Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây rau ngót.

Cây rau ngót (Sauropus androgynus (L) Merr.) là cây trồng không kén đất, có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên để cây cho năng suất cao, cần chú ý những biện pháp kỹ thuật sau:

1. Chuẩn bị đất trồng:

– Rau ngót có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, nhưng muốn có năng suất cao, cần chọn đất thịt nhẹ, thịt trung bình, đất cát pha, không bị úng ngập nhưng không quá khô, độ pH từ 5,5- 7,0, vùng đất chủ động nước tưới. Tốt nhất là nên chọn loại đất thịt pha đất sét vừa dễ canh tác mà lại giữ ẩm tốt.

– Cày xới đất tơi xốp và bón lót phân hữu cơ hoai mục kết hợp hỗn hợp phân đạm, lân, kali để giúp cây phát triển ngay giai đoạn đầu sau khi bén rễ.

2. Chuẩn bị giống:

2.1. Giống

Có 2 loại:

– Rau ngót lá to: Sinh trưởng khỏe, thân lá màu xanh đậm, phiến lá to và mỏng, phẩm chất ngon.

– Rau ngót lá nhỏ: Thân, lá có màu xanh nhạt, phiến lá nhỏ và dày, đường gân giữa cuống lá có màu xanh nhạt, ít bị sâu bệnh hại.

2.2. Phương pháp nhân giống:

– Nhân giống hữu tính (từ hạt): Tỷ lệ nảy mầm của hạt thường rất thấp và thời gian bắt đầu cho thu hoạch lâu.

– Nhân giống vô tính (giâm cành): Hiện đa số nông dân áp dụng phương pháp này. Để nhân giống đạt nên chú ý những vấn đề sau:

+ Chọn cành khỏe không bị sâu bệnh hại, cành không già, không non (cành vừa hóa nâu) để làm cành giống.

+ Dùng tro trấu hoặc trấu đã được ủ hoai để làm giá thể giâm cành. Liếp giâm tùy theo kích thước vườn, thường liếp giâm có chiều rộng 1-1,2m, chiều cao mặt liếp khoảng 10cm.

+ Cắt xéo từng đoạn cành dài 20 – 25 cm đem giâm, cành đặt nghiêng so với mặt liếp khoảng 450, vùi đất sâu 2/3 đoạn cành rồi lấp đất kỹ để cây nảy nhiều chồi. Để cành mau ra rễ, trước khi giâm ta nhúng cành vào dung dịch NAA (Naphthaleneacetic acid).

Chọn cành khỏe, không bị sâu bệnh hại, cành vừa hóa nâu để làm giống.

3. Thời vụ:

– Rau ngót có thể trồng quanh năm, tốt nhất là vào mùa mưa. Thời vụ trồng tốt nhất là vụ Xuân khoảng từ tháng 2 – 4 và vụ Thu từ tháng 8 – 9.

– Rau ngót được trồng bằng phương pháp nhân vô tính, trồng một lần và thu hoạch 2-3 năm.

Cây rau ngót sau giâm cành 15 ngày.

4. Mật độ, khoảng cách:

– Chia luống 1,3- 1,5m, mặt luống rộng 1,0- 1,2m, rãnh 0,3 m; trồng với khoảng cách cây cách cây 25- 30cm, hàng cách hàng 50- 60 cm, mỗi hố có thể trồng 2 cây.

– Chuẩn bị giống từ 9,5- 10 vạn hom/ha, cũng có thể tách thân từ cây gốc của năm trước để nhân thẳng ra ruộng.

5. Phân bón:

– Lượng phân bón tính cho 1.000 m2 (tùy theo nền đất có thể tăng hoặc giảm lượng phân vô cơ) như sau:

+ Phân chuồng hoai mục: 1,5 – 2 tấn (đã trộn ủ với 1-1,5 kg chế phẩm nấm Trichoderma)

+ Phân vô cơ: Urê 20- 24 kg + Super lân 40- 50 kg + Kali clorua 6- 8 kg.

– Cách bón:

Bón lót (kết hợp khi làm đất): Toàn bộ lượng phân hữu cơ hoai mục và Super lân + 3- 4 kg Kali clorua.

Bón thúc chia làm 2 lần bón:

+ Lần 1: Sau trồng 15- 20 ngày, sử dụng phân Urê 7- 8 kg. Trong thời gian này, người trồng có thể kết hợp sử dụng thêm phân bón lá NPK 30-10-10 để bổ sung vi lượng cho cây.

+ Lần 2: Sau lần 1 từ 10- 15 ngày với liều lượng còn lại. Có thể bón theo hàng hoặc bón theo hốc, bón cách gốc 15- 20cm, kết hợp làm cỏ, vun gốc cho cây.

Lưu ý: Do cây rau ngót thu hoạch liên tục kéo dài 2- 3 năm, do vậy sau mỗi đợt thu hoạch, cần bón bổ sung từ 0,5- 0,7 tấn phân chuồng hoai mục vào gốc, kết hợp tưới NPK để bổ sung dinh dưỡng cho cây.

Bên cạnh việc sử dụng các loại phân hữu cơ và phân hóa học thì người nông dân còn sử dụng kết hợp thêm các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thuộc nhóm auxin và gibberellin (GA3). Xử lý GA3 có tác dụng kích thích gia tăng chiều cao chồi rau ngót nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng diệp lục tố (chlorophyll) và trọng lượng tươi rau ngót giai đoạn thu hoạch. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng GA3 với nồng độ từ 10- 80 ppm phun trên rau ngót, thời gian cách ly (PHI) 7 ngày, không để lại dư lượng GA3 trên rau khi thu hoạch.

– Nguồn nước tưới: Sử dụng nguồn nước sạch để tưới (nước sông hoặc nước giếng khoan). Tuyệt đối không được sử dụng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước bị ô nhiễm, nước thải từ bệnh viện. Luôn giữ độ ẩm đất 80-85%.

– Thường xuyên vệ sinh vườn và làm cỏ. Khi bón phân kết hợp vun gốc và tưới giữ ẩm cho vườn cây thường xuyên.

– Khi thu hoạch cần kết hợp cắt cành tỉa tán, tạo cho cây có bộ khung cân đối, giúp vườn rau thông thoáng và hạn chế sâu bệnh hại.

– Vào tháng 11-12 hàng năm, khi thấy cây đã cao (20- 25 cm), lá hơi vàng và ít lá (thời kỳ cây ngừng sinh trưởng) ta nên thực hiện biện pháp sau:

+ Trẻ hóa cây: Nhằm giúp cây đâm nhiều chồi, tăng năng suất bằng cách đốn cây. Dùng dao hay kéo cắt sát gốc cách mặt đất 15cm, các lần cắt sau cách vết cắt cũ 7-10 cm, tỉa thưa bớt các cành già.

