam. Giống thích hợp trồng vụ đông xuân, hè thu và thu đông. Năng suất hạt của giống đạt từ 10 – 12 tấn/ha.

Ông Lò Văn Luyện (xã Chiềng On, huyện Yên Châu) cho biết: “Năm vừa qua tôi trồng 2 giống ngô VINO 688 và VINO 812. Ưu điểm ở 2 giống ngô này mà tôi ấn tượng nhất là khả năng chống chịu sâu bệnh và tốc độ phát triển nhanh trên đất đồi. Đặc biệt bắp to, màu sắc rất đẹp.”

Giống VINO 812

Đây là giống khá đặc biệt, được kết hợp giữa 2 dòng bố mẹ có sức sinh trưởng mạnh và thích thích nghi tốt nhất trong bộ nguồn của Công ty TNHH Việt Nông hiện có. Giống có tiềm năng đạt năng suất cao: 11 – 12 tấn/ha, năng suất lấy thân đạt 55 – 60 tấn/ha.

Bộ lá xanh, lá dày và thân cây lớn, bắp to là những nhận xét của người dân Sơn La về giống ngô này. Giống VINO 812 là giống bắp dài ngày, 100 – 105 ngày ở Đông Nam Bộ, 110 – 120 ngày ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Giống có chiều dài trái 20 – 21 cm, đường kính trái 5,0 – 5,2 cm, dạng hạt răng ngựa, màu vàng. Tỷ lệ hạt/trái cao: từ 80 – 81%. Bắp có từ 16 – 20 hàng hạt. Giống VINO 812 có thể trồng quanh năm và rất thích hợp trồng ở vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Mặc dù mới đưa vào trồng thử nghiệm trong vòng 1 năm trở lại đây nhưng người dân Sơn La đều đánh giá rất cao 3 giống ngô trên. Ông Lò Văn Phái (xã Chiềng Sung, huyện Mai Sơn) có 5.000 m2 trồng thử nghiệm, đã nhận xét: “Trong năm nay, người dân tại địa phương rất hứng thú với 3 giống ngô của Việt Nông. Kháng sâu bệnh tốt là đặc điểm mà bà con quan tâm nhất vì thời gian gần đây trồng ngô phải đối mặt với nạn sâu keo mùa thu”.

Năm 2019, xã Chiềng Sung trồng hơn 1.000 ha ngô, trong đó người dân gieo hơn 2.000 kg hạt giống của Công ty TNHH Việt Nông. Dự báo trong năm 2020, con số đó sẽ tăng lên đến 8.000 – 10.000 kg.

“Bắp của 3 giống ngô đều có màu vàng đẹp, bắp to, mang lại năng suất cũng như hiệu quả kinh tế rất cao. Vì chất lượng hạt giống tốt nên đối với người nông dân quá trình trồng khá đơn giản. Giá thương lái thu mua hiện khoảng 2.800 – 2.900 đ/kg, tương đương 38 – 40 triệu/ha”, ông Lò Văn Phái chia sẽ.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nhãn Việt lần đầu tiên xuất khẩu sang Úc

Sau vải, xoài, thanh long được xuất sang Úc, ngày 9/9/2019, quả nhãn đầu tiên của Việt Nam chính thức được cấp phép nhập khẩu vào thị trường Úc, mở ra cơ hội cho nhiều loại trái cây Việt tiếp tục xuất ngoại. Tuy nhiên, để trái cây Việt xuất khẩu bền vững vẫn còn nhiều thách thức.

 

Nhãn Việt được quản bá tại thị trường Úc

Vào được các thị trường khó tính nhất

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2017, trái cây Việt Nam xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2016 (1,7 tỷ USD). Năm 2018, đạt trên 4 tỷ USD. Tính đến nay, trái cây Việt Nam đã thâm nhập thị trường của 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, việc trái nhãn tươi của Việt Nam tiếp tục được xuất khẩu vào Úc không chỉ mở ra cơ hội mới cho trái cây Việt mà còn là nền tảng rất tốt để trái cây Việt Nam thâm nhập vào các thị trường khác, bởi một khi đã vượt qua được sự kiểm duyệt từ một thị trường khắt khe như Úc, sẽ thuận lợi để tỏa đi nhiều thị trường mới nữa với giá bán  tốt hơn. Đến thời điểm này, Việt Nam đã xuất khẩu nhãn vào nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc , EU… và đều đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn, đồng nhất, chất lượng và có đủ sản lượng cung ứng quanh năm.

