Trồng mắc ca: Vì sao Úc chê, Việt Nam hăm hở?

Tại sao cây mắc ca tốt như thế mà diện tích trên thế giới chỉ 80.000 ha? GS. Hoàng Hòe cho biết, ông đi nhiều nơi và không chỗ nào tốt, thuận lợi với cây mắc ca như ở Tây Nguyên.

Cây mắc ca vào Việt Nam, phát triển ở vùng Tây Nguyên hơn 10 năm nay với diện tích khoảng 2.000 ha và bước đầu đã mang lại những kết quả nhất định. Cây mắc ca đang nổi lên là một vấn đề nóng trong ngành nông nghiệp về bài toán kinh tế và hướng phát triển.

Nhiều ý kiến cho rằng cần cẩn trọng với cây mắc ca vì mắc ca còn quá mới mẻ và thị trường chưa rõ ràng. Nhất là khi diện tích trồng mắc ca trên thế giới chỉ khoảng 80.000 ha nhưng mới đây nhiều doanh nghiệp và nhà khoa học kỳ vọng diện tích trồng mắc ca trong 5 năm tới sẽ là 200.000 ha.

Tại cuộc tọa đàm với chủ đề: Mắc ca, từ “vì sao” đến “như thế nào” đã nhận được rất nhiều ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học và hộ nông dân trồng cây mắc ca. Các ý kiến đều khẳng định đây là cây công nghiệp có triển vọng.

GS. Hoàng Hòe, nguyên Viện trưởng Viện Điều tra quy hoạch rừng là một trong những người có công đưa cây mắc ca về Việt Nam và có 20 năm nghiên cứu giống cây này cho biết, cho đến giờ, tuy chưa có tổng kết nhưng theo thống kê từ vườn ươm ước tính đã có khoảng 1 triệu cây mắc ca được trồng.

Trong đó có khoảng 1 nửa là cây thực sinh, còn lại là cây ghép. Các cây ghép được chọn lọc từ các nước như Úc, Trung Quốc, Thái Lan và Hawai. Và diện tích mắc ca hiện nay ở Tây Nguyên đã lên tới gần 5.000ha chứ không phải là 2.000ha như một số thông tin đang nói.

Trước nhiều ý kiến cho rằng tại sao cây mắc ca tốt như thế mà diện tích trên thế giới chỉ 80.000 ha. Đặc biệt mắc ca xuất xứ từ Úc nhưng mỗi năm chỉ được khoảng 45.000 tấn hạt (nguyên vỏ). Ông Hòe cho biết, ông đã đi nhiều nơi và không có chỗ nào tốt, thuận lợi với cây mắc ca như ở Tây Nguyên Việt Nam. Đây là một lợi thế cực kỳ hiếm có trên thế giới.

Ông Hòe lấy dẫn chứng: “Một cây trồng ở Việt Nam, cùng độ tuổi, cùng giống với cây mắc ca trồng ở nước khác nhưng hiệu quả gấp đôi. Hơn nữa theo nghiên cứu của Viện điều tra quy hoạch rừng thì nước ta có hàng triệu ha đất phù hợp với cây mắc ca. Đây là điều mà các nước trên thế giới không có được”.

Mặc dù Úc là một trong những nước phát triển cây này từ rất sớm nhưng trong 50 năm qua diện tích trồng mắc ca chỉ đạt 16.000- 17.000 ha vì chi phí nhân công, đất…quá đắt. Giá cây giống mắc ca ở Úc là 20 USD một cây giống, còn Việt Nam chỉ 60.000- 80.000 đồng một cây. Để trồng một cây mắc ca ở Úc chi phí đầu tư mất khoảng 6.000 USD.

Trong khi đó, năng suất mắc ca ở Úc cao nhất là 4 tấn/ha. Hawai khoảng 6 tấn/ha. Hiện nay Trung Quốc cũng đang phát triển mạnh loại cây này, tuy nhiên Trung Quốc cũng đang đối mặt với tình trạng giống dởm nhiều. Mỗi cây chỉ cho 7,5 kg/cây/năm.

Hạt mắc ca chỉ mới chiếm 1,2% ttrong tổng số hạt cứng, hạt khô trên toàn thế giới. Sản lượng chỉ mới 162.000 tấn một năm. So sánh hạt mắc ca và hạt điều, hạnh nhân thì hạt mắc ca có giá trị dinh dưỡng lớn.

Chính vì thế, theo ông Hòe, Việt Nam nên biết chớp thời cơ, lợi thế cạnh tranh này để nhanh chóng phát triển cây mắc ca.

Nói về con số 200.000 ha trồng cây mắc ca, ông Hòe cho biết đây là con số đề xuất của Viện điều tra quy hoạch rừng theo đề tài nghiên cứu do Bộ NN&PTNT giao cho. Trong 1 triệu ha đất ở Tây Nguyên phù hợp với cây mắc ca thì Viện chỉ đề xuất trồng 200.000 ha, chủ yếu trồng xen mắc ca vào vườn café. Theo GS Hòe “thực tế đây là con số khiêm tốn”.

Nói về triển vọng và tình bền vững của cây mắc ca trên mảnh đất Tây Nguyên, T.S Trần Vinh, Phó viện trưởng Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, Viện đã nghiên cứu mắc ca từ năm 2002 và đến nay mắc ca có thể phát triển ở Tây Nguyên nhưng không phải chỗ nào cũng trồng được. Trong số 15 giống cây mắc ca đem nghiên cứu nhưng chỉ có 4-5 giống phù hợp với điều kiện của Tây Nguyên.