+ Xới rãnh sâu 10- 15cm giữa 2 hàng, bón bổ sung lượng phân như sau (tính cho 1.000 m2): 0,7- 1 tấn phân chuồng hoai mục + 7- 8 kg Urê + 10- 15 kg Super lân + 5- 7 kg Kali clorua, trộn đều, lấp đất lại và tưới đủ ẩm để cây bung các đợt chồi mới, vườn rau được trẻ hoá, sung sức hơn.

7. Phòng trừ sâu bệnh:

7.1. Sâu hại chính

– Rầy xanh (Empoasca sp.): Gây hại nặng vào các tháng nắng nóng, khô hạn. Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC, Cyperan 25EC), Fipronil (Regent 800WG) hoặc chế phẩm nấm xanh,…

– Nhện đỏ (Tetranychus sp.): Sống tập trung dưới mặt lá, gây hại nặng trong điều kiện khô hạn. Cần phát hiện sớm để phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Propargite (Comite 73EC), Diafenthiuron (Pegasus 500SC), Fenpyroximate (Ortus 5SC).

– Bọ phấn (Bemisa myricae): Vừa gây hại, vừa là môi giới gây bệnh virut, cần phòng trừ triệt để bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC), Lambda -cyhalothrin (Karate 2,5EC),…

– Bọ trĩ (Thrip sp.): Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Emamectin benzoate (Dylan 2EC), Imidacloprid (Admire 50EC, Confidor 100SL), Cyfluthrin (Baythroid 50 SL).

7.2. Bệnh hại chính

– Bệnh phấn trắng (Erysiphe sp.): Gây hại nặng trong điều kiện khô hạn, nắng ấm. Phòng trừ khi bệnh mới xuất hiện bằng các thuốc có hoạt chất như: Metalaxyl + Mancozeb (Vinomyl 72BTN), Carbendazim (Vicarben 50HP), Hexaconazole (Anvil 5SC), Cyfluthrin (Bayfidan 25EC).

– Bệnh xoăn lá (virut): Cần diệt trừ môi giới truyền bệnh là bọ phấn; nên nhổ bỏ những cây bị bệnh ra khỏi vườn để tránh lây lan; nếu nặng thì phá bỏ trồng lại.

Lưu ý:

– Rau ngót có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, thường hay bị một số sâu hại chủ yếu như cuốn lá, sâu xanh, rầy rệp nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp với phương châm phòng là chính. Áp dụng đúng kỹ thuật canh tác để hạn chế phát sinh gây hại:

+ Chọn giống từ vườn sạch bệnh.

+ Thường xuyên vệ sinh vườn, cắt tỉa bỏ cành già, cành bị sâu bệnh hại đem tiêu hủy.

+ Sử dụng phân hữu cơ hoai mục kết hợp trộn ủ chế phẩm sinh học (nấm Trichoderma) diệt trừ nguồn bệnh và trứng sâu.

– Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:

+ Chúng ta nên thực hiện tốt quy tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); ưu tiên sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học.

+ Phải đảm bảo thời gian cách ly từ 7- 14 ngày trước thu hoạch.

8. Thu hoạch:

– 45- 60 ngày sau trồng có thể tiến hành thu hoạch đợt đầu tiên, các đợt tiếp theo cách nhau 25- 35 ngày.

– Thu hoạch rau ngót bằng cách lấy kéo hoặc dao cắt cành hoặc hái lá. Sản phẩm sau thu hoạch phải được đựng trong bao bì chuyên dụng.

Dùng kéo cắt cành để thu hoạch rau ngót.

Nguồn: khuyennongvn.gov.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Vĩnh Long: hiệu quả mô hình chăn nuôi gà thả vườn an toàn sinh học.

Để tăng thêm thu nhập cho nông dân các xã thuộc vùng khó khăn của tỉnh giai đoạn 2017-2020, Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long đã xây dựng dự án nhân rộng các mô hình khuyến nông có hiệu quả.

Gà giai đoạn 3 tháng tuổi.

Năm 2018, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai mô hình nuôi gà thả vườn an toàn sinh học tại 02 xã khó khăn: xã Loan Mỹ (huyện Tam Bình) và xã Tân Mỹ (huyện Trà Ôn) với qui mô 3.900 con/13 hộ. Tham gia mô hình, các hộ được hỗ trợ 100% con giống gà nòi lai (gà lông màu) 1 ngày tuổi (300 con/mô hình), 30% thức ăn và 2 kg chế phẩm sinh học/mô hình.

Trong quá trình nuôi, các hộ tham gia mô hình nhận thấy gà thích nghi tốt với chất đệm chuồng, đặc biệt gà con trong giai đoạn úm luôn ấm nhờ đệm lót sinh học lên men sinh nhiệt làm cho gà con khỏe mạnh, tỉ lệ nuôi sống đến xuất bán 94% (yêu cầu mô hình là 90%), tiêu tốn thức ăn trên kg tăng trọng là 2,7 kg, khối lượng cơ thể bình quân đạt 1,5 kg/con sau 3,5 tháng nuôi. Với giá bán 80.000 đồng/kg, trừ chi phí, mỗi mô hình thu lãi 8,7 triệu đồng. Như vậy, ước tổng lợi nhuận thu được từ 13 hộ khoảng 113.100.000 đồng.

So với các hộ nuôi thả tự nhiên thì mô hình nuôi gà an toàn sinh học hạn chế được dịch bệnh do mô hình đáp ứng đủ các điều kiện từ khâu chọn giống tốt, tiêm ngừa dịch bệnh, chăm sóc. Sau 02 năm thực hiện mô hình đã có khoảng 10 hộ ngoài mô hình áp dụng nuôi với quy mô 100-500 con. Nhiều và con nông dân cũng chia sẻ sẽ chọn lựa nuôi gà an toàn sinh học là hướng sản xuất nông nghiệp của gia đình .

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Mô hình cây tiêu kết hợp cọc cừ tràm.

Từ xưa đến nay người nông dân luôn được biết đến không chỉ ở sự cần cù chịu khó mà còn sức sáng tạo vô bờ bến của họ. Trong nông nghiệp nhiều mô hình kết hợp các loại cây với nhau mang lại hiệu quả kinh tế cao mà chính những kĩ sư nông nghiệp cũng không ngờ tới. Và mô hình trồng tiêu trên cây cừ tràm sống là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của người nông dân.

Cọc cừ tràm phù hợp với cây tiêu

Trước hết cây tiêu là một cây cho thu nhập khá cao, nếu được giá có thể nhanh chóng làm giàu. Chăm sóc cây tiêu không quá khó khăn nhưng cần phải có nọc tiêu để leo bám và phát triển. Và cừ tràm là sự lựa chọn hoàn hảo trên cũng đất nhiễm phèn, một sự kết hợp sáng tạo của những người nông dân sông nước miền tây. Nếu như sử dụng các loại cọc khác như gòn, dừa thì chỉ sau vài năm sẽ bị chết hoặc gãy đỗ. Nhưng cừ tràm thì hoàn toàn khác, đây là loại cây lâm nghiệp lâu năm, gỗ chắc bền đảm bảo thời gian cho cây tiêu phát triển đến lúc đạt năng suất cao nhất. Ngoài ra cừ tràm còn có nhiều lớp vỏ, giữ nước tốt tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu sinh sống và phát triển.

Mô hình cây tiêu kết hợp cọc cừ tràm.

Cừ tràm dùng để làm cọc tiêu quả thực là một sự sáng tạo mang lại hiện quả kinh tế cao đối với những vùng đất nhiễm phèn. Nếu sử dụng cọc xi măng thì sẽ rất tốn kém, tăng chi phí sản xuất lên dẫn đến lợi nhuận không đáng kể. Đối với vùng đất như thế này chính cừ tràm đã giúp cho tiêu sinh sổi phát triển mạnh mẽ như các vùng đất khác. Đầu tiên đó là tán của loài cây này sẽ giúp tiêu tránh được những thời tiết bất lợi. Đặc biệt từ rễ của cây cừ tràm tiết ra một số chất có thể tiêu diệt được nấm trên cây tiêu. Thật bất ngờ phải không, nhưng đó là kết quả qua trình tìm hiểu tại sao mô hình vườn tiêu ôm cừ tràm đều cho năng suất cao và ít bị sâu bệnh tấn công.

Kĩ thuật trồng tiêu kết hợp với cừ tràm

Cho dù mô hình kết hợp có thuận lợi theo tự nhiên đến đâu thì kĩ thuật trồng vẫn đóng một vai trò then chốt cho sự thành công của mô hình kết hợp tiêu với cừ tràm này. Trước hết là trồng cừ tràm hơn một năm tuổi phải tiến hành đào sâu từ 5 tấc đến 7 tấc, tiếp giáp với mặt nước. Sau khi xong công đoạn này tiến hành dùng vôi bột rải lên gốc cừ tràm để hạ độ phèn. Tiếp theo là đặt dây tiêu vào mỗi gốc cừ tràm với mật độ 1,5 m đến 2m cho một nọc tiêu. Đây là kĩ thuật tạo ra được sự hiện quả đã được chứng minh bằng thực tiễn. Về mặt lí thuyết cách trồng này giúp cho tiêu và cừ tràm không cạnh tranh dinh dưỡng với nhau, quá trình sinh trưởng và phát triển đều bảo đảm cho cả 2.
Về khâu chăm sóc thì theo kinh nghiệm của người nông dân, sau khoảng một tuần trồng thì tiến hành bón phân chuồng vào mỗi gốc cừ tràm khoảng 5-7 kg. Và tất nhiên liều lượng bón sẽ tăng dần cùng với sự phát triển của cây nhằm tạo cho đất luôn ở trạng thái tươi xốp và màu mỡ. Nhìn chung nhờ sự kết hợp này mà tiêu với cừ tràm đều phát triển tốt trên đất phèn, chỉ cần chú trọng tới hệ thống tưới tiêu và đào rãnh thoát nước để tránh ngập úng.

Hiệu quả kinh tế của mô hình tiêu ôm cừ tràm này chủ yếu đến từ cây tiêu. Bắt đầu từ năm thứ 3 tiêu sẽ bắt đầu cho thu hoạch với năng suất khoảng 1,5 kg/nọc tiêu. Và khi đến năm thứ 5 thì con số này sẽ tăng lên từ 3-4 kg/ nọc tiêu. Thu nhập bình quân sẽ là 40-50 triệu/ ha với tiêu khoảng 2 năm tuổi và khi tiêu khoảng 5 năm tuổi thu nhập sẽ tăng lên khoảng trên 100 triệu/ha. Theo chu kì sinh trưởng mỗi nọc tiêu sẽ cho thu hoạch lên tới 20 năm, khi kết thúc thì đã có nguồn thu không nhỏ từ việc bán gỗ cây cừ tràm.

Giữ và phát triển được diện tích rừng tràm

Do giá cừ tràm lên xuống thất thường nên rất nhiều người đã không chọn loài cây lâm nghiệp này để phát triển kinh tế nữa. Thay vào đó học cải tạo trồng lúa hay nuôi tôm để có nguồn thu ổn định hơn. Do đó diện tích rừng tràm giảm mạnh ảnh hưởng đến độ che phủ rừng nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Việc khuyến khích người dân trồng cừ tràm rất khó khăn cho đến khi có mô hình này xuất hiện.

Với việc kết hợp tiêu với cừ tràm cho hiệu quả kinh tế cao, giúp người nông dân thoát nghèo thì chắc chắn mô hình này sẽ được mọi người hưởng ứng và lan tỏa rộng rãi. Lúc đó độ che phủ rừng sẽ tăng lên đáng kể, vừa giải quyết được vấn đề môi trường đang nhức nhối hiện nay mà kinh tế vẫn phát bền vững.

Có thể nhận thấy mô hình tiêu kết hợp cừ tràm là một mô hình sánh tạo, vừa phát triển kinh tế vừa giữ rừng bảo vệ môi trường. Vì vậy mô hình này cần được khuyến khích nhân rộng hơn nữa trong thời gian tới để nhiều người nông dân sớm thoát nghèo trên chính mảnh đất quê hương của mình.

Nguồn: agriviet.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Nuôi ong đầu tư ít, hiệu quả cao.

Nghề nuôi ong lấy mật phát triển nhanh chóng, mang lại nguồn thu nhập khá cho nhiều hộ dân trên địa bàn xã An Bình (huyện Lạc Thủy, Hòa Bình).

Các hội viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm nuôi ong lấy mật.

Chi hội Nuôi ong lấy mật xã An Bình được thành lập năm 2011 gồm 18 hội viên để liên kết các hộ nuôi ong nhỏ lẻ, từ đó tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm trong cách nuôi và chăm sóc đàn ong qua từng thời kỳ, giúp sản lượng, chất lượng mật được tăng lên.

Đến nay chi hội có tổng số 1.077 đàn ong (hộ nuôi ít 10 – 15 đàn, hộ nuôi nhiều gần 100 đàn). Các hội viên đều tự nuôi, trông nom, bảo vệ đàn ong tại gia đình, song họ thường gặp nhau trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm chọn giống, kỹ thuật nuôi để mang lại hiệu quả kinh tế cao và sản xuất ra nhiều mật.

Đến kỳ thu hoạch, các thành viên cùng giúp nhau thu hoạch mật. Sản phẩm mật ong của các hộ trên địa bàn xã được thị trường ưa chuộng bởi chất lượng tốt, giá cả phải chăng. Ngoài tiêu thụ trong huyện, sản phẩm mật ong của xã An Bình còn đến được với khách hàng ngoại tỉnh. Năm 2018 sản lượng mật ong của chi hội đạt gần 10.000 kg, giá bán 100.000 đồng/kg. Ngoài khai thác mật, các hộ còn bán 245 đàn ong giống với giá 700.000 đồng/đàn, mang lại tổng thu nhập từ con ong trên 1 tỷ đồng (bình quân 1 hộ nuôi ong thu được 65 triệu đồng).