Đại diện Hiệp hội Xuất khẩu rau quả Việt Nam cũng cho biết, hiện nay trái thanh long, nhãn tươi là một trong hai mặt hàng có kim ngạch cao nhất trong top 10 hoa quả xuất khẩu có kim ngạch cao của Việt Nam. Mặc dù Úc là một nước nông nghiệp và cũng có nhãn tươi nhưng diện tích trồng không nhiều, chủ yếu tập trung tại bang Queensland và một phần tại phía Bắc bang New South Wales. Nhãn tươi của Úc chỉ có một mùa kéo dài từ tháng 1 đến giữa tháng 6. Vì vậy, nếu nhãn tươi Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Úc, nhất là vào thời điểm trái mùa thì có thể được tiêu thụ với giá cao. Bên cạnh đó, cơ hội thị trường cũng rất lớn khi giao dịch thương mại giữa Việt Nam và Úc trong 10 năm gần đây tăng bình quân gần 10%/năm và Úc cũng là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ 8 và nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam.

Hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết

Theo các chuyên gia trong ngành, việc được cấp phép nhập khẩu mới chỉ là giai đoạn đầu, thách thức lớn nhất với các doanh nghiệp là làm sao  trụ vững trên thị trường Úc và các thị trường khó tính khác. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn nữa để hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, ở đó chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. Do vậy, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết.

Nhìn lại quá trình thâm nhập thị trường Úc của trái cây Việt trước đó, mới thấy chặng đường không hề dễ dàng. Chỉ tính riêng vải thiều và xoài, quá trình đàm phán hai loại trái cây này vào thị trường Úc mất lần lượt là 12 năm và 7 năm. Tương tự, lô thanh long tươi đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu sang Úc cũng mất 9 năm đàm phán và làm thủ tục.

Tuy nhiên, vào được thị trường rồi vẫn chưa vội mừng. Bởi thực tế, những chuyến hàng vải thiều và xoài đầu tiên khi nhập khẩu vào Úc có chất lượng rất tốt, bảo đảm, mang ra chợ bán được giá rất cao, nhưng sau đó giá bị giảm nhanh chóng do trong các lô hàng xuất khẩu tiếp theo, doanh nghiệp không đáp ứng được đủ các quy trình như các lô hàng đầu tiên, dẫn tới việc mất khách hàng.

Theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp Úc, các doanh nghiệp cần lưu ý về liều lượng chiếu xạ tối thiểu và tối đa trong việc xử lý quả nhãn, phải tuân thủ hàng loạt các quy định về kiểm tra chất lượng, dịch bệnh, đóng gói và các vấn đề kiểm dịch, vệ sinh thực phẩm. Ngoài việc phải được chứng minh nguồn gốc, sản xuất và xuất khẩu, quả nhãn cũng phải trải qua các biện pháp quản lý rủi ro bắt buộc. Đó là một trong những điều kiện để xuất khẩu nhãn tươi từ Việt Nam vào Úc được Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Úc chính thức công bố mới đây.

Ông Nguyễn Đình Tùng-  Tổng giám đốc Công ty T&T Vina cho biết, trái cây Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh rất lớn tại thị trường Mỹ, Úc, EU… Tuy nhiên, thông thường, trong 10 tấn sản phẩm thì chỉ lựa được vài ba tấn hàng đáp ứng thị trường. Tuy nhiên, đây chỉ một phần trong các điều kiện cần, doanh nghiệp còn phải xây dựng quy trình thu hoạch, đóng gói, vận chuyển, đặc biệt là sở hữu được công nghệ bảo quản mới giữ được chất lượng trái cây tốt cho đến khi đến tay người tiêu dùng”. Đơn cử như quả bưởi của Việt Nam hiện mới chỉ có 30% sản lượng đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Con số này sẽ tăng lên 70-80% nếu có đầu tư về chế biến, bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi FarmTech Vietnam

Gần 100 tấn cá nuôi lồng bè chết trắng chưa rõ nguyên nhân tại Hà Tĩnh

Hơn 80 tấn cá nuôi trong lồng bè trên khu vực sông của 53 hộ dân ở xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) bỗng dưng chết hàng loạt chưa rõ nguyên nhân. Trước tình hình trên, người dân đã báo cơ quan chức năng xuống lấy mẫu để xét nghiệm tìm nguyên nhân.