Theo T.S Vinh, cây mắc ca là cây dễ trồng nhưng khó tính. Tỷ lệ sống cao trên 90%. Cây mắc ca có thể ra hoa kết trái được trong mùa khô, chịu được thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên nó khó tính ở chỗ, nếu nhiệt độ trên 35 độ, cây có thể rụng quả trên 50%. Những vùng quá nắng nóng, đất bí chặt, ngập úng, ông khuyến cáo không nên trồng cây mắc ca.

Tuy nhiên qua nghiên cứu thì phương pháp trồng xen cây rất hiệu quả. Cây cafe ưa bóng, khi trồng xen mắc ca thì tạo bóng cho cây cafe, cây mắc ca lại được hưởng nước tưới từ cây café khiến mắc ca có tỷ lệ hoa và đậu quả nhiều hơn và không ảnh hưởng gì đến năng suất cây cafe.

Sản lượng mắc ca năm 2014 là 162 tấn, chiếm 1,2% tổng các loại hạt cứng và hạt khô.

Nhìn nhận hiện trạng cây mắc ca ở Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Trí Ngọc, Tổng thư ký Hiệp hội Nông nghiệp Việt Nam cho biết: “Thời gian qua chúng ta đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau về cây mắc ca. Tuy nhiên điều đó là bình thường. Chúng ta không nên bàn nhiều đến những con số mà nên bàn là làm cách nào cho nó có hiệu quả”.

Ông Ngọc tin tưởng, mắc ca có đủ điều kiện để trở thành một cây trồng chủ lực và hiệu quả cao cho nông dân. Tuy nhiên có 4 vấn đề chính cần phải chú ý.

Vấn đề thứ nhất xác định vùng trồng phù hợp. Phải trồng vùng nào thời tiết thuận lợi phù hợp với cây đó thì năng suất mới tốt.

Vấn đề thứ hai là quản lý cây giống. Trồng giống không đảm bảo chất lượng, khoảng 3-5 sau sẽ nhìn thấy hậu quả. Chính vì thế ngay từ bây giờ phải quản lý chặt chẽ giống cây trồng.

Thứ ba là thị trường. Có một câu chuyện thị trường gần đây như tại sao hành tây dư thừa không bán được, dưa hấu đổ đi cho trâu bò ăn không hết. Doanh nghiệp phải vào cuộc ngay từ đầu đối với những chương trình như thế này. Chỉ có doanh nghiệp mới kết nối được các quy trình từ sản xuất đến thu mua, tiêu thụ. Và phải có cam kết từ doanh nghiệp, mọi rủi ro không thể đè lên nông dân.

Chia sẻ tại buổi tọa đàm, ông Bùi Hữu Hòa, nông dân huyện Lâm Hà, Lâm Đồng, một người mạo hiểm trồng 600 cây mắc ca từ năm 2009. Ông Hòa cho biết, nó như “một canh bạc thắng lớn”. Thời điểm đó mọi người vẫn còn chưa biết cây mắc ca là cây gì. Nhưng 2 năm sau cây mắc ca bắt đầu có trái. Năm 2014, vườn mắc ca đem lại cho ông 107 triệu đồng. Năm thứ 5, thu được 295 triệu.

Tuy nhiên ông Hòa cũng lưu ý, bà con nên chọn mua kỹ giống cây vì trên thị trường, nhiều người bán cây mắt ghép giả. Cây này có nhân rất nhỏ và phải 5-7 năm mới có quả trong khi đó, cây mắt ghép thật 3 năm đã cho quả bói.

Đồng tình với quan điểm, ông Quách Đại Ninh, Vụ phó Vụ Phát triển rừng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay: Sắp tới sẽ quản lý chặt chẽ cây giống mắc ca. Những cây đầu dòng không được cấp chứng chỉ, cây con không được chứng nhận sẽ không được đưa vào sản xuất. Những ai cố tình vi phạm sẽ bị xử phạt. Cá nhân bị phạt thấp nhất 10 triệu đồng. Đồng thời toàn bộ cây và giống chưa hợp lệ sẽ bị tiêu hủy.

Ông Nguyễn Đức Phong, Ủy viên chuyên trách, kiêm Vụ trưởng Vụ kinh tế – Ban chỉ đạo Tây Nguyên đánh giá: Hiếm có loại cây nào tạo được sự liên kết của ngân hàng, doanh nghiệp, nông dân như cây mắc ca, tuy nhiên cần lưu ý nên xem xét đầu tư phát triển ở mức độ như thế nào.

“Cây mắc ca đang có rất nhiều ý kiến nhưng sau những lần làm việc, đi thực tế, giao lưu, thực địa,… chúng tôi nhận thấy cây mắc ca có triển vọng phát triển. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã có văn bản trình bày triển vọng báo cáo thủ tướng. Tuy nhiên việc phát triển cây mắc ca phải làm từng bước, không thể ném tiền qua cửa sổ”, ông Phong nói.

Nguồn: Zing.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê

Mô hình kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê là mô hình được bà con nông dân rất quan tâm hiện nay. Việc trồng xen hai loại cây trồng trên cùng một đơn vị diện tích sẽ góp phân gia tăng hiệu quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích đất canh tác và tiết kiệm nhân công.