Ông Đinh Xuân Cẩm, Chi hội trưởng Chi hội nuôi ong xã An Bình cho biết: Đối với nghề nuôi ong, điều quan trọng là phải chọn được ong chúa khỏe mạnh. Bên cạnh đó, ong mật có đặc tính tổ chức bầy đàn cao và nhạy cảm với thời tiết, ánh sáng, nhiệt độ. Vì vậy, người nuôi phải nắm bắt được các đặc tính cơ bản này để có biện pháp chăm sóc thích hợp. Có như vậy, đàn ong mới khỏe mạnh, cho năng suất và chất lượng mật cao.

Ông Cẩm chia sẻ thêm: Do kinh nghiệm nuôi ong được tích lũy nhiều, nắm bắt được các đặc tính của ong, nên sản lượng mật ong thu được năm sau cao hơn năm trước. Để việc nuôi ong lấy mật tại địa phương thực sự có hiệu quả, lượng mật nhiều hơn, mong muốn các cấp chính quyền quan tâm nhiều hơn nữa, quản lý chặt chẽ, hạn chế triệt để những hiện tượng ong ngoại lai sâm nhập vào địa bàn.

Ông Quách Công Mười, Phó Chủ tịch UBND xã An Bình cho biết: Nhận thấy hiệu quả từ mô hình nuôi ong lấy mật, vốn đầu tư ít, nhưng mang lại hiệu quả cao, còn tạo công ăn việc làm cho người lao động lúc nông nhàn, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi giới miễn là có sự đam mê nghề.

Với những hiệu quả ban đầu mang lại, thời gian tới xã An Bình sẽ phối hợp với Chi hội nuôi ong tiếp tục phát triển, thu hút nhiều hội viên tham gia, mở rộng quy mô, tăng thêm số lượng đàn…

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Trồng điều hữu cơ theo tiêu chuẩn Organic.

Trồng điều hữu cơ theo tiêu chuẩn Organic đòi hỏi quy trình kỹ thuật khắt khe, do đó bắt buộc người trồng phải có kiến thức sâu.

Vườn điều Organic của HTXNN Bù Gia Mập.

Vậy nhưng, một HTXNN ở vùng biên giới Bình Phước, với khoảng 85% xã viên là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), vốn được coi là lạc hậu, đang có thành quả tốt với mô hình điều hữu cơ, tiêu chuẩn Organic.

Cuối năm 2016, HTXNN Bù Gia mập (xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập) ra đời với 64 thành viên có tổng diện tích điều 250 ha. Sau khi được thành lập, UBND xã đã chỉ đạo HTX phối hợp Liên hiệp HTX điều Bình Phước hướng dẫn các thành viên về kỹ thuật chăm sóc điều theo tiêu chuẩn Organic.

Đến nay, số xã viên là 136 và diện tích tăng lên gần 544 ha điều, trong đó 495 ha đạt chuẩn Organic, diện tích còn lại đang tiếp tục được đánh giá để cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ trong thời gian tới.

Kết quả, vụ điều 2016-2017, dù SX bị thiệt hại nặng do ảnh hưởng bởi thời tiết, sâu bệnh, nhưng năng suất điều của xã vẫn đạt từ 0,7-1,3 tấn/ha, riêng vườn điều của các thành viên HTX Bù Gia Mập đạt từ 1-1,5 tấn/ha.

“SX điều sạch phải thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình, từ khâu dọn vườn, cắt tỉa, bón phân, chăm sóc, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đến thu hoạch… nên tính trung thực của nông dân phải đặt lên hàng đầu. Các chuyên gia nước ngoài sẽ kiểm tra tại một vườn điều bất kỳ, nếu sản phẩm của vườn nào không đạt tiêu chuẩn sẽ bị ra khỏi HTX và phải làm lại từ đầu. Ban đầu, nhiều hộ ngần ngại vì sợ không theo được, nay họ chủ động trồng điều sạch để được vào HTX”, ông Hà Văn Toản, Phó giám đốc HTX cho biết.

Ông Điểu Hồng Mớt ở thôn Đắk Á, xã Bù Gia Mập đi tiên phong trong SX điều sạch cho biết: “Ngày xưa còn nghèo, cây điều nuôi sống mình, hết mùa thì mua phân bò về bón để cây có sức cho trái vụ sau. Từ 1 ha, nay tôi mua thêm 7 ha. Duy trì bón phân chuồng 2 lần/năm nên vườn điều luôn đạt 1,8-2 tấn/ha và ít sâu bệnh. Tham gia HTX, được kỹ sư nông nghiệp đến tận vườn “cầm tay chỉ việc”, từ bón phân, phun thuốc đúng quy trình đến không xịt thuốc cỏ, đốt lá tại vườn giúp mình có thêm kiến thức, sản phẩm làm ra được công ty đến tận vườn thu mua với giá cao hơn ngoài thị trường”.

Gia đình anh Nghị ở thôn Đắk Á, có 3 ha điều, xưa nay vẫn SX theo kinh nghiệm chứ không biết đến trồng điều sạch. Sau khi cân nhắc, anh quyết định vào HTX. Sau đó, anh được tham gia các lớp tập huấn, hướng dẫn chăm sóc theo quy trình kỹ thuật, năng suất vườn điều tăng từng năm. Niên vụ điều 2017-2018 đạt 2,5 tấn/ha, đây cũng là một trong những vườn điều đạt năng suất cao của xã.

Hướng dẫn quy trình chăm sóc điều theo tiêu chuẩn hữu cơ.

“Mừng nhất là sản phẩm được công ty đến tận vườn thu mua với giá cao. Sau khi hết vụ, còn được công ty trợ giá thêm 500 đồng/kg điều hữu cơ, tổng số tiền nhận được 12 triệu đồng, đủ tiền mua gạo ăn cả năm”, anh Nghị khoe.

Hiện toàn bộ sản phẩm điều của HTX được một số DN bao tiêu với giá cao hơn thị trường 1.000 đồng/kg. Đồng thời, được trợ giá 500 đồng/kg sau khi kết thúc mùa vụ. Bà Trần Thị Yến, Giám đốc HTX nông nghiệp Bù Gia Mập cho biết, vụ điều 2017-2018, HTX bán được 333,35 tấn điều Organic. “Một vườn điều bình thường hằng năm cho năng suất khoảng 2 tấn/ha, nhưng trồng theo hướng Organic thấp hơn nhiều. Nhưng bù lại, giá lại cao hơn. Cho nên, trên cùng diện tích, nông dân vẫn đạt mức thu nhập ngang với phương thức trồng thông thường, đồng thời, không lo đầu ra”, bà Yến nói.

Quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Organic phải tiến hành song song với việc giảm lượng thuốc hóa học và kết hợp bón phân hữu cơ để cải tạo đất. Điều dễ nhận thấy, SX hữu cơ bước đầu nông dân gặp khó khăn, nhưng để tính lâu dài thì đây đang là hướng đi tất yếu.

Ngoài HTXNN Bù Gia Mập, trong Liên hiệp HTX điều Bình Phước còn 3 HTX là Đồng Nai, Thành Phát (Bù Đăng) và Phước Hưng (Đồng Xoài). Trong đó, HTX Đồng Nai đã dán nhãn thương mại công bằng quốc tế. HTXNN Bù Gia Mập sản xuất hữu cơ là bước đi nhanh nhất để sản phẩm được dán nhãn thương mại công bằng của Tổ chức Fair Trade. Qua đó, sản phẩm có thể đi thẳng vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU…

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Liên kết trồng dưa lưới, hiệu quả bền vững

Chỉ cần diện tích 1.000-2.000m2, mỗi nhà màng trồng dưa lưới có thể thu hoạch được 4 vụ/năm, doanh thu cả trăm triệu đồng/công/vụ. Nếu có hợp đồng liên kết đầu ra ổn định, canh tác dưa lưới sẽ nhanh thu hồi vốn, mang lại lợi nhuận lâu dài cho nông dân.

Từ thành công của chàng kỹ sư trẻ…

Ở huyện đầu nguồn An Phú, nhắc đến Nguyễn Văn Đệ (xã Vĩnh Lộc), những nông dân lớn tuổi còn phải nể phục bởi anh được xem là người đầu tiên thành công với dưa lưới, một loại cây trồng vốn mới mẻ với vùng đất đã “quen” với lúa, rau màu.

Là một kỹ sư nông học (tốt nghiệp năm 2006), anh Đệ đã bắt đầu với những công việc trái ngành trước khi “kết duyên” với cây dưa lưới từ năm 2014. Để khởi nghiệp tại quê nhà, anh đã đến nhiều nơi học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. “Lần đầu trồng, thấy dưa bị nứt tôi cũng hơi lo lắng. Sau khi tìm hiểu, biết đây là giai đoạn nứt trái để tạo lưới nên mới yên tâm. Tôi cố gắng vừa canh tác, vừa rút kinh nghiệm để tìm ra quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng” – anh Đệ chia sẻ.

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật An Giang kiểm tra chất lượng trái dưa lưới do anh Thảo trồng

Nhờ sản phẩm được tiêu thụ nhanh với giá cao, chỉ sau 2 năm canh tác, anh Đệ đã trả hết nợ ngân hàng (vay đầu tư nhà lưới) và bắt đầu có lời. Nhận thấy tiềm năng loại cây trồng này còn lớn nên anh nâng diện tích nhà lưới lên 2.500m2, trồng đa dạng các giống dưa xuất xứ từ Đài Loan và Thái Lan. Anh còn liên kết với nông dân cùng thực hiện quy trình canh tác an toàn và làm đầu mối thu gom sản phẩm của họ. Chàng kỹ sư trẻ đã xây dựng nhãn hiệu dưa “Mr.Đệ”, được ngành chức năng cấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Anh Đệ cho biết, với giá thu mua lại từ 25.000 – 30.000 đồng/kg, đảm bảo nông dân có lời ít nhất 35 triệu đồng/vụ/1.000m2. Nếu mỗi năm canh tác được 4 vụ thì sau khoảng hơn 2 năm, nông dân đã lấy lại được vốn đầu tư nhà màng. “Sau khi liên kết ổn định với 6 nông dân ở An Giang và Cà Mau, phát triển 10.000m2 dưa lưới, tôi đang mở rộng liên kết sang Vĩnh Long, Kiên Giang, TP. Cần Thơ để dần nâng diện tích lên gấp đôi. Bên cạnh dưa lưới, tôi đang thử nghiệm quy trình trồng dưa hấu, cà chua tí hon, dưa lê theo hướng an toàn để chuyển giao cho nông dân, nhằm đa dạng sản phẩm, tăng hiệu quả canh tác” – anh Đệ nhấn mạnh.

…đến thắng lợi của những nông dân chịu thay đổi

Một trong những nông dân đang liên kết thành công với kỹ sư Nguyễn Văn Đệ là anh Dương Hiếu Thảo (ấp Mỹ Phó 3, xã Tân Hòa, Phú Tân). Được anh Đệ tận tình hướng dẫn quy trình canh tác an toàn, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá 28.000 đồng/kg, anh Thảo cùng bạn của mình đã mạnh dạn đầu tư 350 triệu đồng xây dựng nhà màng 1.000m2, thiết kế hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân hữu cơ tự động. Vụ đầu tiên, anh trồng 2.600 gốc dưa lưới trong những chậu nhựa, được nối hệ thống tưới nhỏ giọt vào tận gốc. “Khi dưa lưới được 7 ngày tuổi, cao từ 10-15cm thì tiến hành quấn đọt lên dây. Công việc này cần 2 người quấn liên tục trong 40 ngày. Khi cây được 2,5m thì ngắt đọt. Trồng trong nhà màng nên ít bị sâu bệnh, nhất là không có bọ trĩ, bọ phấn trắng. Trong chiếc bồn chứa 2.000 lít, mình hòa sẵn phân hữu cơ. Mỗi ngày, bật hệ thống tưới tự động trong 1-2 giờ là được” – anh Thảo chia sẻ.

Ngay vụ dưa đầu tiên, mỗi gốc đều cho ít nhất 1 trái, trọng lượng bình quân trên 2kg, đạt yêu cầu về độ đường, tiêu chuẩn thu mua. Với 2.600 gốc dưa, sau 85 ngày canh tác, anh Thảo thu hoạch được hơn 5 tấn trái, giao hết cho anh Đệ giá 28.000 đồng/kg. Tính ra, doanh thu khoảng 140 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí giống, dinh dưỡng hữu cơ, nhân công khoảng 50 triệu đồng, nhóm anh Thảo thu lời 90 triệu đồng. Nếu tiếp tục đà thắng lợi này, chỉ sau 1 năm với 4 vụ dưa, nhóm anh Thảo đã có thể lấy lại vốn đầu tư nhà màng và bắt đầu thu lợi nhuận không dưới 200 triệu đồng/công từ năm thứ 2.

Kỹ sư Nguyễn Văn Đệ cho biết, với hệ thống nhà màng được lắp ráp bằng khung thép vững chắc thì 5 năm sau mới phải bảo trì. Trong thời gian này, người sản xuất đã thu được lợi nhuận khá nên hoàn toàn có thể tái đầu tư mở rộng, tăng diện tích liên kết.

“Dưa lưới là loại cây trồng cho năng suất cao, kỹ thuật sản xuất không khó, thời gian canh tác ngắn, giá trị thương phẩm tốt. Điều quan trọng là khi canh tác, cần có hợp đồng liên kết thu mua nhằm ổn định đầu ra, đảm bảo quy trình sản xuất an toàn, chất lượng” – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư lưu ý.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nông dân Thừa Thiên Huế trồng đậu bắp cho thu nhập cao

Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhiều nông dân tỉnh Thừa Thiên – Huế đã phát triển diện tích trồng đậu bắp, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Đậu bắp được huyện Quảng Điền xác định là một trong những cây trồng chủ lực

Trên cánh đồng xã Quảng Thọ (huyện Quảng Điền) phủ một màu xanh bát ngát của đậu bắp. Người dân địa phương cho biết, đây là loại cây khá dễ trồng, chi phí đầu tư thấp nhưng mang lại giá trị kinh tế cao; có thể cho thu hoạch thường xuyên và liên tục, đem lại thu nhập từ 5 – 10 triệu đồng/sào.

“Nhà tôi trồng đậu bắp từ mấy năm nay. Trước đây trồng đậu phụng và sắn nhưng thu nhập không cao, lại hay bị tư thương ép giá. Từ khi chuyển qua trồng đậu bắp, tôi thấy hiệu quả tăng lên rõ rệt, nhiều hộ trong xã cũng chuyển sang trồng cây này. Năm vừa rồi, đậu bắp cho thu nhập cao gấp 3 lần so với cây khác, nếu chăm bón tốt có thể gấp 5 lần. Đây thực sự là cây trồng phù hợp trên đồng đất của xã Quảng Thọ”, bà Trần Thị Thanh Hương (50 tuổi) cho hay.

Theo bà Hoàng Thị Thu Thủy-Chủ tịch Hội LHPN xã Quảng Thọ: Đậu bắp là món ăn giàu chất dinh dưỡng, có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, có lợi cho sức khỏe. Ngoài ra còn có tác dụng chữa bệnh xương khớp, tiểu đường và mỡ trong máu. Hiện nay, đậu bắp được đưa đi tiêu thụ ở các chợ trên địa bàn toàn tỉnh và còn đóng đi các tỉnh lận cận;

Mở rộng diện tích trồng cây đậu bắp không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giải quyết việc làm cho chị em toàn xã, điển hình như chị Võ Thị Thu Phượng, Hoàng Thị Tâm…; giúp đời sống nhiều chị em được nâng lên đáng kể, việc chăm lo cho con cái được tốt hơn; tạo điều kiện để tham gia các hoạt động xã hội.

Ông Phan Văn Lự, Phó trưởng Phòng NN-PTNT huyện Quảng Điền cho biết, đậu bắp khá dễ trồng và bố trí thời vụ cũng không khắt khe; năng suất trung bình từ 18 – 20 tấn/ha/vụ. Hiện toàn huyện đã đưa vào trồng 11,6 ha; trong đó nhiều nhất là xã Quảng Thọ 9,2 ha, còn lại được phân bổ rãi rác ở các xã Quảng Phú, Quảng Thành. Tuy hiệu quả cao, nhưng loại cây này mới được đưa vào trồng nên kinh nghiệm cũng như kỹ thuật chăm sóc của bà con chưa cao. Phòng NN-PTNT huyện đã có kế hoạch mở các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật; khuyến khích mở rộng diện tích trồng đậu bắp trong thời gian tới.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nông dân Đồng Tháp trồng sen lãi gấp 2-3 lần trồng lúa.

Vụ mùa Đông Xuân 2018-2019, nông dân trong tỉnh Đồng Tháp chuyển đổi gần 200 ha đất trồng lúa sang trồng sen lấy gương, bình quân mỗi héc ta cho lãi từ 60 – 100 triệu đồng, lãi gấp 2 – 3 lần trồng lúa. Trồng sen ở Đồng Tháp nhiều nhất là ở các huyện Tháp Mười, Thanh Bình, Tam Nông và Cao Lãnh; trong đó, huyện Tháp Mười trồng gần 70 ha.

Thu hoạch sen lấy gương ở xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình.

Anh Nguyễn Thành Dũng, trú tại xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình cho biết, vụ Đông Xuân 2018-2019 anh không làm lúa và chuyển sang trồng sen. Anh trồng được hơn 1 ha sen lấy gương, sau 2,5 tháng sen cho thu hoạch, anh thu hoạch kéo dài 2,5 tháng. Bình quân mỗi ha trồng sen lấy gương cho năng suất 8 tấn/ha, anh bán với giá 15.000 đồng/kg và sau khi trừ chi phí lãi gần 100 triệu đồng. Sau khi thu hoạch diện tích trồng sen lấy gương anh Dũng tiếp tục trồng lúa, sản xuất theo mô hình lúa – sen – lúa.

Đặc biệt, cây sen ở huyện Tháp Mười được trồng nhiều nhất tỉnh và được chứng nhận nhãn hiệu Sen Tháp Mười (huyện Tháp Mười) do Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp. Ở huyện Tháp Mười còn đưa cây sen vào chương trình xây dựng “mỗi xã phường một sản phẩm”.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã đến thu mua tiêu thụ sản phẩm gương sen tươi và hạt sen khô để xuất khẩu, ngoài ra còn các sản phẩm chế biến từ sen được đưa ra thị trường như: sữa sen, bột hạt sen, trà lá sen, trà tim sen đang được người tiêu dùng ưa chuộng.

Nông dân xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình thu hoạch sen lấy gương.

Ông Đinh Minh Dũng, Chủ tịch UBND huyện Tháp Mười cho biết, huyện sẽ phát triển 300 ha trồng sen, đây là mô hình chuyển đổi cây trồng lãi cao hơn trồng lúa. Các sản phẩm từ cây sen Tháp Mười được chế biến sấy khô, làm tim sen, bán sen tươi, sữa sen, đồng thời tạo ra nhiều món ăn hấp dẫn, nổi bật là món cơm gói lá sen, chè sen…

Nguồn: tintucnongnghiep.vn được kiểm duyệt bới FarmTech VietNam.

Trồng rau kiểu “phó giáo sư”, thu 500 triệu/ha/năm

Thực chất, trồng rau “phó giáo sư” là tên gọi vui nông dân xã Đặng Xá (Gia Lâm, Hà Nội) đặt cho quy trình canh tác có sự tham gia của các bên (PGS) để giám sát, đánh giá và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nhờ áp dụng PGS, ý thức sản xuất theo quy trình an toàn của người dân được nâng lên.

Ngày nào cũng vậy, bà Nguyễn Thị Nhị, một thành viên của nhóm sản xuất PGS Đặng Xá đều đặn ra thăm vườn rau của mình. Được biết, gia đình bà hiện có 1.000m2 sản xuất rau theo quy trình an toàn, có sự giám sát của hệ thống PGS.

“Nhóm sản xuất của tôi có 10 thành viên, phần lớn lượng rau sản xuất ra cung cấp cho Công ty Công nghệ cao An Sinh theo hợp đồng cả năm nên chất lượng sản phẩm luôn được đảm bảo theo yêu cầu của doanh nghiệp. Áp dụng PGS, từ quá trình gieo hạt, bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật đều được ghi chép đầy đủ trong sổ nhật ký do trưởng nhóm phát; theo định kỳ 2 tuần một lần, các thành viên trong nhóm họp bàn kế hoạch sản xuất, tiêu thụ để có thể điều chỉnh kịp thời sản lượng giữa các nhà” – bà Nhị cho biết.

Bà Nguyễn Thị Chung, thôn Hoàng Long, xã Đặng Xá chăm sóc rau.

Theo bà Nhị, trước kia, khi còn sản xuất theo tập quán cũ, cứ thấy rau chớm có sâu bệnh là phun, thậm chí còn phun định kỳ; thời gian cách ly cũng không được đảm bảo. Sau này, nhờ tham gia các lớp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và sau này là PGS, GAP, nông dân Đặng Xá nhận thức được sự nguy hiểm của việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật.

“Hiện, nếu có ít sâu tôi bắt bằng tay, cần dùng thuốc bảo vệ thực vật thì sẽ dùng loại thuốc có nguồn gốc sinh học. Các thành viên, trưởng nhóm cũng kiểm tra ruộng rau của các thành viên thường xuyên, nếu vi phạm nguyên tắc sản xuất an toàn sẽ bị nhắc nhở, thậm chí bị yêu cầu ra khỏi nhóm” – bà Nhị nói.

Bà Nhị tiết lộ, chỉ với 1.000m2 trồng rau, gia đình bà có thu nhập khoảng 100 triệu đồng/năm.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Chung – thôn Hoàng Long, xã Đặng Xá, một thành viên của nhóm sản xuất PGS cho biết: “Cái được lớn nhất khi tham gia PGS là chúng tôi không phải lo khâu tiêu thụ vì đã có HTX đứng ra kết nối với các đầu mối thu mua; kế hoạch sản xuất được lập sẵn tránh ế thừa khi sản phẩm cung cấp ra thị trường quá nhiều. Hiện, nông dân Đặng Xá rất hào hứng tham gia mô hình này”.

Việc tham gia PGS giúp nông dân Đặng Xá không phải lo khâu tiêu thụ rau.

Theo ông Nguyễn Tuấn Khanh, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Đặng Xá, từ giữa năm 2018, tổ chức Rikolto (RECO) đã hướng dẫn HTX và bà con nông dân thành lập 3 nhóm PGS với 50 nông dân tham gia.

Trước đây, nông dân Đặng Xá được tham gia rất nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn sản xuất nhưng với mô hình PGS lần đầu tiên bà con được hướng dẫn một các chi tiết, cụ thể từng công đoạn sản xuất, giám sát sản xuất, thanh tra nội bộ. Quá trình giám sát chéo giữa các thành viên mà PGS đặt ra vừa giúp sản phẩm rau vẫn đạt chuẩn an toàn mà nông dân lại không cần nhờ đến bên thứ ba chứng nhận để tránh tốn kém.

“Nói cách khác, PGS hoạt động dựa trên trách nhiệm của mỗi thành viên, niềm tin của từng thành viên dành cho nhau; chỉ cần 1 thành viên làm ăn không nghiêm túc là sẽ ảnh hưởng đến cả nhóm. Nhờ áp dụng PGS cùng các quy trình sản xuất an toàn được thực hiện nhuần nhuyễn, rau Đặng Xá luôn được thị trường đánh giá cao; đã nhiều năm nay, rau Đặng Xá không để xảy ra sự việc nào đáng tiếc liên quan đến an toàn thực phẩm” – ông Khanh nói.

Nhờ chất lượng được đảm bảo nên rau Đặng Xá luôn được bán với giá cao hơn với những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Hiện, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác ở Đặng Xá đạt 450 – 500 triệu đồng/ha/năm.

Hiện, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác ở Đặng Xá đạt 450 – 500 triệu đồng/ha/năm.

Điều đặc biệt của các nhóm PGS mà Hà Nội đang triển khai rộng khắp ở nhiều địa phương, trong đó có Đặng Xá là ban điều phối có sự tham gia của các bên. Ví dụ ở Đặng Xá, đại diện ban điều phối có Giám đốc HTX Đặng Xá; đại diện Chi cục Trồng trọt – Bảo vệ thực vật Hà Nội; đại diện khách hàng là Công ty An Sinh và đại diện nông dân. Trách nhiệm của mỗi thành viên được quy định rất cụ thể.

Theo đó, nông dân có nhiệm vụ sản xuất rau an toàn đúng quy trình và tiêu chuẩn (không sử dụng phân tươi khi chưa ủ hoai mục, không sử dụng nước thải để tưới rau, hạn chế sử dụng phân hóa học, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục do HTX quy định); ghi chép nhật ký đồng ruộng; bán rau theo đúng cam kết với nhóm…

HTX Dịch vụ nông nghiệp Đặng Xá có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ; giới thiệu quảng bá sản phẩm; xây dựng bao gói mẫu mã, logo cho sản phẩm rau an toàn Đặng Xá. Trong khi đó, Công ty An Sinh phải cam kết tuân thủ hợp đồng đã ký kết/thỏa thuận.

Ông Nguyễn Văn Mạnh- Phó Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Đặng Xá, khẳng định, sản xuất theo PGS sẽ giúp lợi nhuận tăng cao hơn vì người dân tự chứng nhận đảm bảo chất lượng cho nhau thông qua hoạt động giám sát chéo, thay vì phải nhờ đến bên thứ ba. Trong một nhóm sản xuất sẽ có nông dân – doanh nghiệp – người tiêu dùng để đảm bảo quá trình giám sát diễn ra minh bạch.

“Đặc biệt, cái lợi lớn nhất khi tham gia PGS là việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân dễ dàng hơn nhờ kế hoạch sản xuất, cơ cấu giống được tính toán kỹ lượng dựa trên mùa vụ, nhu cầu thị trường” – ông Mạnh nói.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Trồng dâu tây “hái” ra tiền.

“Nếu so sánh về đơn vị quy mô diện tích thì hiện nay không có cây trồng nào cho thu nhập cao như dâu tây”, ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo (Sơn La), chia sẻ.

Du khách trải nghiệm hái và mua dâu tây tại các nhà vườn ở H.Mộc Châu.

Hợp tác xã Tân Thảo nằm ở bản Tân Quế, xã Cò Nòi (H.Mai Sơn, Sơn La) hiện có 7 ha trồng dâu tây. Dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi vừa qua, nhiều hộ có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ bán cây dâu tây làm cảnh. Cận tết cũng là thời điểm nhiều nhà vườn bắt đầu có dâu tây chín. Dâu tây loại có vị chua được bán với giá 80.000 – 150.000 đồng/kg; loại ngọt giá cao hơn, từ 250.000 – 300.000 đồng/kg và hái đến đâu đều có khách đặt mua đến đấy.

Cho thu nhập quanh năm

Ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo, cho biết trong số 7 ha dâu tây thì có khoảng 3 ha người dân trồng bán làm cây cảnh chơi tết. Sau 10 năm dâu tây được trồng tại Sơn La, nhiều xã ở H.Mai Sơn có khí hậu trong lành, mát mẻ đang là mảnh đất giúp dâu tây trở thành cây trồng mới đem lại thu nhập cao cho nông dân.

Cũng theo ông Lâm, dâu tây hiện được trồng theo diện tích mỗi ruộng khoảng 1.000 m² để phù hợp đầu tư hệ thống nhà lưới, tưới nước tự động. Chi phí ban đầu mỗi ruộng khoảng 100 triệu đồng nhưng bù lại, cây dâu tây cho nguồn thu nhập rất đa dạng. “Bắt đầu từ tháng 11, nhà vườn bán cây dâu tây làm cảnh, từ tháng 12 đến tháng 5 thì bán quả chín, còn lại thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 có thể bán cây làm giống”, ông Lâm giải thích.

Ông Lâm cho biết, dâu tây trồng tại H.Mai Sơn hiện có năng suất khá cao, mỗi cây có thể cho thu hoạch 0,4 – 0,5 kg quả, tính ra mỗi ruộng có thể đạt năng suất trên 1,6 tấn quả, chỉ bán tươi đã có thu nhập trên 100 triệu đồng. “Nếu cộng cả chi phí bán giống, bán cây cảnh và quả tươi thì mỗi ruộng dâu 1.000 m² hiện đang cho thu nhập từ 200 – 250 triệu đồng. So sánh về quy mô diện tích thì không có cây trồng nào ở địa phương cho thu nhập nhiều, nhanh hồi vốn như dâu tây”, ông Lâm quả quyết.

Quả dâu tây đang mang lại cho người nông dân nguồn thu nhập cao.

Còn tại xã Đông Sang (H.Mộc Châu, Sơn La), trang trại dâu tây Chimi, mô hình khởi nghiệp của chàng trai Vũ Văn Lực (29 tuổi), là địa chỉ không thể bỏ qua của nhiều khách du lịch khi đến Mộc Châu. Vườn dâu tây tại đây rộng 4 ha, nằm giữa những vạt rừng thông mơ mộng. Những ngày trước và sau tết, mỗi ngày nhà vườn đón hàng ngàn khách đến thăm. Du khách được phát giỏ mây rồi vào vườn hái quả theo sự hướng dẫn của nhân viên, mỗi ki lô gam dâu tây ở đây có giá 350.000 đồng nhưng khách đều vui vẻ móc hầu bao khi lần đầu tiên được trải nghiệm tự mình hái những quả dâu tươi đỏ mọng, chụp ảnh với vườn dâu.

Cũng ở trang trại này, ngoài dâu tây tươi, nhóm của anh Lực tổ chức chế biến nhiều sản phẩm bánh dâu tây, nước ép dâu tây, mứt dâu tây, dâu tây sấy dẻo… để du khách có nhiều lựa chọn mua hàng. Theo một nhân viên thu ngân, doanh thu mỗi ngày lễ, tết ở trang trại này không dưới 100 triệu đồng. Dâu tây cũng khiến lượng khách tìm về khu du lịch rừng thông Bản Áng trên địa bàn xã Đông Sang tăng vọt.

Tiềm năng còn rất lớn

Quê ở Ninh Bình, tốt nghiệp đại học tại Hà Nội nhưng anh Vũ Văn Lực chọn Mộc Châu làm điểm khởi nghiệp trồng dâu tây sau chuyến học tập kinh nghiệm ở Đà Lạt (Lâm Đồng). Theo anh Lực, khí hậu Mộc Châu khá tương đồng với Đà Lạt nhưng nếu có kỹ thuật chăm sóc tốt, quả dâu tây ở Mộc Châu thậm chí còn có năng suất, chất lượng tốt hơn. Khởi nghiệp từ năm 2015 nhưng hiện dâu tây từ trang trại của anh đã có lượng khách quen tiêu thụ quả tươi rất lớn. Ngay từ ban đầu, anh Lực định hướng mô hình của mình chủ động chế biến quả dâu tây thành nhiều sản phẩm, tạo nhiều kênh phân phối, bán hàng khác nhau. Nhờ đó, diện tích trồng dâu tây năm 2015 chỉ có 2.000 m² thì nay đã tăng lên 4 ha vẫn đảm bảo thị trường tiêu thụ. Chỉ sau vài năm khởi nghiệp, mô hình đã cho doanh thu tiền tỉ và hiện đang giải quyết việc làm trực tiếp cho 40 lao động địa phương.

Theo ông Nguyễn Đình Lâm, khoảng 80% sản lượng dâu tây của Hợp tác xã Tân Thảo được bán quả tươi, 20% còn lại đưa vào chế biến. Trong đó, phần lớn khách hàng cá nhân, một số ít đưa vào chuỗi cửa hàng bán lẻ. Với diện tích hiện tại, Hợp tác xã Tân Thảo chưa có đủ sản lượng để cung ứng vào siêu thị nên dâu tây còn tiềm năng rất lớn để phát triển, mở rộng diện tích.

Thống kê của Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La cho thấy cây dâu tây trồng đầu tiên tại cao nguyên Mộc Châu vào khoảng năm 2012 do một số hộ dân mang giống từ Đà Lạt (Lâm Đồng) ra trồng. Cho đến năm 2014, nhiều doanh nghiệp đầu tư mở rộng trồng dâu tây với giống dâu Nhật Bản. Có giá trị kinh tế cao nên trong khoảng 5 năm trở lại đây, diện tích dâu tây ở Sơn La không ngừng tăng lên. Cho đến cuối năm 2018, diện tích dâu tây toàn tỉnh Sơn La đạt 43,3 ha với tổng sản lượng ước đạt 593 tấn. Dâu tây trồng chủ yếu ở các huyện Mộc Châu, Mai Sơn và Vân Hồ. Ngay trong tháng 1 vừa qua, UBND tỉnh Sơn La tổ chức lễ hội dâu tây tại Hà Nội để giới thiệu và quảng bá thương hiệu cho loại quả này.

Trao đổi với Thanh Niên, ông Nguyễn Thành Công, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La, cho biết hàng tấn quả dâu tây đã được tiêu thụ tại Hà Nội bước đầu cho thấy loại quả này được người tiêu dùng nhiệt tình đón nhận. Giá bán dâu tây trung bình trong khoảng 200.000 – 300.000 đồng/kg, chỉ bằng một nửa dâu tây nhập khẩu từ Hàn Quốc, Mỹ, Úc nhưng chất lượng tương đương sẽ là lợi thế lớn cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

“Dù là cây trồng mới và đang được nhân rộng diện tích nhưng dâu tây với lợi thế diện tích trồng nhỏ, cho thu nhập lớn đang là cây trồng có giá trị kinh tế cao nhất hiện nay. UBND tỉnh Sơn La cũng đặc biệt quan tâm đến cây trồng này bằng cách hỗ trợ về cơ chế chính sách, Sở NN-PTNT tỉnh hỗ trợ tư vấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật để tiếp tục mở rộng diện tích cây trồng này khi sản lượng dâu tây hiện nay chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường”, ông Công nói.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.