Hàng chục tấn cá lồng bè chết trắng không rõ nguyên nhân

Nhiều cá nuôi trong lồng bè chết nổi la liệt ở khu vực ngay dưới cống Đò Điệm trên sông Nghèn của xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà. Lượng cá chết dày, chủ yếu là cá chẽm, cá hồng, cá mè. Ngoài ra, còn có một số cá tự nhiên như cá lệch, cáy, cá bống…

Ông Nguyễn Văn Định (45 tuổi) thả nuôi 6 ô lồng bè cá mè, cá hồng. Vào tối ngày 8/9, cá nuôi từ 2 đến 5 năm của ông bất ngờ chết hàng loạt.

Vớt những con cá bị chết bất thường, ông Định đếm được 470 con cá mè, loại từ 3 – 4kg trở lên và hơn 500 con loại 1kg trở xuống; cá hồng chết có hơn 500 con loại từ 0,5 – 1,5kg.

Ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Sơn cho biết, sáng sớm ngày 9/9, người dân địa phương đi ra khu vực sông để bắt cá thì phát hiện nhiều loại cá tự nhiên và cá nuôi trong các lồng bè trên sông bị chết hàng loạt nên đã trình báo sự việc lên chính quyền địa phương và cơ quan chức năng.

“Qua thống kê bước đầu toàn xã có hơn 50 hộ dân nuôi cá trong khoảng 230 ô lồng bè trên sông Nghèn bị chết gần 100 tấn cá (cá chẽm, cá hồng), con nặng nhất hơn 5kg, nhỏ nhất hơn 1kg/con.

Ước tính thiệt hại ban đầu về kinh tế lên đến hàng chục tỷ đồng. Hiện chính quyền địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân”, ông Thanh cho biết.

Ông Nguyễn Văn Sáu – Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Thạch Hà cho biết, qua thống kê sơ bộ, đã có khoảng 80 tấn cá trong 222 ô của 53 hộ nuôi ở xã Thạch Sơn bị chết chưa rõ nguyên nhân.

“Ngay khi nhận được thông tin, Phòng đã trực tiếp về kiểm tra, động viên bà con, đồng thời mời các cơ quan chức năng cấp tỉnh về lấy mẫu xét nghiệm, truy tìm nguyên nhân. Ngoài ra, huyện cũng đã ra thông báo nghiêm cấm bà con không bán cá ra thị trường khi chưa xác định rõ nguyên nhân.

Liên hệ với các đơn vị cấp đông, bảo quản cá tạm thời cho bà con nông dân để chờ kết luận chính thức từ cơ quan chức năng rồi mới đưa ra hướng xử lý”, ông Sáu nói.

Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh đã lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm, tuy nhiên vẫn chưa có kết quả. Đơn vị này khuyến cáo người dân không vứt cá chết ra ngoài môi trường, không dùng cá chết để làm thức ăn cho người và vật nuôi.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Chế tạo thành công 8 loại đèn LED phục vụ Nông Nghiệp Công Nghệ Cao

8 loại đèn LED chiếu sáng chuyên dụng chiếu sáng nông nghiệp cao, phục vụ 6 lĩnh vực chiếu sáng khác nhau đã được nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng thành công vào thực tiễn

Đây là kết quả của dự án “Nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản xuất, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm LED dùng trong chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao tại thị trường Việt Nam” đã được hỗ trợ từ dự án FIRST do CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông phối hợp với các nhà khoa học thực hiện với mục tiêu: Đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.