Hướng dẫn kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê

+ Công đoạn đầu tiên của kỹ thuật trồng xen mắc ca với cà phê hộ trồng cần xác định mật độ trồng của cây cà phê là bao nhiều và áp dụng biện pháp trồng xen, nếu giống cà phê là cà phê vối thì mật độ 6mx6m hộ nông dân trồng xen tại các ngã tư của cây cà phê. Đối với giống cây cà phê chè thì mật độ trồng là 7.5mx4.5m vị trí trồng cũng ngay ngã tư cây cà phê.

Chọn nhiều giống mắc ca khác nhau để trồng trên cùng một đơn vị diện tích vì cây có đặc tính là thụ phấn chéo cho nên trồng như vậy khả năng thụ phấn cho trái của cây sẽ tốt hơn. Cây giống mang đi trồng cần có chiều cao từ mặt bầu đến mắc ghép khoảng 40-60cm thân dày chừng khoảng 6-10 mm, tuổi của cây gốc ghép chừng 20-24 tháng tuổi là thời điểm thích hợp nhất để mang đi trồng. Khi trồng xuống bộ rễ sẽ bắt đầu phát triển và ăn sâu vào bên trong lòng đất giúp cây vững chắc và chống chọi tốt khi mưa gió, lũ lụt hay hạn hán xảy ra.

Hố trồng mắc ca cần có kích thước 60x60x50 cm hộ trồng nên trộn các loại phân chuồng, phân hữu cơ cùng đất mặt xuống hố thời điểm 2 tháng trước khi trồng. Khi trồng cắt bỏ túi nilong, cắt luôn phần rễ cọc ở đáy bầu bằng kéo sắt rồi đưa cây xuống hố sau đó lấp đất lại, xung quanh gốc trộn Basudin với Phuradang liều lượng 1kg/ 20 gốc những lá ở dưới mắt gốc ghép cần tỉa bỏ luôn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Kỹ thuật trồng, chăm sóc cây mắc ca

Cây Mắc ca là lựa chọn thích hợp sau 20 năm nghiên cứu khảo nghiệm, vùng đất hứa cho cây Mắc ca Việt Nam đã được xác định là các vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.

1. Cây chủ lực triển vọng cho Tây Nguyên, Tây Bắc

Nguồn gốc: Mắc ca (tên quốc tế: Macadamia, thuộc họ Proteaceae với 2 loài là vỏ trơn – Maccadamia integriflia – hoa trắng và loài vỏ nháp Maccadamia tetraphylla – hoa tím phớt hiện đang được phát triển tại Việt Nam. Mắc ca có lá xanh quanh năm có tuổi khai thác kinh tế 40 – 60 năm (tuối thọ đến 100 năm), Mắc ca là cây thân gỗ, cao trên 15 m, vân gỗ đẹp, có quả hạch với hạt vỏ cứng, ăn có vị thơm bùi, béo ngậy hấp dẫn, xuất xử từ Bang Qeensland (Úc). Sau 100 năm thế giới đã phát triển được 80 ngàn ha (đứng đầu là Úc, sau đó là Nam Phi, Mỹ…).

Giá trị kinh tế: Quả Mắc ca có thành phần ăn chủ yếu của hạt là nhân với tỷ lệ 30 – 40%, có tỷ lệ dầu béo (đa số là dầu rất quý – dầu béo không no Omega3, 6,7, không để lại Cholecterol) chiếm tới 78% – cao nhất trong các loại cây có dầu (hạnh nhân 51%, điều – 47%, lạc 44,8%), Nhân hạt còn chứa đường 10%, đạm(protein) 9,2%, nhiều vitamin, chất khoáng có ích như: Kali 0,37%, Phôt-pho 0,17%, Ma-nhê 0,12%, vì thế Mắc ca là nguyên liệu đa dạng cho các ngành chế biến bánh kẹo, thực phẩm, mỹ phẩm cao cấp (kem dưỡng da, chống nắng), là thức ăn phù hợp cho các lứa tuổi từ người già tới trẻ em, tốt cho người ăn kiêng, tiểu đường, huyết áp..

Triển vọng, vùng quy hoạch: Sau hơn 10 năm khảo nghiệm rộng với diện tích 2.000 ha (Tây Nguyên 1.600 ha, Tây Bắc 400 ha), đã xác định 2 vùng với tổng diện tích 1,2 triệu ha rất thích hợp hoặc thích hợp trồng cây Macca với nhiệt độ thấp hơn 17oC trong 3 – 5 tuần, không có mưa xuân, tầng canh tác dày 0,5 – 1m (nếu giàu mùn sẽ đỡ bón phân), thích hợp đất hơi chua pH= 5 – 6. Độ cao 300 – 1200 m trên mặt biển. Lượng mưa tối ưu: 1.500 – 2.500 mm.

Mắc-ca có thể chịu lạnh, sương giá tới – 40 C đối với cây con và – 60 C đối với cây trưởng thành tới 7 ngày và có thể chịu nóng tới trên 38-400 C. Dưới 100 C cây hoàn toàn ngừng sinh trưởng, kích thước và sinh khối tăng mạnh nhất ở nhiệt độ 15-300 C, trên 300 C lá non mất màu xanh, khô đọt, gốc đâm cành thành chùm.

Hầu hết các giống Mắc ca đều ngừng quang hợp ở 380 C. Hoa nở thành từng chùm đuôi sóc rất đẹp chủ yếu vào tháng 3 – 4, các tháng khác vẫn có hoa rải rác – thích hợp nuôi ong mật, quả chín tháng 9 – 10, ít bão, ít gió lào, tháng 10 mát mẻ, tháng 4-5 ẩm ướt, tháng 7-8-9-10 nóng ẩm mà không quá gay gắt đó là những yếu tố khí hậu cần thiết đảm bảo cho Mắc ca đạt năng suất cao.

Dự kiến quy hoạch 10 năm tới 2025 Việt Nam trồng 100 ngàn ha, sau 20 năm (tới 2035) đạt 200 ngàn ha, là cây triển vọng thay thế trồng thuần cho 100 ngàn ha tái canh cây cà phê đã có tuổi trên 20 năm hiện nay, các vùng đang trồng sắn có thể trồng xen trong 4 năm đầu, trồng xen trong cà phê, tiêu, cây bóng mát, cây đô thị, cây hàng dào che nắng gió, trở thành cây chủ lực với giá trị thu nhập hàng tỷ đô la cho nông nghiệp sau 10 – 20 năm tới tại Tây Nguyên, Tây Bắc.

Vì vậy, hiện nay Nhà nước đã chủ trương phát triển rộng loại cây này tại Tây Nguyên, Tây Bắc, đã ban hành Nghị định 210/2013 NĐ-CP hỗ trợ phát triển mỗi ha Mắc ca trồng mới 15 triệu (quy mô trên 50ha), mỗi trang trại nhân giống quy mô trên 500.000 cây giống hỗ trợ không quá 2 tỷ đồng.

2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây mắc ca

Các nhà khoa học đã chứng minh ở Mắc ca: Yếu tố giống – di truyền đóng góp làm tăng năng suất 27,1%, các yếu tố dinh dưỡng tổng hợp là 17,7%, tưới nước 8,2% và kẽm trong đất 5,2% (Stepenson và CS, 1986). Đạm là chất dinh dưỡng quan trọng được sử dụng để kiểm soát tăng trưởng và đậu quả, N trong lá cao giúp cây sinh trưởng nhanh chóng, năng suất quả và tỷ lệ dầu cũng cao hơn.

Hàm lượng Lân (photsphate) trong lá tối ưu ở ngưỡng 0,08 – 0,10% làm tăng sản lượng hạt (Robinson, 1986; Cooil et al, 1966). Phun Bo 0,02% liên tục trong 3 năm, hoặc bón phân chứa Bo làm tăng Bo trong lá tạo ra năng suất tới 10%, làm cho năng suất rõ rệt (Boswell, 1981; Mik, Nagao, 1992)…

Mắc ca rất nhạy cảm với các nguyên tố dinh dưỡng trong đất, đất thiếu P hoặc Mg cũng gây vàng lá, cây phát triển kém, năng suất thấp nhưng không làm cây chết, nhưng Măc ca cũng không thích hợp với đất thừa P khi bón các loại lân quá đậm đặc như DAP, MAP…

Đáp ứng nhu cầu kỹ thuật trồng cây Mắc ca hiện nay, Công ty CP Phân lân Nung chảy Văn Điển phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu sản xuất ra các loại phân bón chuyên dụng phục vụ thâm canh cây Mắc ca đạt hiệu quả kinh tế cao, giúp cho cây Mắc ca phát triển cân đối, tỷ lệ đậu quả cao, nâng cao kích thước quả và tỷ lệ nhân/quả đạt trên 1/3 (35 – 42%).

Phân bón đáp ứng nhu cầu của cây có dầu với đầy đủ các thành phần dinh dưỡng cân đối phù hợp với cây Mắc ca: ngoài các chất đa lượng N (đạm), P (lân), K (kali) còn có các chất trung lượng CaO, MgO, SiO2, S với tỷ lệ vừa phải và hàng chục loại chất vi lượng thiết yếu như Zn, Mn, B, Cu, Co… loại phân này có thành phần cơ bản là Lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung vi lượng, kết hợp một phần tan nhanh đáp ứng nhu cầu của cây, phần lớn tan chậm – không tan trong nước, chỉ tan khi khi tia rễ tiếp xúc hấp thụ, lân nung chảy chứa tới trên 90% các chất hữu hiệu đa, trung và vi lượng, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, cải thiện chất đất, 1 kg lân nung chảy có tác dụng trung hòa, giảm bớt độ chua của đất tương tự 0,5 kg vôi bột.

Ngoài ra trong phân chứa nhiều Ka li, Silic và kẽm, Bo làm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, giảm độ chua, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, tăng tỷ lệ đậu quả, đạt năng suất và chất lượng cao, làm tăng kích cỡ quả và thành phần dầu Mắc ca trên các loại đất chua, đất bạc màu.

3. Kỹ thuật trồng cây mắc ca

Tổng kết kinh nghiệm trồng và chăm sóc Mắc ca ở Việt Nam và trên thế giới, có thể khuyến cáo kỹ thuật và liều lượng phân bón cho Mắc ca ở các lứa tuổi như sau:

3.1Phân bón:

  • Phân cho bầu: Dùng phân NPKS 5-10-3-2 + CaO, MgO, SiO2, B,Mn, Zn, Cu, Co…
  • Cách bón: 30% phân chuồng + 70% đất bột + 2 kg NPK 5:10:3 Văn Điển cho 1.000 bầu
  • Phân bón lót: Dùng phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng:
  • Cách bón: Trước khi trồng cây vào hố 01 tháng nên đào hố và trộn lớp đất mặt cùng với 10 kg phân chuồng ủ hoai; 0,5 kg phân lân Văn Điển có bổ sung kẽm và trung, vi lượng; 300 gram vôi bột. Trộn đều với lớp đất mặt, sau đó lấp đất lại hố 20 ngày trước khi trồng.
  • Phân chuyên bón thúc: chuyên dụng NPK Đa yếu tố cho Mắc ca: 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng

3.2 Trồng cây:

Đào hố, mật độ trồng: Đất bằng 4,5 x 8 m/hốc (277 cây/ha), đất dốc <30%: 4,5 x 9 – 10 m/hốc (200 cây/ha), kích thước hốc nên 1 x 1 x 1m để bảo đảm cho bộ rễ cọc phát triển tốt về chiều sâu, tăng khả năng chống đổ về sau khi cây có chiều cao trên 10 m.

Mắc ca là cây có hoa tự lưỡng tính nở thành chùm đuôi sóc dài 15 – 25 cm, nhưng do đặc điểm có thời gian nở khác nhau nên khó tự thụ phấn, mỗi chùm hoa chỉ đậu 5-14 quả, để tăng tỷ lệ đậu quả khuyến cáo nên trồng xen trên 2 loài/dòng khác nhau để hoa dễ thụ phấn chéo.

Giống cần mua tại các Trung tâm giống Mắc ca có uy tín, có chứng chỉ cây đầu dòng để bảo hành cho người trồng. Tránh dùng giống thực sinh (mọc từ hạt), giống rớm – lấy ngọn ghép gốc, năng suất về sau không bảo đảm, sẽ gây hệ lụy thiệt hại kinh tế cho hàng chục năm sau.

Thời vụ trồng Mắc ca vào mùa mưa. Trước tiên rạch túi bàu, kiểm tra bộ rễ. Nếu thấy có rễ quá dài xuyên qua khỏi túi bàu thì dùng kéo cắt sát tới bàu đất, cây sẽ tự mọc ra rễ mới.

Sau đó đào hố và trồng âm xuống đất 10 cm và lấp đất lại, tạo mô đất nơi gốc cây tránh trường hợp bị trũng nước khi có gió làm lay gốc, đứt rễ. Dùng chân giẫm nhẹ xung quanh gốc cây nhằm cố định cây không bị nghiêng ngả do gió lớn hoặc mưa xuống gây sụt lún.

Trường hợp vùng có nhiều gió, nên cố định cây đứng thẳng bằng cách cắm cọc tre. Sau 20 ngày kiểm tra nếu có cây chết thì trồng dặm thay thế. Nếu cây bị nghiêng ngả thì điều chỉnh lại. Trước và sau khi trồng cây bỏ thuốc Basudin… vào trong hố và rải trên mặt đất quanh gốc cây để phòng trừ mối hại.

3.3 Phương thức và thời vụ trồng

  • Phương thức trồng

Phương thức trồng

Mật độ trồng (cây/ha) Cự ly (m) Thời vụ trồng (tháng)
Trồng thuần loài 286 – 400 5 x 7  hoặc 5 m

Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5

Tây Nguyên: 6 – 8

Miền Trung 2 -3

Trồng xen cà phê

285 – 330 6-7 x 5 m Tây Nguyên: 6 -8

Tây Bắc: 7 -8; 4 – 5

3.4 Phân bón thúc:

Sử dụng công thức phân bón chuyên dụng NPK Đa yếu tố cho Mắc ca: 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng cho các loại đất đồi hơi chua. Nguyên tắc chung là bón phân NPK nhiều đợt trong năm và số lượng vừa đủ , không nên bón quá nhiều cùng một lúc .

3.5 Chăm sóc vườn

+ Chăm sóc năm thứ nhất

Lần 1 nếu trồng vụ thu: Sau khi trồng từ 2 – 3 tháng tiến hành chăm sóc: Kỹ thuật chăm sóc lần này chủ yếu làm cỏ phát luỗng dây leo, xới xáo đất và vun gốc. Đối với vùng trồng đất tốt, khả năng tái sinh của thực bì cao ta cần rút ngắn thời gian ấn định chăm sóc 1 – 2 tháng làm 1 lần. Bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng với lượng 0,2 – 0,3 kg/ cây

Lần 2 nếu trồng vụ xuân: Thường vào tháng 8-9 trong năm. Công việc như trên, Mắcca là cây lấy hạt cho lên ta phải bón thúc phân chuồng hoai nếu có điều kiện (5 kg/cây). Nếu không có, cần bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng với lượng 0,2– 0,3 kg/ cây.

+ Chăm sóc năm thứ 2: Trong 2 năm đầu chỉ cần bón 0,2 – 0.3 kg NPK/cây/năm vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa mưa. Các thao tác như trên, ngoài ra ta cần tiến hành loại bỏ các mầm dưới gốc ghép ( tính từ miệng ghép trở xuống).

+ Chăm sóc các năm tiếp theo

-Sau 3 – 4 năm cây cho hoa và đậu quả ta cần bổ xung chất hữu cơ kịp thời theo từng chu kỳ sinh trưởng của cây (cá biệt có cây chỉ sau khi trồng hai năm đã cho hoa và đậu quả).Trước thời kỳ ra lộc non ta bón NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng 0,3 – 0,5 kg/tuổi cây, chia làm 2 lần vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa mưa. Bón phân vào rãnh quanh gốc (rãnh sâu khoảng 5-10cm cách gốc 30-40cm). Mỗi lần bón lượng phân trên, sau khi bón phân lấp đất lại.

Lưu ý:

-Tùy tình hình sinh trưởng thực tế của cây nơi trồng mà sử dụng lượng phân sao cho hợp lý để tận dụng tối đa dinh dưỡng cho cây, tránh lãng phí nguồn phân.

– Tạo các rãnh nhỏ sâu 5 – 10 cm để rải phân, cây càng lớn kích thước rãnh càng rộng, vị trí tạo rãnh là đường tròn khép kín chiếu thẳng tán cây xuống mặt đất, không được sát gốc cây sẽ làm ảnh hưởng đến bộ rễ của cây.

-Phân bón được trộn đều và dải đều trên rãnh, sau đó lấp đất kín phân.

– Nên chọn những ngày vừa mưa xong tiến hành bón thì hiệu quả sẽ cao hơn, hoặc bón xong cần tưới ẩm cho cây.

– Lần tiếp theo bón thúc NPK Văn Điển 4N:12P:7K+Zn+Trung vi lượng đểv bổ sung dinh dưỡng trước thời kỳ cây phân hóa mầm hoa (ở các nách lá và thân cành có các chấm nhỏ li ti bật đều đặn màu trắng sáng hoặc phớt nâu).

– Khi cây bắt đầu đậu quả ngoài việc bón Phân bón Đa yếu tố NPK chuyên dụng Văn Điển theo đúng liều lượng chỉ dẫn, có thể bó thêm lân Văn Điển bổ sung vi lương với liều lượng 0.2 kg/gốc.

– Khi Mắcca vào giai đoạn ra hoa đậu quả, yếu tố nước là rất cần thiết, vì vậy để có năng suất cao cần quan tâm đến tưới nước cho cây, thao tác tưới tuyệt đối không được tưới lên hoa, tưới ngầm vào gốc cây.

– Cũng có thể tăng năng suất bằng phương pháp dùng hóa phẩm sinh học nhằm tăng khả năng đậu quả, nhưng vì Mắcca rất nhạy cảm với các yếu tố dinh dưỡng cho nên khi sử dụng cần thận trọng đọc kỹ hướng dẫn liều lượng.

3.6 Tạo tán, tỉa cành

– Năm đầu cây sinh trưởng còn chậm, sang năm thứ hai tốc độ sinh trưởng phát triển của cây rất mạnh. Bởi vậy trong 3 năm đầu nên tạo tán giữ cho cây có 1 thân thẳng đứng. cắt bỏ các cành cao dưới 1,4m. Mỗi tán cành cách nhau khoảng 60-70cm. Độ dài các nhánh khoảng 60 cm thì cắt ngọn một lần. Chỉ nên giữ lại 2-3 chồi từ một nhánh. Nếu thực hiện đúng phương pháp tạo tán sẽ cho năng suất cao và thông thoáng Loại bỏ hoa trái vụ để tập trung dinh dưỡng cho cây và đỡ tốn công thu hoạch nhiều lần trong năm.

– Cần khống chế xu thế tăng chiều cao của tán cây bằng phương pháp bấm ngọn đỉnh sinh trưởng của cây (vào mùa đông)

– Đối với cây đã thành thục cho quả ta cần điều chỉnh tán cây, dọn vệ sinh các cành già cỗi, cành la dưới tán gây trở ngại cho các thao tác chăm sóc, cuống quả còn nằm lại trên cành khi quả tự rụng và những cành có xu thế phát triển khỏe, chèn ép lẫn nhau.

– Khi cây đã trưởng thành và cho thu hoạch , nên bón thêm phân chuồng ủ hoai và phân chuyên dụng Mắc ca và Lân Văn Điển hàng năm vào tháng 11 để phục hồi sức cho cây sau vụ thu hoạch, đồng thời tạo tán tỉa cành.

3.7 Tưới nước cho cây

Trong thời gian 3 năm đầu sau khi trồng có thể tưới bất khì khi nào nếu thấy khô hạn nhằm cho cây phát triển. Nhưng đến năm thứ 4 trở đi cây có khả năng cho quả thì nên ép khô xiết nước cây nhằm ức chế ra hoa .

Sau đó tập chung tưới đồng loạt vào giữa tháng 1 dương lịch thì đến khoảng giữa tháng 02 đầu tháng 3, cây bắt đầu ra hoa đồng loạt, tăng khả năng thụ phấn chéo cho cây.

Đến tháng giữa tháng 3 dương lịch nên bón phân Lân và tưới nước cho cây thêm một lần nữa nhằm tránh quả bị rụng non do thời điểm đó tại Tây nguyên trời thường khô hạn.

3.8 Bảo vệ thực vật 

Nên sử dụng, phun định kỳ lên cây bằng các chế phẩm sinh học Tam Nông thân thiện môi trường bằng cách phối hợp của các vi nấm Beauveria (Nấm trắng), Metarhizium (Nấm xanh) và Entomophthora để diệt bớt côn trùng có hại ( không nên dùng hóa chất diệt toàn bộ sẽ gây mất cân bằng sinh thái, tạo ra dòng mới đề kháng với thuốc, hại cho ong mật và các loại thiên địch hữu ích). Tạo ra các vi sinh vật đối kháng có khả năng tấn công trứng và ấu trùng. Việc này là vô cùng cần thiết để sản phẩm xuất khẩu không bị vướng các hàng rào kỹ thuật tại các quốc gia phát triển. Ngoài ra chi phí cũng rẻ hơn các thuốc bảo vệ thực vật bằng hóa học đang lưu hành trên thị trường. Khi trang trại được cấp chứng chỉ Hữu cơ – Organic thì sản phẩm bán ra cũng được giá cao hơn.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

“Hoàng hậu quả khô” khẳng định vị thế trên đất cà phê

Bên cạnh cây trồng chủ lực là cà phê, những năm gần đây, cây mắc ca đã từng bước khẳng định vị thế trên đất Krông Năng (Đắk Lắk), góp phần phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho nhiều người dân địa phương.
Mắc ca được mệnh danh là “hoàng hậu quả khô” vì hàm lượng dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao mà nó mang lại. Loại cây này được đưa vào trồng rải rác ở một số khu vực tại huyện Krông Năng từ hàng chục năm trước. Có thời gian cách đây chừng 10 năm, người dân ồ ạt đưa vào trồng mắc ca khiến cây trồng này lên cơn “sốt”. Để nhanh chóng phát triển diện tích, nông dân đua nhau tìm cây giống về trồng bất chấp nguồn gốc, chủng loại và chất lượng giống, trong đó, chủ yếu là giống thực sinh. Do đó, một số hộ gặp thất bại vì kiểu làm ăn xổi, bởi cây mắc ca phát triển tốt nhưng không cho quả. Bên cạnh đó, nhiều vườn mắc ca cho năng suất cao, mang lại thu nhập cao cho người trồng. Những diện tích này được trồng bằng giống cây ghép, trồng ở khu vực có địa hình, thổ nhưỡng phù hợp và canh tác đúng kỹ thuật.

Vườn mắc ca của gia đình ông Đinh Minh Đại tại thôn Giang Minh, xã Ea Puk, huyện Krông Năng.

Một trong những người có kinh tế khá lên nhờ trồng mắc ca là ông Đinh Minh Đại, thôn Giang Minh, xã Ea Puk với vườn cây 2,6 ha trồng từ năm 2011 đến nay. Hiện, trong tổng số 800 cây mắc ca của gia đình ông, đã có 300 cây cho thu hoạch, năng suất đạt 15 kg hạt/cây. Bên cạnh thu hạt, vườn cây của ông còn cung cấp 4 dòng giống mắc ca ghép ra thị trường với số lượng 3.000 cây/năm, tổng thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng. Ông Đại cho biết, cây mắc ca có thể trồng thuần hoặc xen trong cà phê, tiêu…, năng suất vẫn tương đương và không ảnh hưởng đến các loại cây khác, thu hoạch xong được doanh nghiệp thu mua tận nơi với giá gần 100.000 đồng/kg hạt tươi.
Nói về sản xuất mắc ca ở Krông Năng thì không thể không nhắc đến Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp mắc ca Tân Định (xã Đliê Ya). Đơn vị có 49 thành viên, canh tác hơn 350 ha mắc ca trồng từ năm 2008 đến nay, trong đó, một phần diện tích đã cho thu hoạch, tổng sản lượng hằng năm đạt 40 tấn và 4 sào cây đầu dòng sản xuất giống ghép. Bên cạnh bán thô, HTX đã nghiên cứu, chế tạo dây chuyền chế biến mắc ca với công suất 6 tấn/năm. Ông Đinh Công Định, Giám đốc HTX cho biết, sản phẩm của đơn vị sản xuất được bao nhiêu đều được tiêu thụ hết ở thị trường khắp cả nước với giá bình quân 240.000 đồng/kg. Bên cạnh bán hạt, HTX còn sản xuất tinh dầu, rượu và một số sản phẩm khác từ mắc ca nhằm tăng thêm giá trị kinh tế của loại cây này. Đặc biệt, sản phẩm của đơn vị đã được cấp quyền sở hữu công nghiệp cho nhãn hiệu tập thể “Mắc ca Chiến Thắng”.

Mắc ca của Hợp tác xã nông nghiệp mắc ca Tân Định đạt năng suất 3,5 tấn/ha.

Theo Phòng NN-PTNT huyện Krông Năng, trên địa bàn huyện hiện có 302 ha mắc ca trồng thuần và trồng xen, tập trung nhiều nhất tại các xã Ea Puk (99 ha), Cư Klông (45,7 ha), Ea Tam (38 ha)… Đặc biệt, từ năm 2012 đến nay, đa phần diện tích mắc ca được trồng bằng giống cây ghép, hiện nhiều vườn cây đã cho thu hoạch với năng suất 3,5 tấn/ha. Những diện tích này tuy mới bước vào thời kỳ kinh doanh vài năm đã cho thấy hiệu quả kinh tế cao và từng bước khẳng định vị thế trên đất Krông Năng. Thời gian tới, địa phương sẽ đánh giá toàn diện để xây dựng kế hoạch phát triển mắc ca, trong đó, chú trọng vào chất lượng cây giống và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm này.

Theo báo Đắk Lắk , kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Đa Mi (Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận): Trồng mắc ca liệu có phù hợp?

Xung quanh cây mắc ca

Cây mắc ca (Macadamia) du nhập vào Việt Nam từ năm 1992, từ đó đến nay có rất nhiều ý kiến ủng hộ, cũng như nghi ngờ hiệu quả về giống cây này. Ban chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Kinh tế Trung ương và tỉnh Lâm Đồng cũng đã phối hợp tổ chức hội thảo “Chiến lược phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên”, và đặt niềm tin là mắc ca sẽ là cây làm giàu của nông dân Tây Nguyên và Tây Bắc, 2 vùng đất thích hợp. Theo đó, mắc ca trồng từ hạt sau 7 – 8 năm sẽ cho ra trái. Hạt có giá trị dinh dưỡng cao, sử dụng làm nguyên liệu đầu vào để sản xuất nhiều sản phẩm dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe, giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như dầu ăn, sản phẩm chăm sóc da và tóc… Có thể trồng mắc ca xen với cà phê, chè, làm cây che bóng, chắn gió, hoặc trồng tập trung thành rừng công nghiệp. Ý kiến nghi ngờ thì chỉ ra rằng: nhiều nơi trồng mắc ca không có trái, năng suất thấp, như vậy có nên đặt vấn đề phát triển trên diện rộng?…

Cây mắc ca ra trái mùa đầu.

Đây là lý do để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đắn đo trong phê duyệt diện tích mắc ca đến năm 2020 của cả nước. Diện tích được phê duyệt là 10.000 ha, thay vì 200.000 ha như dự kiến trước đây. Tuy vậy, mới đây trong một bài báo đăng trên Lao Động, ông Trần Vinh – Phó viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, không ngại ngần tái khẳng định: Mắc ca là cây có giá trị kinh tế cao. Nếu đầu tư đúng cách, chăm bón đúng kỹ thuật và tìm được đầu ra, giá trị kinh tế mang lại không kém cây cà phê và hồ tiêu. 1 ha cây mắc ca có thể cho 3 -4 tấn hạt thô, trong khi đó, mỗi kg hạt thô có thể bán từ 3 – 4 USD. Còn vì sao một vài nơi, nông dân trồng mắc ca không hiệu quả là do mấy vấn đề sau: Mắc ca là cây á nhiệt đới, yêu cầu độ ẩm cao, tầng đất dày, trồng không đúng đất, cây sẽ không phát triển tốt; giống trồng không tốt, không được chọn lọc, là giống trôi nổi; chăm sóc không đúng kỹ thuật…

Cũng theo ông Trần Vinh, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên có hơn 20 giống mắc ca, trong đó H2, OC và 508 là những giống rất triển vọng, cho năng suất cao. Viện trồng thử nghiệm cây mắc ca xen với một số loài cây công nghiệp có giá trị như cà phê vối, cà phê, chè, ca cao. Kết quả bước đầu cho thấy mắc ca sinh trưởng tốt, sau 4 – 5 năm cho năng suất khoảng 10 kg hạt/cây, thậm chí có cây đạt 15 kg/năm.

Bài báo trên Lao Động còn đề cập đến vấn đề: có 8 tỉnh thích hợp để trồng cây mắc ca, đó là: Đắc Nông, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Sơn La, Lai Châu và Điện Biên.

Đa Mi có thích hợp?

Trở lại với xã Đa Mi của huyện Hàm Thuận Bắc. Đây là địa phương duy nhất trong tỉnh trồng mắc ca. Lý luận của người dân ở đây rất đơn giản: Đa Mi nằm gần Bảo Lộc (Lâm Đồng), là bậc thềm của Nam Tây Nguyên. Trên đó trồng được thì Đa Mi cũng trồng được.

Mắc ca được trồng thành công ở Lâm Đồng

Theo anh Ngô Xuân Vân, Bí thư Đảng ủy Đa Mi: Người dân bắt đầu trồng xen mắc ca với sầu riêng, cà phê từ 4 năm trước. Cây cao nhất là 4m, thấp là 1,5 – 2m. Giống được mua ở các cơ sở bán giống trên thị trường, với giá 40 – 45 ngàn đồng/cây. Tổng diện tích mắc ca toàn xã ước khoảng 5 ha, nhiều nhất là ở thôn La Dày… Đã có một công ty chuyên về cung ứng giống mở hội thảo trồng mắc ca tại La Dày và nhiều nông dân tỏ ra hưởng ứng. Những nông dân trồng đầu tiên hy vọng mắc ca sẽ cho năng suất khá khi vào năm thứ 7 (đang là năm thứ 4). Vấn đề đặt ra, theo thông báo của đại diện Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, Đa Mi rộng ra là Bình Thuận không nằm trong 8 tỉnh có chất đất phù hợp, tầng đất dày để trồng mắc ca. Vậy có nên tiếp tục phát triển mắc ca ở Đa Mi cho dù rất gần Lâm Đồng? Cơ quan nào chịu trách nhiệm khẳng định điều đó? Rất cần một sự nghiên cứu về chất đất, giúp nông dân, thay vì để nông dân trồng tự phát.

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam