Ủ phân hữu cơ để bón lúa hữu cơ

Theo kế hoạch vụ Đông Xuân 2019 – 2020, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Trị sẽ triển khai 16ha mô hình lúa sản xuất theo hướng hữu cơ, tại 2 điểm xã Gio Quang (huyện Gio Linh) và xã Vĩnh Thủy (huyện Vĩnh Linh).

 

Hướng dẫn nông dân tham gia ủ phân.

 

Trước khi bắt đầu vào vụ sản xuất, cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã tổ chức tập huấn hướng dẫn cho bà con quy trình ủ phân hữu cơ sinh học.

Kỹ sư Lê Thị Tú, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông cho biết: Nguyên liệu đầu vào để cho ra 1 tấn phân thì cần 1 – 1,5 tấn rác thải hữu cơ và phế thải nông nghiệp; Phân chuồng hoặc mùn hoai: 3 – 4 tạ; Đạm urê: 1kg; Super lân: 2kg; Chế phẩm vi sinh vật Quế Lâm dạng bột: 2kg.

Rác thải hữu cơ và phế thải nông nghiệp sau khi được thu gom và phân loại được đem tập trung đến đóng ủ. Ở đóng ủ, rác thải được dàn đều thành từng lớp, mỗi một lớp có độ dày khoảng 15 – 20cm (đường kính từ 2 – 2,5m), rải 1 lượt phân đạm urê và super lân lên và rải tiếp 1 lượt phân động vật lên trên lớp rác cào đều, sau đó phủ 1 lượt nguyên liệu hữu cơ 15 – 20cm tại mỗi lớp tiến hành xử lý chế phẩm VSV (để chế phẩm vi sinh không trực tiếp với phân đạm urê).

Cứ tiếp tục từng lớp như thế cho đến khi hoàn thành. Nếu phụ phế thải ở một số hộ gia đình có số lượng lớn có thể ủ tại sân hoặc vườn nhà đều có thể làm theo cách như trên. Sau khi ủ phải thường xuyên kiểm tra, giám sát độ ẩm và bổ sung nước cho bể ủ khi thấy cần thiết (độ ẩm đống ủ được duy trì khoảng 60% để cho vi sinh vật hoạt động).

Thời gian ủ khoảng 45 – 60 ngày, sản phẩm sẽ được đưa ra sử dụng. Đối với phân hữu cơ sinh học, do phân đã ủ hoai mục và hàm lượng dinh dưỡng cao hơn phân hữu cơ truyền thống (phân heo, phân trâu bò…) nên sẽ bón cho cây trồng với lượng bằng 1/2 – 2/3 lượng phân hữu cơ truyền thống.

Tùy theo từng loại cây trồng để bón lượng phân cho phù hợp. Đối với cây lúa, thông thường bón theo hai cách là bón lót và bón thúc. Bón lót bằng cách rải đều khi bừa lần cuối và bón thúc bằng hình thức vãi đều. Sản phẩm phân hữu cơ sinh học có tác dụng làm tăng độ phì nhiêu của đất, tăng chất khoáng và vi sinh vật hữu hiệu cho đất, cải tạo đất rất tốt, nhất là đối với các loại đất đã và đang bị suy thoái. Tăng khả năng giữ nước của đất.

Bên cạnh đó phân hữu cơ sinh học có tác dụng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh không chỉ ở cây lúa mà còn các cây trồng khác.

 

Bà con tham gia ủ phân hữu cơ.

 

Mô hình sản xuất lúa theo hướng hữu cơ sử dụng phân hữu cơ sinh học sẽ làm tăng khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của cây lúa, khả năng chống chịu sâu bệnh sẽ tốt hơn, trong thời kỳ trổ ruộng sẽ ít nhiễm rầy, khô vằn, cho bông dài, sạch sâu bệnh. Giảm chi phí sản xuất, hạn chế việc sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật.

Ngoài hiệu quả kinh tế mang lại mô hình còn có tác động lớn về mặt môi trường xã hội. Nâng cao nhận thức, thay đổi phương thức canh tác của người dân. Tận dụng được các phế phụ phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi để tạo ra phân bón tốt cho cây trồng…

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sốt giống lúa OM18

Tuy mới chuẩn bị bước vào đầu vụ ĐX 2019-2020 nhưng giống lúa OM18 đang dấy lên cơn sốt chưa từng có, làm thay đổi hoàn toàn cơ cấu giống của Viện Lúa ĐBSCL cung ra thị trường so với những năm qua.

 

Giống lúa OM 18.

 

Thông tin trên được Trung tâm Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và Sản xuất nông nghiệp (Viện Lúa ĐBSCL) cho biết. Hiện nay, Viện lúa chỉ đáp ứng giống cấp siêu nguyên chủng và giống nguyên chủng cho các đơn vị sản xuất giống. Trong khi đó giống cấp xác nhận hầu như không đủ bán trước nhu cầu đang tăng cao.

Trên thực tế, giống lúa OM18 đã được chuyển giao từ hơn 4-5 năm qua. Nông dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau sau khi thực hiện các mô hình trình diễn ban đầu nhận thấy giống thích nghi, chống chịu hạn, mặn tốt.

Hơn nữa, nhờ đặc tính kháng rầu nâu và bệnh đạo ôn khá tốt, năng suất cao, nhất là chất lượng hạt gạo trắng trong, cơm thơm nhẹ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và tiêu dùng gạo nội địa nên OM18 được thương lái đặt cọc mua từ đầu vụ. Từ đó, nông dân chuyển sang chọn canh tác giống lúa OM18 càng nhiều, diện tích tăng nhanh, lấn át giống lúa OM5451 trên địa bàn các tỉnh Hậu Giang, Bạc Liêu…

Lúa gạo OM 18

 

Giống lúa OM18 có nguồn gốc từ tổ hợp lai OM8017/OM5166 được lai tạo bởi Bộ môn Công nghệ sinh học, Viện Lúa ĐBSCL. OM18 là giống lúa ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng 95-100 ngày (lúa sạ), 100-105 ngày (lúa cấy), chiều cao cây 100-110 cm, cứng cây: độ 1, đẻ nhánh khỏe. Năng suất vụ ĐX 7-8 tấn/ha, vụ HT 5-6 tấn/ha. Phẩm chất gạo: Tỷ lệ gạo lức 78-79%, gạo trắng 67-68%; gạo nguyên 40-45%. Chiều dài hạt gạo 7,0-7,1 mm. Hạt gạo thon dài, cơm mềm và ngọt. Tính chống chịu: Kháng đạo ôn (cấp 2), hơi nhiễm rầy nâu (cấp 5), chống chịu mặn 3-4‰

Giống canh tác được các vụ trong năm, thích hợp cho các vùng sinh thái ở ĐBSCL và vùng nhiễm mặn.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

 

Một số lưu ý canh tác lúa trong mô hình tôm – lúa ĐBSCL

Một số lưu ý đó là các khâu: chọn giống, thời vụ gieo cấy, bón phân, quản lý dịch hại tổng hợp, quản lý nước và thu hoạch – sau thu hoạch.

 

Mô hình canh tác Tôm – Lúa ở ĐBSCL

1. Mô hình tôm – lúa có tính bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu

Việc nuôi tôm sú (nước lợ) tiến hành trong mùa khô khi nước mặn xâm nhập vào ruộng (thời gian nuôi bắt đầu khoảng tháng 1 và kết thúc vào tháng 6) và mùa mưa có nước ngọt thì trồng lúa: Canh tác lúa trong mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 12) khi đã cải thiện được xâm nhập mặn và có đủ nước ngọt cho sản xuất lúa.

Mô hình lúa – tôm đem lại lợi nhuận khá cao trên cùng diện tích đất: Trồng lúa trong vuông tôm giúp cải thiện môi trường đất, từ đó giảm thiểu dịch bệnh trong quá trình nuôi tôm (do các chất hữu cơ được khoáng hóa và cây lúa hấp thu dần trong quá trình canh tác).

Sau vụ tôm tiến hành trồng lúa giảm đầu tư phân bón (tận dụng xác bã thực vật, lượng thức ăn thừa của tôm), giảm dịch hại (do luân canh) chất lượng lúa gạo rất cao (lúa sạch, lúa hữu cơ) hạn chế tối đa việc dùng phân bón, thuốc hóa học. Năng suất nuôi tôm – lúa trên 1 ha bình quân đạt khoảng 300 – 500 kg tôm và 4 – 7 tấn lúa. Chi phí sản xuất trung bình 30 – 35 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu được trung bình 35 – 50 triệu đồng/ha/năm.

2. Một số lưu ý về canh tác lúa trong mô hình.

2.1. Chọn giống:

– Các giống lúa canh tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh là giống lúa mùa địa phương: Một bụi đỏ, Tài nguyên, Một bụi lùn Minh Hải hoặc giống lúa trung mùa ST 24, một số vùng sản xuất bằng giống lúa ngắn ngày: OM5451, OM6976, OM7347, OM 4498, OM 2517, OM5464, OM5464, OM5981, IR 50404… Năng suất lúa biến động rất lớn, từ 3 – 6 tấn/ha tùy theo mức độ thâm canh của từng vùng.

 

2.2. Thời vụ gieo cấy:

Chủ yếu là mưa đều, rửa mặn xong (độ mặn dưới 1 phần ngàn) mới gieo sạ.

Đối với giống nhóm B (thời gian sinh trưởng tương đương 120 ngày): Gieo sạ từ 10/8 – 30/8.

Các giống lúa mùa có thể gieo mạ từ 20/7 – 30/7.

Đối với giống nhóm A1 (thời gian sinh trưởng từ 90-100 ngày): Gieo sạ từ 01/9 – 20/9.

Lượng giống sạ: 80-100kg/ha. Sử dụng giống xác nhận.

 

2.3. Bón phân:

Trên đất nuôi tôm do lớp bùn non rất tốt đủ sức nuôi cây lúa trong tháng đầu, nếu bón phân sớm, nhất là phân đạm rất dễ bị bệnh đạo ôn (cháy lá) tấn công, nhưng lớp bùn sẽ bị lúa hút hết sau 1 tháng, nên các lần bón sau rất quan trọng, chú ý nhẹ đầu nặng cuối và khi bón phân cần cân nhắc đến điều kiện đất đai, thời tiết và tình hình của cây lúa mà điều chỉnh cho phù hợp.

Bón lót: Bà con không nên bón nhiều phân đạm, cần bón nhiều phân lân và can-xi để giải độc chất hữu cơ, giải độc phèn. Đồng thời, cung cấp chất lân cho bộ rễ lúa phát triển mạnh trong giai đoạn đầu, nhằm tăng khả năng chống chịu của cây lúa trong điều kiện bất lợi. Các nhà khoa học khuyến cáo đầu vụ, trước khi gieo sạ, bà con có thể bón lót phân chuyên dùng Đầu Trâu Mặn Phèn với lượng bón 100 – 160 kg/ha.

Bón thúc: Giai đoạn 10 ngày không bón, cây lúa hấp thu dinh dưỡng từ lớp bùn non của ruộng. Chỉ bón thúc đẻ 18-22 ngày sau sạ cần bón đầy đủ và cân đối giữa NPK + trung vi lượng: Bón 100-150kg Đầu Trâu TEA1 (gia giảm tùy theo lúa tốt xấu).

Bón đón đòng: trước khi lúa vào giai đoạn tượng đòng cần tạo điều kiện cho cây lúa chuyển sang màu vàng (xiết nước giữa vụ), khi lúa chuyển vàng, bóc ra có tim đèn (đòng đòng đất) 1-2mm sẽ bón phân theo kỹ thuật không ngày không số:

Lúa Màu vàng: Đầu Trâu TEA2 150 kg/ha.

Lúa Xanh nhạt: Đầu Trâu TEA2 100 kg/ha.

Lúa Xanh đậm: 50-70 kg KCl/ha (tuyệt đối không bón đạm).

 

2.4. Quản lý dịch hại tổng hợp:

Chú ý:

Không phun thuốc trừ sâu sớm trong vòng 40 ngày.

Không phun thuốc sâu định kỳ, chỉ phun khi mật số sâu hại tới ngưỡng, nhớ áp dụng theo 4 đúng.

Đối với bệnh: Trong 40 ngày đầu thăm đồng phát hiện có vết chấm kim thì phun ngay.

Giai đoạn từ 40 ngày đến trổ đều: Có thể chủ động phun ngừa các bệnh đạo ôn, đốm vằn, cháy bìa lá vi khuẩn, lem lép hạt, vàng lá chín sớm.

 

2.5. Quản lý nước:

Áp dụng kỹ thuật tưới khô – ướt xen kẽ giúp tiết kiệm nước và cây lúa khỏe.

Chú ý đầu vụ rửa mặn tốt trước khi gieo sạ (độ mặn <1 phần ngàn mới gieo).

 

2.6. Thu hoạch – sau thu hoạch:

Thu hoạch đúng độ chín (85-90% độ chín) cho năng suất và chất lượng cao nhất.

Hiện nay nếu nông dân bán lúa tươi tại ruộng là hay nhất. Nếu chưa bán được phải tìm cách sấy lúa, trong 24 giờ đầu cần hạ độ ẩm của lúa từ 22-28% xuống còn dưới 17% và sau 48 giờ độ ẩm dưới 15%. Nếu muốn bảo quản lâu hơn 1 tháng cần sấy đến độ ẩm 13%.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam

Đột phá công nghệ, nâng cao giá trị Gạo Việt

Xu hướng hiện nay của các nước nhập khẩu gạo luôn đòi hỏi chất lượng gạo phải ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và truy suất nguồn gốc. Vì vậy để lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững cần có những giải pháp nâng cao chất lượng hạt gạo.

Thu hoạch Lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long

 

Lúa gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có giá trị XK hàng tỷ USD/năm, là sản phẩm nòng cốt giữ vững thương hiệu quốc gia nông nghiệp trên thế giới.

Những thành quả liên tiếp đạt được về kim ngạch XK gạo trong những năm gần đây tới các thị trường truyền thống cũng như năng lực mở rộng tiếp cận tới các thị trường mới, có tính khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã tiếp tục khẳng định khả năng tăng trưởng và phát triển của gạo Việt.

Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong SX, chế biến và bảo quản vẫn còn rất hạn chế đối với các DN SX gạo trong nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và giá thành của gạo Việt Nam so với giống gạo cùng loại của các quốc gia XK gạo lớn như Thái Lan và Ấn Độ.

Theo Bộ Công thương, trong giai đoạn 2010 – 2018, tổng lượng gạo tiêu dùng của Việt Nam dao động từ 19 – 23 triệu tấn/năm, sản lượng gạo XK dao động từ 4,9 – 7,7 triệu tấn/năm, giá trị XK luôn đạt trên 2 tỷ USD/năm và mức kỷ lục 3,08 tỷ USD năm 2018. Song, ứng dụng công nghệ trong chuỗi giá trị lúa gạo còn thấp nên thu nhập của nông dân và DN chưa cao.

Riêng 8 tháng đầu năm 2019 XK gạo đạt 5,4 triệu tấn nhưng trị giá chỉ đạt 1,96 tỷ USD (-15%). Trong năm nay gạo Việt XK sang thị trường Trung Quốc cũng giảm 65% về lượng và 67% về trị giá. Nguyên do vì hiện nay Trung Quốc tăng quản lý về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, siết chặt quản lý biên giới không còn là thị trường dễ tính nữa.

Từ lý do đó lúa gạo Việt Nam cần đột phá về nhiều mặt như nâng công nghệ chất lượng hiệu quả trong SX và tiêu thụ lúa gạo sang các nước trên thế giới.

Ông Nguyễn Hồng Sơn, GĐ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN-PTNT) nhấn mạnh: Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản, chế biến hiện đang là khâu xung yếu nhất trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được xác định là cơ hội và tiềm năng phát triển mạnh cho những sáng kiến mang tính đột phá của ngành lúa gạo, của các DN là chủ thể của chuỗi SX lúa gạo Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách cũng như mục tiêu lâu dài về nâng cao chất lượng, giá trị và năng lực cạnh tranh của gạo Việt.

Hiện tỷ lệ cơ giới hóa khâu thu hoạch lúa trên cả nước là 50%, riêng ĐBSCL đạt 82%. Sấy lúa là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thu hồi và chất lượng gạo xay xát, nhưng năng lực sấy lúa của Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp, chỉ đạt khoảng 56%.

Các hệ thống kho chứa chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật để bảo quản lúa dài ngày (từ 6 – 12 tháng). Hiệu quả chuỗi giá trị ngành lúa gạo vẫn còn thấp, do tỷ lệ thất thoát cao, chất lượng gạo XK còn thấp, phân phối lợi nhuận, chia sẻ rủi ro giữa nông dân và các đối tác còn bất cập. Cơ sở hạ tầng, công nghệ bảo quản, chế biến ở địa phương còn lạc hậu làm gia tăng tổn thất, và giảm chất lượng trong bảo quản.

 

Lượng gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường thế giới nhưng lại không có thương hiệu gạo nổi bật, nên không thu được giá trị gia tăng nhờ thương hiệu.

 

Theo ông Sơn, để có thể nâng cao giá trị nông sản, nhất là lúa gạo, thông tin về các sản phẩm được chế biến sau lúa, gạo là vô cùng hữu ích cho nông dân, nhà khoa học, các DN và quản lý nhà nước trong nỗ lực nghiên cứu, học hỏi các phương thức SX mới trên thế giới, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng lúa, hạt gạo, và các phụ phẩm sau thu hoạch.

Hiện nay Bộ NN-PTNT đã và đang có nhiều chương trình, kế hoạch hành động cụ thể về nội dung này và tin tưởng với tính hấp dẫn về đầu tư ngành nông nghiệp, cùng với những cơ hội ngày một mở rộng hơn từ các hiệp định thương mại ký kết gần đây, các DN tham gia trong ngành công nghệ chế biến và bảo quản lúa gạo quan tâm sẽ quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, hợp tác với DN SX trong nước để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, tăng hiệu quả và chất lượng của gạo Việt Nam.

Ông Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết: Giá trị của hạt gạo trên thị trường, ngoài chất lượng gạo còn có rất nhiều yếu tố khác tác động như thương hiệu (uy tín của DN), quy trình canh tác và truy xuất nguồn gốc. Để nâng cao hơn nữa giá trị XK gạo của Việt Nam, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chọn tạo giống đã đạt được, đề nghị các DN XK cần có sự hợp tác và đầu tư nhiều hơn nữa trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng quy trình canh tác lúa phù hợp, lúa hữu cơ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Lượng Gạo XK của Việt Nam đang chiếm khoảng 15% thị trường trên toàn Thế Giới nhưng lại không có thương hiệu Gạo nổi bật

 

Quan trọng hơn là đẩy mạnh hợp tác với các đơn vị nghiên cứu để tiếp nhận và quảng bá các giống lúa mới có phẩm chất tốt ra thị trường và duy trì được sự ổn định của chất lượng giống và lúa hàng hóa trong vùng nguyên liệu. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn nữa đến các giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng và gạo chức năng, mặc dù thị phần không lớn, nhưng có giá trị kinh tế rất cao, mà chưa được quan tâm đúng mức.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Một nông dân lai tạo được giống nếp thơm

Ở miền Tây, nói đến xứ nếp người ta nghĩ ngay đến Phú Tân (An Giang). Không chỉ SX lúa nếp bán đi khắp nơi, vùng đất lúa Láng Linh thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú còn có 1 nông dân tên Từ Bá Đạt đã lai tạo ra giống nếp thơm.

Giống nếp mới phát triển tốt

Dù là vùng đất có thể trồng các giống lúa nếp ngon nhưng người dân vẫn ưa chuộng nếp Thái, đó là vấn đề trăn trở để ông Đạt dốc tâm nghiên cứu và lai tạo thành công 10 giống nếp mang đặc trưng riêng của vùng đất Thạnh Mỹ Tây, trong đó chủ lực là giống nếp TMT1, TMT2, TMT3.

Ông Từ Bá Đạt, nông dân Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú cho biết: “Ở An Giang có SX ra nhiều giống nếp nhưng không thơm, trong khi đó Thái Lan có nếp thơm, vì lòng đam mê và trăn trở đó, tôi quyết học hỏi và lai tạo được giống nếp như nếp Thái Lan. Ban đầu, Viện lúa Ô Môn tập huấn cho tôi làm những giống lúa thơm, từ những dòng đó tôi rút ra lai tạo được giống nếp thơm mới”.

Sau 10 năm nghiên cứu, đến nay công trình của ông Từ Bá Đạt đã làm nhiều nhà nông miền Tây bất ngờ bởi hạt nếp TMT1, TMT2, TMT3 có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng riêng, năng suất vượt trội so với các giống nếp ngoại nhập từ 1 tấn/ha.

Chất lượng cao, nếp thơm TMT1 có thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 100 ngày, TMT2 95 ngày, TMT3 từ 95-105 ngày. Tất cả đều kháng được sâu bệnh, được dân trồng nếp ở miền Tây ưa chuộng và tôn vinh ông là “Vua giống nếp”. “Giống nếp này vừa thơm vừa dẻo, rất đặc trưng cho vùng nếp Thạnh Mỹ Tây. Nếp trồng dễ, bông nút hạt bự, vô gạo cũng đẹp, còn xay ra nấu thì dẻo thơm, ngon”, ông Trần Văn Ba, nông dân trồng nếp ở xã Thạnh Mỹ Tây, chia sẻ.

Ưu điểm của giống nếp thơm là cứng cây, đẻ nhánh mạnh, thích hợp trồng trên diện tích rộng, vùng đất SX 3 vụ lúa/năm ở đồng bằng sông Cửu Long, năng suất thu hoạch ước đạt từ 9 – 10 tấn/ha.

“Hiện nay tôi có rất nhiều dòng nếp, tùy theo nhu cầu để cung ứng. Địa phương nào cần giống dài ngày thì mình sẽ cung cấp giống dài ngày phù hợp với tình hình SX nơi đó, còn những nơi thích nếp ngắn ngày thì tôi đưa ra những giống ngắn ngày”, ông Từ Bá Đạt cho biết thêm.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Việt Nam trúng thầu 29.000 tấn gạo cho Philippines

Trong phiên mở thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo theo hình thức Chính phủ- Tư nhân (G2P) của Philippines vào hôm nay, 18-10, Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu 29.000 tấn.

Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu 29.000 tấn gạo cho Philippines trong phiên mở thầu hôm nay, 18-10. Trong ảnh, nông dân đang thu hoạch lúa.

Giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long tiết lộ với TBKTSG Online vào chiều hôm nay rằng hai đơn vị đến từ Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu gạo cho Philippines trong phiên mở thầu sáng cùng ngày là Tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood2) và Tổng công ty lương thực miền Bắc (Vinafood 1) với tổng khối lượng 29.000 tấn.

Theo vị này, Vinafood 2 đã giành được hợp đồng 15.000 tấn với mức giá bỏ thầu là 427,68 đô la Mỹ/tấn và Vinafood 1 giành được hợp đồng 14.000 tấn với mức giá 427,5 đô la Mỹ/tấn.

Trong khi đó, một đơn vị khác đến từ Thái Lan là Công ty Thai Capital Crops Co Ltd đã giành được hợp đồng cung cấp 18.000 tấn gạo cho Philippines với mức giá 426,3 đô la Mỹ/tấn.

Như vậy, tổng khối lượng gạo Philippines đã đạt thỏa thuận trong phiên mở thầu sáng nay với các nhà cung cấp tư nhân là 47.000 tấn, tức nước này cần thêm 203.000 tấn gạo nữa mới đạt được kế hoạch nhập khẩu 250.000 tấn như công bố.

Theo vị này, lý do khối lượng gạo đạt thỏa thuận trong phiên mở thầu hôm nay của Philipines đạt thấp vì các nhà cung cấp tư nhân đưa ra mức giá cao hơn so với mức dự kiến ngân sách của Cơ quan lương thực quốc gia Philippines (NFA) là 428,18 đô la Mỹ/tấn.

Trước đó, Philippines đã thông báo mời thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo loại 25% tấm từ bất kỳ nguồn cung nào. Theo đó, mức giá tham chiếu được Philippines đưa ra là 431,2 đô la Mỹ/tấn, giá CIF giao tại kho chỉ định của Philippines, nằm trong bán kính 30 km từ cảng dỡ hàng, bao gồm cả chi phí chất hàng vào kho. Hình thức thanh toán trả chậm 30 ngày, kể từ ngày người mua nhận được bộ chứng từ gốc hợp lệ.

Với 250.000 tấn gạo, Philippines chia ra làm 9 gói thầu và 14 điểm cảng dỡ hàng. Thương nhân được phép dự thầu tất cả 9 gói thầu hoặc ít nhất là 1 gói. Tuy nhiên, điều kiện tham dự đấu thầu được Philippines đưa ra là trong 5 năm trở lại đây, tính đến ngày nộp thầu, thương nhân phải hoàn tất ít nhất một hợp đồng xuất khẩu gạo với quy mô tài chính tương đương gói thầu sẽ tham dự.

Trước đó, vào tháng 5-2018, NFA đã mở thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo theo hình thức G2P, các thương nhân Việt Nam đã không bán được tấn gạo nào cho Philippines, trong khi Thái Lan gần như chiếm trọn hợp đồng này.

Cũng trong tháng 5-2018, Việt Nam đã giành được hợp đồng xuất khẩu 130.000 tấn gạo cho Philippines trong gói thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo tại một cuộc mở thầu theo hình thức liên Chính phủ (G2G).

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gạo Việt Nam xuất khẩu miệt mài nhưng vẫn chưa đặc tên

Trong khi Thái Lan có thương hiệu gạo thơm Hom Mali, Campuchia gia nhập thị trường xuất khẩu sau cũng đã kịp có tên gạo Phka Romdoul… thì Việt Nam dù đã bền bỉ xuất khẩu gạo nhiều năm nay, thuộc top đầu thế giới vẫn chưa được định vị bằng một cái tên thật sự “danh chính ngôn thuận”.

Chỉ chú ý số lượng

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, xuất khẩu gạo liên tục tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,82 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2016; trị giá đạt khoảng 2,63 tỷ USD, tăng 22% so với 2016. Còn trong 9 tháng năm 2018, xuất khẩu gạo đạt 4,73 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017; trị giá đạt 2,38 tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ 2017. Dự kiến, cả năm 2018, xuất khẩu gạo sẽ đạt con số 3,2 – 3,3 tỷ USD.

Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, tới đây sẽ tiếp tục đàm phán mở cửa và phát triển thị trường, các biện pháp nhằm duy trì thị trường xuất khẩu ổn định, tăng cường quan hệ hợp tác thương mại gạo cả kênh Chính phủ và doanh nghiệp; đa dạng và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại.

Đến nay, Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Gạo Việt Nam có mặt tại 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới. Mặc dù vậy, Bộ Công Thương cho rằng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Tại hội nghị “Triển vọng sản xuất và thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam” ngày 10.10, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, những tiến bộ trong sản xuất và cơ cấu giống, mùa vụ, cùng với các biện pháp canh tác thích hợp đã từng bước nâng cao chất lượng gạo Việt Nam. Đáng chú ý, ngày 15.8.2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2018 thay thế Nghị định 109/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo, sẽ tiếp tục tạo dựng môi trường thông thoáng, thúc đẩy đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, thương mại gạo.

“Tuy vậy, phải thừa nhận một thực tế, mặt hàng gạo của Việt Nam cần khắc phục và hoàn thiện việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, marketing, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu; các sản phẩm gạo Việt Nam vẫn chưa được phần lớn người tiêu dùng các nước biết đến. Đây là những vấn đề cần được khắc phục thời gian tới” – ông Hải nói.

Đồng quan điểm, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết hiện nay cơ cấu chủng loại xuất khẩu gạo trắng cấp thấp, trung bình và gạo trắng phẩm cấp cao của Việt Nam vẫn chiếm gần 40%. Trong khi đó, các thị trường cạnh tranh về xuất khẩu gạo với Việt Nam đang ngày càng đầu tư nghiên cứu, nâng cao chất lượng gạo.

Trước bối cảnh trên, ông Hải cho hay, định hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới, ngành lúa gạo sẽ hướng đến sản xuất theo quy trình sạch, hữu cơ, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ lúa gạo. Xây dựng uy tín, thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới là những định hướng mà ngành gạo Việt Nam đang triển khai. “Hiện, gạo trắng cấp thấp chiếm hơn 30%. Thời gian tới, sẽ giảm gạo phẩm cấp thấp, nâng cao thị phần gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica” – ông Hải nhấn mạnh.

Xây dựng thương hiệu, cách nào?

Có thể thấy, điểm yếu nhất của gạo Việt hiện nay là chưa có thương hiệu. Theo ông Martin Albani – chuyên gia Tập đoàn Tài chính quốc tế: Thương hiệu chính là việc xác định hình ảnh. Trong đó, giai đoạn đầu tiên là đưa ra hình ảnh, tiếp đó là phát triển thương hiệu. Việc đưa ra thương hiệu không chỉ tác động đến chủ thương hiệu mà còn tác động đến khách hàng mà còn đối với đối tác.

“Theo khảo sát, người tiêu dùng chấp nhận trả mức giá cao hơn gấp đôi so với sản phẩm thông thường để mua các sản phẩm có nguồn gốc, có chỉ dẫn địa lý” – ông Martin Albani nói.

Lấy thêm ví dụ về Campuchia, theo ông Martin, ngành lúa gạo nước này bắt đầu gần như từ “tay trắng” nhưng nhờ chú trọng nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu, Campuchia đã khiến người tiêu dùng thế giới biết tới gạo của họ.

Bà Nguyễn Thúy Kiều Tiên – Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho rằng, các loại giống lúa Japonica, giống lúa theo thực phẩm chức năng, nhóm lúa hạt dài ở Việt Nam vẫn chưa tạo được sự vượt trội về hình dáng, hương vị so với các nước khác. “Muốn xuất khẩu gạo đem lại nhiều giá trị cần phải đặc biệt chú trọng tới giống lúa” – bà Tiên nhấn mạnh.

Trước thực tế trên, lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết, thời gian tới sẽ đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất lúa gạo, định hướng sản xuất gắn với tín hiệu thị trường; từng bước nâng cao và ổn định chất lượng gạo xuất khẩu; đảm bảo đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của các thị trường nhập khẩu về chất lượng, an toàn thực phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong sản xuất, chế biến lúa gạo; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu, bảo quản lúa gạo giảm tổn thất sau thu hoạch.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Chi phí và lợi nhuận cho một vụ Lúa

Trong sản xuất cây lúa hay bất cứ các cây trồng nào khác, muốn có lợi cao, thường phải có năng suất cao và bán được giá lời.

Về năng suất thì phụ thuộc giống tốt hay xấu, kỹ thuật tiên tiến hay lạc hậu, thời tiết có thuận hòa không. Về giá cả thì thường phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng hơn là phụ thuộc vào người sản xuất. Nhưng năng suất và chất lượng của sản phẩm thì chủ yếu là phụ thuộc vào người sản xuất, là yếu tố chủ quan.

Để có được năng suất cây trồng cao cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cả khách quan và chủ quan…

Về yếu tố khách quan, đó là thời tiết thuận lợi. Yếu tố này là yếu tố vũ trụ, con người khó kiểm soát. Tuy nhiên có kinh nghiệm và có kỹ thuật cao thì con người vẫn có thể khắc phục hay né tránh được các điều kiện khách quan để có được năng suất cây trồng cao và ổn định (trường hợp của Israel sống trên sa mạc mà vẫn sản xuất được mọi loại rau, cây trái năng suất cao, chất lượng tốt).

Về yếu tố lời, lỗ thì vừa phải kết hợp năng suất cao vừa phải kết hợp nguồn chi phí đầu tư hợp lý, bất kể giá bán cao hay thấp. Vậy làm sao để thực hiện được các khoản chi phí thấp mà vẫn đạt được năng suất cao, chất lượng tốt.

Để trả lời câu hỏi này ta hãy tham khảo kết quả chương trình sản xuất lúa thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu, do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thực hiện từ năm 2016 đến 2017.

Các số liệu thu được trong tài liệu này là do các cán bộ khuyến nông các huyện cùng theo dõi, tính toán với người nông dân mà có, vả lại đây là số liệu thu được mỗi vụ từ 65 nông dân thực hiện tại 13 tỉnh ở ĐBSCL, đại diện cho các vùng tiểu sinh thái khác nhau, vì vậy các thông tin này rất đáng tin cậy.

1. Vụ đông xuân năm 2015 – 2016:

Dưới tiêu đề “Từ ruộng vườn đến trường quay”. Vụ này với mục tiêu là biến ruộng đồng thành trường học, cán bộ kỹ thuật và nông dân cùng nhau ra đồng để trao đổi về cách làm lúa có lời cao. Chỉ tiêu chủ yếu trong vụ này là sử dụng loại phân hợp lý, chưa đề cập đến giảm lượng giống sạ, lượng giống sạ giữa mô hình và trong ruộng của dân vẫn 140kg/ha.

Thế nhưng trong mô hình nhờ sử dụng loại phân Đầu trâu có chất lượng cao, đầy đủ dinh dưỡng, nên dù chất N giảm xuống 29%, mà năng suất lúa của mô hình vẫn cao hơn đối chứng 754kg/ha.

Trong vụ này bình quân 65 mô hình có chi phí là 15.172.000đ/ha, còn bình quân ruộng đối chứng có chi phí 16.441.000 đ/ha, cao hơn ruộng mô hình là 1.269.000đ/ha. Nhờ vậy mà tiền lời thu được trong ruộng mô hình cao hơn đối chứng là 7.760.000 đ/ha.

2. Vụ hè thu năm 2016:

Quy mô thực hiện cũng trải khắp 13 tỉnh, 65 nông dân cùng tham gia. Vụ này tiêu chí đặt ra là mô hình phải giảm lượng giống sạ còn 80kg/ha,đồng thời vẫn sử dụng phân Đầu Trâu để giảm số lượng bón. Áp dụng các kỹ thuật làm giảm phèn mặn, quản lý nước và sâu bệnh đồng bộ. Vụ này chi phí của mô hình là 15.947.000 đ, còn ở ruộng đối chứng là 16.958.000 đ, vẫn cao hơn mô hình là 1.101.000 đ/ha. Năng suất ruộng trong mô hình cao hơn đối chứng 496kg thóc/ha. Nhờ vậy làm giá thành cũng hạ hơn đối chứng là 420 đ/kg thóc, nên cuối cùng ruộng mô hình vẫn có lời hơn đối chứng 3.660.000 đ/ha.

3. Vụ đông xuân năm 2016-2017:

Xét về chi phí đầu tư cả mô hình và đối chứng tương đương nhau. Nhưng do mô hình có năng suất lúa cao hơn đối chứng là 775 kg/ha, nên cuối cùng lợi nhuận của mô hình cũng cao hơn đối chứng 4.960.000đ/ha.

4. Vụ hè thu năm 2017:

Về suất đầu tư thì mô hình vẫn giữ mức sạ 80kg, còn đối chứng dân vẫn sử dụng 150kg/ha và phân bón sử dụng cũng cao hơn mô hình, nên tổng chi phí của ruộng đối chứng bình quân 15 địa điểm là 17.551.429 đ, còn ở mô hình chi phí là 15.619.136 đ/ha, thấp hơn ruộng đối chứng là 1.932.293 đ/ha. Trong đó chi cho giống cao hơn mô hình là 676.100 đ, phân bón là 348.350 đ; thuốc bảo vệ thực vật là 1.025.522 đ; chi phí khác là 324.534 đ/ha. Thực tế năng suất lúa khô của mô hình cao hơn đối chứng là 601kg/ha,dẫn đến giá thành hạ là 695 đ/kg thóc nên lợi nhuận của mô hình cao hơn đối chứng 5.792.398 đ/ha.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Cảnh báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (từ 6-12/3)

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng

1. Trên lúa

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu đục thân 2 chấm, sâu cuốn lá nhỏ gây hại với mật độ, tỷ lệ hại thấp.

Các tỉnh Bắc Trung Bộ: Bệnh đạo ôn lá tiếp tục phát sinh gây hại tăng nhanh trên diện rộng. Chuột hại tăng trên lúa trà sớm ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, lúa trà muộn mới gieo. Ốc bươu vàng hại tăng trên lúa mới gieo cấy, hại nặng trên những ruộng gần ao hồ, sông suối, khu đồng trũng ngập nước thường xuyên. Tuyến trùng rễ, bọ trĩ có khả năng gây hại tăng trên các chân ruộng thiếu nước.

Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Bệnh đạo ôn lá, bệnh đạo ôn cổ bông, rầy nâu, rầy lưng trắng gia tăng gây hại trên lúa trà sớm giai đoạn đòng trỗ – chắc xanh. Bệnh đạo ôn lá, sâu cuốn lá nhỏ phát sinh và gây hại tăng. Sâu đục thân, sâu keo, bọ trĩ, dòi đục nõn gây hại rải rác trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh. Bệnh bạc lá hại cục bộ ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Chuột hại diện rộng trên các trà lúa ĐX giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ.

Các tỉnh Đông Nam bộ và ĐBSCL: Rầy nâu hại nhẹ đến trung bình, cục bộ hại nặng. Bệnh đạo ôn lá có thể sẽ xuất hiện trên lúa HT sớm 2018 giai đoạn đẻ nhánh ở mức độ nhẹ đến trung bình; Bệnh đạo ôn cổ bông vẫn còn phát triển và gây hại trên các trà lúa trỗ. Sâu năn gây hại trên các giống lúa Jasmin85, OM4900, Đài thơm 8, OM 7347, OM 6162, OM 6976, OM 5451… Nơi gieo sạ lúa HT phải đảm bảo thời gian giãn vụ, cày ải, phơi đất ngay sau khi thu hoạch lúa ĐX 2017-2018 tối thiểu là 15 ngày. Lưu ý bệnh bạc lá, sâu cuốn lá nhỏ, chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ; chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn trỗ đến chín.

2. Trên cây trồng khác

– Cây nhãn: Bệnh chổi rồng nhãn tiếp tục gây hại.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu, ốc sên tiếp tục gây hại.

– Cây có múi: Bệnh greening tiếp tục gây hại.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng hại rễ và bệnh chết nhanh, chết chậm tiếp tục gây hại.

– Cây điều: Bọ xít muỗi và bệnh thán thư tiếp tục gây hại.

– Cây dừa: Bọ cánh cứng và bọ vòi voi tiếp tục gây hại.

– Cây cà phê: Bệnh khô cành, bệnh gỉ sắt tiếp tục gây hại.

– Cây sắn: Bệnh khảm lá virus tiếp tục hại.

Khuyến cáo

Trên lúa:

+ Để phòng trừ rầy nâu gây hại, sử dụng Applaud 25WP – Giải pháp trừ rầy nâu môi giới truyền bệnh VL-LXL (700g/ha), hoặc sử dụng Wellof 3GR (12-15kg/ha).

+ Đối với sâu cuốn lá nhỏ sử dụng Opulent 150SC (6ml/bình 16 lít, phun 2,5 – 3 bình/1.000 m2) hoặc Wellof 330EC (0,8-1 lít/ha, pha 40-50ml/bình 16 lít nước).

+ Để trừ sâu đục thân, sử dụng Nurelle D 25/2.5EC (1-1,5 lít/ha), phun sau khi bướm nở rộ 5-7 ngày.

+ Để phòng trừ đạo ôn, sử dụng BEAM 75WP – “Cắt ngay cháy lá” (250g/ha).

+ Sử dụng Bonny 4SL (0,75 lít/ha, 30 ml /bình 16 lít nước), lượng nước phun 400 lít/ha.

+ Sử dụng Aviso 350SC (0,35 lít/ha, 14ml thuốc/bình 16 lít nước) để phòng trừ bệnh lem lép hạt.

+ Phối hợp BEAM 75WP (250g/ha) + Bonny 4SL (500ml/ha) + Aviso 350SC (0,35 lít/ha) để phòng trừ bệnh đạo ôn, bạc lá do vi khuẩn và lem lép hạt cùng lúc tấn công cây lúa.

+ Sử dụng Pulsor 23DC (0,22-0,33 lít/ha), Catcat 250EC, Vali 5SL phun khi bệnh vết bệnh khô vằn (trên lúa, ngô) lúc mới xuất hiện.

+ Để kích thích cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, tránh nghẹn đòng khi trổ, dùng Dekamon 22.43L (6ml/bình 16 lít nước), phun lên lá, bông 10-15 ngày sau sạ, 40-45 ngày sau sạ và sau khi trổ đều.

Cây rau:

+ Sử dụng Foliar Blend (50ml/16 lít nước) để cung cấp dinh dưỡng vi lượng dễ hấp thụ cho cây trồng.

+ Sử dụng Gekko 20SC với hoạt chất Amisulbrom 200g/l, liều dùng 12-20ml/bình 16 lít nước để phòng trừ bệnh sương mai, giả sương mai trên dưa leo, cà chua.

Cây ngô (bắp):

+ Sử dụng Maxer 660SC (1,25 – 2,5 lít/ha) trừ cỏ giai đoạn 7-20 ngày với ruộng ngô (bắp) biến đổi gen.

Cây tiêu:

+ Đối với bệnh chết nhanh, chết chậm trên tiêu, khuyến cáo phòng bệnh định kỳ. Kết hợp phun phủ trụ Manozeb 80WP (1kg/phuy 200 lít nước) + Bonny 4SL (250ml/phuy 200 lít nước), phun 4-6 lít nước/gốc và kết hợp rải Wellof 3GR (20-25g/gốc) trừ rệp sáp gốc và rễ.

+ Để trừ tốt nấm Phytophthora (nguyên nhân gây ra bệnh chết nhanh cây tiêu), dùng Gekko 20SC – Chứa hoạt chất Amisulbrom (sử dụng 200ml thuốc/200 lít nước), tưới 4-6 lít/gốc để tiêu diệt mầm bệnh.

Cà phê:

+ Phòng bệnh thán thư (khô cành, quả) sử dụng Manozeb 80WP (80g/bình 16 lít nước) kết hợp Aviso (20ml/bình 16 lít nước) để phòng và trị bệnh.

Nguồn: Cục BVTV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chuyện lạ: Mạ non đắt như tôm tươi, dân xứ Nghệ kiếm tiền triệu/ngày

Tại Nghệ An, rất ít khi mạ non trở thành món hàng. Nhưng vụ xuân năm nay, nhiều diện tích gieo, cấy bị chết rét, một số hộ đã tỉa thưa mạ để bán, kiếm tiền triệu mỗi ngày.

Đắt như tôm tươi

Trước tết, bà Lê Thị Minh ở xóm 2, xã Hòa Sơn (huyện Đô Lương) gieo 7 sào lúa Thiên ưu 8. Do gặp rét, 2 sào lúa (500m2/sào) chết hết nên bà phải đi các huyện lân cận để tìm mạ về cấy lại.

“Không có nhân lực nên gia đình tôi phải gieo thẳng. Không ngờ gặp rét, mạ non chết mất 2 sào. Đi một số nơi, họ cho mình vào tỉa thưa rồi lấy mạ, nhiều nơi họ tỉa sẵn, bán 8 – 10 nghìn/nắm nhỏ. Biết đắt nhưng chẳng lẽ bỏ hoang ruộng đành phải mua về cấy khép kín diện tích. Mà cũng có mua được cùng loại mạ đâu, nơi thì mua được giống Thái Xuyên 111, nơi thì Khang dân 18… Chẳng biết khi trỗ có cùng thời điểm hay không?”, bà Minh lo lắng.

Cũng theo bà Minh, tại xã Hòa Sơn, người dân phải xuống các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, ra Yên Thành để mua mạ về cấy. Cả làng sáng sáng kéo nhau đi mua mạ. Có những gia đình gần như mạ bị chết sạch.

Theo tính toán của nông dân, mỗi nắm mạ mua với giá 8 – 10 nghìn đồng, mỗi sào 500m2 cần khoảng 100 nắm mạ mới đủ cấy. Như vậy, tính ra mỗi sào bị hỏng, nếu không thể tự túc mạ, nông dân phải cay đắng bỏ thêm khoản tiền 800.000 – 1 triệu đồng.

Theo quan sát, Quốc lộ 46 đoạn đi qua huyện Thanh Chương, QL 7 đi qua huyện Yên Thành, mạ được bày bán cùng với rau quả bên lề đường, người đến hỏi mua tấp nập. Người bán ra giá bao nhiêu người mua không cần đắn đo, sợ người khác mua mất nên trả tiền tươi lấy liền.

Chúng tôi gặp vợ chồng ông Lê Thế Dũng ở xóm 7, xã Ngọc Sơn (huyện Thanh Chương) trên cánh đồng sát QL 46. Vụ xuân năm nay, ông Dũng gieo 4 sào lúa Thái Xuyên 111. May mắn sau khi gieo, mạ nảy mầm tốt, đủ nước nên phát triển nhanh. Chỉ qua một ngày tỉa thưa, vợ chồng ông đã bán được hơn 1 triệu đồng.

“Tôi gieo 4 sào lúa Thái Xuyên 111. Theo hướng dẫn thì chỉ gieo 1,8kg/sào nhưng tôi gieo 2kg/sào. Nay lúa phát triển tốt, dày quá, hai vợ chồng tỉa thưa mới 2 sào mà đã bán được hơn 1 triệu đồng. Cứ vừa đưa lên bờ là đã có người đến hỏi mua. Nhiều người chạy xe dọc đường sáng đến tối để gom mạ về cấy. Có nhà bán được hơn 2 triệu tiền mạ rồi. Ở đây có nhiều nhà gieo thẳng cũng bị chết hết nhưng một số chủ động chuẩn bị mạ san nên không phải đi mua. Người mua có cả Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn…”, ông Dũng cho biết.

Trên 1.000 ha lúa bị ảnh hưởng bởi giá rét

Theo thông tin từ Chi cục Trồng trọt & BVTV Nghệ An, tính đến ngày 20/2/2018, toàn tỉnh đã gieo, cấy được 88.438,9ha lúa/kế hoạch 90.000ha, đạt 98,3%, trong đó có 63.302,9ha lúa cấy. Dù ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo không gieo thẳng nhưng vẫn có 25.136ha được gieo sạ thẳng.

Từ ngày 14/2 đến nay thời tiết ấm nên diện tích lúa đã gieo cấy phát triển bình thường, sâu bệnh chưa có đối tượng nào gây hại đến mức phải phòng trừ. Tại một số huyện, sau vài trận mưa đầu xuân, ốc bươu vàng cũng đã xuất hiện với mật độ thưa gây hại lúa xuân.

Tuy nhiên, bước vào sản xuất vụ xuân 2018, Nghệ An gặp thời tiết bất lợi, rét đậm rét hại xảy ra liên tục. Đặc biệt là trong thời gian gieo cấy lúa, nền nhiệt độ thấp có thời điểm dưới 10 độ C ảnh hưởng không nhỏ đến trồng trọt. Bất chấp khuyến cáo của ngành nông nghiệp địa phương, nông dân vẫn ra đồng gieo cấy. Một số diện tích mạ gieo, lúa mới cấy bị chết khiến nông dân rơi vào tình cảnh dở khóc dở cười.

Theo thống kê của Chi cục Trồng trọt – BVTV Nghệ An, những đợt rét liên tiếp trước tết đã khiến 1.026 ha lúa xuân bị ảnh hưởng. Trong đó có gần 300ha bị chết trên 70%.

Trước diễn biến thời tiết bất thường, Chi cục đã ban hành 3 văn bản về hướng dẫn chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng vụ xuân 2018 trong dịp tết.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.