Các sản phẩm đèn LED được thử nghiệm tại các vườn hoa ở làng trồng hoa Tây Tựu (Hà Nội). Theo ông Nguyễn Hữu Yên, một trong những hộ có nghề trồng hoa lâu đời tại Tây Tựu, đây đã là vụ hoa thứ hai ông sử dụng những bóng đèn chuyên dụng mới này. Sản phẩm cho thấy hiệu quả vượt trội so với các sản phẩm chiếu sáng thông thường khác, trong khi lượng điện năng tiêu thụ chỉ bằng 1/3 so với những hộ khác đang dùng loại bóng đèn cũ.

Chia sẻ về dự án, ông Nguyễn Đoàn Thăng – Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông cho biết: Nhằm đón đầu hai xu hướng chất lượng LED tiến bộ nhanh, giá thành giảm và nhu cầu nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao của sản phẩm nông nghiệp, Nhóm Hợp tác đã xây dựng đề xuất Dự án “Nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản xuất, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm LED dùng trong chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao tại thị trường Việt Nam”.

Đèn LED chiếu sáng Công Nghệ Cao thuộc dự án

Dự án được triển khai với mục tiêu tạo được sản phẩm đầu ra là sản phẩm LED chuyên dụng chiếu sáng nhân tạo nông nghiệp công nghệ cao được sản xuất qui mô công nghiệp, phù hợp với trình độ và điều kiện nông nghiệp Việt Nam, kèm theo qui trình sinh học sử dụng phù hợp với một số đối tương góp một phần trong hiện đại hóa, tái cấu trúc nông nghiệp Việt Nam.

Theo đó, từ tháng 11/2016 đến tháng 6/2019, với tổng kinh phí Dự án là 3,71 triệu USD (tương đương 81,08 tỷ đồng), trong đó kinh phí tài trợ của FIRST theo tỷ lệ là 48,8%, nhóm nghiên cứu đã sản xuất thành công 8 loại đèn LED chiếu sáng chuyên dụng chiếu sáng nông nghiệp cao, phục vụ 6 lĩnh vực chiếu sáng khác nhau, gồm đèn chiếu sáng chuyên dụng cho: Nuôi cấy mô; trồng rau sạch; nuôi tảo; chiếu sáng ra hoa cây Thanh Long; chiếu sáng ra hoa cây hoa cúc; ngư nghiệp (đèn đánh bắt cá, đèn sinh hoạt, đèn cabin).

Theo ông Lương Văn Thắng – Giám đốc Ban quản lý dự án FIRST, thông qua những dự án được lựa chọn hợp tác với FIRST, Bộ Khoa học và Công nghệ: Doanh nghiệp luôn là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Các nhà nghiên cứu, viện nghiên cứu, trường đại học có liên kết với doanh nghiệp nên có sự thay đổi, lắng nghe doanh nghiệp, lắng nghe thị trường.

Có thể nói, hỗ trợ của FIRST sẽ có vai trò bà đỡ cho việc hình thành mô hình liên minh khoa học và công nghệ, chuỗi liên kết sản xuất và phân phối gắn bó hơn, gắn kết giữa nơi sản sinh ra tri thức với nơi sử dụng tri thức, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; hỗ trợ mối liên kết giữa doanh nghiệp trung tâm với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, từng bước phát triển công nghệ hỗ trợ theo lộ trình đầu tiên phát triển khâu lắp ráp sản phẩm LED hoàn chỉnh, từng bước chuyển giao công nghệ, nội địa hóa một số linh kiện tại Việt Nam.

Ông Thắng cho biết, hầu hết những doanh nghiệp khi thực hiện dự án đều đã có lòng tin, có công nghệ và phương án quảng bá sản phẩm.

Dự án FIRST giúp tăng niềm tin cho doanh nghiệp để thực hiện việc đổi mới công nghệ theo quy định của Ngân hàng Thế giới, Bộ Khoa học và Công nghệ và các quy định khác. Mặt khác, mục tiêu dài hạn của dự án FIRST là hỗ trợ cho hệ thống đổi mới sáng tạo hiệu quả, giải quyết điểm nghẽn giữa sáng tạo của nhà khoa học với mong muốn đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam